2024
TÁM MỐI PHÚC
- 6 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Mùa Quanh Năm
1 V 17:1-6; Tv 121:1-2,3-4,5-6,7-8; Mt 5:1-12
TÁM MỐI PHÚC
Có lẽ người Công giáo nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người ngoài Kitô giáo cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống như bản thân Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối với người Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là nguồn cảm hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết gia Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?
Bản văn Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay là của thánh Mátthêu. Chúa Giêsu chỉ công bố Tám Mối Phúc Thật một lần duy nhất, nhưng được hai tác giả ghi lại; dĩ nhiên, với hai cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái nhìn của Luca có tính xã hội: Luca giải thích các mối phúc thật dưới ánh sáng giáo huấn của Chúa Giêsu về nghèo khó và việc sử dụng của cải trần thế, để từ đó đề cao giai cấp những người nghèo khổ trong xã hội; với Luca, những người nghèo thật sự là những tín hữu tiên khởi của Giáo Hội. Trái lại, Mátthêu quan tâm đến khía cạnh luân lý nhiều hơn: nếu Luca đề cao giai cấp cùng khổ, thì Mátthêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”, do đó theo Mátthêu, con người vào được Nước Trời không đương nhiên vì tình trạng nghèo khó, mà vì thái độ tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy, Mátthêu đáng giá về sự đói khát: nếu Luca nói đến những nạn nhân của bất công, tức những người đói khát cơm bánh thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói khát công lý nơi con người.
Tổng hợp hai cái nhìn khác nhau của Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa ra bài học về sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan báo không chỉ là Thiên Ðàng trong thế giới mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống tại thế này, qua những giá trị như công bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính trong những thực tại trần thế mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những thực tại Nước Trời.
Niềm tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về Quê hương đích thực là Thiên Quốc. Tuy nhiên, niềm tin hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước Trời; chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Ðây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.
Một trong những nguyên nhân khiến người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì con người không hiểu được sứ điệp của Tin Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và cuối cùng bị treo trên Thập giá là bởi vì những người đương thời không hiểu được sứ điệp và con người của Ngài. Ðó cũng chính là thân phận của người Kitô hữu trong trần thế, nhưng chính khi bị bách hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của mình, người Kitô hữu mới thể hiện được ý nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.
Con người trần thế tìm đủ mọi cách để dành cho được giàu sang, quyền thế, cho dù phải gây thù chuốc hận, cho dù phải gây ra những cuộc chiến tranh tương tàn khốc hại… Đang khi đó Chúa Giêsu lại cho nghèo là một mối phúc. Chắc chắn Ngài không ủng hộ thứ nghèo làm giảm phẩm giá con người. Ngài muốn cho con người có được sự giàu sang vĩnh cửu: được cả Nước trời làm gia nghiệp, chứ không phải thứ giàu sang chỉ đem lại cho con người niềm hạnh phúc chóng vánh ở đời này. Để đạt được thứ giàu sang vĩnh viễn ấy phải biết làm cho mình nghèo đi những thứ của cải tạm bợ và giả trá. Đó là “nghèo”: – nắm giữ chức quyền nhưng không tham quyền cố vị, trái lại phục vụ trong khiêm tốn; – làm ra của cải vật chất nhưng không bị lệ thuộc vào chúng, trái lại biết “hằng ngày dùng đủ” và cảm thông chia sẻ với nhau trong tình anh em. Nghèo như thế, chiến tranh, hận thù mới biến mất, và thế giới này chỉ có tình mến chan hòa. Nghèo như thế mới là hạnh phúc.
Chúa Giê-su đến khai mạc Nước Trời. Tám Mối Phúc là hiến chương. Đem đến bao niềm hi vọng. Hi vọng cho ta không tìm được ở trần gian này. Sẽ tìm được trong Chúa. Trong Nước Trời. Hi vọng vì chính Chúa Giê-su đã sống lời Người loan báo. Người đã sống nghèo giữa người nghèo. Hiền lành khiêm nhường vượt bậc. Gặp nhiều đau khổ. Khiến phải rơi lệ. Toát mồ hôi máu. Nhưng luôn giữ được tâm hồn trong sạch. Và trái tim xót thương. Cả trên thánh giá.
Những người sống theo Chúa Giê-su sẽ đạt tới hạnh phúc như lời Chúa hứa. Nhưng ngay từ bây giờ họ đã trở thành niềm hi vọng cho trần gian. Tìm những giá trị cao hơn của cải vật chất. Không tìm quyền lực thống trị. Nhưng tìm khiêm nhường phục vụ. Biết hi sinh cho chân lý. Biết quên mình. Quan tâm yêu thương phục vụ người khác. Đó là điều thế gian đang thiếu thốn. Đó là phúc cho trần gian.
