2022
Hiển Dung như Chúa
6.8 Lễ Chúa Giêsu Hiển Dung
St 1:12; St 2:4; Tv 9:8-9,10-11,12-13; Mt 17:14-20
Hiển Dung như Chúa
Tin Mừng thánh Luca trình bày quang cảnh Chúa Giêsu Hiển Dung để tỏ bày vinh quang của Người. Qua đó, Người khích lệ và nâng đỡ cho niềm tin của các môn đệ cũng như của mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu Hiển Dung khi Người đang “cầu nguyện”, trong sự kết hợp thân mật với Chúa Cha “dung mạo của Người bỗng đổi khác”. Chúa Cha đã làm cho vinh quang của Chúa Con được chiếu tỏa trên núi thánh, để xác nhận về sứ mạng đã giao phó cho Người: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!”. Tin Mừng Luca sử dụng thuật ngữ “người được tuyển chọn” từ bài ca thứ hai về Người Tôi tớ, trong lúc Hiển dung và khi trên thập giá (Lc 23,35), để nhấn mạnh mối liên hệ giữa cuộc khổ nạn và phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Người chính là “Đấng Thánh của Israel” bị “người đời khinh chê” (Is 49,7).
Đồng thời, chúng ta thấy ý nghĩa sâu xa hơn nơi biến cố Hiển Dung của Chúa Giêsu: Người đến để hoàn thành toàn bộ lời hứa của Thiên Chúa trong Cựu ước. Sự hiện diện của ông Môsê đại diện cho Lề luật và của ông Êlia đại diện cho các Ngôn sứ nhằm mục đích làm sáng tỏ công trình cứu độ Chúa Giêsu thực hiện. Các ngài nói về sự “chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem”; hình ảnh “núi” và “mây che phủ”, cùng với nỗi sợ hãi của các môn đệ, nhắc nhớ về biến cố Thiên Chúa hiện ra trên núi Sinai. “Lều” mà Phêrô xin được dựng gợi lại hình ảnh dân Israel ngày xưa đi trong sa mạc tiến vào đất hứa. Chúa Giêsu chính là Môsê mới, hướng dẫn dân Israel mới là toàn thể nhân loại đi về Đất hứa là Nước Trời; Ngài cũng tiếp tục công việc của ngôn sứ Êlia là đưa con người ra khỏi tình trạng thờ ngẫu tượng để quay về với Thiên Chúa.
Trên núi Ta-bô trước mặt ba môn đệ được chọn lựa, Đức Giê-su đã biến dạng để hiển thị một dung mạo hoàn toàn mới, điều mà chúng ta quen gọi là ‘hiển dung’ hay ‘biến hình’. Theo cách mô tả của Lu-ca thì khuôn mặt hiển dung của Chúa Giê-su lúc đó rất mang nặng nét ‘Cựu Ước’, vì các môn đệ đều là những người theo đạo Do Thái. Một Thiên Chúa của Cựu Ước thì phải có dung mạo uy nghi sáng láng, thân thể Ngài phải tỏa chiếu hào quang; và để nhấn mạnh hơn nữa tính cách Cựu ước của toàn cảnh, hai nhân vật tiêu biểu là Mô-sê và Ê-li-a đã xuất hiện trong tất cả vẻ huy hoàng tráng lệ. Thế nhưng, hình như khuôn mặt Cựu Ước đó lại không phải là điều Chúa Giê-su muốn trình bày, và vì lẽ đó, Người đã không muốn các môn đệ duy trì hình ảnh này lâu dài; “Thưa thày, chúng con ở đây, thật là hay chúng con xin dựng ba cái lều”… và Người nghiêm cấm các ông.
Biến cố hiển dung được cả ba Phúc Âm Nhất Lãm trình bày với một vài khác biệt, tuy nhiên nội dung căn bản thì khá tương đồng. Nội dung đó là: vinh quang Ta-bô tự nó không phải là tâm điểm để mà phải quan tâm. Nó chỉ là tiền đề hay biểu tượng của một thứ vinh quang khác quan trọng hơn nhiều sẽ xảy đến sau này. Quả thực cả ba trình thuật đều khởi đầu bằng một xác định thời gian liên quan tới một lời công bố: 06 ngày theo Mát-thêu và Mác-cô, còn theo Lu-ca thì khoảng 08 ngày ‘sau khi nói những lời ấy’. ‘Lời ấy’ xác định điều đã được Đức Giê-su lặp đi lặp lại nhiều lần: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”.
