2022
Tỉnh Thức Trong Phục Vụ
19/10 Thứ Tư
Thánh Isaac Jogues và Gioan de Brebeuf và các bạn tử đạo
Ep 3:2-12; Is 12:2-3,4,5-6; Lc 12:39-48
Tỉnh Thức Trong Phục Vụ
Là nhà thừa sai dòng Tên, Isaac Jogues tới Quêbéc, nước Canađa. Ở đó, thánh nhân làm việc giữa những người Huron, giải thích cho họ biết về sứ điệp Tin mừng của Đức Chúa Giêsu và rửa tội cho những người xin gia nhập Công giáo.
Thánh Gioan de Brebeuf trở thành tu sĩ dòng Tên sau một cơn lao phổi dữ dội. Ngài và thánh Gabriel Lallơmông là những thành viên thuộc nhóm các tu sĩ dòng Tên can đảm bị những người Irôquơ bắt giữ và giết chết.
Tất cả các vị anh hùng của Chúa Kitô này đã can đảm hiến dâng mạng sống mình vì những người dân bản địa vùng Bắc Mỹ.
Thánh Isaac Jogues sinh năm 1607 tại thành phố Ôlins, nước Pháp. Thánh nhân gia nhập dòng Tên năm 1624. Là nhà thừa sai dòng Tên, Isaac Jogues tới Quêbéc, nước Canađa. Ở đó, thánh nhân làm việc giữa những người Huron, giải thích cho họ biết về sứ điệp Tin mừng của Đức Chúa Giêsu và rửa tội cho những người xin gia nhập Công giáo. Năm 1642, một số chiến binh thuộc bộ tộc Irôquơ đã bắt giữ ngài cùng với 5 tu sĩ dòng Tên người Pháp và 2 tông đồ giáo dân Pháp khác.
Trong suốt một năm, Thánh Isaac Jogues và các bạn của ngài đã bị tra tấn kinh khủng. Nhưng một người Hà Lan đã giúp Isaac Jogues trốn thoát và ngài đã trở về Pháp. Đến năm 1644, Isaac Jogues lại xin được tới Quêbéc. Đang lúc trên đường đến với những người Irôquơ, sau một hiệp ước hòa bình ngài đã ký với bộ tộc ấy, Isaac Jogues đã bị những người Mahawk bắt giữ và giết chết.
Thánh Gioan de Brebeuf trở thành tu sĩ dòng Tên sau một cơn lao phổi dữ dội. Ngài và thánh Gabriel Lallơmông là những thành viên thuộc nhóm các tu sĩ dòng Tên can đảm bị những người Irôquơ bắt giữ và giết chết. Cha Antôn Đanien vừa mới cử hành xong thánh lễ cho những tân tòng thuộc làng Huron thì những người Irôquơ tới tấn công ngôi làng. Những người tín hữu Anhđiêng năn nỉ cha bỏ trốn, nhưng cha Đanien đã ở lại để rửa tội cho tất cả những người đang khóc lóc xin cha ban bí tích Thanh tẩy cho họ trước khi tất cả đều bị giết. Những người Irôquơ đã thiêu sống cha trong nguyện đường nhỏ bé của ngài.
Thánh Carôlô Garniê, tuy bị bắn bởi phát súng hỏa mai Irôquơ trong một vụ tấn công đột xuất, vẫn cố gắng bò tới giúp một người bạn đang hấp hối. Sau đó, ngài bị chém chết bởi một nhát rìu. Cha Nôel Cabanel cảm thấy cuộc sống truyền giáo tại Tân Thế Giới thật khó khăn, nhưng cha đã thề nguyền sẽ ở lại Bắc Mỹ. Cha bị một kẻ phản bội thuộc bộ tộc Huron giết hại. Hai vị tông đồ giáo dân, Rênê Gupin và Gioan Laland, đều bị giết bởi những nhát rìu của người da đỏ. Tất cả các vị anh hùng của Chúa Kitô này đã can đảm hiến dâng mạng sống mình vì những người dân bản địa vùng Bắc Mỹ. Người ta thường gọi các ngài là các thánh tử đạo tại Bắc Mỹ. Các ngài được Đức Thánh Cha Piô XI tôn phong lên bậc Hiển thánh năm 1931.
Ngày nay người ta phạm rất nhiều tội nghịch lại với nhân phẩm con người. Chúng ta hãy xin các thánh tử đạo hôm nay chia sẻ cho chúng ta tình yêu thương lớn lao và lòng kính trọng đặc biệt đối với tất cả mọi người. Chúng ta hãy nài xin các ngài ban cho chúng ta quả tim truyền giáo của các ngài.
Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nói lên quan niệm của Ngài về quyền bính. Các Tông đồ không ngừng tranh luận với nhau về quyền bính; cái giấc mộng công hầu khanh tướng luôn ám ảnh các ông, ai trong các ông cũng muốn ngồi chỗ cao trong Vương Quốc mà họ tưởng Chúa Giêsu đã đến để thiết lập. Nhưng đối lại với tham vọng ấy, Chúa Giêsu cho thấy rằng quyền bính là để phục vụ; trong Nước Ngài, kẻ càng được trao nhiều quyền hành, càng phải là người phục vụ, mà phục vụ theo đúng nghĩa là hoàn toàn quên mình để sống cho người khác.
