2022
Chúa Giêsu Với Trẻ Nhỏ
13.8 Thứ Bảy trong tuần thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
Ed 18:1-10,13,30-32; Tv 51:12-13,14-15,18-19; Mt 19:13-15
Chúa Giêsu Với Trẻ Nhỏ
Chúa Giêsu nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy đừng ngăn cản chúng vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mt 19,14).
Con đường nhỏ xíu, chạy ngoằn ngoèo, nước chảy lênh láng, những dãy nhà nhô ra thụt vào mất trật tự như đám con nít xóm này. Không thể tưởng tượng ở đâu ra nhiều con nít như thế. Chúng dơ bẩn, quần áo cũ rích, chạy lung tung ngoài đường, nói bậy luôn mồm. Một cậu bé mải chơi đâm sầm vào một bà đi đường. Té ngã, thằng bé văng tục. Bà kia quát: “Đồ du côn, đồ mất dạy.” Rồi bà tiếp tục lời “giáo huấn” tưởng chừng như không bao giờ kết thúc.
Là ai, nếu không phải người lớn vô tình làm vấy bẩn tâm hồn trong trắng của các em. Hơn ai hết, chúng đủ tư cách hưởng hạnh phúc nhất, nhưng xã hội rất nhẫn tâm đè bẹp những cánh hoa mong manh ấy bằng những gương xấu, bằng những cơ chế nghèo hèn, thất học. Thậm chí những em bé kém may mắn bị đẩy ra ngoài đời sớm còn tiêm nhiễm biết bao thói hư tật xấu. Thiên Đàng của các em là đấy!
Xã hội phân hóa giàu nghèo, con người quay cuồng với miếng cơm manh áo. Nhưng xin Cha cho chúng con luôn biết nhớ và tôn trọng quyền được chăm sóc, giáo dục của trẻ em.
Các trẻ nhỏ được Chúa Giêsu yêu thương và đưa ra làm mẫu mực cho những ai muốn bước vào Nước Trời: “Nếu các con không hóa nên trẻ nhỏ, các con không được vào Nước Trời.” “Ai hạ mình xuống như trẻ nhỏ, đó là kẻ lớn nhất trong Nước Trời.” Tinh thần tu đức trẻ thơ là đơn sơ, phó thác, không cậy dựa vào sức riêng, nhưng đặt trọn tin tưởng vào Chúa.
Tin Mừng mà Giáo Hội cho chúng ta nghe hôm nay đề cập đến trẻ nhỏ trong một hoàn cảnh khác, với những Lời của Chúa Giêsu: “Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì những ai giống như chúng mới được vào Nước Trời.” Người ta dẫn các trẻ em đến với Chúa Giêsu để Ngài đặt tay và cầu nguyện cho chúng. Đặt tay và cầu nguyện cho một người là nghi thức tôn giáo quen thuộc trong Do Thái giáo thời Chúa Giêsu.
Những vị lãnh đạo tôn giáo và các Rabbi thường đặt tay và cầu nguyện cho những ai đến xin được chúc lành, họ cũng đặt tay trên trẻ nhỏ và cầu nguyện cho chúng, mặc dù do phong tục người Do Thái thời đó, những trẻ nhỏ không có địa vị, không có giá trị gì, chỉ khi nào trẻ đến tuổi 12, nó mới được nhìn nhận có chỗ đứng trong cộng đoàn. Các môn đệ Chúa Giêsu lúc đó chưa thay đổi tâm thức, họ còn ngăn cản không cho người ta đem các trẻ nhỏ đến với Chúa.
Thái độ và lời dạy của Chúa Giêsu nhắc cho các môn đệ lúc đó và cho chúng ta ngày hôm nay rằng trong cộng đoàn Giáo Hội, mọi người không tùy thuộc hạng tuổi, đều có quyền đến với Chúa để Chúa đặt tay, cầu nguyện và chúc lành cho; không ai bị loại khỏi tình yêu và ân sủng của Chúa, dù là một đức trẻ. Các nhà chú giải đã xem đoạn Tin Mừng này như là căn bản cho việc rửa tội trẻ nhỏ được cộng đoàn tiên khởi thực hiện.