Lời công bố không tiên báo sự kiện hiển dung Ta-bô, ngược lại là đàng khác, biến cố hiển dung là để giải thích ý nghĩa của lời công bố. Chính cái chết và phục sinh của Đức Giê-su mới đích thực là diện mạo, là vinh quang của Thiên Chúa, một diện mạo và vinh quang mà sự sáng láng chói lọi bên ngoài trên đỉnh Ta-bô chỉ là minh họa cho dễ hiểu: “Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem”. Cuộc xuất hành được đề cập tới đó chính là biến cố ‘chết thập giá và phục sinh’ của Đức Giê-su, cao điểm mạc khải về Thiên Chúa khi dung mạo đích thực của Người được tỏ lộ cho toàn thể nhân loại.
Đó là dung mạo của một Thiên Chúa cứu độ, một Thiên Chúa xót thương, ngay cả đối với những con người tội lỗi nhất. Đức Ki-tô đã chẳng gọi đó là giờ phút vinh hiển Người được tôn vinh là gì: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12:23)? Và không chỉ tôn vinh bản thân Người, mà còn tôn vinh chính Thiên Chúa là Cha nhân ái: ‘Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”’ (Ga 12, 28).
Thế nhưng, hiển dung của lòng thương xót cứu độ mà Thiên Chúa biểu lộ qua Thập Giá và Phục Sinh của Đức Ki-tô Giê-su thì chỉ những ai có con mắt đức tin mới chiêm ngắm được mà thôi. Phê-rô, bằng con mắt thịt đã từng ngây ngất trước vinh quang của Ta-bô bao nhiêu, thì lại càng bị vấp phạm trước vinh quang của Thập Giá bấy nhiêu: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thày gặp phải chuyện ấy!” (Mt 17, 22) Còn các môn đệ khác thì, cả khi Đức Giê-su tiên báo cuộc thương khó của Người tới lần thứ ba, “các ông không hiểu gì cả; đối với các ông, lời ấy còn bí ẩn, nên các ông không rõ những điều Người nói” (Lc 18, 31-34).
Như vậy thì, cho dầu đoạn Tin Mừng có trình bày quang cảnh hoành tráng của cuộc hiển dung trên đỉnh Ta-bô, chúng ta vẫn không được phép dừng lại ở đó bằng cặp mắt xác thịt. Cặp mắt đức tin của Ki-tô hữu phải hướng về vinh quang của Can-vê hơn là của Ta-bô, vì chính trên đỉnh Can-vê, Thiên Chúa mới thực sự hiển thị dung mạo vĩ đại đích thật nhất của Người. Mải mê dừng lại mãi, tới độ muốn dựng ba lều trên Ta-bô, là một cám dỗ có thể dẫn tới phản bội niềm tin Ki-tô hữu. Phản bội này có thể xảy ra cho bất kỳ ai, chứ không chỉ riêng cho Phê-rô; “Chúa Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9, 9)
Đối với Ki-tô hữu chúng ta, Thánh Lễ chính là thời gian, là dịp để khám phá, chiêm ngắm và đi vào vinh quang đích thực của Thập Giá! Nếu hiển dung Ta-bô không phải là đích đến mà chỉ là bước đầu chập chững của niềm tin, thì đúng là, qua ngày lễ ‘Hiển Dung’ hôm nay, Hội Thánh muốn dẫn mọi Ki-tô hữu đạt tới đích đến thật là vinh quang của Thập Giá, khi mời gọi các tín hữu hãy chiêm ngưỡng dung mạo chói lọi của một Thiên Chúa đầy nhân ái và xót thương; một diện mạo mà Cựu Ước hay những con xác phàm, không thể hoặc không hề được chiêm ngắm. Cuộc hành trình đức tin này thì mọi Ki-tô hữu bất kỳ, ai cũng phải làm, bắt đầu từ Phê-rô thủ lĩnh, cho tới tất cả các môn sinh sau này, các tín hữu qua mọi thời đại, kể cả các linh mục và các tu sĩ chúng ta…
Qua biến cố Hiển Dung, Chúa Giêsu muốn khích lệ và nâng đỡ cho niềm tin của các môn đệ. Chính ba môn đệ này cũng chứng kiến đau khổ của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu sau này (Mt 26, 37). Cả hai trường hợp các ông đều ngủ. Sức nặng của những khổ đau đã đè nặng các ông. Vì thế, biến cố Hiển Dung của Chúa Giêsu cho các môn đệ cảm nếm trước vinh quang thần linh của Người, giúp các ông hiểu rằng để đến vinh quang phục sinh phải qua đau khổ thập giá.