Đời sống chúng ta, những Kitô hữu, là một cuộc hành trình đức tin, chúng ta luôn bảo vệ ơn nghĩa cùng Chúa, biết dùng ơn Chúa mà sống tốt lành như người quản gia trung tín và khôn ngoan, luôn khao khát và chăm chú vào việc đón tiếp Chúa sắp đến cách trung thành kiên nhẫn, chờ đợi trong tư thế tỉnh thức không thiếp ngủ trong đam mê xác thịt, luôn bảo vệ phần rỗi linh hồn mình cho tới khi Chúa đến. Việc tỉnh thức sẵn sàng cần thiết cho mọi người, nhưng với những người có trách nhiệm phải trả lẽ trước mặt Chúa về phần rỗi của người khác, thì tư cách sẳn sàng và tỉnh thức là biết chu đáo bổn phận được trao phó cách trung thành và khôn ngoan nữa.
Nguyên nhân chúng ta xao lãng việc lo cho phần rỗi của mình, là quên giờ chết của mình sắp đến, nghĩ còn lâu chủ mới về, nên liều mình trong thói hư tật xấu, khiến cho giờ chết đến bất ngờ không kịp chuẩn bị. Chúng ta còn cần tìm biết ý Chúa và thi hành, chứ đừng nói mà không làm, biết ý Chúa để truyền đạt cho những người chúng ta có trách nhiệm về phần rỗi của họ, chứ không như một con chó câm. Chúng ta, những Kitô hữu, là những người quản lý ơn Chúa, phải dùng mà làm sáng danh Chúa, lo cho phần rỗi mình và anh em đồng loại, không được phung phí, hay dùng theo sự ích kỷ của mình, không theo ý Chúa. Phải biết yêu Chúa và làm mọi sự như một người quản lý trung thành và khôn ngoan, để yêu thương mọi người.
Do phép Rửa, người Kitô hữu chúng ta được tham dự vào chức vị vương giả của Chúa Kitô. Chúa Kitô là Vua, nhưng là Vua của phục vụ. Cung cách vương giả của Ngài là quì trước các môn đệ và rửa chân cho họ. Do đó, tham dự chức vụ vương giả của Chúa Kitô, chúng ta cũng được trao cho một thứ quyền bính, và quyền bính ấy tương đương với phục vụ. Người ta không thể là Kitô hữu, không thể là môn đệ Chúa Kitô mà lại khước từ phục vụ.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tỉnh thức. Sự tỉnh thức đích thực của người Kitô hữu chính là phục vụ. Càng phục vụ, họ càng nhận ra được Nước Chúa đang đến; càng phục vụ, họ càng nên giống Chúa trong cung cách vương giả của Ngài. Ai lãnh nhận nhiều sẽ bị đòi nhiều. Ân sủng dồi dào mà chúng ta lãnh nhận qua Bí Tích Rửa Tội là để san sẻ; tình yêu chúng ta cảm nhận được trong đức tin là để trao ban. Sự thức tỉnh đích thực của người Kitô hữu chính là ý thức rằng sống là để yêu thương và phục vụ, và đó cũng là hạnh phúc đích thực, vì “cho thì có phúc hơn là nhận”. Ước gì chúng ta luôn thức tỉnh trong hướng đi ấy.
2022
HÃY TỈNH THỨC
18/10 Thứ Ba
Thánh Luca, Thánh Sử
Ep 2:12-22; Tv 85:9-10,11-12,13-14; Lc 12:35-38
HÃY TỈNH THỨC
Theo các nhà Kinh Thánh học, thánh Luca đã hiến cho chúng ta hai tác phẩm: một là cuốn Tin Mừng thứ ba và hai là sách Tông Đồ Công Vụ.
Qua các tông đồ, nhất là Mẹ Maria và thánh Phaolô, thánh Luca đã ghi lại tiểu sử của Chúa Giêsu bằng những nét đặc sắc. Ngài đã hết lòng ca tụng ơn cứu độ và lòng từ bi của Thiên Chúa. Qua những truyện như: Người con phung phá, người Samaritanô nhân hậu, ông Giakêu, người trộm lành… chúng ta thấy đuợc phần nào chủ ý của thánh nhân khi ngài muốn trình bày cho chúng ta thấy một cách cụ thể về lòng từ bi của Thiên Chúa.
Tin Mừng thánh Luca cũng là Tin Mừng về đời sống cầu nguyện. Ngài đặt trước mắt chúng ta gương cầu nguyện của Chúa Giêsu trước khi Chúa chịu phép rửa, trước khi khi chọn môn đệ, trước khi biến hình sáng láng, lúc hấp hối trong vườn Giêtsimani và cả trên thánh giá.
Tin Mừng của ngài là Tin Mừng cho những người bị áp bức. Không Tin Mừng nào làm cho chúng ta có thể thấy được một sự lưu tâm đáng yêu mà Chúa dành cho những người thu thuế và tội lỗi như trong Tin Mừng thánh Luca: Chúa đến để tìm kiếm những gì đã mất… một người nữ ngoại tình, một người thu thuế thống hối, một tên trộm ăn năn… Không một Tin Mừng nào diễn tả được tấm lòng tha thiết của Chúa dành cho những người bơ vơ nghèo đói cho bằng dưới ngòi bút điêu luyện của Luca.
Tin mừng của thánh Luca là Tin Mừng của niềm vui vì ngay từ đầu, và bàng bạc trong Tin Mừng của ngài, có rất nhiều chỗ nói về niềm vui như loan báo tin vui cho Zacharia, truyền tin cho Maria. Những niềm vui liên tục khi Thánh Gioan chào đời, lúc Chúa giáng sinh… Những niềm vui trong chương 15 khi tìm thấy con chiên lạc, tìm được đồng tiền mất, gặp lại người con hoang và niềm vui nân hoan của các tông đồ khi trở lại Giêrusalem. Ðúng như Harnack đã nói: “Có những nét vui tươi, can trường và chiến thắng âm vang trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của Thánh Luca từ trang đầu cho tới trang chót.”
