2022
Gương sáng
29.6 Thánh Phêrô và Phaolô, Tông Đồ
Am 5:14-15,21-24; Tv 50:7,8-9,10-11,12-12,16-17; Mt 8:28-34
Gương sáng
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ thánh Phêrô và Phaolô, hai cột trụ của Giáo Hội. Nhờ đó mà Giáo hội có thể đứng vững trong ơn thánh của Thiên Chúa. Thánh Phêrô và thánh Phaolô đã đem Tin mừng cho thành Rôma và biến nơi trung tâm ngoạI giáo này thành trung tâm Kitô giáo. Chính nơi đây, Thánh Phêrô và những người kế vị ngài sẽ thực hiện việc thánh hoá, giảng dạy và cai quản dân Chúa trên khắp địa cầu.
Thánh Phê-rô, còn gọi là Simon, là một con người ít học, sinh sống bằng nghề chài lưới. Khi được Thầy Giê-su kêu gọi làm môn đệ thì liền lập tức bỏ lại mọi sự mà đi theo Thầy, trong quá trình theo Chúa ông tỏ ra nhiệt thành và năng nổ, bộc trực, luôn nhanh nhẹn trả lời câu hỏi mỗi khi Thầy đưa ra, nhưng bởi vì bộc trực và năng nổ cộng với sự cậy mình: “ta đây” khiến ông hay vướng vào sai lầm; cụ thể ông đã can ngăn Thầy đừng lên Giêrusalem để chịu khổ nạn, chịu chết để chuộc tội cho thiên hạ. Trong cuộc thương khó của Thầy, vì sợ bị liên lụy nên ông đã chối Thầy ba lần…
Nhưng sau đó ông đã ăn năn than khóc, hối hận vì những việc mình đã làm đối với Thầy, từ đó ông không còn dám cậy mình, để cho cái tôi kiêu hãnh trong mình chi phối hành động nữa, ông đặt trọn niềm tin và vâng lời tuyệt đối nơi Thầy Giê-su Chí Thánh. Chính vì thế mà Đức Giê-su đã đặt ông làm đầu thay Ngài để xây dựng và bảo vệ Hội Thánh thuở sơ khai. Cuối cùng ông đã anh dũng hy sinh mạng sống để bảo vệ niềm tin vào Thầy Giê-su. Ông xin chịu đóng đanh ngược vì nghĩ không xứng đáng được như Thầy. Thánh nhân có câu nói bất hủ: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai? Chỉ có Thầy mới có lời ban sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Ngược lại, Thánh Phao lô là một trí thức, ông trung thành với truyền thống Do-Thái giáo, ông chống đối Đức Giê-su và ra tay bắt bớ những kẻ theo Ngài. Cụ thể là ông đã ủng hộ việc người Do Thái sát hại thánh Têphanô…Nhưng về sau, chính Thầy Giê-su đã dùng biến cố ngã ngựa khi ông trên đường đi đến Đamas để thu phục ông. Kể từ đó ông đã thay đổi hoàn toàn, ông trở thành tông đồ của dân ngoại, bôn ba khắp nơi rao giảng Tin Mừng nước trời để rồi cuối cùng bị vua Nêrôn giết bằng cách chặt đầu vào khoảng năm 67. Thánh nhân có những câu nói rất hay: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi”. (Gl 3, 20). “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8, 35).
Sau khi Phêrô thay mặt các tông đồ tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, chính Đức Giêsu đã nói với Phêrô : Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng Đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá nước trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh tháo cởi điều gì , trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Đức Giêsu đã đặt Phêrô làm Đá Tảng xây Hội Thánh Chúa và trao quyền cầm buộc tháo cởi (vốn là đặc quyền của thiên Chúa) cho Phêrô.
