2022
QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA
11.1.2022
Thứ Ba trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
1 Sm 1:9-20; 1 Sm 2:1,4-5,6-7,8; Mc 1:21-28
QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA
Theo Tin Mừng Mác cô, Chúa Giêsu đã bắt đầu hoạt động công khai của Người bằng việc “Đi khắp miền Galilê rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ” (Mc 1,39). Sau khi kêu gọi những môn đệ đầu tiên, hôm nay Người dẫn các ông đến hội đường Caphácnaum vào ngày sa bát. Bản văn Tin Mừng hôm nay được xem như bài tóm tắt hoạt động của Chúa Giêsu: giảng dạy và trừ quỷ. Cả hai đều tỏ cho thấy uy quyền có sức cứu độ của Ngài.
Chúa Giêsu chính là vị Ngôn Sứ ưu việt đã được M-sê tiên báo. Tin mừng Mác-cô hôm nay trình bày Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ mạng Thiên Sai vào ngày Sa-bát trong một hội đường ở thành Caphácnaum thuộc miền Galilê. Lời giảng dạy và quyền uy của Chúa Giêsu khiến mọi người thán phục như Tin mừng Mác-cô ghi nhận như sau:
“Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư ” (c 22).
Mọi người trong hội đường đều kinh ngạc khi chứng kiến ma quỷ chịu khuất phục xuất ra khỏi người chúng ám sau lời truyền của Chúa Giêsu. Họ nói với nhau: “Thế nghĩa là gì? Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền. Ông ấy ra lệnh cho cả các thần ô uế và chúng phải tuân lệnh!” (c 27).
Chúa Giêsu giải thích Lời Chúa trong hội đường Do thái khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì : “Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc 1,22).
Vì Người được Chúa Cha sai đến làm Đấng Thiên Sai, là chính Lời Thiên Chúa nhập thể làm người nên Người chỉ nói Lời Thiên Chúa cho loài người chứ không bị lệ thuộc vào thế giá của bất cứ ai, kể cả Mô-sê. Chúa Giêsu đã biểu lộ uy quyền khi thay đổi các tập tục trong Luật Mô-sê: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình thì phải bị đưa ra tòa…” (Mt 5,21-22).
Tin Mừng Mác-cô đã thuật lại việc Chúa Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um gần biển hồ. Ngay ngày Sabát, Người vào hội đường mà giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng của Người như một Đấng có quyền , chứ không như các kinh sư của họ. Vì các kinh sư chỉ đọc và giải thích kinh thánh như đã học mà không thêm điều gì mới, khác với Chúa Giêsu giảng dạy như một Đấng lập Luật mới như Người cố ý chữa bệnh trong ngày Sabát, và khi bị hạch hỏi Người đã cho thấy quan điểm của Người như sau: “Ngày Sabát được làm ra vì con người, chứ không phải con người vì ngày Sabát; Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabát” (Mc 2,27).
Chúa Giêsu không những có uy quyền trong lời giảng, trong việc xua trừ ma quỷ, mà Người còn có quyền trên thiên nhiên như: biến nước lã thành rượu nho, nhân bánh ra nhiều, đi trên mặt nước, dẹp yên sóng gió, mẻ cá lạ lùng…
Người cũng đã dùng lời quyền năng để chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền trong dân như: cho người mù được sáng mắt, kẻ câm nói đươc, người điếc được nghe, người què đi được, người phong cùi được sạch…
Người đã phục sinh kẻ chết như cầm tay phục sinh một bé gái mới chết, cho chàng thanh niên đang đem đi chôn ở cử thành Naim, cho Ladarô chết 4 ngày sống lại ra khỏi mồ và chính Người đã từ trong cõi chết trỗi dậy đúng như Người đã tiên báo.