Như thế, cuộc Hiển Dung của Chúa Giêsu giúp chúng ta ý thức về một nguy hiểm: đó là sự chán nản, nhụt chí, thất vọng khi gặp những khó khăn thử thách và đau khổ trong đời sống đức tin. Để vượt qua mối nguy hiểm này và để trung tín đến cùng với Thiên Chúa, chúng ta cần biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa trong đời sống hằng ngày, để sống xứng đáng là người được Thiên Chúa tuyển chọn.
2022
Niềm tin vào Chúa
3.8 Thứ Tư trong tuần thứ Mười Tám Mùa Quanh Năm
Gr 31:1-7; Gr 31:10,11-12,13; Mt 15:21-28
Niềm tin vào Chúa
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đề cao lòng tin của người đàn bà xứ Canaan, tức là một người ngoại giáo. Một trong những điều hẳn sẽ làm chúng ta ngỡ ngàng, đó là trên Thiên đàng, chúng ta sẽ gặp gỡ những người chúng ta chưa từng quen biết, ngay cả những người chưa một lần mang danh hiệu Kitô hay đặt chân đến nhà thờ.
Thời Chúa Giêsu, có biết bao người ngoại giáo có lòng tin sâu sắc hơn cả những người Do thái. Trước hết, tiên tri Isaia đã từng khiển trách lòng giả dối của người Do thái: “Dân này thờ Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta”. Thời Chúa Giêsu, có biết bao người bị loại ra khỏi xã hội, bị đặt bên lề Ðền thờ, và có lẽ cũng không hề thuộc toàn bộ lề luật của Môsê, nhưng lại có lòng sám hối và tin tưởng sâu xa hơn. Nói với những người chỉ giữ đạo một cách hình thức, Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa, là được vào Nước Trời; nhưng là những kẻ thực thi ý Chúa”.
Người đàn bà Canaan có lẽ không hề biết đến lề luật Môsê, nhưng đã sống niềm tin của mình một cách mãnh liệt. Lòng tin đó được thể hiện qua việc phó thác hoàn toàn vào quyền năng của Chúa Giêsu. Trong tình thế hầu như tuyệt vọng, bà đã chạy đến với Chúa Giêsu; sự van nài của bà cho thấy sự kiên nhẫn và lòng tin sắt đá của bà. Sự khác biệt cơ bản giữa một người có niềm tin và một người không có niềm tin, không hệ tại ở danh hiệu Kitô hay những thực hành đạo đức, mà chính là lòng tin. Tin vào sự hiện diện quyền năng của Thiên Chúa trong cuộc sống, tin vào tình yêu vô biên của Ngài, tin vào ý nghĩa của cuộc sống, tin vào tình người, đó là sắc thái chủ yếu của người có niềm tin: chính trong niềm tin đó, con người gặp gỡ Chúa Giêsu.
Trong một hoàn cảnh mà cái nhìn của con người có thể cho là tuyệt vọng, người Kitô hữu hơn bao giờ hết được mời gọi để nêu cao niềm tin của mình. Ðây là thời điểm để họ chứng tỏ bản sắc đích thực của mình. Trong cuộc sống chỉ có nghi kỵ và hận thù, họ được mời gọi để đốt lên ngọn đuốc của yêu thương. Trong một xã hội bị gậm nhấm bởi chán nản tuyệt vọng, họ được mời gọi để mang lại niềm hy vọng. Chỉ khi nào giữ đúng vai trò đó, người Kitô hữu mới thực sự xứng đáng với danh hiệu của mình.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào đức tin của những người bị coi là dân ngoại, để biết tôn trọng đức tin chân thành của họ và còn để rà xét lại đời sống đạo và đức tin của mình. Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội và ân phúc, nhưng nhiều khi chúng ta lại coi đó là những điều tự nhiên, may mắn, hơn là nhận ra tình yêu thương ban tặng của Chúa. Giống như người Do Thái, chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ của mình, từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không hoán cải đời sống, thì cũng sẽ có ngày người từ đông chí tây được mời vào dự tiệc nước Thiên Chúa, còn chúng ta bị loại ra ngoài.