2024
NÊN TRINH TRONG NHƯ MẸ
8.6 Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ
2 Tm 4:1-8; Tv 71:8-9,14-15,16-17,22; Mc 12:38-44
NÊN TRINH TRONG NHƯ MẸ
Cùng với toàn thể Giáo Hội, hôm nay cộng đoàn chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria vô nhiễm nguyên tội. Niềm tin, Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm tội, trước tiên là niềm tự hào cho chúng ta. Vì trên thiên quốc, chúng ta đang có một người Mẹ vừa kiều diễm vẻ bề ngoài vừa xinh đẹp trong tâm hồn. Mẹ là hình ảnh của Hội Thánh, Hiền thê của Đức Kitô, xinh đẹp lộng lẫy, không vết nhơ, không tì ố.
Niềm tin, Mẹ Maria là Đấng vô nhiễm tội, còn là động lực rất nhiều giúp chúng ta hướng lòng lên cao, sống noi gương Mẹ vô nhiễm giữa dòng đời vốn có quá nhiều thứ ô nhiễm.
Thực ra, niềm tin vào Đức Mẹ là Đấng Vô nhiễm tội trong truyền thống đã có từ lâu. Ngay từ những thế kỷ đầu, người ta đã tin rằng Đức Maria được ơn vô nhiễm nguyên tội ngay từ lúc thụ thai trong cung lòng bà Cố Anna. Thế nhưng, phải mãi đến năm 1854, Tín điều Đức Maria vô nhiễm tội mới được ĐGH Piô IX tuyên bố rộng rãi trên toàn thế giới. Tín điều ghi rõ: “Rất thánh Trinh nữ Maria nhờ Thiên Chúa toàn năng và nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu chuộc nhân loại ban cho ân phúc đặc biệt là ngay từ khi thụ thai đã được gìn giữ khỏi hết mọi bợn nhơ của tội nguyên tổ. Đó là tín điều được Thiên Chúa mạc khải, vì thế buộc mọi người phải tin vững vàng mãi mãi”.
Như để củng cố cho tín điều mà Đức Giáo hoàng Piô IX mới tuyên bố, ngày 11.02.1858, Đức Mẹ đã hiện ra tại Lộ đức với một thiếu nữ 14 tuổi. Mẹ khẳng định: “Ta là Đấng Vô nhiễm nguyên tội”
Ngay từ những trang đầu của Thánh Kinh, sau khi ông bà Nguyên Tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại Đấng Cứu Thế qua lời Ngài phán bảo với con rắn, còn được coi là lời Tiền Tin Mừng: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người phụ nữ. Giữa dòng giống mi và giòng giống người ấy. Người giòng giống ấy sẽ đạp nát đầu mi. còn mi thì sẽ rình cắn gót chân người”.
Người nữ ấy là ai vậy? Tất nhiên, sẽ không phải là bà Evà, vì chính bà Evà đã phạm tội, thì làm sao có thể đạp đầu con rắn tượng trưng cho thế lực sự dữ được? Qua dòng lịch sử, Giáo Hội suy ngắm, cân nhắc và dẫn đến xác tín rằng, người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn là thần dữ đó không ai khác, mà chính là Đức Trinh Nữ Maria.
Thế giới có tội lỗi, thế giới có tang thương, thế giới có nhiều thảm họa, nhưng chúng ta đừng quên rằng chương trình của Thiên Chúa đang được thực hiện dọc theo chiều dài của lịch sử nhân loại. Giữa hai cực: một bên là sự sa ngã ở khởi đầu lịch sử và một bên là ngày tận cùng của thế giới, đã có cuộc nhập thể làm người của Con Thiên Chúa: Ngài đã làm người ngay giữa lòng của một nhân loại tội lỗi của thời đại Ngài…
Thế giới của chúng ta đầy dẫy tội lỗi, Thiên Chúa vẫn yêu thương thế giới ấy. Thay vì chỉ nhìn thấy hận thù, bạo động và sa đọa dưới mọi hình thức, chúng ta hãy cố đọc được những dấu chỉ của thời đại để thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn có mặt trong lịch sử con người, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.
Mừng lễ Ðức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, hôm nay Giáo Hội cũng muốn lập lại với chúng ta chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương con người và không có gì Thiên Chúa không làm được.