Ngày nay chúng ta chỉ đi theo một vị Thầy là Chúa Giêsu noi gương Tông đồ Phêrô: Sau bài giảng về Bánh Hằng Sống thì nhiều môn đệ đã tỏ ra chán nản không còn muốn theo làm môn đệ Chúa Giê-su nữa, chỉ còn Nhóm Mười Hai còn ở lại. Dù vậy Chúa Giêsu vẫn không rút lại ý định lập bí tích Thánh Thể và đòi các ông xác định lập trường đi hay ở. Ông Phê-rô đã đại diện Nhóm Mười Hai trả lời rằng : “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Ngày nay muốn trung thành với Chúa Giê-su, chúng ta cần năng học sống Lời Chúa: Mỗi lần học sống Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá thêm sự mới mẻ của Lời Chúa, và nhận ra quyền năng Chúa trong thiên nhiên và các dấu chỉ của thời đại. Nhờ năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa trong sinh hoạt hội đoàn hằng tuần tại nhà thờ, hay trong giờ kinh tối gia đình hằng ngày… chúng ta hy vọng sẽ từng bước trở thành “muối men” hòa lẫn vào thúng bột xã hội để làm dậy lên men tình yêu. “Ánh sáng” của các việc lành chúng ta làm sẽ giúp anh em lương dân nhận biết và ca tụng Thiên Chúa trên trời.
Cạnh đó chúng ta cần ý thức sứ vụ của mình là cộng tác với Chúa xua trừ ma quỷ, và các tệ đoan xã hội ra khỏi môi trường sống: Hiện nay ma quỉ vẫn luôn tìm cách phá hoại công trình cứu độ của Chúa Giêsu và Hội thánh. Chúng ta cần dấn thân làm những việc công ích và cộng tác với những người thiện chí xây dựng một môi trường sống an toàn sạch đẹp và văn minh. Cần quan tâm an ủi những ai đang gặp gian nan khốn khó bằng cách giúp họ tin tưởng cậy trông vào lòng Chúa thương xót, xin Đức Mẹ và các thánh chuyển cầu và chính chúng ta cũng tích cực giúp đỡ họ với hết khả năng của mình.
2022
Sám hối
10.1.2022
Thứ Hai trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
1 Sm 1:1-8; Tv 116:12-13,14-17,18-19; Mc 1:14-20
Sám hối
Dường như tất cả mọi người đều nhìn nhận rằng sám hối, sửa mình, cải thiện cuộc sống là việc cần thiết, không cần bàn cãi, nhưng dường như ai cũng chần chừ không quyết làm ngay.
Nhiều người nói: “Tất nhiên tôi sẽ sám hối, nhưng từ từ đã, vội gì, có thể là ngày mai”… và cái ngày mai đó dường như không bao giờ đến. Thế rồi người ta cứ lần lữa mãi cho đến lúc xuống mồ mà vẫn chứng nào tật ấy.
Muốn tẩy sạch tâm hồn, chúng ta chỉ có hai lựa chọn: hoặc là ngay bây giờ hay là không bao giờ. Nếu ta không bắt đầu ngay hôm nay, thì chẳng hy vọng ở ngày mai.
Vậy ta hãy noi gương dân thành Ni-ni-vê được trích đọc trong phụng vụ hôm nay, mau mắn đáp lời mời gọi sám hối từ tiên tri Giô-na.
Khi “Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ.” Nghe lời ấy, dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ (tức thời) ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ… Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà trở lại, Người hối tiếc về tai hoạ Người đã tuyên bố sẽ giáng trên họ, Người đã không giáng xuống nữa” (Giôna 3, 4-5).
Phạm tội là khi làm phiền lòng Chúa, là khi cố tình bỏ không làm những điều luật Chúa buộc làm như giữ ngày Chúa nhật, thảo kính cha mẹ… hoặc cố ý làm những điều luật Chúa cấm làm như chớ giết người, chớ tà dâm, chớ dối trá… Những điều luật Chúa buộc hay cấm làm được gọi là thánh ý Chúa và được tóm lại trong 5 kinh quen thuộc này: Một là kinh “Mười Điều Răn Đức Chúa Trời”; Hai là kinh “Sáu Điều Răn Hội Thánh”; Ba là kinh “Thương Người Có Mười Bốn Mối”; Bốn là kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức; Năm là kinh “Hòa Bình”.
Phạm tội là cố tình làm trái thánh ý Thiên Chúa, làm cho Chúa Giê-su phải buồn phiền vì ta. Muốn được ơn tha tội và được giao hòa với Chúa, chúng ta cần khiêm hạ sám hối. Sự ăn năn thực sự được biểu lộ qua thái độ hồi tâm xét mình, lo buồn trách mình vì đã phạm tội mất lòng Chúa, khiêm nhường xưng thú tội lỗi với vị linh mục có quyền giải tội và quyết tâm chừa cải bằng việc xa lánh dịp tội, quyết tâm đền bù tương xứng với thiệt hại đã gây ra cho tha nhân.