Tin Mừng của thánh Luca còn được gọi là Tin Mừng của những người phụ nữ bởi vì không Tin Mừng nào vai trò của người phụ nữ được nhắc tới với một lòng kính trọng như Tin Mừng của thánh Luca. Những câu chuyện về những người phụ nữ đặc biệt như những chị em phụ nữ đi theo phục vụ Chúa Giêsu và tông đồ đoàn chỉ có thể tìm thấy trong Tin Mừng của thánh Luca.
Sau hết, khi trình bày, thánh Luca như cố ý cho chúng ta thấy những điều kiện cần thiết để tin theo Chúa cũng như để đuợc gia nhập Nước Trời. Những điều kiện đó là đức tin, lòng khiêm nhường, thống hối, dám chấp nhận những khó khăn, biết sống bác ái và kiên trung trong đau khổ.
Cũng như Tin Mừng, cuốn Tông Đồ Công Vụ của thánh Luca là một bằng chứng sống động về việc Chúa Thánh Thần hoạt động trong đời sống truyền giáo của các tông đồ và đời sống của Giáo Hội lúc sơ khai. Đây cũng là cuốn lịch sử đầu tiên của Giáo hội. Đọc sách Công vụ chúng ta không thể không cảm thấy một nguồn vui thanh cao và sống động đuợc bùng phát lên từ sự nhận biết Thiên Chúa của các tín hữu đầu tiên, và rồi kết quả sau đó là một cuộc sống được định hướng bằng tình bác ái chân thực, bằng tinh thần hy sinh xả kỷ, cũng như bằng bầu khí cầu nguyện, bằng sự hiệp nhất cao độ, lòng hợp lòng, với một đức tin, và một tình yêu duy nhất để hình thành nên những cộng đoàn thánh thiện giữa các tông đồ và những người tin Chúa của Giáo hội sơ khai.
Mặc dầu lịch sử không cho chúng ta những tài liệu chính xác về gia thế và đời sống của thánh Luca, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng: thánh Luca thuộc gia đình nề nếp và giàu sang tại Antiokia. Khi còn bé, Ngài được giáo dục chu đáo về cả đức tính, văn hóa và nghề nghiệp. Ngài theo học các khoa cổ điển của nền văn minh Hy lạp và chuyên nghề lương y. Từ buổi đầu, thánh Luca vẫn chưa biết Chúa. Cho đến một ngày kia thánh Phaolô đến Troa giảng đạo Chúa Giêsu. Luca vào nghe và sau khi suy nghĩ, cân nhắc cẩn thận và nhận thấy giáo thuyết thánh Phaolô giảng rất thâm trầm hợp lý, Ngài liền tin theo. Ngài chịu phép rửa tội và theo làm môn đệ thánh Phaolô, ngày đêm học hỏi Kinh Thánh và làm thư ký cho thánh Tông đồ.
Quãng năm 49, nghĩa là khi khởi sự truyền giao lần thứ hai, thánh Phaolô cùng mang thánh Luca đi theo. Nhưng rồi hai thầy trò lại chia lìa nhau một thời gian. Có lẽ kỳ này thánh Luca trở về sinh quán làm nghề lương y. Đến sau hai thầy trò lại gặp nhau tại Philipphê. Từ đây thánh Luca cùng đi giang đạo với thánh Phaolô. Nhưng đến khi thánh Phaolô bị người Lamã bắt cầm tù, thì thánh Luca cũng từ giã đế đô, và chúng ta không biết gì về quãng cuối đời của Ngài nữa.
Đọc Tin Mừng thứ ba và Công vụ tông đồ, chúng ta thấy thánh Luca rất lỗi lạc về văn chương Hy lạp. Ngài quả là một nhà văn học kỳ tài, luôn thay đổi từ ngữ và dùng những danh từ thích hợp với đặc tính văn chương của người Hy lạp thời bấy giờ. Thánh nhân tỏ ra rất nghệ thuật trong việc bố cục câu chuyện thế nào cho rõ ràng, hấp dẫn, gợi nhiều ý tưởng và tâm tình, chẳng hạn dụ ngôn người con người phung phá và câu chuyện hai người du khách trên đường Emmau phải là hai kiệt tác văn chương, có nhiều giá trị nghệ thuật không kém gì những áng văn hay nhất của người Hy lạp thời ấy.
Hơn thế, thánh Luca còn là một người rất sành tâm lý. Thánh nhân đã mặc cho mỗi nhân vật trong Tin Mừng cũng như trong các dụ ngôn những tâm tình, cử điệu và lời lẽ phù hợp với điạ vị riêng của họ. Phải chăng nhờ tài nghệ này, thánh Luca đã đề cao đến chữ trọn hảo địa vị Cứu thế của Chúa Giêsu: Chúa nhân lành tự trời đến với loài người lầm than tội lỗi. Chúa tự hiến mình trên thập giá để tẩy xóa mọi tội trần và thông ban ơn sủng đời sống mới cho các tâm hồn.
Với một sự hiểu biết sâu xa về sứ mệnh Cứu thế của Chúa như vậy, hẳn thánh Luca đã nhiệt thành với nhiệm vụ phổ biến Tin Mừng cứu thế không kém gì thánh Phaolô. Nhưng Ngài giảng đạo tại đâu và chết như thế nào thì theo một tài liệu tìm thấy ở Constantinople, thánh Luca đã giảng đạo tại Achaie và Beotie. Và sau cùng làm giám mục thành Thèbes. Trong bài thực hành cuốn chú giải Tin Mừng thánh Matthêô, Thánh Hiêrônimô nói rõ thánh Luca đã viết Tin Mừng thứ ba tại Achaie và Beotie, sau cùng thánh Gaudence de Brescia quả quyết thánh Luca cùng chịu tử đạo với thánh Andrê tại Patras một tỉnh nhỏ thuộc vùng Achaie.
Ngày nay thánh Luca là quan thầy của các lương y và bác sĩ. Ngài cũng là bổn mạng các nhà họa sĩ, vì theo một truyền thuyết thì thánh nhân đã họa bức ảnh chân dung Đức Mẹ đầu tiên mà nay chúng ta quen gọi là ảnh “Đức Mẹ hằng cứu giúp”.
Ngay từ đầu, Giáo hội vẫn kính lễ thánh Luca vào ngày 18.10 mỗi năm.
“Tỉnh thức và sẵn sàng” là sứ điệp mà Chúa Giêsu thường hay nhắc nhớ mọi người trong khi giảng dạy.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu dùng hình ảnh người chủ trở về bất ngờ sau bữa tiệc cưới để nhắc nhớ mọi người phải sống tỉnh thức và sẵn sàng. Chúng ta biết rằng tiệc cưới của người Do Thái thường kéo dài rất lâu, không ai có thể biết khi nào kết thúc (có khi buổi chiều, có khi nửa đêm, có khi muộn hơn nữa). Chính vì không biết đích xác giờ nào ông chủ sẽ trở về, nên đầy tớ luôn luôn phải sẵn sàng: sẵn sàng trong tư thế làm việc qua việc thắt lưng cho gọn (vì áo của người Do Thái dài, lụng thụng, nên để dễ làm việc phải thắt cho gọn lại); và sẵn sàng trong tư thế phục vụ qua việc thắp đèn sẵn để soi đường cho chủ thấy lối vào nhà.
Từ câu chuyện rất đời thường đó, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta cũng phải có thái độ tỉnh thức và sẵn sàng như người đầy tớ đợi ông chủ đi ăn tiệc cưới trở về, vì Thiên Chúa cũng đến với chúng ta cách bất ngờ như thế. Tuy nhiên trong cuộc sống hiện tại, giữ được sự tỉnh thức và sẵn sàng này không phải là điều dễ dàng, bởi vì để sống vươn lên, con người phải bon chen, phải đấu tranh về nhiều phương diện, do đó đôi lúc con người quên đi cùng đích của cuộc sống, nên sống như là chỉ có cuộc sống này mà thôi.
Sống tỉnh thức và sẵn sàng theo lời Chúa mời gọi là luôn sẵn sàng cho ngày giờ Chúa gọi chúng ta về với Chúa. Chúng ta xác tín rằng một ngày nào đó Chúa sẽ gọi chúng ta về, còn khi nào, cách nào, ở đâu? Thì chẳng có ai biết được. Do đó, chúng ta phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Sai lầm của chúng ta hôm nay là quá quan tâm đến những gì tạm bợ, chưa đủ quan tâm đến sự sống hạnh phúc đời đời của mình. Bao nhiêu thời gian, công sức, tiền của, tài năng, trí tuệ, nghị lực đều được sử dụng để đầu tư cho thân xác, cho cuộc sống tạm bợ đời này, để rồi khi kết thúc cuộc đời chỉ còn là một nấm đất :
“Trăm năm còn có gì đâu ?
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì !”
Cha Charles de Foucault nói rằng: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay”. Đó là một lời khuyên khôn ngoan, một lời khuyên lặp lại lời nhắn nhủ của chính Chúa Giêsu: “Hãy tỉnh thức, vì các con không biết giờ nào chủ sẽ về”.
2022
GIỮ MÌNH KHỎI MỌI THỨ THAM LAM
17/10 Thứ Hai
Thánh Inaxiô thành Antiôkia, Gmtđ
Ep 2:1-10; Tv 100:2,3,4,5; Lc 12:13-21
GIỮ MÌNH KHỎI MỌI THỨ THAM LAM
Người ta nghĩ rằng: Thánh Inhaxiô thành Antiôkia chính là đứa trẻ mà Chúa Giêsu đã ôm vào lòng và đặt giữa các tông đồ để làm gương mẫu về lòng trong trắng và đức khiêm tốn Kitô giáo. Vài tác giả còn quả quyết rằng: ngài là đứa trẻ đưa 5 chiếc bánh và 2 con cá cho Chúa Giêsu làm pháp lạ nuôi 500 người ăn. Điều chắc chắn là ngài đã được đặt làm giám mục thứ nhì kế vị Thánh Phêrô tại Antiôkia khoảng năm 68, sau khi Thánh Giám mục Evôda qua đời. Suốt 40 năm cai quản giáo phận, kể cả những năm bị bách hại dưới triều Domitianô, ngài đã tỏ ra là một giám mục gương mẫu về mọi nhân đức.
15 năm bình lặng sau cái chết của bạo vương Domitianô qua đi, cơn bách hại lại nhen nhúm ở vài tỉnh dưới thời Trajanô. Vị hoàng đế cuồng tín này cho rằng: mình đạt được nhiều chiến thắng là nhờ các thần minh. Ông coi việc bách hại các tín hữu Chúa là một nghĩa cử để tỏ lòng biết ơn các thần minh. Tháng giêng năm 107, ông tới Antiôkia. Được biết tại đây có Giám mục Inhaxiô đã không vâng lệnh thờ cúng tượng thần, lại còn ngăn cản người khác, ông truyền điệu ngài tới để xét hỏi. Sau khi đe doạ và dụ dỗ đủ cách mà vô hiệu, ông kết án vị giám mục thánh thiện này phải điệu về Roma cho thú vật xâu xé.
Cuộc hành trình về Roma mang sắc thái một cuộc khải hoàn. Mỗi khi con tàu dừng bến nào, dân chúng đều tuốn đến chào kính vị tử đạo. Nhân dịp này, Thánh Inhaxiô có dịp tiếp xúc với nhiều giáo đoàn và đã viết 7 bức thư cho các Giáo hội. Tuy vậy, chuyến đi không dễ chịu gì. Bọn lính áp giải đã cố tình hành hạ thánh nhân để mong được các tín hữu ngưỡng mộ ngài đút lót tiền bạc. Thánh nhân viết với lòng khiêm tốn:
Trên đất liền hay ngoài biển khơi, ngày đêm tôi phải chiến đấu với các súc vật, bị xiềng vào mười con sư tử. Tôi muốn nói là những người lính canh giữ tôi. Người ta càng cho tiền, họ càng hung dữ. Những người đối xử tàn tệ của họ là trường đào luyện tôi mọi ngày, nhưng không phải vì vậy mà tôi được nên công chính đâu.
Ở Smyrna, Thánh Inhaxiô đã gặp Thánh Pôlycarpô. Vị giám mục thánh thiện này cũng là môn đệ của Thánh Gioan như Thánh Inhaxiô. Thánh Pôlycarpô đã hôn xiềng xích của người bạn lừng danh. Tại đây, Thánh Inhaxiôco có dịp gặp đại diện của nhiều Giáo Hội tới thăm. Biết rằng ở Ahila Delphia có sự chia rẽ trong hàng giáo sĩ, ngài đã viết thư khuyên nhủ họ:
Hãy tránh xa những phân rẽ và các giáo thuyết nguy hiểm. Hãy theo mục tử các bạn khắp nơi như đoàn chiên. Tôi vui sướng hết mực những góp phần củng cố đức tin các bạn, nhưng không phải do tôi mà do Chúa Giêsu Kitô. Được mang xiềng xích vì danh Chúa, hơn lúc nào, tôi cảm thấy mình còn quá xa sự trọn lành. Nhưng kinh nguyện của các bạn sẽ làm cho tôi được xứng đáng với Thiên Chúa và với di sản mà lòng nhân từ và đã dọn sẵn cho tôi.
Các thư của các thánh nhân gửi riêng cho mỗi nơi, ngài ca tụng tinh thần kỷ luật của tín hữu Manhêsianô (Magnésiens): Tôi hãnh diện được gặp các bạn nơi cá nhân Đức Giám mục Damas của các bạn. Tuổi trẻ của ngài không được nên cớ để các bạn suồng sã với ngài. Các bạn cần phải tôn kính chính Thiên Chúa là Cha nơi ngài.
Với dân Trallianô (Tralliens), ngài viết: “Hãy yêu thương nhau. Xin cầu nguyện cho tôi nữa. Tôi cần đức ái và lòng nhân hậu Chúa để được nhận vào hưởng gia nghiệp mà tôi đã sẵn sàng chiếm hữu”.
Nhưng ngài sợ dân Rôma, vì nhiệt tâm mà cất mất triều thiên tử đạo của mình. Nhờ một du khách đi Italia, ngài khẩn khoản: “Các bạn không thể trao tặng cho tôi một bằng chứng quý mến nào khác, là để cho tôi được tế hiến mình cho Thiên Chúa. Ân huệ tôi van xin các bạn là hãy hát bài ca cám tạ ơn Chúa mà nhờ công nghiệp Chúa Giêsu Kitô, Đức Giám mục Smyrna bên Tây phương đã được, để ngài được đưa vào vinh quang. Hãy để cho tôi thành của ăn nuôi thú vật, hầu tôi được vui hưởng Thiên Chúa, Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa. Tôi cần được răng thú dữ nghiền nát để trở thành bánh tinh tuyền của Chúa Kitô.
Tốt hơn, hãy săn sóc các thú vật này để chúng thành nấm mồ của tôi. Chính lúc này tôi đang trở nên một môn đệ chân chính. Chớ gì những hình khổ độc dữ nhất đổ xuống mình tôi, miễn là tôi được Chúa Giêsu Kitô. Được cả thế gia này nào có ích lợi gì cho tôi? Tôi chỉ ước mong được kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô…
Ngài còn viết thêm: Ước mơ của tôi là được đóng đinh vào thập giá. Trong tôi chỉ có một dòng nước hằng sống vẫn rì rầm lời kêu gọi: Hãy về với Cha.
Thánh nhân còn viết nhiều điều khác nữa, bàn về chân lý đức tin, kỷ luật Giáo Hội và những sai lầm nguy hại.
Ngày 20 tháng 12 năm 107 là ngày cuối cuộc vui cũng là ngày Thánh Inhaxiô tới Roma. Sau khi đọc bức thư của nhà vua, quan tổng trấn truyền đem thánh nhân đến thẳng hí trường. Dân chúng đang tụ họp đông đảo. Ngài lặp lại câu nói đã viết trong trường hợp gửi dân Roma: “Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa. Tôi cần được răng thú dữ nghiền nát để trở thánh bánh tinh tuyền của Chúa Kitô”. Hai con sư tử gầm rống và bổ tới thánh nhân mà cắn xé. Người ta kính cẩn thu nhặt những khúc xương còn lại và đưa về Antiôkia. Dưới thời Hêracliô, xương ngài lại được đưa về Roma.
Ta thấy một anh thanh niên đến khiếu nại xin Đức Giêsu can thiệp để người anh phải chia gia tài cho anh ta. Nhưng Người từ chối, và nhân dịp này đã dạy mọi người phải tránh thói tham lam ích kỷ, cũng đừng trông cậy vào sự bảo đảm của tiền bạc cho tương lai cuộc đời mình.
Và rồi Chúa kể ra dụ ngôn về một người giàu có chỉ lo thu tích của cải và làm giàu cho bản thân. Điều đó thật là dại khờ! Vì chính lúc anh ta tưởng rằng tương lai cuộc đời của mình được của cải bảo đảm, để yên tâm nghỉ ngơi ăn uống và vui chơi thỏa thích, lại là lúc cái chết thình lình ập đến. Thế thì số tài sản của anh ta tích trữ kia sẽ về tay ai? Cuối cùng Người kêu gọi người ta hãy lo làm giàu về thiêng liêng, để những của cải này sẽ có giá trị trước tòa phán xét sau này.
Điều Chúa Giêsu muốn dạy qua Tin mừng hôm nay: Khi chết thì cái chúng ta cần đến không phải là những gì đã tích trữ được khi còn sống, mà chính là những việc tốt đã làm ở trần gian. Vì “Không phải hễ ai được dư giả, thì mạng sống người ấy nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”. Thực tế đã có biết bao người giàu phải ra đi mãi mãi khi chưa kịp “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã”.
Cho nên điều quan trọng chúng ta phải làm là: ý thức về giá trị đích thực của tiền bạc: Chúng chỉ có giá trị tương đối ở đời này và là phương tiện Chúa ban để chúng ta sử dụng mà phục vụ làm sáng danh Chúa và mưu ích cho tha nhân, nhờ đó chúng ta sẽ được hưởng hạnh phúc đời sau. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ coi tiền bạc là ông chủ, nhưng chỉ là đầy tớ. Vì quả thật: “Đồng tiền sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu !”.
2022
Can đảm
15/10 Thứ Bảy
Thánh Têrêxa thành Avila, Đtts
Ep 1:15-23; Tv 8:2-3,4-5,6-7; Lc 12:8-12
Can đảm
Trong Giáo Hội có nhiều thánh nữ mang danh là Têrêxa, và mỗi vị Têrêsa đều có một nét riêng đặc biệt nào đó. Thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu thường được trìu mến gọi bằng Chị Thánh vì tính cách đơn sơ dễ thương. Thánh Têrêxa Calcutta thường được gọi là Mẹ Têrêxa vì cung cách đối xử tốt lành mẹ giành cho những người nghèo khổ bệnh tật với tâm tình như một người mẹ hiền. Chúng ta còn có một Têrêsa-Mẹ, vì là mẹ Bề trên sáng lập dòng Cacmen, mà người Việt Nam thường gọi là Dòng Kín (vì kỷ luật nhiệm nhặt của dòng này). Đây chính là vị thánh mà hôm nay chúng ta muốn nói tới.
Thánh nữ Têrêsa sinh ngày 28/3/1515, tại Avila, nước Tây ban Nha. Thánh nữ là một trong 12 người con của một gia đình hàng quí tộc An-phong. Ngay từ nhỏ, Têrêxa đã tỏ ra thích đọc truyện các thánh. Với lòng nhiệt thành, em cảm thấy lòng mình lâng lâng niềm hạnh phúc vì những ân thưởng dạt dào Chúa dành cho những tâm hồn thánh thiện, cũng như run sợ tột độ khi nghĩ đến hình khổ mãi mãi của hỏa ngục. Có lần em đau khổ thốt lên: “ai có thể chịu nổi cái ý nghĩa như thế được?”.
Một hôm, em cùng cậu em trai là Rô-tin đọc hạnh các thánh tử đạo, thấy các ngài can đảm hi sinh chịu chết vì Chúa, và được nên thánh trong Giáo hội, Têrêsa bảo em: “chúng ta hãy đến chỗ người ta đang bắt đạo, để chị em mình được chết vì đạo, được Chúa thưởng lên trời hưởng phúc với các thánh”. Vì mong ước được tử đạo, nên một ngày kia, em lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành hạ các Kitô hữu; nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt được đem trở về nhà. Không được tử đạo, các em đành trở thành những nhà ẩn tu, làm những cái hầm nhỏ và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng đá cũng bị sập. Các em nhỏ này thường nhịn ăn để làm việc bác ái. Têrêsa có lòng kính mến Đức Mẹ và mỗi ngày đều lần hạt Mận Côi. Năm 12 tuổi, mẹ Têrêsa mất, ngài đến quì trước ảnh Đức Mẹ, xin Đức Mẹ nhận làm con, và hứa suốt đời sống xứng đáng là con của Đức Maria.
Rồi Têrêsa sang tuổi dậy thì, cô bắt đầu nhiễm mùi thế tục, ưa làm dáng, thích được người ta ngắm nhìn, khen ngợi ve vãn, ngày ngày mơ mộng viển vông. Cô lén đọc những truyện kiếm hiệp nên tâm hồn càng thêm mơ mộng phiêu lưu. Thấy vậy, cha cô lo âu rồi quyết định gởi cô vào nội trú nơi các nữ tu dòng Autinh. Têrêsa không thích thú gì, càng không muốn sau này mình trở thành nữ tu, nhưng cô buộc phải vâng lời cha. Và cô sắp tìm lại được lòng đạo đức của tuổi ban đầu khi sống gần những bậc thầy chân tu này. Một đàng, cô khao khát những của cải thiêng liêng bất diệt, nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm cô e sợ ngại ngùng.
Nhưng chẳng may, Têrêsa ngã bệnh nặng, phải trở về nhà chữa trị. Dường như Chúa muốn luyện lọc tôi tớ ngài qua nhiều thử thách:12 tuổi mồ côi mẹ, 15 tuổi nhiễm mùi thế tục, nay lâm trọng bệnh! Trong thời gian chữa bệnh, cô nhận ra đời sống con người thật mỏng manh, nay khỏe mai đau, nay còn mai mất. Và cái chết đến bất cứ lúc nào, và nếu chết mà sa hỏa ngục thì khốn khổ dường nào !…
Vớí ý nghĩ ấy, cô quyết định theo Chúa, hiến thân trọn vẹn cho Chúa, suốt đời chỉ yêu mến và phụng sự một mình Chúa thôi. Sau khi sức khỏe hồi phục, để thực hiện ý định, vào năm 1536, lúc này Têrêsa đã 19 tuổi, cô xin vào Dòng Kín tại Avila. Lúc đó nhà dòng còn sống thoải mái tự do, chưa nhiệm nhặt như ngày nay. Cô xác tín rằng ơn gọi của mình là sống đời nữ tu. Nhưng những chống đối dữ dội nổi lên trong lòng, cộng với sự phản đối chối từ của cha khiến cô khổ sở như xương cốt rã rời và tan nát con tim, nhưng cô đã mạnh mẽ thắng vượt mọi thử thách.
Vào năm 1555, Têrêsa cảm nhận một biến chuyển sâu xa trong tâm hồn khi suy niệm về cuộc thương khó của Chúa Giêsu, và cũng nhận được nhiều thị kiến lạ lùng được các nhà thần học công nhận là xác thực.Ngài phát biểu: “Mỗi khi suy tưởng đến Đức Kitô, chúng ta hãy nhớ đến tình yêu đã khiến Ngài ban cho ta biết bao ân huệ. Hãy nhớ Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta dường nào khi thể hiện tình yêu ấy nơi Đức Kitô. Và vì tình yêu đòi hỏi tình yêu nên mỗi khi nhớ đến điều ấy lại thúc đẩy chúng ta yêu mến hơn”.
Têrêsa đã trải qua 27 năm tại tu viện Nhập Thể nơi luật dòng chưa khép vào nhiệm nhặt như ngày nay. Ngài còn phải trải qua một bước dài trước khi dấn thân vào con đường chông gai để xây dựng và cải tổ dòng tu. Lại nữa, sức khỏe yếu kém của ngài xem ra không kham nổi cuộc thử thánh. Các bác sĩ đành bó tay trước tình trạng bệnh tật và khuyên ngài trở về nhà. Ngài chạy đến khẩn nài và phó thác nơi thánh Giuse như vẫn thường làm, và được khỏi bệnh cách lạ lùng. Têrêsa còn phải qua nhiều năm chịu thử thách bằng khô khan trong tâm hồn, bằng sợ hãi hỏa ngục.
Và trong vòng 20 năm, ngài không tìm được cha linh hướng hiểu được tình trạng tâm hồn mình để giãi bày những thị kiến bí ẩn. May thay sau cùng, ngài được cha Phanxicô Borgia nâng đỡ, rồi buộc ngài ghi lại những điều đã xảy ra trong lòng mình. Và thánh nữ một người ít học đã viết nên những tác phẩm có giá trị cao về tu đức, để sau này được Đức giáo hoàng Phaolô VI phong tặng danh hiệu Tiến sĩ vào ngày 27.9.1970.
Nếu khi bắt đầu đời tiến đức, sự sợ hãi các hình khổ đời đời đã dẫn Têrêsa vào con đường hẹp đưa tới sự cứu rỗi, thì nay tình yêu Chúa xâm chiếm tâm hồn như cơn hỏa hào dẫn tới việc ngài luôn kết hiệp với Đấng chịu đóng đinh và ước ao chịu khổ nên nhiều người được nghe thánh nữ thốt lên: “Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ”.
Ngày tự ràng buộc bởi lời khấn anh hùng này, nhưng lại chẳng tỏ ra nhiệm nhặt chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới mức gõ mõ mua vui cho chị em trong dòng. Vị nữ tu chiêm niệm này còn để lộ một hiểu biết tích cực , một tinh thần thực tiễn sẽ đưa ngài tới cuộc cải tổ dòng Camelô.
Định mệnh sắp đặt đưa ngài qua những chặng đường để thiết lập các tu viện theo hướng nhiệm nhặt. Trước hết, năm 1562, khép mình ở Avila, nhưng một nhà dòng mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu sống trong thinh lặng, khó nghèo, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong mọi mùa. Ra khỏi nơi này, Têrêsa không ngừng thiết lập những tu viện mới với trăm ngàn khó khăn chồng chất: phần vì chung sống với bệnh tật, phần vì những cuộc hành trình trong thời tiết nóng nung về mùa hạ hay lạnh lẽo thấu xương vào mùa đông, và những cuộc bắt bớ tấn công. Ngài viết cho một vị ân nhân: “Thiếu tiền bạc đã vậy, nhưng khi chúng tôi như bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy”.
Và khi đã vượt qua những trở ngại để thiết lập xong một tu viện, mẹ lại trải qua những đau đớn tâm lý khi giã từ các con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi khác. Ngài tâm sự:đây là nỗi thống khổ đau đớn nhất. Tim tôi tan nát vì nghĩ rằng sẽ không còn gặp lại họ nữa”. Được thánh Gioan thánh gía trợ lực, ngài trải rộng việc canh tân tới các tu sĩ dòng Camelô mà ngài muốn tái lập sự nghiêm nhặt ban đầu, điều gây nên bao xôn xao và đường như làm cho ngài bị cầm tù. Nhà vua và Đức giáo hoàng bảo vệ ngài. Ngài đã thiệt lập hơn 30 tu viện.những hoạt động chồng chất, những việc xây dựng,những cuộc du hành,những khó khăn vô số…đã không ngăn cản niềm vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên trì cầu nguyện đi tới xuất thần; ngài nói: “tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là người sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi”.
Với sự linh hoạt, ngài dùng vài lời tóm gọn linh đạo: “phải can đảm để có thể trở thành nữ tử của Cha trên trời. Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều. Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện việc sám hối, cầu nguyện, hi sinh, vâng lời. Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn. Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại. Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo việc bác ái và biết đặt hi vọng vào lòng thưong xót của Chúa”. Nhiệm nhặt nhưng vui tươi trong thánh thiện, đôi khi điểm chút hài hước hóm hỉnh như chi tiết sau đây được nhiều người biết đến khi ngài bị thương ở chân: “Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiến muộn, lại đến chuyện này nữa, cha đối xử với các bạn cha như thế đó…Vâng lạy Chúa, thảo nào Chúa ít bạn !”.
Chính tình yêu qúa mức hơn là cơn bệnh đã đưa tới cái chết của ngài. Khi đưa Thánh Thể như của ăn đàng vào phòng bệnh nhân, ngài tung mình ra hỏi giường nói to: “Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp nhau rồi”. Ngài qua đời ngày 15.10.1582, và đời đời Têrêsa đã hiệp nhất với tình yêu.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại cuộc sống. Ngày nay chúng ta thấy trong cuộc sống không có những cuộc bách hại đạo công khai, không còn những hình phạt đe dọa. Nhưng trái lại, người Kitô hữu đang phải trải qua rất nhiều những khó khăn phải chịu để nói lên niềm tin của mình đến mức độ như là tử đạo. Nhưng lời Chúa hôm nay dạy chúng ta hãy an tâm, vì “ngay trong giờ đó Thánh Thần sẽ dạy cho anh em biết những điều phải nói” (Lc 12, 12). Chúa Thánh Thần là hồn sống, Ngài luôn hoạt động trong Hội Thánh để dẫn dắt Hội Thánh can đảm rao giảng rao giảng Tin Mừng.
“Thầy nói cho anh em biết, phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Con Người cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt thiên thần của Thiên Chúa. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì sẽ bị chối trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa” (Lc 12, 8-9).
Hơn bao giờ hết trong cuộc sống chúng ta hôm nay dễ làm cho chúng ta quên Chúa, chúng ta không chối Chúa cách công khai như Thánh Phêrô xưa, nhưng những chi phối trong đời sống, chúng ta đã và đang trên đà chạy theo danh vọng, chức quyền, và chạy theo những nhu cầu trong cuộc sống, vì đồng tiền, vì công việc, và những thú vui trần gian, những trào löu trong xã hội, đã đang lôi cuốn chúng ta tất cả như một cơn gió lốc đang xoáy và cuốn tròn lại cuộc đời chúng ta trong cơn lốc trần thế này.
Đứng trước những cám dỗ của thời đại này, cũng có những lúc, chúng ta cũng có những lần chối Chúa, cũng có những lúc chúng ta như bỏ đạo, khi chúng ta lao mình vào trong những cuộc vui chơi giải trí với bạn bè, mà quên đi ngày lễ Chúa Nhật, thậm chí quên đi mình là một Kitô hữu, khi tôi bán rẻ lương tâm trong việc tham nhũng, khi lỡ lầm mà đã đi đến chỗ hủy hoại đi một mầm sống, và cũng có những lúc chúng ta bon chen vào những việc làm tội lỗi, vì có tiền và kiếm được nhiều tiền mà tôi đã quên hẳn đi tôi là môn đệ của Đức Kitô “người môn đệ công chính”. Trong hoàn cảnh như thế tôi như đã và đang làm đảo lộn đi chân tính người mộn đệ của Chúa. Đúng ra tôi phải tuyên xưng Chúa trong mọi nơi mọi lúc, thì thay vào đó tôi đã để Chúa bị quên lãng, mặc dù đã bao nhiêu lần tôi được nghe Chúa Giêsu bảo đảm và hứa ban phần thưởng trọng hậu cho ai tuyên xưng Ngài bằng cách trung thành với Ngài trong cuộc sống hôm nay.
“Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, và phải nói gì, vì ngay trong giờ đó Thánh Thần sẽ dạy cho anh cho anh em biết những điều phải nói” (Lc 12, 11-12). Lời Chúa ngày hôm nay chúng ta nghe đọc, được tiếp nối với Lời Chúa ngày hôm qua có cùng một “chủ đề”: Chúa Giêsu khuyên các môn đệ hãy mạnh dạn sống và rao giảng Tin Mửng. Đừng sợ! Ngài trấn an các môn đệ vì biết chắc rằng, trong hành trình rao giảng của các ngài còn có Thiên Chúa, Đấng luôn quan phòng và nhờ Chúa Thánh Thần cùng đồng hành. Tình thương Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người và bao bọc con người, bảo vệ cho con người được an toàn và luôn vui hưởng hạnh phúc, hãy luôn tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa, người luôn gìn giữ chở che.
Vậy được sống trong ân tình của Thiên Chúa, người Kitô hữu cố gắng sống sao cho xứng danh là người môn đệ: không gian tham, không bóc lột, không tham nhũng, nhưng luôn sống bác ái, khiêm nhường tha thứ thay vì báo thù. Người môn đệ của Chúa luôn sống theo tinh thần của Chúa trong mọi hoàn cảnh, dù phong ba bão tố của cuộc đời, dù an bình thư thái, người môn đệ luôn biết tuyên xưng Chúa Giêsu là Thầy và là Đấng Cứu Độ.