Phêrô là trưởng nhóm 12 và là đại diện của Chúa ở trần gian. Ông đã chối Chúa nhưng đã ăn năn thật lòng. Trước khi về trời, Ngài không nhắc lại lỗi lầm của Phêrô, để ông khỏi hổ thẹn về quá khứ nhưng giao cho Phêrô công việc coi sóc đoàn chiên Chúa: Nếu con yêu mến Thầy, con hãy chăm sóc các chiên của Thầy, yêu mến các chiên của Thầy và đưa về đàn những chiên chưa thuộc đàn này. Sự sống mà Phêrô sẵn sàng hiến dâng cho Thầy thì hãy hiến dâng cho chiên của Thầy.
Điều này cho thấy Chúa Giêsu quan tâm chăm sóc chúng ta tới mức độ nào. Việc phục vụ anh em là bằng chứng tình yêu lớn nhất của Phêrô đối với Đức Giêsu. Ngày nay Chúa Giêsu cũng ngỏ lời với mỗi người chúng ta như thế, những gì chúng ta muốn phục vụ cho Chúa để tỏ lòng biết ơn Ngài thì chúng ta hãy làm cho anh em mình. Chúng ta đừng bao giờ trả lời với Chúa như những ngừơi trong Mt 24 : chúng tôi đâu có thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống… những người không biết tỏ lòng yêu thương anh em thì Chúa cũng không thể tỏ lòng thương xót họ trong ngày sau hết!
Chúa Giêsu muốn Phêrô nói rõ rằng Phêrô yêu mến Ngài. Quả vậy, Phêrô hết lòng yêu mến Chúa Giêsu. Phêrô đã tận tâm tận lực rao giảng Tin Mừng, không sợ gì đòn vọt hy sinh; tất cả vì Giáo Hội của Ngài, cho đoàn chiên của Ngài. Phêrô lấy làm vinh hạnh khi được chịu khổ vì Đức Kitô. Mỗi khi bị đánh đòn trước công chúng, các ngài không tức giận những người đánh mình. Trái lại còn hân hoan bởi được chịu khổ nhục vì danh Đức Kitô (Cv 5, 41). Cuối cùng, Phêrô chết trên thập giá để làm chứng về tình yêu của Ngài đốiI với nhân loại.
Chúa Giêsu cũng thích chúng con nói với Ngài rằng chúng con yêu mến Ngài. Nhờ đó, Ngài có thể dạy dỗ chúng con, giúp chúng con mỗi ngày một trưởng thành hơn, luôn theo sát bên Ngài và cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ loài người. vấn đề là bây giờ con có dám nói với Chúa là “con yêu mến Chúa” hay không? Nếu Ngài đòi con tỏ tình yêu bằng những việc hy sinh, con có vui lòng chịu hay không ? Yêu mến Chúa là làm theo ý Chúa, cụ thể trong việc hăng hái làm việc bổn phận hiện tại, kế đó là phục vụ những người nghèo về tinh thần hoặc vật chất. Phục vụ đòi hỏi nhiều hy sinh, chịu cực, mất mát thời giờ, tiền bạc, sức khoẻ… mà không đòi phải được đáp trả. Chính Chúa sẽ trả cho chúng ta trong ngày sau hết. Điều này đòi hỏi phải có lòng Tin, Cậy, Mến và tinh thần quảng đại phó thác.
Phêrô và những người kế vị ngài có nhiệm vụ giữ gìn đức tin của Giáo hội toàn cầu theo đúng mạc khải của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Phần chúng ta hãy hiệp một lòng một ý cùng Hội Thánh Chúa và góp phần của mình vào để Hội Thánh ngày một phát triển và đem ơn cứu độ đến cho mọi người .