Sám hối là khởi đầu của việc nên hoàn thiện: Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả các vị đều ý thức về thân phận yếu hèn của mình. Càng ý thức về sự bất toàn của mình, người ta càng cảm nhận được tình thương bao la của Thiên Chúa. Đó là cảm nhận của vua Đa-vít sau khi đã phạm tội giết chồng đoạt vợ (x. 2 Sm 11,1-17), của thánh Phê-rô sau khi chối Thầy ba lần (Mt 26,69-75), của thánh Phao-lô sau khi bắt bớ các tín hữu và bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (Cv 9,1-19), của Au-gút-ti-nô sau chuỗi ngày buông thả tội lỗi và của nhiều đại thánh khác trong lịch sử Hội Thánh…
Lời đầu tiên Chúa Giêsu công bố khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời hôm nay là: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết việc sám hối với rao giảng Tin Mừng. Tin Mừng chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện qua con người của Đức Giê-su? Sám hối không chỉ là hồi tưởng về quá khứ của mình, không dừng lại ở thái độ buồn phiền, sợ hãi thất vọng, nhưng là một chặng đường phải trải qua để đạt đến niềm vui là tin vào Tin Mừng.
Sám hối gồm hai khía cạnh. Khía cạnh tiêu cực là nhìn về dĩ vãng, về quá khứ của cuộc đời mình để xem mình đang sống đúng hay sai, còn thiếu những gì cần bổ khuyết. Sám hối còn mang khía cạnh tích cực là hướng đến tương lai, quyết tâm thay đổi cuộc đời để sống tốt đẹp hơn. Muốn được như vậy thì người sám hối phải biết trở nên khiêm tốn, trở nên bé nhỏ và đặt tất cả niềm tin vào Người Cha nhân ái là Thiên Chúa tình yêu.
Ngoài ra, sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là cửa ngõ tất yếu dẫn đến Tin mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc…
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân, nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận được tình yêu của Chúa. Ðó là cảm nhận của vua Ðavít, của thánh Phêrô, của thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.
Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là vui mừng, hoan lạc.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Ðạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy vọng. Ðành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.
Kêu gọi mọi người sám hối ăn năn là lời giảng đầu tiên và quan trọng nhất trong sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu. Ngài mòi gọi mọi người phải sám hối mới xứng đáng được đón nhận vào triều đại của Nước Thiên Chúa. Sám hối là canh tân đời sống để trở nên người tín hữu nhận biết mình tội lỗi, yếu đuối và quyết tâm thay đổi lối sống của mình; và hơn nữa là ‘sống’ cách phù họp hơn với những đòi hỏi của Tin Mừng.
2022
CẢM THÔNG
8.1.2022 Thứ Bảy sau Lễ Hiển Linh
1 Ga 4:7-10; Tv 72:1-2,3-4,7-8; Mc 6:34-44
CẢM THÔNG
Thiên Chúa là Tình Yêu, là Đấng ‘chạnh lòng thương xót’. Ngài là vị Mục tử nuôi chiên bằng suối nước trong và cỏ đồng xanh mỡ màng. Hình ảnh vị Thiên Chúa ấy được thể hiện rõ nét nơi Đức Giê-su trong trình thuật tin mừng hôm nay – Người “thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.” (c. 34)
Đám đông đi theo Chúa Giêsu vì họ khát khao và say mê nghe Lời chân lý. Họ đi theo Người quên mọi khổ cực đường xa nhọc nhằn, quên cả trang bị những điều cơ bản cần thiết là lương thực cho bản thân. Tuy nhiên lòng nhiệt thành, sự say mê Lời của họ đã được đáp lại cân xứng quá lòng ước mong. Đức Giê-su không những dùng Lời để nuôi dưỡng tinh thần của họ, mà Ngài còn dùng lương thực để nuôi dưỡng thể xác đang đói khát của họ.
Tin Mừng thuật lại một hình ảnh đẹp của chính nhà giảng thuyết lẫn thính giả:
Nếu Chúa Giêsu chạnh lòng thương và dạy dỗ họ nhiều điều, thì một đám đông say mê nghe lời giảng của Chúa Giêsu đến quên cả ăn.
Nếu Chúa Giêsu chạnh lòng thương khi thấy đám đông “như bầy chiên không người chăn dắt”, thì đám đông vui mừng vì gặp được chủ chiên của họ cách đích thực, không phải trên lý thuyết!
