2022
THIÊN CHÚA TOÀN NĂNG
15.1.2022
Thứ Bảy trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
1 Sm 9:1-4,17-19; Tv 21:2-3,4-5,6-7; Mc 2:13-17
THIÊN CHÚA TOÀN NĂNG
Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Sự toàn năng nơi Ngài có sức biến đổi và cứu độ. Và sự toàn năng nơi Ngài xuất phát từ lời nói đến việc làm. Quả thế, “ngôn hành” của Ngài luôn có ý hướng và mục đích. Ý hướng của Ngài gợi hứng từ sự yêu thương vô điều kiện. Mục đích Ngài nhắm đến chính là chia sẻ ơn cứu độ cũng như mong mỏi hết thảy mọi người đều được tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Đọc lại hành trình lịch sử cứu độ dân Chúa, chúng ta nhận ra rằng từ trong Cựu Ước cho đến Tân Ước, Thiên Chúa vẫn dùng “ngôn hành” của mình để dẫn dắt, dạy dỗ và biến đổi từng cá nhân trong dân tộc của Ngài. Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã kêu gọi, đồng hành và hướng dẫn Mô-sê thành một người chỉ huy tài ba, thành cầu nối giữa dân và Chúa. Mặc dầu Mô-sê không phải là người tài ăn, khéo nói, thậm chí nhút nhát. Nhưng Chúa muốn và Mô-sê vâng phục, Mô-sê trở thành thủ lãnh trong dân, thành người kéo ơn Chúa xuống cho dân và thông truyền mong mỏi của dân đến với Chúa. Đó là sự toàn năng và tuyệt hảo nơi Chúa thực hiện qua Mô-sê cũng như dân của Ngài.
Còn trong Tân ước, có rất nhiều những con người, những nhân vật đã được Thiên Chúa gọi mời và biến đổi thành người cộng tác đắc lực với Chúa trong công cuộc rao giảng Tin mừng. Cụ thể, trong bài Tin mừng ngày hôm nay, tác giả Mác-cô trình bày cho chúng ta, một Mát-thêu, kẻ làm nghề thu thuế, bị coi là người tội lỗi, bị dân chúng khinh bỉ, là người cộng tác với ngoại bang để hành hạ đồng bào. Thế nhưng, chính “ngôn hành” của Chúa đã biến đổi và giúp ông trở thành Tông đồ cho Ngài.
Một trong những điểm đáng lưu ý trong trong bài Tin mừng thứ Bảy tuần I Thường Niên hôm nay đó là hành động dứt khoát của ông Lêvi khi được Chúa kêu gọi làm môn đệ. Khi Chúa đi ngang bàn thu thuế của ông và mời gọi: “Anh hãy theo tôi,” thì chẳng chần chừ hay đắn đo suy nghĩ, ông Lêvi lập tức đứng dậy đi theo Ngài.
Thái độ dứt khoát ấy cho thấy rằng trước đó ông đã suy nghĩ rất nhiều về cuộc sống của một người thu thuế như ông, một cuộc đời bị liệt vào hàng tội lỗi công khai.
Khi can đảm đứng dậy theo Chúa như vậy, ông như từ một kẻ bị coi là đã chết trong tội, nay được chỗi dậy và hồi sinh trong đời sống mới. Động từ anastas – đứng dậy – phát xuất từ động từ anistemi, vừa diễn tả một hành động thể lý của một người từ trạng thái ngồi bất động sang trạng thái hoạt động, nhưng đồng thời cũng vừa ám chỉ đến sự phục sinh như Chúa (x. Mc 8, 31; 9, 31; 10, 34; 12, 23. 25; Cv 2, 24. 32; 13, 32, 34).
Quả vậy, Thiên Chúa không chấp nhất quá khứ, Ngài kêu gọi Mát-thêu từ bỏ quá khứ tội lỗi và hướng tới tương lai. Không phụ lòng tin tưởng nơi Chúa, Mát-thêu đã rũ bỏ tất cả, tiền tài, địa vị, quyền bính và thậm chí cả những dị nghị, nghi nan. Chính sự đáp trả, niềm tin và sự phó thác vào Thiên Chúa đã biến đổi ông. Nói cách khác, chính tình yêu Chúa đã thay đổi và nâng ông dậy. Từ một con người chỉ biết tích cóp, ăn chặn và bóc lột đồng bào.