Mừng kính hai vị thánh cả hôm nay. Trước hết chúng ta cảm tạ và ngợi ca Thiên Chúa. Vì biết bao hồng ân Chúa đã ban cho hai vị thánh cũng như đã ban cho mỗi người chúng ta. Đấng đã biến đổi hai vị thánh thành rường cột của Giáo Hội. Sau là chúng ta nhìn lên hai vị thánh nhân mà học tập, bắt chước các nhân đức nơi các Ngài để rồi cuộc đời chúng ta luôn biết cậy trông, tín thác vào sự quan phòng và tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
2022
Xin cứu chúng con
28.6 Thánh Irenaeus, Gmtđ
Am 3:1-8; Tv 5:4-6,6-7,8; Mt 8:23-27
Xin cứu chúng con
Trong các bài giáo lý về những đại nhân vật của Giáo Hội thuộc các thế kỷ đầu tiên, hôm nay, chúng ta tới hình ảnh của một con người nổi nang, đó là Thánh Irenaeus thành Lyons. Chi tiết tiểu sử của ngài xuất phát từ chứng từ của ngài, được truyền lại cho chúng ta từ sử gia giáo phụ Eusebius trong cuốn thứ năm của bộ ‘Storia Ecclesiastica’.
Thánh Irenaeus rất có thể được sinh ra ở Smyrna (ngày nay là Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ), giữa những năm 135-140. Ở đó, khi còn trẻ, ngài đã tham dự trường của Thánh Giám Mục Polycarp là môn đệ của Thánh Tôn g Đồ Gioan. Chúng ta không biết vào lúc nào ngài đã di chuyển từ Tiểu Á tới Gaul, thế nhưng việc di chuyển này đã trùng hợp với những phát triển ban đầu của cộn g đồng Kitô Giáo ở Lyons: Ở đó, vào năm 177, chúng ta thấy Thánh Irenaeus đã đề cập tới giáo sĩ đoàn.
Vào năm đó ngài được sai phái tới Rôma, mang 1 bức thư của cộng đồng Lyons đệ trình lên Đức Giáo Hoàng Eleutherius. Sứ vụ đến Rôma giúp cho Thánh Irenaeus thoát khỏi cuộc bách hại của Marcus Aurelius, sát hại ít là 48 vị tử đạo, trong đó có chính vị giám mục ở Lyons là Pothinus 90 tuổi, vì bị đối xử tàn tệ trong tù. Bởi vậy, khi trở về, Thánh Irenaeus được chọn làm giám mục của thành phố này. Vị mục tử mới đã hoàn toàn dấn thân cho thừa tác vụ giáo phẩm của mình, một thừa tác vụ kết thúc vào khoảng năm 202-203, có thể vì tử đạo.
Thánh Irenaeus trước hết là một con người của đức tin và là một vị mục tử. Như vị Mục Tử Nhân Lành, ngài là người khôn ngoan, sâu xa tín lý, và nhiệt tình truyền giáo. Là một văn gia, ngài đã nhắm đến 2 mục tiêu, đó là việc bênh vực tín lý chân thực cho khỏi bị tấn công bởi thành phần lạc giáo, và việc diễn giải một cách rõ ràng sự thật đức tin. Hai tác phẩm của ngài vẫn còn cho tới nay hoàn toàn tương quan tới việc làm trọn hai mục tiêu ấy: 5 cuốn ‘Chống Lại Các Lạc Thuyết’, và ‘Diễn Giải Giáo Huấn Tông Đồ’ (một cuốn sách có thể được gọi là ‘cuốn giáo lý về tín lý Kitô Giáo’ cổ kính nhất). Một điều chắc chắn đó là Thánh Irenaeus là một đối thủ chiến đấu chống lại các lạc thuyết.
Giáo Hội trong thế kỷ thứ hai bị đe dọa bởi một chủ nghĩa được gọi là bất khả thần tri – Gnosticism, một giáo thuyết chủ trương rằng đức tin được Giáo Hội truyền dạy chỉ là những biểu hiệu cho thành phần ngây thơ, thành phần không thể thấu hiểu nổi những điều khó khăn hơn. Trái lại, thành phần có sáng kiến, thành phần tri thức – họ gọi mình là Gnostics – có thể hiểu được những gì ở đằng sau các thứ biểu hiệu ấy, bởi thế, làm nên một thứ Kitô Giáo thế giá, tri thức.