Thật vậy, thấy đám đông dân chúng, phản ứng đầu tiên của Ngài chính là chạnh lòng thương!
Vì chạnh lòng thương, Chúa Giêsu đã trao ban lương thực cả phần hồn lẫn phần xác cho dân chúng.
Thế giới ngày nay là một thế giới đáng thương! Một thế giới đói khát Lời chân lý – Lời sự thật và tình thương nuôi dưỡng tâm hồn. Thế nhưng, sự tự mãn, bon chen, dành dựt ắp đầy trong lòng đã khiến tinh thần con người bị ‘thương thực’ không còn khả năng tiếp nhận Lời.
Lời Chúa vẫn có đó, vẫn còn đó, nhưng lại ‘rơi thõm’, mơ hồ trong một thế giới đầy những tiếng ồn ào của ‘động cơ’ vật chất, phô diễn đầy những bích chương quảng cáo hưởng thụ. Có người nói với tôi “lầm” khi tôi nói với họ về cách sống theo Lời Chúa, vì chẳng ai lại ‘dại gì’ sống như thế. Tôi trả lời họ “chân lý không thể lầm”, chỉ có “con người ta sống sai lầm” mà thôi. Vì vậy, những người dám tiếp nhận Lời chân lý, dám tin vào Lời là những người dám “đi vào một cuộc phiêu lưu”, can đảm chấp nhận lội ngược dòng, dám chịu những thua thiệt mất mát, dám đón nhận những hy sinh và thậm chí bách hại có thể xảy ra. Tuy nhiên, như những người say mê theo Chúa Giêsu để nghe lời Người, họ sẽ được thỏa mãn dư dật gấp trăm về ân sủng của Thiên Chúa luôn mở rộng để ban phát cho những kẻ tìm kiếm Người. Bởi vì họ sẽ được Chúa chăm nuôi cả tinh thần lẫn thể chất.
Phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi 5000 người (chưa tính đàn bà và con trẻ) sau khi đã “dạy dỗ họ nhiều điều” của Chúa Giêsu tiên trưng cho phép lạ Bí tích Thánh Thể Ngài thiết lập sau này. Ngày nay, Thiên Chúa – Chúa Giêsu Kitô vẫn tiếp tục chăm nuôi chúng ta cách đặc biệt trong bàn tiệc Thánh lễ. Nơi Thánh lễ Người ban phát cho chúng ta Lời của Người như kim chỉ nam cho cuộc sống, đồng thời Người thiết đãi chúng ta chính Thánh Thể của Người làm sức mạnh nuôi dưỡng bồi bổ tâm linh và là lương thực cho cuộc sống đời đời. Khi tham dự Thánh lễ với tấm lòng thanh, khát khao tìm kiếm Lời Chúa và Thánh Thể của Người, Chúa Giêsu sẽ ban cho ta thỏa mãn dư đầy để chúng ta tiếp tục nối dài hiến lễ của Người bằng cuộc sống của chính mình trong sứ vụ cứu độ con người.
Ân sủng và quyền năng Thiên Chúa vẫn dư dật. Tuy nhiên, Ngài vẫn muốn sự cộng tác của con người, một sự cộng tác dù nhỏ nhoi cũng đủ để cho Ngài thực hiện những điều kỳ diệu. Chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé sẵn sàng cho đi không giữ lại cho riêng mình cộng với sự thiện chí tìm kiếm của các môn đệ, Chúa Giêsu đã nuôi đủ hơn ‘mười ngàn’ nhân khẩu một cách mĩ mãn dư dật.
Vì thế, như giếng nước được khơi nguồn, càng kín múc nước ra càng trong mãi, Chúa muốn mỗi người chúng ta biết cộng tác với Người trong sự thiện chí biết quan tâm, chia sẻ và cho đi bằng hết khả năng của mình có – dù khả năng đó thật nhỏ nhoi và hạn hẹp – Chúa sẽ thực hiện những việc lạ lùng và lớn lao. Đời sống là quà tặng và ân sủng của Thiên Chúa, đặc biệt nơi bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, chúng ta đã được lãnh nhận cách nhưng không thì chúng ta cũng phải biết cho đi cách nhưng không. Có thế, phép lạ ‘hóa bánh’ của Chúa Giêsu mới mãi được nhân rộng nhờ thiện chí chuyển trao Lời và chia sẻ ‘bánh’ của chúng ta cho thế giới còn nhiều ‘đói khát’ này.