Giờ đây Mát-thêu trở thành kẻ “lưới người”, kéo những “mẻ cá người” về cho Chúa, cho Hội thánh bằng sự nhiệt thành và hăng say. Bên cạnh đó, Mát-thêu còn trở thành tác giả Tin mừng viết về dòng dõi và sứ mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa. Ông dùng chính đôi tay thu thuế trước đây của mình, giờ đây cũng với đôi bàn tay ấy, ông chia sẻ cho đồng bào và hậu thế về sứ mạng của Đấng Tình Yêu. Sở dĩ Mát-thêu có đặc ân ấy là vì sự toàn năng và yêu thương của Chúa dành riêng cho ông. Ngài muốn, Ngài yêu và Ngài tin tưởng vào sự thay đổi nơi ông và biến ông thành người cộng tác đắc lực trong sứ mạng rao giảng Tin mừng.
Thiên Chúa toàn năng và rất mực yêu thương nhân loại như vậy. Thế nhưng, hôm nay chứng kiến việc Chúa Giêsu kêu gọi Mátthêu và Ngài còn về nhà ông để mừng tiệc, để được ông thiết đãi, những người kinh sư thuộc nhóm Biệt phái tỏ vẻ không hài lòng, nghi kị và muốn kết án. Suy nghĩ và cái nhìn của những người Biệt phái ngày xưa, dường như cũng đang là não trạng và cách hành xử của con người thời nay. Trong một xã hội vô cảm, đặt nặng những giá trị bên ngoài nhưng thiếu ý thức nhân bản và chiều sâu đời sống nội tâm. Dường như con người hiểu nhau qua vật chất, qua vẻ hào nhoáng của địa vị mà bỏ quên giá trị và ý nghĩa nhân bản hay đời sống đức tin.
Khác hẳn với cách cư xử và hành động của con người. Thiên Chúa hứa là Ngài giữ lời. Ngài chậm giận và giàu tình thương. Thiên Chúa không giữ quá khứ của chúng ta nhưng Ngài kêu gọi chúng ta hướng tới tương lai, từ bỏ tội lỗi và tín thác nơi Ngài. Như một bác sĩ rành nghề, hôm nay Chúa Giê-su biết rõ bệnh tình của Mát-thêu, Ngài đã trị dứt cơn bệnh của ông, đồng thời Ngài sử dụng tài năng linh hoạt có sẵn nơi ông để dùng ông trong sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Đức Kitô được sai đến trần gian là để kêu gọi người tội lỗi. Ngài là Đấng Thánh, là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Ngài đến để kêu gọi. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Hội Thánh và mỗi người chúng ta, cũng được Ngài sai đến để kêu gọi: sống và làm chứng cho muôn dân về Ơn Cứu Độ. Trước tiên là sống Ơn Cứu Độ cho chính mình, nghĩa là phải ý thức mình là người tội lỗi và cần được cứu độ; sau là làm chứng về chương trình này của Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Chắc chắn rằng chúng ta đã chọn Chúa, nhưng trong cuộc sống, rất nhiều lần ta đã chọn thế gian, ma quỷ và xác thịt. Nhìn nhận mình là người tội lỗi, đó là điều kiện tiên quyết. Trong phần sám hối Thánh lễ, chúng ta đấm ngực thú nhận mình là người tội lỗi. Bạn có ý thức điều đó không? Chỉ có người tội lỗi đích thực, mới cầu xin ơn tha thứ; và khi được thứ tha, tâm hồn mới bình an và cuộc sống mới đổi thay. Ngược lại, hình thức máy móc đó sẽ dẫn đến tình trạng “vẫn như cũ”.
2022
NHẬN RA TÌNH YÊU CHÚA
14.1.2022
Thứ Sáu trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
1 Sm 8:4-7,10-22; Tv 89:16-17,18-19; Mc 2:1-12
NHẬN RA TÌNH YÊU CHÚA
Trong đời sống con người, điều khó thực hiện nhất là tha thứ, nhất là khi đối tượng xúc phạm là người thân cận, gần gũi của ta. Nhưng đối với Thiên Chúa, không gì mà không thể thực hiện. Lòng tha thứ của Thiên Chúa vô bờ bến, đến độ Chúa Giêsu yêu cầu Phêrô phải tha đến 70 lần 7. Một sự tha thứ mãi mãi, không ngừng. Có lẽ Thiên Chúa thấu hiểu sự yếu đuối mỏng giòn của con người, nên Ngài dễ đồng cảm và đã thể hiện lòng đồng cảm ấy qua việc tha thứ không biết mệt mỏi của Ngài. Bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại một hành vi chữa bệnh lạ lùng của Chúa Giêsu. Người phục hồi không những phần xác mà cả phần hồn của con người, mặc dù con người chẳng hề mở miệng kêu xin. Chúng ta hãy cùng Thánh Máccô bước vào một ngày của Chúa Giêsu tại thành Caphacnaum.
