2022
ĐỪNG KHINH KHI CHÚA
22.1.2022 Thứ Bảy
Mc 3, 20-21
ĐỪNG KHINH KHI CHÚA
Tin Mừng kể lại lúc Chúa Giêsu đang giảng thì thân nhân của Ngài tìm đến, để bắt Ngài, vì nghe người ta nói là Ngài đã mất trí.
Đây không phải là lần duy nhất mà người ta cho là như thế. Chúng ta còn nhớ có lần người ta đã cho Ngài là người bỉ quỉ ám, là khùng điên, là một người nổi loạn.
Thực ra, Chúa cũng chẳng phải là một nhân vật dễ hiểu. Các tông đồ của Chúa ngày xưa dù đã được sống với Chúa cả mấy năm trời, vậy mà các ông ấy cũng chẳng hiểu được Chúa là ai.
Thế nhưng không phải vì thế mà Chúa buồn, Chúa bỏ cuộc. Phải nói rằng, Chúa có một thái độ rất cao thượng. Không những Ngài không buồn, không trách móc mà còn coi những chuyện đó chẳng đáng để Ngài phải bận tâm.
Cuộc đời của Chúa là như thế. Cuộc đời của mỗi người chúng ta chắc nhiều khi cũng như vậy.
Trong cuộc sống, chẳng thiếu gì những lúc chúng ta bị hiểu lầm, bị người ta ghét bỏ.
Những lúc như thế, chúng ta phản ứng lại thế nào? Cách tốt nhất tôi tưởng chúng ta hãy nhớ lại cuộc đời của Chúa Giêsu và bắt chước cách hành xử của Ngài.
Chúa Giêsu – ‘Kẻ mất trí’, khi Người quá say mê miệt mài để chăm sóc đoàn chiên không người chăn dắt, chạnh lòng thương đám dân khốn khổ, nghèo hèn, những kẻ bị gạt ra lề xã hội, cho dẫu lắm phen họ phản bội Người; Người lang thang trên mọi đường phố, làng mạc Palestina để mang Tin mừng cứu độ không giờ ăn ngủ nhất định, không cả hòn đá tựa đầu.
Chúa Giêsu – ‘Kẻ mất trí’, cúi xuống rửa chân cho môn đệ như một người nô lệ và bày tỏ tâm tình yêu thương cho dẫu biết rằng chỉ một lát nữa thôi họ sẽ bỏ Người mà trốn chạy trong cơn quẫn bách; Người tha thiết cầu xin ơn tha thứ cho kẻ vu cáo, lên án, hành hạ, cười nhạo và giết chết Người trên cây thập giá.
Trải qua hơn hai ngàn năm, tình yêu Giêsu vẫn còn mãi tiếp tục trải rộng nơi những con người biết đón nhận và tin tưởng vào tình yêu của Người. Tình yêu đó ngời sáng trong đêm tối của nhân loại như tình của các bậc quân vương (vua Luy), nữ hoàng (Elisabeth) đã không kể danh vọng địa vị để phục vụ người nghèo, hoặc tình của một Mac-ti-nô vị tông đồ bác ái không mệt mỏi, hay gần chúng ta nhất – tình của Têrêsa Cancutta mẹ của những người hấp hối cùng khổ và được cả thế giới gọi là mẹ…. và còn rất nhiều nữa những con người mang trong mình tình yêu Giêsu, sẵn sàng hiến cả cuộc đời để phục vụ và mang hạnh phúc cho tha nhân, cho thế giới đang quay quắt trong đau khổ, hận thù, ích kỷ và bị chìm đắm trong những đam mê dục vọng và giả dối sai lầm.
Ngày xưa, Chúa Giêsu cũng đã từng bị chính thân nhân của Người đánh giá Người theo kiểu bình thường và bất thường lộn ngược như thế. Việc Chúa rời gia đình rao giảng Nước Trời, chữa lành bệnh tật, lôi kéo mọi người về với Thiên Chúa để được ơn cứu độ. Nghĩa là dưới cái nhìn của người có đức tin, việc Chúa cứu giúp nhân loại là điều bình thường, lại bị coi là người bị quỷ nhập.
Cũng vậy, việc sống đạo của chúng ta hôm nay nhiều khi cũng dễ bị đảo ngược như thế. Có khi việc tuyên xưng đạo là điều bình thường của một người có đức tin, có lòng yêu mến Chúa, nhưng chính chúng ta lại sợ người khác biết mình có đạo. Chúng ta e dè, ngại ngùng, v.v. không dám tỏ một thái độ, hay bất cứ dấu chỉ nào là người Công giáo, vì sợ mọi người chê cười, sợ mọi người dòm ngó, v.v.