Qua phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu trước khi tỏ hiện quyền năng mình là Con Thiên Chúa, Ngài đã chứng tỏ mình là một con người hoàn hảo với một nhân cách sung mãn. Thật vậy, ai cũng có thể nhìn thấy đám đông nhưng mấy ai nhận thấy nỗi khốn cùng của họ? Hoặc giả cũng có người nhận thấy nhưng lại đành lòng ngoảnh mặt làm ngơ. Chúa Giêsu đã nhận thấy, và chạnh lòng thương; và còn hơn thế, Ngài mời gọi các môn đệ đồng cảm và cộng tác với Ngài để cất đi nỗi khốn cùng của đoàn dân “bơ vơ như chiên không người chăn dắt” đó.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết cảm thông, liên đới và trách nhiệm với anh chị em mình. Hãy biết chạnh lòng thương như Thiên Chúa đã thương yêu ta.
2022
KHỞI ĐẦU SỨ VỤ CỦA CHÚA GIÊSU
7.1.2022
Thứ Sáu sau Lễ Hiển Linh
1 Ga 3:224; Tv 2:7-8,10-11; Mt 4:12-17,23-25
KHỞI ĐẦU SỨ VỤ CỦA CHÚA GIÊSU
Ta vừa tưng bừng mừng lễ Chúa Giáng Sinh và lễ Chúa Hiển Linh. Những lễ này gợi nhắc cho chúng ta nhớ rằng ánh sáng tình thương ơn cứu độ của Chúa đã chiếu tỏa trên khắp cõi nhân gian này.
Tin mừng theo Thánh Matthêu hôm nay miêu tả ngày đầu tiên Chúa Giêsu khởi sự sứ vụ loan báo Tin Mừng. Sau 30 năm sống âm thầm nơi làng quê Nagiarét, đúng lúc “thiên thời địa lợi”, Chúa Giêsu rời xa gia đình ra đi tung gieo hạt giống Nước trời.
Kinh Thánh cho biết, sau khi chuẩn bị chu đáo cho Chúa một con đường thẳng tắp, một mảnh đất phì nhiêu màu mỡ, ông Gioan đã lui vào bóng tối âm thầm để ánh sáng Giêsu chiếu tỏa cho hạt giống nứt mộng nảy một mầm sống. Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được loan báo qua lời ngôn sứ Isaia “Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Dưới thời Chúa Giêsu, đất nước Do Thái bị cai trị bởi đế quốc Rôma, người dân phải sống kiếp nô lệ nên họ mất hết tự do. Hàng năm họ phải nộp cho Roma thuế nhà đất, thuế lợi tức, thậm chí thuế thân và nhiều loại thuế gián thu khác. Riêng người Do Thái hằng năm còn phải nộp thuế Đền Thờ và thuế thập phân.Về chính trị, Do Thái còn duy trì chế độ quân chủ nô lệ.Các nô lệ không có quyền gì về pháp lý và bị mua bán như một món hàng.
Từ thời Cựu Ước, dân Do Thái đã phải sống trong cảnh lưu đày suốt 40 năm dài ở Babylon, trước mắt họ là con đường dài thăm thẳm tối tăm. Vì thế họ hằng ấp ủ trong lòng khát vọng sớm được giải thoát, được trở về đoàn tụ nơi quê cha đất tổ. Đức Giêsu đã đến như một vị vua của dân tộc, mở cho dân một con đường sống tự do thênh thang. Người đã đến hoàn trọn lời các ngôn sứ loan báo. Từ đây ánh sáng cứu độ đã bừng lên xua tan bóng tối sự chết, cất đi cái ách nô lệ nặng nề tủi nhục.
Chúa Giêsu chọn Galilê – miền Bắc Do Thái là miền đất của dân ngoạinhư một trung tâm truyền giáo vì nơi đây có vai trò tôn giáo quan trọng, nơi có thành Caphacnaum, hơn nữa Chúa Giêsu đã lớn lên ở Nadaret cũng thuộc Galilê. Có thể nói Chúa Giêsu đã quen thuộc địa lý xã hội chính trị và tôn giáo tại Galilê.Bên cạnh đó, người dân vùng Galilê sống cởi mở, thích đón nhận những trào lưu tư tưởng mới nên rất thuận lợi cho việc truyền giáo. Điều đáng nói ở đây, Chúa Giêsu giảng dạy có uy quyền và thuyết phục hơn các kinh sư và thày khác bởi Người có phép lạ kèm theo.