Trong câu mở đầu của chương hai, tác giả giới thiệu nơi chốn rõ ràng: ở thành Caphacnaum và trong nhà của Người (1). Caphacnaum là nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Căn nhà mà Người đang ở có thể là nhà Simon, Anrê. Nghĩa là trong chính căn nhà Giáo Hội, Thiên Chúa thực thi lòng thương xót và tha thứ.
Bao quanh Người là làn sóng dân chúng. Họ tụ tập đông đến nỗi chỗ nào cũng chật cứng người (2), để nghe lời Người giảng dạy. Có một kẻ bại liệt muốn được chữa lành phải nhờ đến sự trợ giúp của người khác. Anh ta nằm trên chõng và được đưa tới gần Chúa Giêsu bằng một lối đi hết sức ngoạn mục và đầy sáng kiến.
Vì dân chúng quá đông, len lỏi vào còn khó huống hồ khiêng một cái chõng nặng. Nhưng khó khăn ấy không làm chùn bước khao khát của họ. Tình yêu đầy sáng kiến. Họ liền dỡ mái nhà và thòng dây đưa cái chõng cùng kẻ bại liệt xuống ngay trước mặt Chúa Giêsu. Chúa Giêsu thấy rõ lòng tin và sự khao khát kiếm tìm Thiên Chúa của họ. Họ mong được Chúa giải thoát cho kẻ bại này khỏi sự trói buộc của bệnh tật. Chúa Giêsu – hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa – đã không những chữa lành căn bệnh bại liệt thể xác nơi bệnh nhân, mà còn chữa lành tâm linh cho anh nữa “Con đã được tha tội rồi” (5).
Có lẽ độc giả khá ngạc nhiên trước sự “lẩm cẩm” của Chúa Giêsu. Người ta đến xin chữa bệnh chứ đâu xin ơn sám hối. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu tỏ hiện quyền năng của một Đấng Mêsia, một Vị Thiên Chúa với uy quyền tối cao. Các ông kinh sư rất nhạy bén về giáo lý này. Các ông nghĩ ngay rằng: “ Sao ông này dám nói phạm thượng, xúc phạm đến Thiên Chúa. Vì không ai có quyền tha tội, duy một mình Thiên Chúa?” (7).
Chúa Giêsu thấu hiểu lòng họ đang nghĩ gì, Người bảo họ: “Trong 2 điều, “con đã được tha tội rồi” và “đứng dậy, vác chõng mà về”, điều nào dễ hơn?”. Ở đây, Chúa đưa các kinh sư vào hai thái cực: một hành vi chữa lành tâm linh và một hành vi chữa trị thể xác của Người. Bất cứ ở thái cực nào, Người cũng có đủ quyền năng để thực hiện. Điều này chứng tỏ Người có uy quyền trên mạng sống và cả linh hồn con người nữa. Chúa Giêsu khẳng định: Vậy để các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội. Đến đây, Người mạc khải cho các kinh sư biết chính Người là Đấng Mêsia, Đấng phải đến để cứu dân thoát xiềng xích của ma quỷ và tội lỗi. Đấng đến để đưa con người vào hưởng hạnh phúc Thiên Chúa.
Như vậy, thánh sử muốn chúng ta biết lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người toàn vẹn nơi anh bại liệt, mặc dù anh đến chữa bệnh không một lời hay cử chỉ van xin, mà chỉ do sự nhiệt tình của những người khiêng. Nhưng điều kỳ diệu hơn nữa của ơn tha thứ là: trước khi tha thứ cho anh, Chúa Giêsu đã khai mở ơn cứu độ cho các kinh sư, khi các ông nhận ra: chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Nhưng rất tiếc là sự hiểu biết ấy chỉ trên lý thuyết, các ông vẫn không mở lòng mở trí đón nhận ơn cứu độ, mặc dù họ biết: Chúa Giêsu đang thi hành sứ vụ của Đấng Mêsia. Người chính là Đấng Cứu Thế mà dân Do Thái đang mong chờ.