“Cứ để trẻ nhỏ đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng”. Chúng ta có thái độ kỳ thị, ngăn cản các trẻ nhỏ đến với Chúa không? Có những người lớn, những bậc cha mẹ rơi vào tâm thức của các môn đệ ngày xưa: họ không đem con cái đến với Chúa Giêsu, họ không nêu gương sống đức tin cho con cái, cũng không muốn cho con cái lãnh nhận Bí tích Rửa tội, nại lý do tôn trọng tự do của con cái, đợi chúng lớn lên và tự quyết định muốn rửa tội hay không. Ðây là thái độ sai lầm về ơn cứu rỗi của Chúa: Ơn Chúa được ban nhưng không cho mọi người, chúng ta là ai mà dám xét đoán về điều kiện tuổi tác để được Chúa chúc lành và ban ơn cứu rỗi.
Trẻ thơ là một con người đang còn non yếu, luôn muốn và ưa thích đến với những người lớn và tin cậy ở người lớn. Giống trẻ thơ là đến cùng Chúa để được Chúa dạy dỗ, hướng dẫn; đến với Chúa để được tựa nương vào vòng tay an toàn, như trẻ thơ nép mình trong lòng mẹ. Trẻ thơ thì đơn sơ, trong trắng, chân thành, không nghi kỵ, vòng vo, gian dối, không tự kiêu, tự mãn, biết phó thác, tin tưởng vào Chúa quan phòng. Luôn yêu thương và tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa vì: “Mọi gánh nặng hãy trút bỏ cho Ngài, tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay”. Trở nên như trẻ thơ còn là mong muốn được học hỏi, luôn mở lòng mình để đón nhận những bài học, mở lòng mình để đến với người khác, mở lòng mình để được Chúa hiện diện viếng thăm, mở lòng mình để có thể gắn kết bền chặt với Chúa và anh em.
Hãy để các trẻ nhỏ đến với Chúa Giêsu, đừng ngăn cản chúng. Xin Chúa giúp chúng ta chu toàn trách nhiệm cao cả này, với ý thức rằng ân sủng và chúc lành của Chúa là kho tàng quí giá mà chúng ta có thể trao lại cho con cái chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết nhìn nhận giá trị của trẻ em, đồng thời ý thức rằng ân sủng và chúc lành của Chúa là kho tàng quí giá mà chúng ta có thể trao lại cho con cái chúng con. Xin cho chúng ta có được tâm hồn của trẻ thơ là nhận mình nghèo khó, yếu đuối để biết phó thác hoàn toàn trong vòng tay che chở của Chúa.
2022
Tha thứ
11.8 Thánh Clare, Đt
Ed 12:1-2; Tv 78:56-57,58-59,61-62; Mt 18:21-19
Tha thứ
Thánh Clara sinh năm 1193 tại Assisi miền Umbria, thuộc dòng họ danh giá Offreducciô. Người ta nói thánh nữ sinh ra với nụ cười trên môi và không bao giờ thấy Ngài khóc. Ngài dành nước mắt để tưới chân Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Khi nghe biết một thanh niên giàu có đã trở nên người nghèo thành Assisi, người thiếu nữ danh giá cảm kích trước mẫu gương của thánh nhân – thánh Phanxicô Assisi. Trong khi gia đình nhắm cưới gả cho nàng, thì nàng chỉ nhắm đến cuộc sống sám hối khiêm hạ. Sau khi nghe bài giảng của thánh nhân, Ngài đã đi tới quyết định dâng hiến đời mình cho Chúa.
Khi ấy thánh Clara 18 tuổi. Vào ngày Lễ Lá, 18 tháng 3 năm 1212, thánh nữ ăn mặc sang trọng tới nhà thờ chính tòa dự lễ. Theo thói quen, các bà tiến lên nhận lá từ tay Đức Giám mục. Hôm ấy Clara quá xúc động, khiến chính Đức Giám mục phải rời ghế đưa lá đến cho Ngài. Chiều về, Ngài đã cùng với một người bạn lén bỏ nhà theo lối cửa hậu rồi theo ánh đuốc tới gặp thánh Phanxicô tại Porsiuncula… Giai thoại thật cảm động, một cô gái 18 sang trọng đã bỏ tất cả những gì là quen thuộc và an toàn để đi theo Đấng vô hình, còn Phaxicô 30 tuổi không có lấy một xu dính túi đã nhận lấy trách nhiệm về cả tinh thần lẫn vật chất đối với cô. Giữa đêm xuân trong rừng cây và dưới ánh đuốc của đoàn anh em, Clara buông xõa mái tóc huyền trên bàn thờ cho Phanxicô cắt bỏ. Hành động hoàn toàn ngoại lệ và không một chút quyền hạn theo giáo luật. Phanxicô đã lãnh bản ly biệt của Clara đối với thế gian, rồi gởi cô vào một nữ tu viện Beneđictô gần đó.
Biến cố nổ lớn làm cả thành phố xúc động. Thế gian kết án Clara. Ông Monaldo, cậu của thánh nữ đến nhà dòng bắt thánh nữ về, nhưng Ngài ôm cứng chân bàn thờ quyết chọn Chúa mà thôi. Phanxicô dẫn thánh nữ tới một nữ tu, tu viện Bênêdictô khác, cùng với em của mình là Anê. Sau cùng Phanxicô thiết lập cộng đoàn cho Clara. Một tu viện tại San Đamianô, nơi đây bà Ortolanta, mẹ của thánh nữ cũng nhập dòng. Trong một thời gian cộng đoàn độc lập như những người hành khất đầu tiên. Phanxicô viết cho cộng đoàn một bản luật sống vắn gọn, đòi kỷ luật gắt gao và chay tịnh khắc khổ. Năm 1215 Phanxicô đặt Clara làm tu viện trưởng và có lẽ đã trao cho Ngài một bản luật dòng thánh Bênêđictô.
Vào những năm cuối đời thánh Phanxicô, mọi liên hệ với San Đamianô bị gián đoạn. Câu chuyện hay về bữa ăn tối với Clara không được chính xác lắm. Nhưng cơn đau cuối cùng Phanxicô đã được Clara cho trú ngụ trong một mái chòi bằng lá cây ở cổng tu viện Đamianô, nơi Phanxicô trước tác bài ca mặt trời. Ngài ban phép lành cuối cho Clara rồi về Porsiuncula và qua đời tại đó. Ngài cũng xin anh em đưa xác về Assisi qua ngả San Đamianô. Thánh Clara và chị em tiếp rước và có dịp chiêm ngưỡng các vết thương ở tay và chân Ngài.
Clara thực hiện đúng lý tưởng của người nghèo thành Assisi. Đức Innôcentê III đã đích thân ban phép cho Ngài được giữ đức nghèo khó tuyệt đối. Nhưng Đức Grêgôriô IX nguyên là hồng y Ugôlinô đã muốn cải sửa luật cho phép nhà dòng có đất đai nhà cửa. Clara cưỡng lại và năm 1228 đã được hưởng đặc ân như sở nguyện. Ngài đã thưa với Đức Grêgôriô:
– Thưa Đức Cha, xin tha tội cho chúng con, nhưng đừng tha cho con khỏi theo Lời Chúa.
Năm 1247, một lần nữa Đức Innocentê IV kiểm soát lại luật thánh Phanxicô, muốn sống đời khó nghèo tuyệt đối. Luật này được Đức Innocentê chấp thuận vội vã, hai ngày trước khi thánh nữ qua đời. Năm 1893 người ta tìm thấy sắc chỉ nguyên thủy trong mộ thánh nữ.
Trong cơn bệnh của Ngài, Đức hồng y Rainalđô, tức là Đức Giáo hoàng Alexandrô sau này, đã đến trao mình Thánh Chúa và khuyên nhủ thánh nữ, thánh nữ trả lời:
– Từ khi nếm thử chén đắng và cuộc tử nạn của Chúa, con thấy không còn gì làm con đau đớn nữa.
Sau khi chúc lành cho các nữ tu đến thăm, Ngài nói với chính mình:
– Hãy an tâm, ngươi đã theo đúng đường, cứ tin tưởng vì Chúa tạo thành đã thánh hiến và không ngừng gìn giữ ngươi, đã yêu ngươi với tình mẹ thương con, ôi lạy Chúa xin chúc tụng Chúa vì đã dựng nên con.
Thánh nữ qua đời ngày 11 tháng 8 năm 1253 và năm 1255 được tôn phong hiển thánh.
Thánh nữ Clara đã vì Chúa mà bất chấp tất cả những khó khăn, những cản ngăn…để được toại nguyện với ơn gọi dâng hiến. Ước gì mỗi chúng ta cũng biết noi gương thánh nữ sống trọn vẹn cho tình yêu Chúa Kitô bằng việc mau mắn đáp lại lời mời gọi của Ngài.
Khi Phê-rô hỏi Chúa Giêsu : “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (c. 21.22) Đồng thời Chúa Giêsu nêu lên một dụ ngôn để cho chúng ta hiểu nguyên do: Vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước, dù chúng ta là những con nợ ‘khủng’ của Người; nhưng Người đã tha nợ cho chúng ta chỉ duy với một điều kiện duy nhất là chúng ta cũng phải biết tha nợ cho người anh em mình. Người đòi chúng ta một sự tha thứ không giới hạn – không phải tha bảy lần, nhưng là bảy mươi lần bảy – Sự tha thứ không giới hạn mặc nhiên biểu lộ tấm lòng bao dung của trái tim yêu thương không giới hạn – một tình yêu chân thực sẵn sàng hiến mạng cho người anh em: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hiến mạng sống vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13) Đức Ki-tô khi hiến mình, chịu chết treo thập tự bởi sự ghét ghen, bất trung, phản bội của con người, vẫn thốt lên: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ lầm không biết.” (Lc 23, 34)
Ngày nay do ảnh hưởng văn hóa xấu của phim ảnh, game nặng mùi tính dục hay bạo lực mà đã có biết bao thảm họa của tội ác; Cộng thêm do ảnh hưởng bởi môi trường giáo dục không lành mạnh của gia đình, xã hội: người ta chỉ có một đến hai con nên nhiều bậc phụ huynh đã biến những đứa con trở thành ‘ông vua’ hoặc ‘nữ hoàng’ trong gia đình, quen thói được nuông chiều chỉ biết lãnh nhận mà không biết cho đi nên đã trở thành những con người dị dạng, mất quân bình trong cuộc sống xã hội; đó là những con người ích kỷ, không có khả năng yêu thương chân thực; họ chỉ quen được cung phụng mà không được dạy cho biết phục vụ; chỉ nghĩ đến lợi ích bản thân mà không quan tâm đến lợi ích tha nhân.
Vì thế, nếu không được cảm hóa, biến đổi từ Tin mừng, họ dễ thối chí, gãy đổ khi phải đương đầu với những thử thách, hay khi gặp thất bại trong công danh, sự nghiệp, tình duyên, hoặc sẽ là những con người chai lỳ, độc ác khi mọi điều không như sở nguyện. Vì vậy mà hàng ngày báo, mạng loan tin cho chúng ta biết bao vụ án đã xảy ra: con giết cha, trò giết thầy và người ta thanh toán nhau một cách vô nhân tính, kể cả những đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết; hay có những trường hợp con cái mắng chửi cha mẹ, làm hại cha mẹ khi chúng không được đáp ứng như ý muốn, hoặc có những trường hợp tự tử vì thất bại, thất vọng…. Ích kỷ không thể bao dung tha thứ cho người khác, họ cũng không bao dung tha thứ cho chính bản thân mình.
Trước một Thiên Chúa – Đấng giàu sang vô cùng, tốt lành vô cùng và yêu thương vô cùng, tôi ý thức bản thân mình bất toàn, yếu đuối và vô cùng nhỏ bé. Chiêm ngưỡng, nhận thức được vô vàng ân huệ, điều kỳ diệu Chúa đã làm, tôi như một người đầy tớ mắc nợ cả trăm vạn lượng. Ngay từ khi được dệt thành bào thai trong dạ mẹ tôi đã là người mắc nợ, cho đến khi mở mắt chào đời, được hít thở dưỡng khí, được chăm chút nâng niu từng miếng ăn, giấc ngủ, rồi tập lẫy, tập bò, tập đi, tập nói cùng với sự săn sóc của mẹ cha, người thân… đồng thời vũ trụ, thiên nhiên như bữa tiệc phong phú, tràn trề Thiên Chúa dọn sẵn cho tôi thưởng thức để tôi được phát triển, được lớn lên, được mở mang trí não, thành nhân nhờ kho tàng khôn ngoan của nhân loại. Như thế tôi chẳng phải là một con nợ ư?
Tất cả Chúa ban cho tôi để tôi hoàn thiện con người mình, hoàn thiện sứ mệnh của mình ở trần gian, để tôi sinh lợi; nhưng lắm khi tôi phung phí, tôi sử dụng không đúng….Tôi đã phạm muôn lầm lỗi, tôi mắc nợ Thiên Chúa, mắc nợ con người – mắc nợ chồng chất – món nợ tình yêu. Nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương tôi, vẫn tha thứ cho tôi hết lần này đến lần khác.
Còn tôi, tại sao tôi lại khắt khe với người anh em? Tại sao tôi không thể tha thứ cho người anh em? Tại sao tôi cứ mãi ôm mối hận trong lòng và bắt người anh em phải trả giá những lỗi lầm của họ vì họ đã ‘gây nên tội’ có khi là cố ý, nhưng lắm khi chỉ vì vô tình. “Ôi lạy Chúa! Nếu như Chúa cứ chấp tội nào ai chịu nổi được ư.” Con không muốn Chúa chấp tội con bởi vì ‘con mỏng dòn, yếu đuối’ và có rất nhiều lý do để biện minh cho mình; nhưng con không muốn tìm lý do để biện minh cho người anh em. Con xin Chúa thương con, nhưng con không thể yêu thương người anh em mà Chúa đã muốn con phải yêu thương như chính mình.
2022
SỬA LỖI TRONG CỘNG ĐOÀN
10.8 Thánh Lôrensô, Tstđ
Ed 9:1-7; Tv 113:1-2,3-4,5-6; Mt 18:15-20
SỬA LỖI TRONG CỘNG ĐOÀN
Tiếp tục nói về nếp sống cộng đoàn, Đức Giêsu dạy chúng ta cách thế sửa lỗi cho anh em. Người nhấn mạnh việc sửa lỗi phải dựa trên lòng bác ái, tình yêu thương, kiên nhẫn và xây dựng. Cách sửa lỗi của chúng ta nhằm giúp đương sự hồi tâm hoán cải. Khi có người trong cộng đoàn lỗi phạm, hãy sửa dạy cách kiên nhẫn qua nhiều giai đoạn: gặp riêng, nhờ một ít người nữa cùng mình đi thuyết phục, trình kẻ có thẩm quyền. Khi tất cả mọi cố gắng đều vô ích, thì mới kể người đó không là thành phần của cộng đoàn nữa.
Qua dụ ngôn về con chiên lạc, Chúa Giêsu đã cho biết: Thiên Chúa không muốn cho một tội nhân nào phải hư đi, nên qua bài Tin mừng hôm nay, Người buộc chúng ta phải làm hết sức mình để sửa lỗi cho nhau. Điều này đòi hỏi mỗi phần tử sống trong cộng đoàn phải lưu tâm vấn đề không được để một ai hư mất, nghĩa là phải tích cực đóng góp phần mình vào công việc giúp đỡ lẫn nhau sống hoàn thiện. Cần tránh những thái độ lãnh đạm, thờ ơ, khinh khi, xét đoán và kết án tha nhân, nhất là những người cần phải được giúp đỡ để nên hoàn thiện hơn.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nhắc cho chúng ta về thái độ phải có đối với những người tội lỗi trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng đồng thời là cộng đoàn bao gồm những người yếu đuối, có thể lỗi phạm. Lời Chúa dạy về việc sửa lỗi huynh đệ cần được chúng ta lưu tâm: Kẻ phạm lỗi kia là người anh em chúng ta, chứ không phải là kẻ thù. Lời khuyên, giúp đỡ, sửa lỗi riêng tư phải là bước đầu tiên; kế đến là việc sửa lỗi chung nhờ sự hỗ trợ của cộng đoàn; cuối cùng là phán quyết của vị đại diện đã được Chúa trao cho tác vụ bảo vệ sự hiệp nhất và hiệp thông cũng như chữa trị những gì làm hại đến cộng đoàn (Mỗi ngày một tin vui).
Phải hết sức tế nhị trong việc sửa lỗi, đừng ăn nói một cách thẳng thừng. Sự việc đã xảy ra: Khi chứng kiến đội tuyển bóng đá nước nhà thắng chật vật đội Đài Loan với tỉ số 2-1, một vị quan chức nọ đã nói: “Ông Miura (huấn luyện viên của đội tuyển Việt Nam) là huấn luyện viên dở nhất trong lịch sử”.
Khi gặp điều không ưng ý, hay khi đứng trước những lỗi lầm, sai phạm, khuyết điểm của người khác, chúng ta thường có thói quen chỉ trích, chê bai họ cách công khai, quyết liệt, nhằm làm mất uy tín của họ, để rồi qua đó, ta kín đáo đề cao chính mình.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy có thái độ tôn trọng và tế nhị khi sửa lỗi người khác. Khi ấy, chúng ta hãy gặp riêng họ, chỉ một mình ta với họ mà thôi. Việc gặp gỡ riêng tư này giúp hai bên nói chuyện với nhau cách cởi mở hơn, cũng như hiểu biết nhau nhiều hơn. Không những vậy, việc này còn giúp chúng ta giữ gìn thanh danh và uy tín của họ.
Nói chung, tinh thần sửa lỗi cho nhau phải hoàn toàn đặt trên “nền tảng đức ái”, nhằm cứu vãn và xây dựng hơn là áp dụng kỷ luật. Vì đối với Chúa, mọi phương thức phải được sử dụng để đưa người tội lỗi trở về trước khi vấn đề được đặt ra trước cộng đoàn. Và nếu cộng đoàn phải dùng quyền, để loại trừ một phần tử bất khả kháng, thì điều này cũng chỉ vì bác ái mà thôi, bác ái đối với đương sự trước tiên, để đương sự biết hồi tâm hoán cải, sau đó bác ái với các phần tử khác trong cộng đoàn, kẻo có ai theo gương xấu mà phạm tội.
Sửa lỗi cho nhau là một nghệ thuật rất khó đạt được sự hoàn chỉnh. Do đó điều quan trọng trước tiên là phải tập cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Kitô ở giữa chúng ta. Nhờ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Kitô và nhờ sức mạnh của Ngài, chúng ta có thể dễ dàng giúp nhau sửa lỗi trong tinh thần xây dựng. Nếu những bệnh nhân cần đến sự săn sóc chữa trị của bác sĩ, thì những người lỗi lầm cũng cần đến tình thương và cảm thông của người khác để được nâng đỡ và khích lệ trên con đường hoán cải.
Chương 18 Tin Mừng Mátthêu gồm những giáo huấn của Chúa Giêsu về thái độ của người môn đệ trong cộng đoàn. Ở đây chúng ta đọc thấy điểm căn bản cho giáo lý về Giáo Hội như một sự hiệp thông, một cộng đoàn, một thân thể của Chúa Kitô. Chính Chúa Giêsu đã quả quyết: “Ở đâu có hai hay ba người họp lại nhân danh Thầy thì có Thầy ở giữa họ”. Ðây là yếu tố quyết định cho lời cầu xin của chúng ta, vì chính Chúa Giêsu mới là Ðấng làm cho lời cầu xin của chúng ta được Thiên Chúa nhậm lời.
Một điểm nữa được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay, đó là thái độ phải có đối với những người tội lỗi trong cộng đoàn. Tội lỗi, nết xấu, đó là một thực tại không thể tránh được, dù đó là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu qui tụ. Cộng đoàn có Chúa hiện diện, nhưng đồng thời là cộng đoàn bao gồm những con người yếu đuối, có thể lỗi phạm. Lời Chúa dạy về việc sửa lỗi huynh đệ cần được chúng ta lưu tâm: Kẻ phạm lỗi kia là người anh em chúng ta, chứ không phải là kẻ thù. Lời khuyên, sự nâng đỡ, sửa lỗi riêng tư phải là bước đầu tiên; kế đến là việc sửa lỗi chung nhờ sự hỗ trợ của cộng đoàn; cuối cùng là phán quyết của vị đại diện đã được Chúa trao cho tác vụ bảo vệ sự hiệp nhất và hiệp thông cũng như chữa trị những gì làm hại đến cộng đoàn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta kiểm điểm lại thái độ sống của chúng ta: chúng ta đã làm gì để duy trì sự hiệp nhất trong cộng đoàn? Chúng ta đã đối xử ra sao trước tội lỗi của chính mình cũng như của người khác?
2022
Con đường cứu độ của Chúa
8.8 Thánh Đa Minh, Lm
Ed 1:2-5,24-28; Tv 148:1-2,11-12,12-14,14; Mt 17:22-27
Con đường cứu độ của Chúa
Ngay từ lúc còn nhỏ, thánh nhân đã mến mộ sự học hành, cầu nguyện, hãm mình, sống khắc khổ và yêu thương người nghèo. Mỗi ngày đều có giờ nhất định để cầu nguyện và ngài ăn chay hãm mình luôn. Ngày kia có người đến xin Ngài giúp đỡ để chuộc lại đứa em bị bắt, ngài không còn tiền cho người ấy, vì đã bố thí hết, nên nói:
– Tôi không còn tiền, nhưng này chị hãy dẫn tôi nộp cho người ta, để chuộc em chị về.
Người này không thể chấp nhận được đề nghị đó, nhưng lòng hết sức cảm phục sự hy sinh cao độ của Ngài.
Vì muốn dâng mình giúp việc Chúa, nên thánh nhân được gọi đến thụ giáo với một Linh Mục ở Gumiel d‘Izan. Năm 14 tuổi, Ngài gia nhập Đại chủng viện tại Palencia. Sau khi hoàn tất việc học, Ngài được Đức cha Diégo de Azsvedo truyền chức Linh mục. Và vì thấy ngài thông minh nhân đức, nên Đức Giám mục Martin de Bazan đặt ngài làm Kinh sĩ ở Osma.
Lúc Đức cha sang Pháp lo việc mục vụ, thánh nhân được đi theo. Trong thời gian ở đây, ngài thấy tận mắt những khó khăn do bè rối Albigeois gây ra cho Hội Thánh. Họ chủ trương tất cả những gì thuộc về vật chất đều xấu xa: muốn hoàn thiện phải tận diệt vật chất, sống hoàn toàn khắc khổ. Ngài quyết định đem hết khả năng chống lại chủ trương sai lạc của họ. Nhưng nhận thấy một mình không thể đương đầu với sức bành trướng quá mạnh của họ nên ngài kêu gọi nhiều nhà truyền giáo nhiệt thành cộng tác. Đó là những người sau này sẽ trở nên tu sĩ hội dòng Ngài sáng lập, gọi là “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”.
Một cộng tác viên của ngài kể lại:
“Đaminh có một đời sống luân lý, một lòng sốt sắng kính mến Chúa mãnh liệt, đến nỗi hiển nhiên ai cũng thấy ngài là tác phẩm của sự cao trọng và ơn thánh. Ngài có một tâm hồn bình thản đến nỗi chỉ rộn lên khi phải trắc ẩn và thương xót. Và vì tâm hồn hân hoan thì làm cho bộ mặt rạng rỡ, nên ngài cũng để lộ sự bình thản của tâm hồn ngài ra trên nét mặt hiền từ và vui tươi của Ngài.”
“Đâu đâu ngài cũng tỏ ra một con người của Tin mừng, cả trong lời nói lẫn hành động.”
“Ngài năng dâng lên Chúa lời cầu xin đặc biệt này là cho ngài được lòng bác ái chân thật, có khả năng săn sóc và đem lại phần rỗi cho người ta. Ngài nghĩ mình sẽ thật là chi thể của Chúa, nên tiên vàn mình đem hết sức lực mình ra cứu rỗi các linh hồn, giống như Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc mọi người, đã tận hiến mình để cứu chuộc chúng ta. Và chính để làm công việc ấy mà theo ý Chúa an bài sâu xa, Ngài đã lập ra “Dòng Anh Em Thuyết Giáo.”
Suốt sáu năm trời, thánh nhân dâng lời cầu nguyện, sự hy sinh kèm theo lời rao giảng kêu gọi moị người trở về với đức tin chân chính, nhưng kết quả không được bao nhiêu. Ngài buồn sầu than thở với Mẹ Maria và được Mẹ dạy bảo hãy rao giảng và cổ động mọi người lần chuỗi Môi Côi, để nhờ đó Mẹ cầu cùng Chúa cho những người lầm lạc trở về với Hội Thánh. Vâng lời Đức Mẹ, ngài đem hết khả năng truyền bá chuỗi Môi Côi, giải thích các mầu nhiệm thánh, kêu gọi mọi người thực hành việc đạo đức này. Kết quả thật là lùng! Không bao lâu, những người tội lỗi và kẻ lầm lạc ăn năn trở về với Chúa. Thánh nhân hết sức vui mừng, tạ ơn Chúa và tri ân Đức Mẹ.
Năm 1215, thánh nhân đến Rôma, xin Đức Thánh Cha Honoriô III châu phê luật dòng vào ngày 22/10/1216. Từ đó, dòng phát triển mạnh mẽ và có mặt trên khắp thế giới .
Thánh nhân qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1231 Đức Thánh Cha Gregoriô thứ IX đã tuyên hiển thánh cho ngài.
Tường thuật phúc âm trong ngày lễ kính Cha Thánh hôm nay, gồm tóm tất cả những điều nhắn nhủ của Chúa Giêsu dành cho những ai muốn làm môn đệ của Ngài, muốn bước đi theo Ngài trên con đường rao truyền Tin Mừng cứu độ đặc biệt bằng linh đạo Đa Minh.
Trước hết, theo cái nhìn của thánh Luca con số 72 muốn nói lên rằng, tất cả mọi Kitô hữu chúng ta là những môn đệ của Chúa Giêsu, là những người được Chúa chọn, được Chúa chỉ định và sai đi. Chúng ta được nhắc nhở phải ý thức về nhiệm vụ của mình, nhiệm vụ ấy phải được thi hành chung với những môn đệ khác (c.1). Và khi thi hành nhiệm vụ người môn đệ cũng ý thức mình thuộc về nhóm môn đệ của Chúa Giêsu và dưới quyền chỉ đạo của Ngài. Qủa vậy, ý thức rằng mình được Chúa mời gọi, ý thức rằng phải hiệp thông với Hội Thánh, ý thức rằng mình thuộc về Chúa Giêsu và ra đi làm môn đệ cho Ngài đó là điều quan trọng nhất của một người môn đệ.
Hơn nữa, người môn đệ cũng ý thức về lời mời gọi đi đến mọi nơi, đến “tất cả các thành”, loan truyền Tin Mừng cho mọi người. Người môn đệ cũng được nhắc nhở ý thức rằng : loan Tin Mừng là sứ vụ cần thiết như “lúa chín đầy đồng” không thể bỏ bê, cũng không thể chậm trễ. Tuy nhiên, người môn đệ cũng được khuyến cáo lưu tâm về những hiểm nguy và khó khăn mà mình sẽ gặp phải “như chiên con đi vào giữa bầy sói”.
Sau khi Chúa Giêsu nhắc nhở về toàn bộ những điều mà người môn đệ phải ý thức khi thực thi sứ vụ. Chúa Giêsu tiếp tục nhắn nhủ người môn đệ về hành trang mà họ cần phải mang theo. Hành trang ấy phải gọn nhẹ, chỉ để phục vụ sứ mạng, không cồng kềnh để rồi bị chi phối làm chậm hoặc làm chùn bước chân sứ vụ. Người môn đệ cũng không bận tâm về nơi ăn chốn ở, về những phương tiện vật chất cá nhân, những nhu cầu phục vụ đời sống thường ngày.
Về các tương quan Chúa Giêsu cũng nhắc thêm cho người môn đệ rằng : người môn đệ phải thanh thoát không dính bén và níu kéo những tình cảm nảy sinh dọc đường theo kiểu “chào hỏi” Đông phương. Một lòng một ý chu toàn sứ mạng cách khẩn thiết, không la cà, không chậm trễ, không phân tán. Chỉ liên đới và cộng tác trong sứ vụ mà thôi.
Về tác phong, Chúa Giêsu muốn người môn đệ không tìm thỏa mãn vật chất cá nhân, không tìm tư lợi cho riêng mình, không mong thù lao, không yêu cầu lương bổng, không quan tâm đến những đòi hỏi mang nặng tính trần thế. Người môn đệ phải biết bằng lòng với những sự đón tiếp, những gì sẽ gặp phải trong khi thi hành sứ vụ cách vui tươi.
Cách riêng,về lời nói và hành động của người môn đệ phải có dấu hiệu mang bình an và chữa lành. Đối với mọi người thì người môn đệ đem “bình an”, nhưng đối với những tâm hồn đau thương tan nát thì người môn đệ phải “xoa dịu và chữa lành”. Không chỉ đem bình an hoặc chữa lành, nhưng Chúa Giêsu còn đòi hỏi cao hơn là đem niềm vui, bằng cách loan báo rằng “triều đại Thiên Chúa đã đến gần”.
Nghe lại tường thuật của Thánh Luca hôm nay trước những đòi hỏi của Chúa Giêsu về người môn đệ, chúng ta như thấy mình được nhắc nhở rằng : Đôi khi chúng ta muốn làm môn đệ cho Chúa, nhưng chúng ta lại quên đi mình đang thuộc về Chúa, được Chúa hướng dẫn ; đôi khi chúng ta lại quên rằng mình cần phải hiệp thông trong Hội Thánh, chúng ta mải mê nhiệt tình đi con đường của riêng chúng ta, mà rời xa dần Hội Thánh cũng như rời xa dần thầy Giêsu.
Đôi khi làm môn đệ cho Chúa, nhưng chúng ta lại ưa thích ngồi những chỗ an toàn, chọn những tiện nghi dễ chịu, níu kéo và bám víu vào những tình cảm chóng qua… Tất cả những thứ ấy đã làm bước chân sứ vụ của chúng ta như chậm lại, những thứ ấy đã làm cho nhiệt tâm tông đồ của chúng ta như cạn kiệt, những thứ ấy làm cho chúng ta bị chi phối vỡ vụn, phân mảnh.
Ước chi khi nghe Lời Chúa hôm nay, mỗi người trong chúng ta cũng hãy mau mắn lên đường vì “lúa đã chín đầy đồng”, ước gì mỗi chúng ta cũng thực thi được những đòi hỏi mà Chúa muốn khi làm tông đồ cho Ngài. Điều này lại càng được thôi thúc hơn, bởi chúng ta là con cái của Cha Thánh Đa Minh, người Cha hết lòng cho sứ vụ Loan Báo Tin Mừng. Chúng ta hãnh diện về điều đó. Chúng ta hăng say lên đường với niềm tin tưởng cùng đi với Cha Đa Minh.