Kế đến, hãy học nơi tấm gương tin tưởng kiên trì và khiêm tốn của người phụ nữ Canaan hôm nay: đừng bao giờ thất vọng trước sự im lặng của Thiên Chúa. Vì để tôi luyện, thử thách đức tin của chúng ta, đôi khi Chúa dường như im lặng hoặc từ chối lời kêu cầu của chúng ta; nhưng nếu chúng ta cứ kiên trì, cứ nài xin, chắc chắn Chúa sẽ ra tay và cho chúng ta được như sự thỉnh cầu.
Người phụ nữ hôm nay quả là tấm gương cho các bậc làm cha mẹ. Nhiều người, nhiều gia đình đang rơi vào cảnh cùng quẫn, đau khổ vì vợ chồng đau yếu, con cái ngỗ nghịch hư hỏng ; nhiều người đã ngã lòng vì thấy lời cầu xin của mình chưa được Chúa nhận lời. Họ trách Thiên Chúa: Tôi đi lễ mỗi ngày, đã đi xin khấn ở nhiều nơi mà vẫn chẳng được… Nhiều người thì xin những người đạo đức, thánh thiện thêm lời kêu khấn cho mình. Đó là điều tốt, thế nhưng đừng quên chính bản thân cần phải hoán cải, cần lắng nghe để nhận ra tiếng nói và sự chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống. Hãy tin tưởng, kiên trì để thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con và gia đình con. Chúa sẽ nghe lời chúng ta.
Nhiều người trẻ vì bị mê hoặc bởi khoa học công nghệ, bị mãnh lực của đồng tiền chiếm trọn cả thời giờ và ưu tư, khiến họ không còn chỗ cho Thiên Chúa. Họ đã để cho đức tin của mình bị mờ nhạt, èo uột khi rời xa gia đình hoặc khi lăn xả vào vòng quay của xã hội. Họ đánh mất thói quen cầu nguyện mỗi ngày, bỏ qua việc xưng tội rước lễ, xa rời với những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ. Những dấu hiệu ấy cho thấy một đức tin đang bị khô héo, mất sức sống. Chúng ta cùng cầu xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, đặc biệt cho những người đang lung lạc đức tin vì thử thách, và xin Chúa giúp chúng ta luôn tin tưởng, cậy trông nơi Chúa dù lúc vui hay lúc buồn, khi thành công hay thất bại. Chúng ta tin rằng, Thiên Chúa luôn ở bên và sẵn sàng cứu giúp chúng ta.
Trong mọi gian nan thử thách, chúng ta luôn tin tưởng rằng Chúa luôn ở bên chúng ta để nâng đỡ, khích lệ mặc dầu chúng ta không trông thấy. Con mắt Ngài hằng theo dõi chúng ta, như người mẹ hiền đang tập cho con bước đi. Đứa con cứ tin tưởng bước đi trong vòng tay của mẹ, nếu có ngã thì vòng tay của mẹ đã ôm vào lòng.
2022
CHÚA BAN LƯƠNG THỰC CHO LOÀI NGƯỜI
1.8 Thứ Hai Thánh Anphongsô Maria Liguori, Gmtsht
Gr 28:1-17; Tv 119:29,43,79,80,95,102; Mt 14:13-21
CHÚA BAN LƯƠNG THỰC CHO LOÀI NGƯỜI
Vào năm 1950, thánh Anphongsô được Ðức Piô XII tuyên xưng là quan thầy của các thần học gia luân lý, ngài thật xứng với danh hiệu ấy. Trong cuộc đời ngài, thánh nhân phải tranh đấu để giải thoát nền thần học luân lý khỏi sự khắt khe của chủ thuyết Jansen. Thần học luân lý của ngài, đã được tái bản 60 lần trong thế kỷ sau khi ngài từ trần, chú trọng đến các vấn đề thực tiễn và cụ thể của các cha xứ và cha giải tội. Nếu có thói vụ luật và giảm thiểu hóa luật lệ xen vào thần học luân lý, chắc chắn nó không thuộc về mô hình thần học tiết độ và nhân từ của thánh Anphongsô.
Vào năm 16 tuổi, ngài lấy bằng Tiến sĩ giáo luật và dân luật của đại học Napôli, nhưng sau đó đã bỏ nghề luật sư để hoạt động tông đồ. Ngài được thụ phong linh mục và dồn mọi nỗ lực trong việc tổ chức tuần đại phúc ở các giáo xứ, cũng như nghe xưng tội và thành lập các đoàn thể Kitô giáo.
Ngài sáng lập dòng Chúa Cứu Thế năm 1732. Ðó là một tổ chức của các linh mục và tu sĩ sống chung với nhau, tận tụy theo gương Ðức Kitô và hoạt động chính yếu là tổ chức tuần đại phúc cho nông dân ở thôn quê. Như một điềm báo cho điều sẽ xảy ra sau này, sau một thời gian hoạt động, những người đồng hành với ngài ngay từ khi thành lập đã từ bỏ Tu hội và chỉ còn lại có một thầy trợ sĩ. Nhưng Tu hội cố gắng sống còn và được chính thức chấp nhận vào 17 năm sau, dù rằng khó khăn vẫn chưa hết.
Sự canh tân mục vụ lớn lao của thánh Anphongsô là cách giảng thuyết và giải tội – ngài thay thế kiểu hùng biện khoa trương, thùng rỗng kêu to, bằng sự giản dị dễ hiểu, và thay thế sự khắc nghiệt của thuyết Jansen bằng sự nhân từ. Tài viết văn nổi tiếng của ngài phần nào đã làm lu mờ công lao khó nhọc mà ngài đã ngang dọc vùng Napôli trong 26 năm trường để tổ chức tuần đại phúc.
Ngài được tấn phong Giám mục khi 66 tuổi và ngay sau khi nhậm chức, ngài đã cải tổ toàn diện Giáo phận.
Vào năm 71 tuổi, ngài bị đau thấp khớp khủng khiếp. Ngài đau khổ trong 18 tháng sau cùng với “sự tăm tối” vì sự do dự, sợ hãi, bị cám dỗ đủ mọi khía cạnh đức tin và mọi đức tính.
Thánh Anphongsô nổi tiếng về nền tảng thần học luân lý, nhưng ngài cũng sáng tác nhiều trong lãnh vực tâm linh và thần học tín lý. Văn bản Các vinh dự của Ðức Maria là một trong những công trình vĩ đại về chủ đề này, và cuốn Viếng Thánh Thể được tái bản đến 40 lần trong đời ngài, đã ảnh hưởng nhiều đến sự sùng kính Thánh Thể trong Giáo hội.
Ngài được phong thánh năm 1831, và được tuyên xưng Tiến sĩ Hội Thánh năm 1871.
Thánh Mátthêu cho biết, khi hay tin Chúa Giêsu xuống thuyền đi đến chỗ hoang vắng riêng biệt thì dân chúng từ các thành đi bộ mà theo Người. Chúa Giêsu thấy một đoàn người đông đảo thì chạnh lòng thương vì họ như đàn chiên không có người chăn. Họ đến với Chúa như đến với vị mục tử nhân lành, họ đặt tin tưởng vào Chúa. Đáp lại, Chúa Giêsu chữa lành nhiều bệnh nhân và đáp ứng nhu cầu vật chất cho họ.
Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, quên ăn quên uống, nhưng dù sao dạ dày của họ cũng phải nổi loạn khi không được cung cấp thức ăn thức uống cho nó. Bóng chiều đang xuống dần mà dân còn đang ở trong nơi hoang vắng xa làng mạc thành thị, họ ra về, đường còn xa sợ có người đói lả dọc đường. Chúa Giêsu muốn các môn đệ cho họ ăn. Nhưng trong hoang địa này lấy đâu ra lương thực cho ngần ấy người ăn. Ở đây chỉ có thằng nhỏ có 5 chiếc bánh và 2 con cá. Bằng ấy thực phẩm thì nhằm nhò gì với một biển người như vậy! Nhưng Chúa Giêsu cứ bảo họ ngồi xuống thảm cỏ để cho Người làm việc. Thánh Mátthêu kể: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu lại được 12 giỏ đầy”.
Lời giảng của Chúa đã làm cho dân chúng say mê. Lời Chúa là thức ăn nuôi dưỡng và bồi bổ cho linh hồn. Tuy thế, Chúa không quên thoả mãn nhu cầu vật chất cho họ, vì họ là con người có hồn có xác, phải được nuôi dưỡng đầy đủ. Như vậy Chúa thực hiện lời khuyên: “Tiên vàn hãy tìm Nước Thiên Chúa, còn mọi sự khác Người sẽ thêm cho”.
Ngoài thức ăn vật chất, Chúa Giêsu còn muốn hướng con người đến một thức ăn khác nữa, cần thiết hơn, quí trọng hơn. Bởi đó, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, người ta tiếp tục tuốn đến với Chúa mong Người tái diễn phép lạ ấy, nhưng Người đã lánh họ mà đi. Theo tường thuật của thánh Gioan, Người còn nói với họ: “Các ngươi tìm Ta chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Hãy nỗ lực tìm kiếm thứ lương thực nuôi dưỡng sự sống muôn đời”. Thứ lương thực ấy chính là bản thân của Chúa Giêsu, được ban cho chúng ta qua bí tích Thánh Thể.
Các Tông đồ chỉ kiếm cho Chúa được có 5 cái bánh và 2 con cá. Thật là một đóng góp quá nhỏ nhoi, nhưng thực ra, chỉ cần bằng ấy đã quá đủ đối với Chúa. Chúa không muốn làm phép lạ tự không mà có bánh cho họ ăn, nhưng Chúa muốn cho con người đóng góp một chút để cộng tác với Chúa. Như vậy, phép lạ hóa bánh ra nhiều là kết quả của sự kết hợp giữa quyền năng vô biên của Chúa với sự cộng tác nhỏ bé của con người.
Mỗi người, mỗi gia đình hãy tìm đến để lãnh nhận lương thực kỳ diệu này mỗi ngày. Hãy ăn bằng tai những lời dạy bảo của Chúa. Hãy để cho Lời Chúa thấm nhập và chi phối cuộc sống và hướng dẫn hành động của chúng ta. Nhờ đó, chúng ta sẽ không còn khát khao điều gì nữa, vì Lời Chúa chính là lương thực cho chúng ta. Hãy siêng năng đến với Bí Tích Thánh Thể qua thánh lễ mỗi ngày. Hãy lãnh nhận và ăn mỗi ngày thứ lương thực thần linh này, Chúa sẽ bổ sức cho cuộc đời chúng ta, sẽ dập tắt mọi khát khao thấp hèn của con người và hướng chúng ta đến sự khao khát thánh thiện, khao khát hạnh phúc đời đời.
2022
Tương Quan Giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu
30,7 Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Bảy Mùa Quanh Năm
Gr 26:11-16,24; Tv 69:15-16,30-31,33-34; Mt 14:1-12
Tương Quan Giữa Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu
Tin mừng Mátthêu nói đến Gioan vị ngôn sứ sống khiêm nhường, công chính, lương tâm ngay thẳng, luôn bảo vệ sự thật, đã can đảm, mạnh dạn lên tiếng ngăn cản vua Hêrôđê cướp vợ anh trai mình (Mt 14,4). Vì, Gioan nói lên sự thật, nên Hêrôđia đem lòng căm hờn, ghen ghét, tìm cách giết vị ngôn sứ, để tìm kiếm lối sống dục vọng, hưởng thụ bất chính. Hêrôđia đã xúi dục con gái là Salômê, xin vua Hêrôđê chém đầu Gioan (Mt 14,6), để hưởng mối lợi trước mắt. Hêrôđê, dù có thân thiện, kính nể vị ngôn sứ, nhưng lo sự mất uy tín, danh dự và ảnh hưởng tới địa vị trong xã hội. Ông đã đánh mất lương tâm, khi cho giết vị ngôn sứ (Mt 14,19), khiến ông trượt dài trong tội lỗi. Vì thế, cái chết của vị ngôn sứ Gioan nói lên ý nghĩa bóng tối của hận thù, tâm hồn giả dối của con người bị sự thật và công lý phơi bày.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cái chết bi thảm của vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu Ước đó là Gioan Tẩy Giả, người dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến. Cái chết của ông chứng minh cho lòng can đảm dám sống cho sự thật và chết cho sự thật vì yêu luật Chúa.
Ở khởi đầu trình thuật, vua Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì ông cho đó chính là Gioan Tẩy giả, người mà ông đã cho chém đầu nay sống lại. Ơn gọi của Gioan Tẩy giả như chính miệng ông Zacaria loan báo trong ngày lễ đặt tên cho con mình: “Con là tiên tri của Ðấng tối cao, con sẽ đi trước dọn đường cho Ngài”. Ơn gọi đó Gioan đã chu toàn một cách tốt đẹp. Gioan chuẩn bị cho Chúa Giêsu đến, không những bằng việc rao giảng thống hối, mà còn bằng chính cái chết vì trung thành với sự thật. Dung mạo của Gioan Tẩy giả loan báo dung mạo của Chúa Giêsu một cách tốt đẹp, đến nỗi khi Chúa Giêsu xuất hiện, vua Hêrôđê tưởng Ngài là hiện thân của Gioan Tẩy giả sống lại.
Một chi tiết nữa, đó là các môn đệ Gioan Tẩy giả, sau khi chôn cất ông xong, thì đến báo tin cho Chúa Giêsu. Chi tiết này nói lên mối liên hệ thân tình giữa Gioan Tẩy giả và Chúa Giêsu, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Gioan Tẩy giả là hướng về Chúa Giêsu. Gioan Tẩy giả không phải là Chúa Giêsu, nhưng là người giúp anh em mình đến với Chúa. Chính Gioan Tẩy giả đã tuyên bố: “Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng cho ánh sáng”.
Sau bao năm ở sa mạc một mình với Thiên Chúa để chuẩn bị sứ vụ, Gioan Tẩy Giả xuất hiện giữa dân chúng, kêu gọi mọi người sám hối và dọn lòng đón nhận Đấng Cứu Thế. Trong bối cảnh đó, ông cũng mạnh dạn lên tiếng can ngăn vua Hêrôđê không được phép lấy vợ của anh mình. Tiếng nói chân thật của ông đã đưa ông đến chỗ bị vua Hêrôđê ra lệnh bắt trói và xiềng ông trong tù. Vua muốn giết Gioan nhưng lại sợ đám đông vì họ coi ông như một vị ngôn sứ. Người ta thường nói: “Sự thật, mất lòng” nhưng với Gioan Tẩy Giả thì “sự thật, mất đầu”. Ông chấp nhận “ thật thà, thẳng thắn thường thua thiệt” để hy vọng cứu được một quân vương khỏi sa lầy tội lỗi. Nhưng vì giữ danh dự trước bá quan và khách mời, ông đã bị Hêrôđê ra lệnh chém đầu để thỏa mãn sự căm thù của một người đàn bà thiếu đạo đức tên là Hêrôđia, vợ của Philipphê, anh vua Hêrôđê mà vua đã lấy làm vợ mình. Gioan Tẩy Giả mất đầu nơi thân xác, nhưng tâm hồn và tiếng nói chân thật của ông vẫn còn vang vọng và là gương sáng trong mọi thời đại. Qua cái chết vì lòng trung thành với lề luật Thiên Chúa, chúng ta nhận ra Gioan Tẩy Giả cũng đã cùng chung thân phận với bao ngôn sứ khác.
Trở lại với Hêrôđê, chúng ta có thể thấy ông là một con người có tính khí bất thường. Ông vừa kính Gioan, vừa muốn nghe Gioan nói, nhưng lại không muốn dứt bỏ người tình Hêrôđia. Ông bắt cá hai tay nên ông loay hoay, luẩn quẩn trong cái vòng tội lỗi để rồi khi thấy Chúa Giêsu bắt đầu nổi danh, ông ngỡ là Gioan Tẩy Giả đã sống lại, người mà ông đã ra lệnh chém đầu trước đây! Ông sợ đối diện với sự thật về đạo lý luân thường, lòng ông luôn thiếu bình an. Ông không còn đủ sáng suốt nhận ra chân lý nên chỉ vì giữ một lời hứa trong lúc có men, ông đã giết oan một ngôn sứ mà Đức Giêsu đã giới thiệu trước: “ Trong số phàm nhân lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11, 11a).
Nhìn Hêrôđê, chúng ta cũng tự vấn lương tâm mình trong cách sống đạo trong thế giới hôm nay. Phải chăng tiếng nói luân lý ngày xưa còn được con người quan tâm hoán cải, dù vẫn có những người như Hêrôđê. Nhưng tiếng nói luân lý ngày nay đang bị con người coi thường đến mức báo động. Họ coi có quyền, có tiền là có tất cả. Nguy hiểm hơn là vì không sợ tội nên họ có thể làm tất cả những gì mình muốn, bất chấp luật lệ và công lý. Rất may là chúng ta còn gặp những người như Gioan Tẩy Giả trong gia đình là cha là mẹ sẵn sàng quan tâm dạy dỗ con cái sống đạo hoặc trong các hội đoàn hay những người đầy ơn Chúa, họ sẵn lòng kiên trì đi gặp gỡ, khuyên nhủ và tìm nhiều phương cách giúp những anh chị em Kitô hữu khô đạo hay lạc xa đức tin trở về với Chúa. Giáo Hội rất vui mừng và biết ơn những con người như thế để cộng tác vào ơn cứu độ của Chúa là cứu anh chị em mình thoát khỏi sự dữ đời đời.
“Các con sẽ làm chứng về Thầy”, đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu cho các Tông đồ, cho mỗi môn đệ của Chúa. Chúng ta cần trở nên một Chúa Kitô cho anh em mình, vận mệnh của Chúa sẽ là vận mệnh của chúng ta.
Người Kitô hữu được mời gọi sống hướng về Chúa, kết hợp với Chúa, trở thành một Chúa Kitô thứ hai cho anh em. Nhưng đó là để giúp anh em đến với Chúa, chứ không dừng lại nơi mình. Người Kitô hữu không được chiếm chỗ của Chúa trong tâm hồn anh em: Chúa Kitô phải lớn lên trong tâm hồn anh em, còn tôi chỉ là phương thế, tôi không được cản trở anh em đến với Chúa.
Thách đố cho người Kitô hữu trong cuộc sống là vẫn còn nhiều Hêrôđê và Hêrôđia đương đại, là những kẻ lợi dụng dịch Covid nham hiểm, ích kỷ, mưu mô, xảo quyệt, để sống trục lợi tiền bạc bất chính từ những món hàng khẩu trang, viên thuốc giả, Chỉ vì, người ta cố tình sống tham lam, ham hố danh vọng, địa vị, quyền lực chính trị bất chính, đưa ra những thông tin sai lệch về dịch bệnh, bất chấp đạo lý làm người, để làm xáo trộn cuộc sống nhân loại. Với chủ đích gây chia rẽ cộng đoàn giáo hội, xứ đạo, hội đoàn, khu xóm và xã hội. tạo sức ép lên cuộc sống của tha nhân.
Vì thế, xã hội chúng ta, cần người môn đệ Chúa Kitô luôn đứng về phía sự thật như Gioan. Mỗi người được mời gọi thể hiện đời sống yêu thương, hiệp nhất, can đảm bảo vệ đời sống công bằng, dấn thân, hy sinh, quảng đại và vị tha cho nhau, tha thứ những lỗi lầm của tha nhân xúc phạm đến mình. Nhờ đó, mỗi Kitô hữu chúng ta luôn biết song chân thành, trung thực trong đời sống mỗi ngày.
Hãy cùng nhau xóa bỏ những đố kỵ, hận thù, ghen ghét, tự kiêu, để mỗi chúng ta luôn sống theo tiếng gọi của Chúa, làm theo đúng lương tâm, để tạo công bình và đón nhận chân lý cứu độ của Chúa dành cho cho mình và mọi người, giữa một thế giới tội lỗi hôm nay.