Thiên Chúa đã tạo dựng Mẹ và gìn giữ Mẹ khỏi mọi tỳ vết của tội lỗi. Mẹ là nền tảng của niềm hy vọng của chúng ta, Mẹ là bình minh của nhân loại mới, một nhân loại được Thiên Chúa cứu chuộc và ban cho sức mạnh để vươn lên không ngừng.
Chúng ta hãy chiêm ngắm Mẹ với tất cả niềm cậy trông và lạc quan ấy. Qua Mẹ, Thiên Chúa muốn tỏ bày tình yêu không hề lay chuyển của Ngài cho nhân loại và qua Mẹ, Ngài cũng muốn chúng ta bước đi trong vâng phục và yêu mến, cậy trông.
Thân phận yếu hèn của chúng ta được dệt bằng những vấp ngã và chỗi dậy không ngừng. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ không tỳ vết để chúng ta không ngừng ngước mắt nhìn lên. Chúa ban cho chúng ta một người Mẹ luôn “Thưa, xin vâng!” giữa muôn ngàn đớn đau thử thách, để chúng ta tiếp tục chỗi dậy sau những lần vấp ngã.
Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ. Mẹ luôn có đó để giúp chúng ta khỏi vấp ngã và nếu chúng ta có vấp ngã, Mẹ sẽ đỡ chúng ta dậy và giúp chúng ta tiếp tục “Thưa, xin vâng!” với Chúa để chúng ta bước đi theo Chúa Giêsu…
Hôm nay chúng ta mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Mẹ Maria chính là một đoá hoa đẹp nhất trần gian. Nhìn vào cuộc đời Mẹ, chúng ta thấy một Maria trong trắng dịu dàng. Một Maria đoan trang mực thước. Một Maria bác ái bao dung. Một nữ tỳ Maria được Chúa yêu thương và chúc phúc. Mẹ luôn giữ lòng thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời.
Giáo Hội nhìn nhận Mẹ được ơn Vô Nhiễm ngay tứ lúc trinh thai, nhưng điều quan yếu là Mẹ đã giữ được vẻ thanh khiết vẹn toàn đó giữa môi trường đầy những cám dỗ tội lỗi, đầy những thói đời xấu xa. Mẹ đã thắng mọi cám dỗ để có thể toả ngát hương thơm giữa trần đời. Mẹ là người phụ nữ đẹp rạng ngời giữa muôn ngàn người phụ nữ, tựa như bông sen đẹp lộng lẫy giữa đầm lầy. Tâm hồn Mẹ lại càng thanh cao, thanh cao đến nỗi hoàn toàn xứng đáng cho Con Chúa Trời ngự trị. Mẹ hoàn toàn xứng đáng với lời giới thiệu: “Trong đầm gì đẹp bằng sen”. Mẹ xứng đáng là đoá sen không phải là vì nét đẹp kiêu sa mà là vì nét đẹp tâm hồn “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
2024
TRÁI TIM KHÔNG KHÔNG NGỦ
TRÁI TIM KHÔNG KHÔNG NGỦ
Trái tim biểu hiện tình yêu
Tình yêu phát xuất theo chiều trái tim
Người ta thường lấy trái tim để làm biểu tượng tình yêu. Tôi không biết nguồn gốc có từ bao giờ? Vì sao người ta lại lấy trái tim làm biểu hiện tình yêu? Có lẽ trái tim là trung tâm của cơ thể con người. Trái tim có nhiệm vụ cung cấp máu cho toàn bộ cơ thể. Trái tim không còn bơm máu, cơ thể sẽ khó thở. Trái tim ngừng đập, con người coi như đã chết. Vì vậy, trái tim có một tầm quan trọng đối với cơ thể con người. Từ đó, người ta thường dùng từ ngữ “Trái tim” để diễn tả tình yêu.
Trái tim là phần quan trọng nhất và quí giá nhất của con người, là cơ quan sống động và chuyển động không ngừng trong con người. Đó là trái tim tự nhiên. Thế nhưng trong con người, còn có một trái tim thứ hai, mà chúng ta gọi là Tấm Lòng. Với ngôn ngữ Anh hay Pháp, người ta gọi chung một tên là Heart hay Coeur. Những ai có tấm lòng thì trái tim cũng sẽ thao thức, đau khổ và cũng sẽ yêu mãnh liệt. Vì Tình yêu và Trái tim đồng nghĩa.