Lẽ ra đức tin Công giáo mà chúng ta đang mang, không chỉ được xem là bình thường, mà còn là niềm hãnh diện của chúng ta, lại bị chính chúng ta làm đảo lộn, chúng ta làm cho nó trở thành mất bình thường. Điều đó chứng tỏ, đức tin của chúng ta yếu kém, chúng ta thiếu ý thức mình là người có đạo. Cũng từ đó, người Công giáo thời nay dễ đánh mất chính mình, đánh mất chính niềm tin của mình.
Điều gì đã thôi thúc Chúa Giê-su tất bật như thế nếu không phải là vì Ngài “chạnh lòng thương” như các tác giả Tin Mừng vẫn thường ghi nhận? Chúa bận rộn, không phải để tìm kiếm tiền bạc, danh vọng hay quyền lực… hay điều gì cho Ngài; Ngài bận rộn chỉ vì yêu thương và để cứu độ cách riêng những người bé mọn khốn cùng. Trong sự bận rộn ấy của Chúa Giê-su, chúng ta thấy nguyên mẫu của điều mà ngày nay chúng ta gọi là đức ái mục tử.
Có lẽ vì Chúa quá yêu thương con người và những việc Ngài làm ngoài sức tưởng tượng của họ. Họ thấy bị mất nhiều hơn được. Họ thấy có hại nhiều hơn được lợi nên họ đã tránh né sự thật.
Số phận của Chúa Giêsu cũng chính là số phận của những người theo Ngài. Chúng ta gặp những chứng từ ấy nơi cuộc đời các thánh. Những người đương thời của họ cũng thường xem họ là những người mất trí. Nhiều người đã bị hành hình, và giáo hội đã tôn vinh họ là thánh tử đạo, họ là những chứng nhân niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Người gắn bó với Đức Giêsu Kitô nên biết rằng họ sẽ uống cùng một chén với Ngài.
Trong đời sống đạo hay trong ơn gọi của mình, nhiều lúc tôi cũng có những suy nghĩ và thái độ giống như những người bà con và họ hàng của Chúa Giêsu. Tôi cũng tính toán hơn thua. Tôi cũng so đo hẹp hòi vì không muốn mất mát hy sinh. Tôi cũng trốn tránh hay thoái thác những công việc hay những bổn phận mà lẽ ra tôi phải làm trong cuộc sống thường ngày.
2022
ĐỪNG TRANH LUẬN
19.1.2022 Thứ Tư
Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
1 Sm 17:32-33,37,40-51; Tv 144:1,2,9-10; Mc 3:1-6
ĐỪNG TRANH LUẬN
Tin Mừng hôm nay là một trong 5 cuộc tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về việc giữ luật trong ngày Sabát. Khởi đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Ngài đã gặp những cuộc phản ứng chống đối bằng những hành vi và lời nói công khai của nhóm Pharisêu, đại diện cho tầng lớp những người sống “vị luật” thời bấy giờ. Trong ngày sa bát người không được làm bất cứ việc gì kể cả việc đi bộ cũng có giới hạn. Vì vậy, trong cuộc tranh luận thứ 5 này, chúng ta sẽ nhận ra cao điểm của cuộc “chạm trán” ấy, như mở đầu con đường Thập giá mà Chúa Giêsu sẽ đi qua.
Bầu khí lúc này khá căng thẳng, ngột ngạt. Trong hội đường, duy chỉ một mình Chúa Giêsu lên tiếng, những người còn lại hoàn toàn im lặng. Đến ngay người bại tay cũng chẳng mở miệng xin Chúa chữa lành cho mình. Đám đông dân chúng mọi khi trầm trồ trước những lời nói và việc làm đầy uy quyền của Chúa, nhưng lúc này họ cũng im bặt. Nhóm Pharisiêu mọi khi lên tiếng chỉ trích Chúa, nhưng bây giờ cũng chỉ chăm chăm chú chú, soi mói xem Chúa làm gì.
Khi phải đối diện với một sức mạnh ghê gớmm của thế gian ngay trong chính hội đường vốn biểu trưng cho môi trường tâm linh – tín ngưỡng, Chúa không thoái lui, đầu hàng, nhưng Ngài chính thức công bố tình thương ơn cứu độ thời cánh chung của Thiên Chúa cho thế gian tăm tối, mịt mờ này. Việc Ngài chữa lành cho người bị bại tay cho thấy lời loan báo của ngôn sứ Isaia về thời của Đấng Thiên Sai đã thành hiện thực (Ngôn sứ Isaia loan báo rằng khi vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện thì “những bàn tay rã rời nên mạnh mẹ” – Is 35, 3).
“Chúa Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay”. Trong câu 1, Thánh sử Maccô đã giới thiệu nơi chốn và nội dung của sự kiện. Một ngày như mọi ngày, Chúa Giêsu vào hội đường để đọc hoặc để nghe và giải thích Sách Thánh. Đó là thói quen tốt lành của người Do Thái ngoan đạo. Vậy mà, nơi “ được rao giảng” việc sống đạo lại chính là nơi “hành đạo” không được thực hiện. Tại hội đường, cũng có những người Do Thái, họ vào hội đường với mục đích khác, đó là để “rình và tố cáo” Chúa Giêsu ( x. c.2). Họ đã biến việc nghe và sống Lời Chúa thành việc sẵn sàng “ khử trừ” những ai diễn giải Lời Chúa khác với quan điểm của họ.
Trong cuộc sống hàng ngày đôi lúc chúng ta cũng có thái độ như người Do Thái khi đến nhà thờ hoặc khi làm những công việc đạo đức. Lúc đó thay vì chúng ta tìm ý Chúa, chúng ta lại dò xét và bình phẩm lẫn nhau. Thay vì kết tình thân ái giữa mọi người, chúng ta lại gây chia rẽ bằng việc “ xuyên tạc” lời nói và hành vi của người khác. Thay vì để tâm suy gẫm Lời Chúa, để Lời Chúa thấm vào tâm hồn, thì chúng ta lại âm mưu toan tính sao cho mình có lý hoặc luôn tìm phần thắng, phần lợi về cho mình. Chúng ta hãy xem thái độ của Chúa Giêsu như thế nào trước tâm địa độc ác của họ.
Chúa Giêsu gọi anh bại tay ra giữa đứng ( x. c.3). Ngài muốn người Do Thái nhìn thẳng và nhận ra vấn đề vì thế Ngài hỏi họ: “ Ngày Sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi ?” ( c.4). Câu hỏi của Ngài như một lời chất vấn lương tâm, dẫn họ lần bước trở về tính thiện ban đầu mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn con người. Tác giả mô tả tình trạng của họ : “ làm thinh”. Họ làm thinh có lẽ không dám trả lời trái với lẽ lương tâm, nhưng cũng là cách phản đối, từ chối con đường yêu thương mà Chúa Giêsu đặt ra trong ngày sa bát giữa “ lành – dữ; cứu mạng – giết đi”. Thánh sử nói rõ : lòng họ đã chai lì trước lời mời lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu vì thời đó, người Do Thái quan niệm bệnh tật là do ma quỉ và tội lỗi gây ra nên Chúa Giêsu muốn trải rộng nguyên tắc đem lại sự sống giải phóng con người khỏi ách nô lệ của Satan là ngày được cứu người, được phép làm điều tốt điều lành. Đó là ngày Thiên Chúa thi ân giáng phúc cho dân Người, nhất là những người nghèo.
Với sự lặng thinh cứng lòng của người Do Thái, chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu “ giận dữ rao mắt nhìn và buồn khổ”. Đây là tấm lòng của một Thiên Chúa yêu thương gần như bất lực trước tự do của con người. Khi thấy họ cố “ bịt mắt bưng tai” trước lời mời cứu độ và hành vi yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đón nhận thái độ ấy trong sự cương quyết bày tỏ tình yêu Cứu độ : Người bảo anh bại tay “ giơ tay ra!” ( x.c.5) và tay anh được chữa lành.
Khi Tình Yêu được bày tỏ thì quyền lực chống lại nó cũng lộ ra “ Người Pharisêu bàn tính với phe Hêrôđê để tìm cách giết Chúa Giêsu” (c.6).
Nơi Chúa Giêsu. Người có cái nhìn và thể hiện hành động đầy yêu thương trước những con người bị đau khổ, dù rằng, chung quanh Người đang có nhiều ánh mắt không thiện cảm và họ đang im lặng chăm chú theo dõi không phải là để hiệp thông, nhưng là để tìm cớ hãm hại Người. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã lên tiếng phá vỡ sự im lặng đáng sợ này: “Trong ngày Sabát được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?” (Mc 3,4). Qua đó, Chúa Giêsu cho thấy mục đích lề luật là hướng đến hạnh phúc và sự sống cho con người, nên Người đã không ngần ngại chữa lành cho người bị tay khô bại tay ngay trong ngày Sabát.
Nơi người Biệt phái. Họ nhân danh lề luật để thực hiện ý đồ đen tối của mình, nên họ không có cái nhìn cảm thông, nhưng lại có cái nhìn vô cảm trước nỗi đau khổ của đồng loại và vì thế, sau khi chứng kiến Chúa Giêsu chữa lành cho người bị bại tay trong ngày Sabát, thì “ngay lập tức, họ đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người” (Mc 3,6)
Con người hợp nhau để chống lại Thiên Chúa. Cái ác đồng lòng phá đổ sự thiện tội lỗi hợp lực, bóng đen bao trùm để dập tắt ánh sáng. Nhưng khi tội ác lên đến đỉnh điểm là Thập Giá thì Tình Yêu Thiên Chúa cũng được mở ra cho nhân loại qua trái tim Chúa Giêsu bị đâm thâu trên đồi Canvê.
2022
ĐỪNG TRANH LUẬN
19.1.2022 Thứ Tư
Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
1 Sm 17:32-33,37,40-51; Tv 144:1,2,9-10; Mc 3:1-6
ĐỪNG TRANH LUẬN
Tin Mừng hôm nay là một trong 5 cuộc tranh luận gay gắt giữa Chúa Giêsu và người Do Thái về việc giữ luật trong ngày Sabát. Khởi đầu công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu. Ngài đã gặp những cuộc phản ứng chống đối bằng những hành vi và lời nói công khai của nhóm Pharisêu, đại diện cho tầng lớp những người sống “vị luật” thời bấy giờ. Trong ngày sa bát người không được làm bất cứ việc gì kể cả việc đi bộ cũng có giới hạn. Vì vậy, trong cuộc tranh luận thứ 5 này, chúng ta sẽ nhận ra cao điểm của cuộc “chạm trán” ấy, như mở đầu con đường Thập giá mà Chúa Giêsu sẽ đi qua.
Bầu khí lúc này khá căng thẳng, ngột ngạt. Trong hội đường, duy chỉ một mình Chúa Giêsu lên tiếng, những người còn lại hoàn toàn im lặng. Đến ngay người bại tay cũng chẳng mở miệng xin Chúa chữa lành cho mình. Đám đông dân chúng mọi khi trầm trồ trước những lời nói và việc làm đầy uy quyền của Chúa, nhưng lúc này họ cũng im bặt. Nhóm Pharisiêu mọi khi lên tiếng chỉ trích Chúa, nhưng bây giờ cũng chỉ chăm chăm chú chú, soi mói xem Chúa làm gì.
Khi phải đối diện với một sức mạnh ghê gớmm của thế gian ngay trong chính hội đường vốn biểu trưng cho môi trường tâm linh – tín ngưỡng, Chúa không thoái lui, đầu hàng, nhưng Ngài chính thức công bố tình thương ơn cứu độ thời cánh chung của Thiên Chúa cho thế gian tăm tối, mịt mờ này. Việc Ngài chữa lành cho người bị bại tay cho thấy lời loan báo của ngôn sứ Isaia về thời của Đấng Thiên Sai đã thành hiện thực (Ngôn sứ Isaia loan báo rằng khi vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện thì “những bàn tay rã rời nên mạnh mẹ” – Is 35, 3).
“Chúa Giêsu lại vào hội đường. Ở đó có một người bị bại tay”. Trong câu 1, Thánh sử Maccô đã giới thiệu nơi chốn và nội dung của sự kiện. Một ngày như mọi ngày, Chúa Giêsu vào hội đường để đọc hoặc để nghe và giải thích Sách Thánh. Đó là thói quen tốt lành của người Do Thái ngoan đạo. Vậy mà, nơi “ được rao giảng” việc sống đạo lại chính là nơi “hành đạo” không được thực hiện. Tại hội đường, cũng có những người Do Thái, họ vào hội đường với mục đích khác, đó là để “rình và tố cáo” Chúa Giêsu ( x. c.2). Họ đã biến việc nghe và sống Lời Chúa thành việc sẵn sàng “ khử trừ” những ai diễn giải Lời Chúa khác với quan điểm của họ.
Trong cuộc sống hàng ngày đôi lúc chúng ta cũng có thái độ như người Do Thái khi đến nhà thờ hoặc khi làm những công việc đạo đức. Lúc đó thay vì chúng ta tìm ý Chúa, chúng ta lại dò xét và bình phẩm lẫn nhau. Thay vì kết tình thân ái giữa mọi người, chúng ta lại gây chia rẽ bằng việc “ xuyên tạc” lời nói và hành vi của người khác. Thay vì để tâm suy gẫm Lời Chúa, để Lời Chúa thấm vào tâm hồn, thì chúng ta lại âm mưu toan tính sao cho mình có lý hoặc luôn tìm phần thắng, phần lợi về cho mình. Chúng ta hãy xem thái độ của Chúa Giêsu như thế nào trước tâm địa độc ác của họ.
Chúa Giêsu gọi anh bại tay ra giữa đứng ( x. c.3). Ngài muốn người Do Thái nhìn thẳng và nhận ra vấn đề vì thế Ngài hỏi họ: “ Ngày Sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi ?” ( c.4). Câu hỏi của Ngài như một lời chất vấn lương tâm, dẫn họ lần bước trở về tính thiện ban đầu mà Thiên Chúa đã đặt để trong tâm hồn con người. Tác giả mô tả tình trạng của họ : “ làm thinh”. Họ làm thinh có lẽ không dám trả lời trái với lẽ lương tâm, nhưng cũng là cách phản đối, từ chối con đường yêu thương mà Chúa Giêsu đặt ra trong ngày sa bát giữa “ lành – dữ; cứu mạng – giết đi”. Thánh sử nói rõ : lòng họ đã chai lì trước lời mời lãnh nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu vì thời đó, người Do Thái quan niệm bệnh tật là do ma quỉ và tội lỗi gây ra nên Chúa Giêsu muốn trải rộng nguyên tắc đem lại sự sống giải phóng con người khỏi ách nô lệ của Satan là ngày được cứu người, được phép làm điều tốt điều lành. Đó là ngày Thiên Chúa thi ân giáng phúc cho dân Người, nhất là những người nghèo.
Với sự lặng thinh cứng lòng của người Do Thái, chúng ta thấy thái độ của Chúa Giêsu “ giận dữ rao mắt nhìn và buồn khổ”. Đây là tấm lòng của một Thiên Chúa yêu thương gần như bất lực trước tự do của con người. Khi thấy họ cố “ bịt mắt bưng tai” trước lời mời cứu độ và hành vi yêu thương của Thiên Chúa, Chúa Giêsu đón nhận thái độ ấy trong sự cương quyết bày tỏ tình yêu Cứu độ : Người bảo anh bại tay “ giơ tay ra!” ( x.c.5) và tay anh được chữa lành.
Khi Tình Yêu được bày tỏ thì quyền lực chống lại nó cũng lộ ra “ Người Pharisêu bàn tính với phe Hêrôđê để tìm cách giết Chúa Giêsu” (c.6).
Nơi Chúa Giêsu. Người có cái nhìn và thể hiện hành động đầy yêu thương trước những con người bị đau khổ, dù rằng, chung quanh Người đang có nhiều ánh mắt không thiện cảm và họ đang im lặng chăm chú theo dõi không phải là để hiệp thông, nhưng là để tìm cớ hãm hại Người. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã lên tiếng phá vỡ sự im lặng đáng sợ này: “Trong ngày Sabát được làm sự lành hay sự dữ? Ðược cứu sống hay là giết chết?” (Mc 3,4). Qua đó, Chúa Giêsu cho thấy mục đích lề luật là hướng đến hạnh phúc và sự sống cho con người, nên Người đã không ngần ngại chữa lành cho người bị tay khô bại tay ngay trong ngày Sabát.
Nơi người Biệt phái. Họ nhân danh lề luật để thực hiện ý đồ đen tối của mình, nên họ không có cái nhìn cảm thông, nhưng lại có cái nhìn vô cảm trước nỗi đau khổ của đồng loại và vì thế, sau khi chứng kiến Chúa Giêsu chữa lành cho người bị bại tay trong ngày Sabát, thì “ngay lập tức, họ đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Người và tìm cách hại Người” (Mc 3,6)
Con người hợp nhau để chống lại Thiên Chúa. Cái ác đồng lòng phá đổ sự thiện tội lỗi hợp lực, bóng đen bao trùm để dập tắt ánh sáng. Nhưng khi tội ác lên đến đỉnh điểm là Thập Giá thì Tình Yêu Thiên Chúa cũng được mở ra cho nhân loại qua trái tim Chúa Giêsu bị đâm thâu trên đồi Canvê.
2022
Cốt lõi của đạo
17.1.2022 Thứ Hai
Thánh Antôn – viện phụ
1 Sm 15:16-23; Tv 50:8-9,16-17,21,23; Mc 2:18-22
Cốt lõi của đạo
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Antôn. Thánh Antôn hôm nay Giáo Hội mừng kính không phải là thánh Antôn Padua quen thuộc mà mọi người chúng ta kính mến. Antôn thành Padua hoặc Antôn thành Lisboa, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1195 và qua đời ngày 13 tháng 6 năm 1231, là một linh mục Công giáo người Bồ Đào Nha và là tu sĩ Dòng Phanxicô. Còn thánh Antôn chúng ta mừng kính hôm nay được gọi là thánh Antôn viện phụ sinh tại Cosma bên AiCập vào khoảng năm 250 và qua đời vào ngày 17/1/356.
Nhìn lại cuộc đời của Ngài, chúng ta phải nhận là Ngài có nhiều may mắn. Cha mẹ Ngài là người giầu có, quí phái. Ngài và cô em gái luôn được sống trong sự bao bọc ấm cúng của gia đình.
Lúc ngài được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài lần lượt ra đi để lại cho hai anh em một gia tài kếch xù. Hai anh em tiếp tục sống đùm bọc yêu thương nhau. Với số của cải cha mẹ để lại, hai anh em có thể sống một cuộc sống dư dật và thật thoải mái. Thế nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Người đã kêu gọi Antôn dâng hiến cuộc đời cho Người.
Hôm đó trong ngôi nhà nguyện nhỏ dâng cúng thánh Augustinô, Lời Chúa vang lên: “Nếu con muốn trở nên trọn lành, hãy về bán hết gia tài, phân phát cho kẻ nghèo khó” (Mt 19,21). Lời Tin Mừng đó đã làm cho Antôn suy nghĩ vì hai anh em đang có thật nhiều tiền của. Nghe những Lời đó Antôn tưởng như Chúa đang nói với chính mình nhưng chưa biết phải làm gì.
Và Chúa Nhật sau đó, Lời Chúa lại vang lên như một chỉ dẫn: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”(Mt 6,34). Thế là con đường đã quá rõ. Antôn nhất định áp dụng đến cùng Lời Chúa dạy, và nhất quyết theo Chúa đến cùng. Ngài về nhà, chia vườn đất cho người nghèo trong làng, bán đồ đạc lấy tiền bố thí cho người nghèo khó. Ban đầu ngài còn để lại chút ít để nuôi mình và cô em gái, nhưng khi suy nghĩ đến Lời Chúa: “Con đừng bận tâm đến ngày mai”, Ngài lại đem bán tất cả những cái còn lại lấy tiền cho người nghèo. Xong việc, ngài gởi cô em vào một cộng đoàn Trinh nữ, rồi quyết tâm bỏ thế gian.
Năm 35 tuổi, Antôn quyết tâm đi vào sa mạc để sống đời khổ tu và kết hợp hoàn toàn mật thiết với Thiên Chúa. Tiếng tăm nhân đức và sự khôn ngoan của Ngài lan tỏa rất xa. Nhiều khách thập phương đã kéo đến xin Ngài chỉ giáo.
Năm 327, khi được tin hoàng đế Maximinô Đaia ra chỉ bách hại công giáo, và tại Alexandria sắp có cuộc xử tử một số tín hữu trun g kiên, thánh nhân liền nhất định xuống khích lệ anh em đồng đạo và mong được cùng chết vì Chúa Kitô. Vì thế, Ngài cùng với một anh em khác xuôi dòng sông Nil, đáp thuyền vào tận thành phố, rồi Ngài ngang nhiên tiến thẳng vào tòa án, khuyến khích tín hữu giữ vững đức tin; không kể gì đến các quan và dân ngoại. Ngài can đảm sống gần các vị tử đạo cho đến giây phút cuối cùng trên đấu trường. Nhưng ý Chúa không muốn ban cho thánh Antôn triều thiên tử đạo. Chúa muốn Ngài thành một tấm gương can đảm chiến đấu và cầu nguyện, ăn chay cho đại gia đình trụ trì, tuy nhiên thánh nhân vẫn lưu lại đô thị Alexandria cho đến khi ngọn lửa bách hại tắt hẳn mới quay gót về cộng đồng của mình.
Và từ đây cho đến cuối đời, Ngài dựng lều trên sườn núi Gokzin, suốt ngày đón tiếp mọi người: các tu sĩ, các tín hữu và cả lương dân.
Sống được 105 tuổi, thánh Antôn biết mình kiệt sức và giờ về thiên quốc sắp tới, Ngài liền hội các tu sinh lại quanh giường khuyên bảo họ lần sau cùng. Ngài cũng dậy các môn đệ đừng ướp xác và làm ma chay theo kiểu người Ai Cập. Sau cùng thánh nhân giơ tay chúc lành cho tất cả các thày và phó linh hồn trong tình yêu vô biên của Chúa. Hôm ấy là ngày 17.1.365.
Năm 561, xác thánh nhân được cải táng trong nhà thờ kính thánh Gioan Tiền Hô tại Alexandria. Các Giáo Hội Trung Ðông đã sùng kính thánh Antôn đầu tiên, sau đó tràn qua Âu Châu và Giáo Hội đã chính thức tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
Cuộc đời của thánh Antôn để lại cho chúng ta rất nhiều bài học. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là bài học về lòng yêu mến Lời Chúa. Đối với Antôn thì Lời Chúa chính là Kim Chỉ Nam, là lẽ sống cũng như là ánh sáng luôn hướng dẫn cuộc đời của mình. Ngài luôn đi tìm thánh ý của Thiên Chúa, can đảm đem những soi sáng của Chúa vào cuộc đời của mình.
Được cha mẹ để lại cho một gia tài kếch xù, Antôn đã không nghĩ như người phú hộ trong Tin Mừng Luca. Người phú hộ trong Tin Mừng Luca nhìn vào đống tài sản trời ban cho đã nghĩ ngay đến việc hưởng thụ. Ông đã vẽ ra cho mình một tương lai mà nhiều nhà chú giải Kinh Thánh gọi là bỉ ổi: “Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!”(Lc 12,19).
Antôn đã không nghĩ như vậy. Ngài đã đi tìm ý Chúa và sau khi được Chúa soi sáng qua Lời Chúa trong Tin Mừng, Antôn đã bán tất cả và cho đi tất cả không giữ lại cho mình cái gì. Rồi sau khi được soi sáng cũng qua Lời Chúa trong Tin Mừng Antôn đã bỏ tất cả và sống đời phó thác cho Chúa.
Năm 35 tuổi thánh nhân muốn rút hẳn vào sa mạc. Với một số lương thực vừa đủ sáu tháng Ngài băng qua sông Nil, trèo lên một ngọn núi cao gần Atfite và ở đó suốt 20 năm, không tiếp đón ai, trừ mấy mấy người bạn hàng năm hai lần đem lương thực tới cho Ngài.
Ngài có ý tránh xa thế tục, nhưng hương thơm nhân đức lại lôi kéo nhiều người khách thập phương đến thăm. Ban đầu thánh nhân còn tìm lẽ nọ lẽ kia, bày ra kế nọ kế kia để thoái thác, nhưng được ít lâu vì số người đến mỗi ngày một đông, lại nhất định tìm mọi cách để gặp mặt đấng thánh nên thánh nhân buộc lòng phải ra đón tiếp họ.
Năm 305, ý Chúa là muốn Ngài bỏ đời ẩn tu để đi lập các tu viện. Vâng ý Chúa, Ngài lập nhiều tu viện các cộng đồng tu hành và huấn dụ về đời sống thiêng liêng. Theo kinh nghiệm bản thân, Ngài bày tỏ cho các tu sĩ những mưu mô xảo quyệt của satan, chỉ cho họ những khí giới chiến đấu hữu hiệu hơn cả là cầu nguyện, ăn chay, làm dấu thánh giá và thái độ coi khinh chúng.
Đó là cuộc đời của một vị thánh. Chúng ta cám ơn Chúa đã để lại cho chúng ta tấm gương của một con người đã cố gắng đi theo tiếng gọi của Chúa, sống một cuộc đời siêu thoát thánh thiện đễ nên gương sáng cho mọi người.
Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy thế nào là sống đạo. Chúng ta hãy chiêm ngắm thái độ và lời dạy của Ngài trong Tin Mừng hôm nay. Vừa bắt đầu sứ mệnh rao giảng của Ngài, cũng như các kinh sư của thời đại Ngài, Chúa Giêsu cũng qui tụ một số môn đệ; và cũng như các môn đệ của các kinh sư khác, môn đệ của Ngài cũng theo một lối sống nào đó. Thế nhưng, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên và đặt vấn đề, đó là Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài không tuân giữ một số ngày chay tịnh như môn đệ của Gioan hay của những người Biệt phái. Không tuân giữ những ngày chay tịnh đã đành, sau này xem ra Chúa Giêsu càng thách thức hơn nữa, khi Ngài không tuân giữ cả ngày hưu lễ hay một số tập tục khác, như rửa tay trước khi ăn.
Suốt cuộc sống của Ngài, Chúa Giêsu đã tỏ ra rất độc lập đối với Do thái giáo. Ðây quả là cách sống đạo hoàn toàn mới mẻ mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho con người. Ðối với Ngài, linh hồn và cốt lõi của đạo chính là tình thương; tình thương ấy đã thúc đẩy Ngài đi đến tận cùng bằng cái chết trên Thập giá, và cái chết của Ngài mãi mãi là lời tố cáo về thái độ bất khoan nhượng trong niềm tin tôn giáo của con người. Vụ án của Ngài được thi hành như một vụ án chính trị; mãi mãi tên tuổi của viên toàn quyền La mã là Philatô gắn liền với cái chết của Ngài. Tuy nhiên, vụ án của Chúa Giêsu vẫn là một vụ án tôn giáo: Ngài chết vì sự cuồng tín và thái độ bất khoan nhượng của các thủ lãnh Do thái giáo.
Chúa Giêsu muốn các môn đệ đi vào sự kết hợp thâm sâu thân tình với Thiên Chúa, thao thức kiếm tìm ý nghĩa đích thực của Tin Mừng giữa những điều luật buộc phải giữ. “Rượu mới, bầu cũng phải mới”, cái “mới” ở đây không phá bỏ cái “cũ” nhưng đã được chắt lọc từ sự tinh hoa của cái cũ. Tin Mừng của Chúa phải được đón nhận bằng tất cả lòng quảng đại và yêu mến. Nếu luật cũ là “mắt đền mắt, răng đềnrăng” thì luật mới phải vượt lên sự hiềm thù đền trả 1-1 mà là “nếu bị ai vả má bên phải thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn anh để lấy áo trong của anh thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5, 39-42).
Trong cuộc sống, không phải cái gì cũ cũng là xấu, trái lại kỷ niệm xưa thì đáng trân trọng, bạn cũ thì thân tình, đồ cổ thì quý. Trái lại cũng có trang vở mới tinh khôi, thanh khiết, có con đường mới thẳng tắp, chiếc cầu mới nối liền nhịp sống hai bên bờ sông…Đó là cái mới đáng trân trọng được xây nền tảng cái cũ, được chắt lọc từ sự tinh túy của cái cũ. Chúa Giêsu đã đến không phải để phá bỏ cái cũ nhưng kiện toàn và khắc lên đó một tinh thần mới, tinh thần khiêm tốn phục vụ và yêu thương trọn vẹn.
Đời sống xã hội hôm nay đang từng ngày đổi thay, vì thế Giáo Hội cũng luôn trăn trở đi tìm cách thế hữu hiệu nhất để loan báoTin Mừng hầu cho đời sống đạo có chiều sâu vững vàng và phải bén rễ vào Đức Kitô, nếu không chúng ta sẽ bị đánh bật bởi những cái mới, trào lưu sống “hời hợt, ào ào, vội vã” mà đánh mất căn tính của mình. Giáo hội Chúa Kitô phải là giáo hội của người nghèo, luôn lắng nghe và đồng cảm với người nghèo. Sở dĩ Tin Mừng chưa được nhiều người đón nhận vì cách rao giảng của chúng ta có phần chưa phù hợp, chưa đáp ứng đủ nhu cầu tâm linh nơi con người. Ước gì mỗi kitô hữu biết đến với mọi người bằng cung cách phục vụ khiêm tốn như Chúa Giêsu, bằng niềm hân hoan của thực khách trong đại tiệc hôn lễ, bằng nỗi khao khát hướng đến điều trọn lành.
Chúa Giêsu đã đến giải thoát chúng ta khỏi sự trói buộc cũ kỹ của mọi tính hư nết xấu và tội lỗi. Xin cho chúng ta được biến đổi nên những người biết sẵn sàng lắng nghe những gợi hứng của Chúa Thánh Thần mà có thái độ sống đạo linh hoạt, sống động phù hợp với chân lý đức tin và đạo hiếu con người.