Hiển nhiên, thứ Kitô Giáo trí thức này càng ngày càng bị phân mảnh bởi những luồng tư tưởng khác nhau, thường lạ lùng và thái quá, song lại thu hút được nhiều người. Một yếu tố chung trong những luồng tư tưởng khác nhau ấy là khuynh hướng nhị nguyên, tức là khuynh hướng chối bỏ niềm tin tưởng vào vị Thiên Chúa duy nhất là Cha của tất cả mọi người, là hóa công và là đấng cứu độ nhân loại và thế giới. Để giải thích sự dữ trên thế giới này, họ chủ trương có một thứ nguyên lý tiêu cực, song song với vị Thiên Chúa tốt lành. Nguyên lý tiêu cực này đã tạo dựng nên chất thể, các vật về thể lý.
Trở về với Tin Mừng và thực tế của cuộc sống, ta thấy sự quan phòng của Thiên Chúa đã cho phép cơn bão tố xảy ra trong cuộc sống con người để thức tỉnh con người trở về với Ngài. Ðiều quan trọng không phải là không có bão tố hoặc khó khăn thử thách, nhưng là có Chúa hiện diện dù lúc đó xem ra Ngài ngủ, không màng chi đến nguy hiểm đang xảy ra.
Thật vậy, gian nan thử thách Thiên Chúa cho xẩy đến là để con người ý thức về sự yếu đuối, mỏng dòn của mình, đồng thời đặt niềm trông cậy vào Chúa. Cơn bão xẩy ra đã làm cho các Tông Ðồ không còn dựa vào phương tiện vật chất là chiếc thuyền đang nâng đỡ chở che các ông, cũng như không còn tự phụ vào tài năng vượt biển của mình; trái lại, các ông ý thức mình cần đến Chúa. “Lạy Thầy, xin cứu chúng con, chúng con chết mất”. Chính nhờ lời cầu nguyện trong lúc gian nan nguy hiểm, các Tông Ðồ được chứng kiến phép lạ và quyền năng của Chúa.
Hành trình đức tin của chúng ta cũng cần trải qua những khổ luyện và hy sinh để có thể đứng vững trước những nghịch cảnh. Đức tin là một ân ban phát xuất từ Thiên Chúa chứ không do con người thủ đắc. Vì thế để sống niềm tin một cách trọn vẹn và sung mãn, chúng ta phải quy hướng mọi ước muốn và tư tưởng về Thiên Chúa. Chỉ nơi Thiên Chúa chúng ta mới tìm được câu trả lời cho cuộc đời của mình. Chỉ có ân sủng của Thiên Chúa mới giúp chúng ta chấp nhận mọi khó khăn thử thách xảy đến trong cuộc sống.
Hành trình đức tin nơi mỗi người không giống nhau nhưng điểm phát xuất và đích đến của đức tin đều ở nơi Thiên Chúa.Thời Cựu ước, Giavê Thiên Chúa đã nhiều lần thử thách Israel để xem đoàn dân có trung thành với Chúa hay không. Họ đã phải sống trong sa mạc với cảnh thiếu lương thực và nước uống, họ đã nhiều lần kêu trách và Chúa đã mở cho họ con đường sống. Có những lúc Israel đã đi hoang chạy theo thần ngoại, nhưng Thiên Chúa đã tái lập giao ước và xua tan bao sóng gió đưa họ vào Đất Hứa.
Trong lịch sử cứu độ, hành trình đức tin của mỗi người đều có những lúc chao đảo nhưng chỉ những ai biết cậy dựa vào ơn Chúa mới vượt qua được tất cả. Hành trình đức tin của Mẹ Maria có nhiều thử thách gian khổ nhưng không giống hành trình đức tin của thánh Giuse. Mẹ Maria đã từ bỏ chương trình riêng của mình trong nếp sống bình dị để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai đầy những bấp bênh và trắc trở, nhưng Mẹ hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa. Còn thánh Giuse lại thể hiện niềm tin một cách sống động nhưng âm thầm, kín đáo.Sự đáp trả của ông Giacaria không giống tâm tình của bà Êlisabet.Hành trình của ba đạo sĩ phương Đông xa xôi thăm thẳm, có lúc tưởng như cùng đường tắc lối nhưng với ánh sao lạ, các ông đã đi đến đích.
Tin mừng thánh Matthêu thuật lại rằng: hôm ấy các môn đệ theo Chúa Giêsu xuống thuyền thì bỗng biển hồ nổi sóng gió, các môn đệ hoảng sợ kêu cứu Chúa Giêsu. Các ông chỉ dựa vào sức mình mà không nhận ra Đấng quyền năng đang ở giữa các ông. Chúa Giêsu đã trấn an các ông rồi Người truyền cho gió và biển im lặng. Biến cố ấy cho thấy, đức tin luôn gặp thử thách nếu mỗi ngày chúng ta không biết cậy dựa vào ơn Chúa, chúng ta dễ dàng trượt ngã trên những ý nghĩ kiêu căng của chính mình. Khi gặp thử thách chúng ta thường kêu trách Chúa, thật ra Chúa không bao giờ để chúng ta phải chiến đấu một mình, Người luôn ban cho ta những ơn cần thiết qua các bí tích, qua những mạc khải trong Kinh Thánh để soi rọi bước đường đời của chúng ta. Chính trong những lúc thử thách, Thiên Chúa mới tỏ rõ quyền năng và tình thương của Người. Qua những gian nan thử thách, đức tin của chúng ta càng được tôi luyện để ngày càng son sắt, giúp chúng ta khiêm tốn nhìn nhận con người yếu đuối của mà biết cậy dựa vào ơn Chúa hơn.
Ta thấy Giáo hội luôn mời gọi mỗi người chúng ta quay trở về với Đức Giêsu Kitô như lời mặc khải trọn vẹn khuôn mặt yêu thương của Thiên Chúa. Chúng ta phải xây dựng đức tin của mình trên nền tảng tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, trên lời rao giảng của các tông đồ và Giáo hội. Một đức tin bền vững phải được chìm sâu trong nguyện cầu, thấm nhuần trong tình bác ái và hy sinh.
2022
Theo ai ?
27.6 Thứ Hai trong tuần thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
Am 2:6-10,13-16; Tv 50:16-17,18-19,20-21,22-23; Mt 8:18-22
Theo ai ?
“Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” (Mt 8,19) Đây là lời mà vị Kinh sư đã thưa với Đức Giê-su, và cũng là điều mà mỗi Ki-tô hữu cần thưa lên với Chúa mỗi ngày. Chúng ta có nhận ra tiếng gọi của Chúa và sẵn sàng đáp lại để đi theo Ngài, dù bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào Người muốn không?
“Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” (Mt 8,20). Đó là lời đáp của Chúa Giê-su, như là lời chất vấn: “Anh có sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà quyết tâm theo tôi không?” Nói cách khác, Chúa Giê-su muốn cho vị kinh sư, và cả chúng ta ngày nay, biết rằng: lựa chọn xin theo Ngài là lời cam kết đi trên con đường liều mình mạo hiểm, vì con đường ấy đòi hỏi một lòng tín thác tuyệt đối vào Chúa.
Ta sẽ không đoán trước được con đường đó sẽ dẫn ta đi đâu, được gì và mất gì, khó khăn ra sao. Chúng ta chỉ biết rằng, mỗi bước chân ta đi đều có Chúa đồng hành và việc của ta là tin tưởng, nghe theo lời chỉ bảo của Ngài. Khi chúng ta chọn đi theo Chúa, nghĩa là chúng ta đã trao gửi cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa. Để làm được điều đó, chúng ta cần phải tín thác vào Chúa với một đức tin vững mạnh, đó là những gì Chúa Giê-su mong muốn nơi mỗi người chúng ta. “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: rời khỏi đây, qua bên kia! nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được.” (Mt 17, 15)
Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ và tất cả những ai muốn theo Ngài một thái độ từ bỏ, dứt khoát tận căn; Ngài không bao giờ chấp nhận bất cứ một thỏa hiệp nào. Qua những đòi hỏi ấy, Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho chúng ta giới răn cơ bản: mến Chúa hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực. Đây không phải là một điều không tuởng, cũng không phải là một lý tưởng cao vời, mà là một mệnh lệnh. Quả thật, con người chỉ thực sự đạt được ơn gọi làm người của mình, khi nó sống trọn vẹn cho Thiên Chúa; con người chỉ thực sự hạnh phúc khi họ thuộc trọn về Chúa. Những việc làm như hy sinh, hãm mình, khổ chế, chỉ thực sự có ý nghĩa và giá trị, nếu chúng ta được thực thi như một cố gắng dốc cạn chính mình để sống tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa, và đó cũng là mục đích cuộc đời người kitô hữu.
Một cái hang đối với một con chồn, một cái tổ đối với một con chim, và một chỗ gối đầu đối với một con người. Đó là nhu cầu an ninh tối thiểu. Nhưng Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ đi theo Ngài cũng phải từ bỏ cái an ninh tối thiểu ấy.
Cái hang, cái tổ và chỗ gối đầu của tôi không phải chỉ là một mái nhà mà là cái bản năng tìm sự thoải mái, tiện nghi. Có tiện nghi thoải mái thì mới tốt. Nhưng khi cần do hoàn cảnh túng thiếu, hay yêu cầu mục vụ tôi phải sẵn sàng hy sinh từ bỏ. Mà để có thể sẵn sàng hy sinh từ bỏ thì tôi phải tập để không lệ thuộc vào chúng.
Việc của “kẻ chết” là những việc vật chất, thế gian. Người môn đệ có một việc khác phải quan tâm lo nhiều hơn, đó là việc “kẻ sống” đó là những việc mang lại sự sống thật, sự sống đời đời. Tôi liệt kê những việc tôi đang lo và so sánh xem loại việc nào tôi quan tâm hơn.
Kitô giáo thiết yếu không phải là một ý thức hệ, mà là một con người. Niềm tin của chúng ta thiết yếu không phải là một giáo điều, mà là một con người. Cuộc sống của chúng ta thiết yếu không phải là một chuỗi những cố gắng làm điều thiện tránh điều ác, mà là một con người. Chúa Giêsu không chỉ rao giảng một giáo lý, mà đòi hỏi mọi người phải theo Ngài. Theo Ngài vô điều kiện, theo Ngài một cách dứt khoát.
Qua đoạn Tin Mừng ngày hôm nay, mỗi chúng ta cùng suy ngẫm:
Thứ nhất, mỗi chúng ta hãy tự vấn bản thân qua lời của vị Kinh sư: Tôi có can đảm tự tin mà thưa lên với Chúa rằng: ‘Thưa Thầy, Thầy đi đâu, con cũng xin đi theo’ không?. Hãy để cho những lời đó lặp đi lặp lại trong tâm trí chúng ta, để Thiên Chúa dần dần biến đổi, và ban thêm đức tin, để chúng ta biết phó thác cuộc sống mình trong kế hoạch tình yêu của Ngài. Chẳng phải Chúa Giêsu đã từng phán: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho.” (Mt 6, 33) sao? Vậy chúng ta còn chần chờ gì nữa?
Thứ hai, chúng ta đã thực hiện lời đáp trả ấy như thế nào? Chúng ta có sẵn sàng để không chỉ thưa lên những lời của vị kinh sư mà còn là chấp nhận, thi hành tất cả những điều mà lời cam kết ấy đòi hỏi không? Chúng ta có vui lòng nguyện ý phó thác toàn bộ đời mình cho Chúa không? Chúng ta hãy chiến đấu để giữ vững các quyết tâm, lời cam kết này.
Và rồi chúng ta sẽ thấy, những chỉ dẫn của Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta đến với một nguồn vui và bình an mà chúng ta chưa bao giờ được hưởng nếm hay có thể tưởng tượng được. Nguồn ấy không chỉ có thể làm no thoả tất cả những khao khát sâu xa nhất của chúng ta mà còn vượt xa và dư tràn: Đó chính là Thiên Chúa, Đấng rất đỗi dịu ngọt và đầy yêu thương của chúng ta.
2022
Nên trinh trong như Mẹ
25.6 Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ
Ac 2:2,10-14,18-19; Tv 74:1-2,3-5,5-7,20-21; Mt 8:5-17
Nên trinh trong như Mẹ
Việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ được dựa trên nền tảng Phúc Âm. Trong Tân Ước, sách Tin Mừng theo Thánh Luca có hai lần nhắc đến Trái Tim Mẹ Maria trong đoạn 2 câu19: “Maria ghi nhớ những điều này và suy niệm trong lòng” và “Còn Mẹ Ngài thì ghi nhớ những điều này trong lòng.” (Lc 2, 51). Trong Cựu Ước, trái tim dược xem như biểu tượng thẳm sâu trong tâm lòng con người, là trung tâm của mọi chọn lựa và cam kết. Đối với nhân loại, đó là biểu tượng của tình yêu. Trong sách Đệ Nhị Luật ta đã nghe rằng: “Ngươi hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết tâm lòng, hết sức lực và trí khôn ngươi.” (6,5). Khi các biệt phái chất vấn Đức Kitô về giới răn nào trọng nhất, Ngài đã nhắc lại đoạn Kinh Thánh này để trả lời cho họ (Mác-cô 12, 29-33).
Cũng chính Trái Tim Mẹ đã đáp trả bằng tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa. Đó là lời đáp cho sứ thần Truyền Tin. Do sự ưng thuận vì tình yêu, Mẹ Maria trước hết đã cưu mang Đức Giêsu trong trái tim mình và rồi cũng cưu mang trong cung lòng của Mẹ. Đức Kitô, chính Ngài: khi được người phụ nữ trong đám đông ca tụng phúc cho cung lòng người nữ đã sinh thành ra Chúa, thì Ngài đã trả lời: “Ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa thì có phúc hơn.” (Lc 11,28). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong thông điệp đầu tiên, Đấng Cứu Chuộc Con Người, đã viết, “Mầu nhiệm của Cứu Độ đã được hình thành trong trái tim của Đức Trinh Nữ Thành Nazaret khi Mẹ thưa lời Xin Vâng.’ (RH #22).
Theo lịch sử, việc tôn sùng Trái Tim Đức Mẹ được tìm thấy đầu tiên vào thế kỷ 12 với nhiều sử gia như Thánh Anselm (1109) và Thánh Bernard thành Clairvaux (1153) là thánh viết rất tài tình về việc tôn sùng thánh thiện này. Thánh Bernadine thành Siena (1380-1444) đã được gọi là Tiến Sĩ về lòng sùng kính Trái Tim Mẹ vì những trước tác về Trái Tim Mẹ. Ngài viết, “từ trái tim Mẹ, như lò lửa của Tình Yêu Rất Thánh, Đức Trinh Nữ Maria đã nói lên ngôn ngữ tuyệt vời nhất của một tình yêu mãnh liệt.” Thánh John Eudes (1601-1680) qua các bài viết của Ngài đã giúp khơi lại lòng sùng kính này. Đức Thánh Cha Lêô XIII và Piô X gọi ngài là “cha, thầy dạy và là tông đồ phụng vụ lòng sùng mến Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria.” Trước hai thập niên trước khi những phụng vụ vinh danh Trái Tim Rất Thánh Chúa Giêsu, Thánh John Eudes và những người theo ngài đã dành ngày 8 tháng 2 trong khoảng năm 1643 để kính nhớ Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ. Về sau, Đức Piô VII cho mở rộng ngày mừng kính để các giáo xứ hoặc hội đoàn nào muốn tôn sùng thì cũng được phép.
Mẹ Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm Mẹ của Chúa Giêsu vì thế trái tim của Mẹ đã hoàn toàn hiến tế, thuộc trọn về Chúa, Mẹ đã để cho Thiên Chúa hoàn toàn sử dụng Mẹ cho tình yêu của Người và để cứu rỗi nhân loại. Thánh Công Đồng Vaticanô II viết:” Đức Nữ Trinh Maria đã đón nhận Ngôi Lời Thiên Chúa trong tâm hồn và thân xác, và đem sự sống đến cho thế gian, lúc Thiên Thần Gabrien truyền tin cho Mẹ”( LG 53 ). Trong tông thư Đấng Cứu Độ con người, số 22, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhận định: “Chúng ta có thể nói mầu nhiệm cứu độ đã thành hình nhờ Trái Tim Đức Trinh Nữ thành Na-gia-rét khi Maria thưa lời xin vâng. Từ giây phút đó, Trái Tim Trinh Khiết Từ Mẫu ấy luôn luôn theo sát công cuộc của Con Mẹ và vươn đến với tất cả những ai được Chúa Kitô ôm ấp và tiếp tục ôm ấp trong tình yêu vô cùng của Người”.
Như Chúa Giêsu trên thập giá, Mẹ Maria đã hiến tế con tim tình yêu vẹn toàn của mình cho Thiên Chúa, trái tim của Mẹ đã rộng mở để đón nhận mọi người. Người lính đâm cạnh sườn của Chúa Giêsu khi Người bị treo trên thập giá, tức thì nước và máu chảy ra, từ nơi đó phát sinh các bí tích. Trái tim hiền mẫu của Mẹ Maria cũng luôn mở rộng để cùng với Chúa Giêsu qui tụ mọi người, để ơn cứu độ của Chúa đến với mọi người. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn, trinh trong đã cống hiến cho công tình cứu rỗi của Chúa và góp phần xây dựng Hội Thánh trần thế.
Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng của thánh Gioan: “Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”( Ga 15, 13 ) đã minh chứng tình yêu của Chúa là tình yêu vĩnh cửu, vô vị lợi, xả kỷ. Mẹ Maria với trái tim vẹn toàn là dấu chỉ tuyệt vời và cao đẹp nhất dẫn nhân loại và từng người đến tình yêu của Thiên Chúa Cha. Trái tim của Mẹ Maria là trái tim tình yêu vì Mẹ đã sống trọn tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Con của Mẹ.
Chính trái tim yêu mến Thiên Chúa cách trọn vẹn và mãnh liệt đã làm nên một Maria vâng phục thánh ý Thiên Chúa suốt cả đời. Cũng thế, nếu trái tim chúng ta luôn thao thức qui hướng về Thiên Chúa, rung nhịp với Tin Mừng tình yêu vĩnh cửu của Ngài thì mỗi người chúng ta cũng có thể vượt qua tất cả mọi trở ngại để vâng phục Thiên Chúa cách hoàn toàn và suốt cả đời như Đức Mẹ. Các Vịnh gia từng thốt lên: “Tim thét gào thì miệng phải rống lên” (Tv 38,9) (xem bài diễn giải rất hay của thánh Augustinô về câu Thánh vịnh này ở Bài đọc 2 Kinh Sách, thứ 6 tuần 3 mùa vọng).
Nếu chúng ta không thanh luyện trái tim mình nên giống trái tim Đức Mẹ, tức để cho tim mình rung nhịp theo những xúc cảm tầm thường, nhất thời, thì trái tim chúng ta không chóng thì chày cũng dễ bị lạc nhịp theo những xu hướng của thế tục, của sự ích kỷ vụ lợi cá nhân.
Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn, mỗi người chúng ta thanh luyện chính mình để trái tim chúng ta trở nên máng cỏ yêu thương nơi Hài Nhi Giêsu ngự trị và để chúng ta có thể mang Chúa đến cho tha nhân.