Chúa Giêsu loan báo Nước trời “đến gần” qua các dấu hiệu và việc làm cụ thể đó là ma quỷ bị xua trừ, mọi người đau bệnh tật nguyền được chữa lành.Một viễn cảnh thái bình an vui đang mở ra trước mắt mọi người. Dân chúng từ miền Galilê, vùng Thập Tỉnh, thành Giêrusalem, miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan lũ lượt kéo đến đi theo Đức Giêsu.Ai nấy lắng nghe một cách chăm chú và sửng sốt bởi chưa bao giờ họ đượcnghe những điều huấn giáo mới mẻ và thuyết phục như vậy.
Chúa Giêsu đã có một khởi đầu mới “thuận buồm xuôi gió”.Người đã đến để thực hiện kế hoạch cứu độ mà Thiên Chúa Cha đã trao phó.Kế hoạch đó không gì khác ngoài việc yêu thương và giải thoát loài người khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết, đem đến cho họ niềm vui, sự an bình và nguồn hạnh phúc đích thực. Nhưng để có được hạnh phúc lớn lao ấy đòi hỏi mọi người phải sám hối. Như vậy sám hối chính là thái độ cần phải có để trở thành công dân Nước Trời.Sám hối chính là nhìn nhận những yếu đuối của mình để thêm tin tưởng vào tình thương Thiên Chúa.
Ta thấy Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta Tân Phúc-Âm-hóa” bằng việc làm “mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp, và mới trong cách diễn tả Lời Chúa”.Đó là nhìn nhận lại mối tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô, để mối tương quan ấy hướng dẫn toàn bộ đời sống chúng ta.Mới trong phương pháp là biết vận dụng những phương pháp thích hợpđể đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại về nhiều mặt, văn hóa, xã hội cũng như kỹ thuật.Mới trong cách diễn tả là cố gắng nghiên cứu và sử dụng những cách diễn tả phù hợp, để con người hôm nay có thể hiểu và lĩnh hội được sứ điệp Phúc Âm.
Hơn 2000 năm qua, Giáo hội đã lãnh nhận và tiếp tục sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu thế nhưng đâu đó trên thế giới vẫn còn “đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm” chưa nhìn thấy ánh sáng cứu độ, vẫn còn những vùng đất “Galilê” chưa đón nhận hạt giống đức tin. Ý thức được sự khẩn thiết này, ước gì mỗi kitô hữu biết quảng đại dấn thân nhiều hơn nữa trong việc loan báo Tin Mừng, đặc biệt canh tân đời sống đạo trong gia đình, trong giáo xứ để Lời Chúa được vang xa, lan rộng đến tận cùng thế giới.
Tin mừng hôm nay cũng có cùng một sứ điệp gợi nhắc cho chúng ta nhớ rằng các dân tộc trên thế giới đã lầm lũi bước đi trong bóng tối của khốn khổ, ù sầu thì nay Chúa đã tỏ mình, Chúa đã hiển linh, đã soi rọi ánh sáng tình thương ơn cứu độ của Ngài vào cả dân ngoại lẫn dân Israel vốn là dân riêng Thiên Chúa tuyển chọn.
Nhưng có một điều xem ra nghịch lý: Chúa đã tỏ mình, hiển linh rồi mà sao thế giới vẫn lầm lũi bước đi trong tăm tối của sự dữ, của hận thù và chia rẽ? Chúa đã chiếu rọi ánh sáng tình thương và quyền năng của Ngài vào chốn dương gian này rồi mà sao lòng chúng ta vẫn tăm tối trong yếu đuối, tội lỗi? Như vậy có lẽ nào chúng ta còn phải chờ đợi một Đấng Thiên Sai khác?
Thật ra, ta chẳng còn phải đợi Đấng Cứu Độ nào khác ngoài Đức Giêsu Kitô. Sở dĩ thế giới này và bản thân mỗi người chúng ta vẫn ngập ngụa trong bóng tối của tội lỗi và sự ác là vì chúng ta vẫn chưa ăn năn, hoán cải, thay đổi lại đời sống của mình để ánh sáng tình thương của Chúa được tỏ rạng. Bởi vậy, lời mời gọi của Chúa: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” vẫn là sứ điệp có tính thời sự không chỉ dành cho dân Chúa xưa kia mà còn dành cho mỗi người chúng ta ngày hôm nay và mãi mãi về sau.