Ngược với thái độ cứng lòng, cố chấp của các kinh sư là tâm tình tôn vinh quyền năng và tình yêu Thiên Chúa mà dân chúng cảm nhận được “ chúng ta chưa thấy vậy bao giờ” (12). Họ trầm trồ thán phục, ngạc nhiên ngỡ ngàng trước tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện qua con người Giêsu Nagiarét.
Tin Mừng hôm nay ghi lại Chúa Giêsu không nói ngay: “Ta chữa lành cho con”, nhưng Ngài nói với người bất toại: “Con đã được tha tội rồi”. Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng”. Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: “Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?” Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: “Trong hai điều: một là bảo người bất toại: “Con đã được tha tội”, hai là bảo: “Ðứng dậy, vác chõng mà đi”, điều nào dễ hơn”.
Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: “Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà”, lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quí trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.
Nhìn thái độ của các kinh sư và gẫm lại đời sống của mỗi người chúng ta: chúng ta có nhận ra tình yêu Thiên Chúa bàng bạc trong cuộc đời ta, trong lịch sử nhân loại, trong các biến cố xảy ra trên thế giới hàng ngày không? Hay cũng như họ, khi chúng ta được ơn khôn ngoan nhận xét diện mạo thay đổi của trời đất, mà vẫn “bưng tai, bịt mắt” mà không sám hối trở về ?
2022
Chữa người phong cùi
13.1.2022
Thứ Năm trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
1 Sm 4:1-11; Tv 44:10-11,14-15,25-26; Mc 1:40-45
Chữa người phong cùi
Chúa Giêsu chạnh lòng thương xót. Nhưng Ngài không chỉ làm vơi đi hoặc xóa đi bất hạnh của người bệnh bằng cách chữa lành cho anh, nhưng còn cất đi nỗi bất hạnh lớn lao của cả nhân loại là tội lỗi và cái chết, bằng cái chết trên Thập giá và sự phục sinh của Ngài.
Phong hủi đối với những người Do thái là chứng bệnh ghê tởm, nhơ uế, bệnh nhân phải tuyệt thông với mọi người. Ai tiếp xúc với họ cũng bị coi là ô uế. Vì thế, người phong hủi thường phải ở những nơi cách biệt: đi đến đâu họ phải la lớn để mọi người biết mà tránh xa. Thân phận người phong hủi thật đáng buồn tủi! Bài Tin mừng hôm nay cho biết, người phong hủi dám đến xin Đức Giêsu chữa lành. Điều đó chứng tỏ bệnh nhân có một niềm xác tín vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu vừa quyền phép lại vừa rất thương yêu. Đến với Ngài, chắc chắn sẽ không phải thất vọng.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết dần giết mòn con người mà con người không hay biết.
Thấy anh có lòng tin, Chúa Giêsu chạnh lòng thương, giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn anh khỏi bệnh”. Chạm đến người phung là phạm luật, khiến người ta khó chịu. Ngài muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Qua việc đặt tay của Chúa, con người được tiếp xúc thần tính của Ngài, nhờ đó được nhận lãnh ân sủng là sức sống của Ngài. Chính vì thế mà bệnh phung biến mất và anh ta được sạch.
Chúa Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị này ghi nhận bệnh đã lành và để cho kẻ trước đây bị loại trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh em mình. Chúa Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm người đã khỏi bệnh nói về chuyện mình được chữa khỏi.
Tuy nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Chúa Giêsu, anh đã rao truyền khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Chúa Giêsu càng lan rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền lực của Chúa Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các hành vi đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi người có thể tin vào Người.
Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hoá về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi cũng khiến người ta bị cô lập hoá về đời sống thiêng liêng.
Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp gỡ họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.
Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh; Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được hội nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn.
Với bài tường thuật Chúa Giêsu chữa người phong hủi để kết thúc chương 1, Thánh Maccô đưa hành vi quyền lực của Chúa Giêsu tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là một chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một niềm tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Chúa Giêsu một quyền lực to lớn. Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của Chúa Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Chúa Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc.
Xin Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ
Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái độ mau mắn đi làm chứng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang nhận được những ân huệ lớn lao nào.