Giáo Hội mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu Kitô như là một sự kính nhớ Tình Yêu của Chúa và Tình yêu cụ thể đó là Cuộc Thương Khó của Người. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu, nên khi yêu nhân loại, trái tim Chúa cũng đau khổ suốt cả cuộc đời nơi trần thế và mãi đau khổ vì sự vô ơn bội nghĩa của con người. Không có đau khổ nào sánh bằng đau khổ vì bị phản bội tình yêu. Chúa Giêsu đã yêu chúng ta tha thiết và muốn yêu chúng ta đến cùng nên Người cũng phải đau khổ nhiều. Nhưng đau khổ vì yêu thương của Chúa thật cao đẹp và tuyệt vời vì chính Chúa chọn chết vì yêu chúng ta “Chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.”(Ga 10,18)
Trái Tim Chúa Giêsu yêu tất cả nhân loại nhưng Chúa yêu và quan tâm, chăm sóc từng người chúng ta cách cá nhân. Chính vì thế, Chúa đã không vì chín mươi chín chiên trong đàn mà bỏ một chiên lầm lạc nhưng trái lại, Người để chín mươi chín con kia ngoài đồng mà đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất.(x. Lc 15,4) Đối với Chúa, một bằng chín mươi chín, vì mỗi người có một giá trị cao quí. Trái tim của Mục Tử Giêsu không thể yên khi ở với đàn chiên trên cánh đồng an bình, trong khi đó còn có những chiên lạc, chiên xa đàn. Người dõi theo và thao thức khi những chiên đau bệnh, ngây ngô lầm lạc ấy bỏ đi. Lòng Thương Xót của Chúa đã muốn đếm hết mọi người chúng ta và lo lắng, đau khổ cho mỗi người “Chính Người đã mang lấy các bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta.“( Is 53,4)
Trái tim không đau khổ, không thổn thức đó là trái tim không yêu. Còn Trái Tim của Chúa chúng ta thì luôn luôn gắn liền với Thánh giá. Thế nên khi Chúa Giêsu hiện ra với Thánh nữ Margarita Alacoque, trên tay Người cầm trái tim quấn vòng gai với hai vết thương chiếu sáng hai tia lửa yêu và Chúa nói “Đây là Trái Tim đã yêu thương loài người quá đỗi.” Trái tim Chúa đã yêu nhiều nhưng chỉ nhận được sự xua đuổi, lạnh nhạt và vô ơn. Chính chúng ta, những Kitô hữu lẽ ra là những chiên tốt lành, ở bên cạnh và an ủi, đền tạ, yêu mến và làm vinh danh Người; nhưng ngược lại, đời sống của ta, tội lỗi của ta đã xúc phạm đến Chúa, nhất là những tội từ trái tim, từ tình yêu của ta đã như thêm gai nhọn, thêm giấm chua vào Thánh Tâm Chúa.
Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mọi hồng ân, là nguồn cứu độ, là mạch thương xót, là suối yêu thương, vì chính Thánh Tâm đã tuôn trào Nước và Máu để tẩy rửa và cứu độ các tội nhân – trong đó có mỗi người chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã nhắn nhủ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11, 28-30). Không ai lại không đau khổ, yếu đuối, mệt nhọc, tội lỗi,… thế nên không thể không cần Thánh Tâm Chúa Giêsu và Lòng Chúa Thương Xót.
Đừng bao giờ quên rằng Chúa Giêsu luôn mong muốn chúng ta trú ngụ nơi Thánh Tâm Ngài, không chỉ ghé thăm mà ở lại đó mãi mãi: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Ước gì mỗi chúng ta biết tìm về nghỉ ngơi nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu – Cao Nguyên Yêu Thương và Đại Dương Thương Xót!
Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta biến quả tim mình thành quả tim yêu thương, nhân hậu, khiêm nhường, cảm thông, hy sinh và tha thứ. Nhờ đó, tình yêu Thánh Tâm Chúa không chỉ được tiếp tục nơi một số người mà lan toả ra nơi mọi người. Để thế giới này không còn chỗ của ghen ghét oán thù nữa mà tràn ngập tình yêu thương như lời của Mẹ Têrêxa Calcutta: “Hãy phổ biến tình yêu khắp nơi bạn sinh sống, trước hết là trong gia đình: cha mẹ hãy yêu thương con cái, vợ chồng yêu thương nhau, mọi người yêu thương người thân cận, đừng để bất cứ ai đến với bạn mà lúc ra về lại không cảm thấy mình được trở thành tốt hơn, hạnh phúc hơn. Hãy biểu lộ hình ảnh sự tốt lành của Thiên Chúa trong ánh mắt, nụ cười, trong lời nói việc làm”.
“Lạy Chúa, xin ban cho con trái tim của Chúa!
Xin đừng để con khép kín tâm lòng mình bao giờ!
Xin cho con trái tim quảng đại như Chúa,
vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường,
để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con lướt thắng mọi oán hờn nhỏ nhen,
và mọi thù hằn ti tiện!
Xin cho con luôn luôn bình an tươi sáng,
không một biến cố nào làm con bất ổn,
không một đam mê nào khuấy động hồn con!
Xin cho con đừng quá vui khi thành công,
cũng đừng bối rối khi bị chỉ trích chê bai.
Xin cho con trái tim đủ lớn để có thể yêu cả người thù địch.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở
để có thể ôm hết tất cả mọi người trong tình yêu Chúa. Amen!
2024
MẾN CHÚA – YÊU NGƯỜI
6.6 Thứ Năm trong tuần thứ Chín Mùa Quanh Năm
2 Tm 2:8-15; Tv 25:2-5,8-9,10,14; Mc 12:28-34
MẾN CHÚA – YÊU NGƯỜI
Trong bài Tin Mừng hôm nay, nhờ cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và vị kinh sư, chúng ta biết được giới răn đứng hàng đầu là yêu Chúa trên hết mọi sự và yêu người thân cận như chính mình. Động từ “yêu” tóm gọn những gì mà Chúa muốn truyền đạt. Tuy nhiên nếu chúng ta đọc câu trả lời của Chúa Chúa Giêsu một cách chậm rãi, thì lệnh truyền “nghe đây”, sự lắng nghe, được nói đến trước giới răn yêu thương.
Tin Mừng thuật lại: có một Luật Sĩ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thưa thầy, trong các giới răn, giới răn nào đứng hàng đầu?”. Chúa Giêsu đã thấy được lòng tốt và nhất là sự khao khát của ông ta, nên Ngài đã mạc khải cho ông Luật Sĩ này ngay tức khắc khi nói cho ông biết về giới luật quan trọng nhất chính là: yêu mến Thiên Chúa trên hết và yêu thương người thân cận như chính mình.
Phản ứng của Luật Sĩ này là hết sức thán phục những lời dạy khôn ngoan của Chúa Giêsu. Thật vậy, vì lòng chân thành đi tìm kiếm chân lý, lẽ sống, nên Chúa Giêsuđã khen ngợi ông và nói cho ông biết: ông không còn xa Nước Thiên Chúa.
Các câu hỏi của người luật sĩ trong bài Tin mừng là một vấn đề nan giải của người Do thái bấy giờ. Họ phân luật thành 613 điều khác nhau: 248 điều phải thi hành và 365 điều cấm. Vì giới luật quá nhiều nên họ không thể xác định được đâu là điều chính yếu và quan trọng nhất. Chúa Giêsuđã cho họ câu trả lời thật xác đáng và đồng thời chứng tỏ Người là Chúa của Lề luật. Người cho biết tất cả các giới luật đều quy về giới răn duy nhất: mến Chúa – yêu người, hai điều này không thể tách rời nhau.
Con người là sinh vật có xã hội tính, tức là có nhu cầu sống chung với nhau. Tuy nhiên, vì con người còn có tự do, nên để sống chung hoà thuận, mỗi quốc gia hay tập thể cần có luật quy định các bổn phận và trách nhiệm của mỗi người, để không ai đụng chạm và làm mất lòng người khác.
Thời Chúa Giêsu, nước Do thái cũng có bộ luật gồm hàng trăm khoản luật khác nhau, và họ không biết điều nào là quan trọng nhất. Vì thế hôm nay, một luật sĩ hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi hóc búa: “Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đã trả lời rằng: hai giới luật quan trọng nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương tha nhân như chính mình. Như vậy, cốt lõi của mọi điều luật là lòng yêu mến. Mến Chúa yêu người tuy là hai giới răn khác nhau, nhưng lại không thể tách biệt nhau.
Như vậy, cốt cách của đạo chúng ta là “Mến Chúa – yêu người”. Nếu chúng ta muốn dùng một chữ thôi để diễn tả đạo Chúa qua Kinh thánh, thì không chữ nào thích hợp hơn là chữ “yêu”, đó là yêu Chúa và yêu người. Tuy nhiên yêu Chúa, có thể nói: dễ hơn, vì Chúa dễ yêu lắm, ai yêu Chúa cũng được, và yêu Chúa hết lòng, hết sức. Còn yêu người? Khó hơn, nên chúng ta cần nói nhiều hơn về yêu người.
Nói về yêu người, chúng ta cũng đã nghe nói nhiều rồi, nhưng cũng chẳng bao giờ nói đủ, nghe đủ. Vì thế, chỉ xin nhắc lại một vài điều: Thứ nhất, yêu người là một trắc nghiệm không thể chối cãi được của tình yêu đối với Thiên Chúa, nghĩa là nếu chúng ta nói: chúng ta yêu Chúa lắm mà lại đối xử tệ với người khác, bất kể người đó là ai, chúng ta vẫn là người nói dối, và Chúa sẽ không nhận lòng yêu mến của chúng ta. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối”.
Thứ hai, yêu người không phải chỉ là yêu thương theo tình cảm, bởi vì Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù. Nếu chúng ta chỉ yêu thương những người yêu thương mình, quý mến mình, là chuyện bình thường, không cần gì phải nói.
Thứ ba, yêu người là sẵn sàng giúp đỡ họ bằng lời nói, thái độ, việc làm, tinh thần hay vật chất. Sau hết chúng ta ta hãy nhớ: tới ngày phán xét, chúng ta sẽ bị phán xét về tình yêu cụ thể này, tức tình yêu người, tình yêu thương anh em.
Tình yêu là nền tảng cho đời sống đạo. Không thấy bóng dáng của tình yêu thì cuộc sống sẽ trở thành gánh nặng. Sống đạo là đi vào trong tương quan giao ước tình yêu, để sống với cả con tim, cả khối óc, cả cuộc đời. Tình yêu con người lấy tình yêu Thiên Chúa làm mẫu mực, vì thế, Chúa Giêsu đã nối kết điều răn yêu người thân cận với điều răn thứ nhất. Và ai là người thân cận với ta nhất nếu không phải là những người trong gia đình?
Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta bị kinh tế thị trường làm cho đời sống đức tin bị trao đảo. Nhiều khi chúng ta đặt bậc thang giá trị của mình dựa trên tiền bạc, chức quyền, danh vọng… Vì thế, đã biết bao lần chúng ta rơi vào tình trạng lập lờ, bắt cá hai tay, chỉ còn biết cái lợi trước mắt mà không hề nghĩ đến cuộc sống đời sau. Giới răn mến Chúa, yêu người là cái gì đó không được chúng ta quan tâm nếu không muốn nói là coi thường!
Trong văn hóa hằng ngày, khi lắng nghe ai đó, nghĩa là chúng ta đang có một thái độ tự hạ, sẵn sàng đón nhận lời chia sẻ, hướng dẫn, khuyên răn… của người khác. Lắng nghe thể hiện tinh thần luôn biết đón nhận. Và chúng ta chỉ có thể cho đi những gì mà chúng ta đã lãnh nhận được.
Giờ đây, chúng ta thấy rằng, Chúa Giêsu không chỉ truyền cho chúng ta cần có một tình yêu với Thiên Chúa và với con người, nhưng trước hết Người mời gọi chúng ta hãy “nghe”, tức là để cho tình yêu của Chúa tràn ngập tâm hồn chúng ta trước. Trước khi yêu chúng ta cần có kinh nghiệm được ai đó yêu thương. Muốn cho đi tình yêu, thì đầu tiên chúng ta cần đón nhận được tình yêu.
Thiên Chúa là tình yêu và Ngài đã yêu chúng ta từ đời đời. Có lẽ mỗi chúng ta đều nhận ra điều này trong cuộc sống hôm nay. “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực và yêu người thân cận như chính mình” là một đòi hỏi khó và cần sự cố gắng rất nhiều từ chính chúng ta. Nhưng nếu chúng ta cảm nhận được tình thương bao la mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta và nếu chúng ta hiểu được giá trị của tình yêu tự hiến của Chúa Giê-su trên thập giá, thì chắc chắn chúng ta dễ dàng chu toàn giới răn yêu thương mà Người đã chỉ dẫn cho chúng ta.
Lời Chúa hôm nay cật vấn lương tâm chúng ta về những chọn lựa bấy lâu nay! Đồng thời, mời gọi chúng ta hãy yêu mến và trung thành giữ Luật Chúa thì chúng ta sẽ được hạnh phúc. Mặt khác, khi giữ luật Chúa, chúng ta có một cuộc sống bình an, thanh thản và luôn biết yêu thương, tôn trọng nhau để cùng nhau xây dựng Nước Chúa.