2022
Ðộng lực của việc tông đồ
12.1.2022
Thứ Tư trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
1 Sm 3:1-10,19-20; Tv 40:2-5,7-8,8-9,10; Mc 1:29-39
Ðộng lực của việc tông đồ
Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.
Tại nhà của ông Simôn, Chúa Giêsu đã chữa mẹ vợ ông khỏi sốt cao. Như thế, Người cho thấy Người làm Chúa tể trên một thứ tai họa khác của loài người, đó là bệnh tật. Nhưng trong nhãn quan của Tim Mừng theo Thánh Maccô, bệnh tật cũng là do ma quỷ, nên chữa lành bệnh tật cũng là chiến thắng trên ma quỷ.
Ở đây, chúng ta ghi nhận là lần đầu tiên Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật là cho một phụ nữ, trong khung cảnh đơn sơ và thân tình của một ngôi nhà và của mộtgia đình. Bằng chứng cho thấy bà này đã thực sự được lành bệnh là bà đã ân cần chu đáo phục vụ các khách quý. Cũng như Đức Kitô đã đỡ bà mẹ vợ Simôn trỗi dậy khi mà bà đang bị cơn sốt bắt nằm bất động như một người đã chết, Người cũng nâng chúng ta dậy, cho chúng ta sống lại, để chúng ta có thể phục vụ Người
Hành vi đó của Chúa Giêsu trong ngày đầu tiên hoạt động công khai đưa tới hậu quả là dân chúng hiểu là khi ở trong tình trạng quẫn bách, họ có thể trông mong được ai giúp đỡ. Khi chiều đến, họ đưa tất cả mọi bệnh nhân và những người bị quỷ ám đến với Người. Đức Giêsu như bị cả một đại dương đau thương và bần khốn vây quanh và tấn công; toàn thể niềm hy vọng được đặt để nơi Người. Người có thể đương đầu với tình trạng quẫn bách này. Người có khả năng giúp đỡ và trong thực tế Người đã giúp đỡ.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện”. Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của cầu nguyện: “Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì”.
Gương Chúa Giêsu đi cầu nguyện khiến chúng ta phải xem lại cách chúng ta đánh giá ý nghĩa của việc cầu nguyện cũng như những tiêu chuẩn giúp chúng ta sử dụng thì giờ. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn dùng thì giờ mà làm cho mình được tự do để sống cho Thiên Chúa, các động lực đang nâng đỡ hoạt động của chúng ta rất có thể cần được xét lại. “Nếu Đấng không có tội mà còn cầu nguyện như thế, những lẻ tội lỗi còn phải cầu nguyện đến thế nào. Nếu Người đã thức qua đêm mà cầu nguyện liên lỉ, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và cũng phải canh thức đến độ nào.
Cũng nên coi lại giá trị chúng ta gán cho sự thinh lặng, sự yên tĩnh, sự cô tịch. “Chính Chúa Giêsu, với sức mạnh không cần được nâng đỡ trong một cuộc tĩnh tâm, cũng không bị ngáng trở bởi xã hội loài người, đã quan tâm để lại cho chúng ta một gương sáng. Trước khi thực hiện sứ vụ rao giảng và làm phép lạ, Người đã vào nơi cô tịch chịu thử thách cám dỗ và nhịn đói (Mt 4,1t). Kinh Thánh kể lại cho chúng ta rằng, Người đã bỏ lại đó đám đông môn đệ, mà leo lên núi để cầu nguyện (Mc 6,46). Rồi khi giờ Thương Khó đã đến gần, Người bỏ các môn đệ, và ra đi cầu nguyện một mình (Mt 26,36): gương sáng này giúp chúng ta hiểu sự cô tịch có lợi cho việc cầu nguyện đến thế nào, bởi vì Người không muốn cầu nguyện bên cạnh các bạn đường, ngay cả các tông đồ.
Chúng ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: “Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình”.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách hữu hiệu hơn.
Thường người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi đối chọi nhau. Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở thành kinh nguyện liên miên.
Chiêm ngắm một ngày sống của Chúa, chúng ta được mời gọi sống như Ngài. Cuộc sống người Kitô hữu không thể chỉ có những khoảnh khắc dành cho Chúa trong Thánh lễ hay kinh nguyện, mà còn phải trải dài qua những sinh hoạt và gặp gỡ hằng ngày trong cuộc sống. Người Kitô hữu phải biết thống nhất đời sống bằng cách biến những giây phút hoạt động thành một cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa.