2022
Giới luật yêu thương là luật tối thượng của Đạo Công Giáo
24/10 Thứ Hai trong tuần thứ Ba Mươi Mùa Quanh Năm
Ep 4:32-5; Tv 1:1-2,2-3,4-5,6; Lc 13:10-17
Giới luật yêu thương là luật tối thượng của Đạo Công Giáo
Trong xã hội, luật lệ là điều cần thiết để duy trì một trật tự ổn định. Đôi khi luật đem lại sự công bằng cho kẻ yếu thế, nhưng đôi lúc nếu chỉ giữ luật theo nghĩa đen, thì vô tình luật lại đánh mất tinh thần bác ái đối với đồng loại, khi chỉ biết đối xử với nhau theo đúng luật. Trang Tin Mừng hôm nay là một điển hình.
Tin Mừng cho thấy rõ ý nghĩa Chúa Giêsu đã chữa một người đàn bà bị quỷ ám từ mười tám năm, quỷ ngăn cản bà nhìn lên Thiên Chúa, hướng về trời, vì nó bắt bà phải còng lưng hẳn xuống, không thể nào đứng thẳng lên được. Bà không ngừng hy vọng được chữa lành, nhưng mọi phương thuốc loài người đều vô hiệu, không thể giải phóng bà khỏi tật gù lưng. Biết được nguyện vọng của bà, Đức Giêsu kêu gọi bà lại, đuổi quỷ ra, và đặt tay trên bà, tức khắc bà đứng thẳng lên được và tôn vinh Thiên Chúa. Ông trưởng hội đường tức tối vì Đức Giêsu đã chữa bệnh vào ngày Sa-bát, ông đã lên tiếng nói với đám đông rằng: “Đã có sáu ngày để làm việc, thì đến mà xin chữa bệnh vào những ngày đó, đừng đến xin vào ngày Sa-bát”.
Chúa Giêsu đáp lại: “Thế ngày Sa-bát, ai trong các ngươi lại không cởi giây, dắt bò lừa rời khỏi máng cỏ đi xuống nước? Còn bà này là con cháu Áp-ra-ham, là con cái Thiên Chúa, bị sa-tan trói buộc đã mười tám năm nay, chẳng lẽ lại không được cởi xiềng xích đó trong ngày Sa-bát sao?”.
Ngày Sa-bát chính là ngày của Chúa đã giải phóng dân khỏi nô lệ thì bây giờ Ngài đã dùng quyền năng và lòng thương xót của Ngài mà cứu chữa bà này khỏi nô lệ sa-tan.
Lc 13, 10-17 thuật lại một phép lạ của Chúa Giêsu chữa người phụ nữ bị còng lưng, mà Ngài thực hiện việc này trong ngày ba-bát, một ngày cấm làm việc của người Do Thái.
Câu 10 giới thiệu về việc Chúa Giêsu làm trong ngày sa-bát: giảng dạy. Ngài đã giữ đúng luật khi giảng dạy, để tôn vinh Thiên Chúa, để giải thích sách luật, để hướng dẫn người khác trên đường thiêng liêng. Ngài làm một công việc bình thường của một Rabbi nhưng ở đó có một phụ nữ quỉ ám làm cho tàn tật đã 18 năm “ lưng còng… không thể đứng thẳng lên” ( c.11).
Đây là hình ảnh của một con người nô lệ: nô lệ của bệnh tật, của sự dữ và của ma quỉ. Thánh Luca khẳng định quỉ đã khiến bà như vậy. Bà đã mang cái ách thống trị của ma quỉ suốt 18 năm, mà không sao ngước đầu lên được. “ Một phụ nữ, bị tật nguyền, do ma quỉ khống chế”. Hình ảnh này khiến chúng ta thấy : bà là người nghèo nhất trong các người nghèo, không có chỗ tựa nương bám vúi. Bà bất lực hoàn toàn và hình như cam chịu số phận. Thái độ đó khiến lòng nhận hậu của Chúa Giêsu bừng mở.
Thoạt vừa trông thấy, Ngài gọi “Này bà, bà được giải thoát khỏi tật nguyền” (c. 12). Một lời đem lại sức cứu độ. Câu trả lời của Chúa Giêsu như khẳng định thiên tính và sứ mệnh của Ngài. Ngài là Thiên Chúa có quyền trên sự dữ và ma quỉ. Ngài đến để cứu con người thoát khỏi ách thống trị của chúng. Sứ mệnh Mêsia của Ngài được thể hiện rõ nhất khi Ngài xua trừ ma quỉ. Thiên tính của Ngài biểu hiện tuyệt vời nhất khi Ngài tỏ rõ sức mạnh trên quyền lực sự dữ.
Hành vi đặt tay trên bà là hành vi trừ tà và bàn tay ban truyền sức mạnh của Thiên Chúa. Ngày nay chúng ta vẫn thấy Giáo Hội dùng nghi thức đặt tay khi ban Bí Tích Thêm Sức hay truyền Chức Thánh… Sau khi Chúa Giêsu đặt tay trên bà, Chúa đã chữa lành và giải thoát bà khỏi ách nô lệ của ma quỉ . Ngay lập tức “ bà đứng thẳng lên và tôn vinh Thiên Chúa” ( c. 13). Đây là hành vi của người được giải phóng khỏi ách nô lệ. Việc đứng thẳng như muốn rũ bỏ mọi tội lỗi, điều ô uế đã đeo bám trên mình khẳng đinh mình là người tự do. Tôn vinh vì những việc kỳ diệu Chúa đã thực hiện cho dân Ngài, do tình thương của Ngài.
Câu 14 nói lên thái độ và con người của ông Trưởng Hội Đường. Để tỏ ra uy quyền của người Trưởng Hội Đường nắm giữ và bắt người khác thi hành đúng luật, nên ông tỏ ra tức tối và lên tiếng nhắc nhở cả cho đám đông và Chúa Giêsu “ có 6 ngày phải làm việc, thì đến xin chữa bệnh trong ngày đó, đừng đến vào ngày Sa-bát”. Một giọng điệu nghe có vẻ là người tuân giữ lề luật, nhưng đây chỉ là lối giữ luật vụ hình thức, bởi nội dung sâu xa của luật vẫn là lòng bác ái đối với anh em đồng loại. Chúa Giêsu đã chữa cho người phụ nữ, giờ đây Ngài muốn chữa bệnh thiêng liêng cho ống Trưởng Hội Đường và các kẻ chống đối Ngài: Ngài lên tiếng: đạo đức giả ! Trong ngày Sa-bát, bò lừa còn được dẫn đi uống nước mà .
Trong 2 câu 15 và 16, Chúa Giêsu đã dẫn chứng và đưa ra một lối so sánh rất ngoạn mục : một bên là con lừa, con bò, còn bên kia là một con người. Một bên chỉ để giải khát thân xác, còn bên kia là giải thoát cả về đời sống tinh thần. Tại sao các ông sẵn sàng thực hiện những công việc chỉ đáp ứng những nhu cầu thân xác của một con vật, mà lại tỏ ra cứng nhắc khi giải thoát cho một con người đã bị ma quỉ kiềm chế bấy lâu ? Tại sao các ông chỉ thấy sự cần thiết cho một thân xác của con vật, mà không thấy nhu cầu thiêng liêng của một con người? . Vậy mà các ông nhận mình là cha, là mẹ của dân sao?
Thật thế, các vấn nạn Chúa Giêsu đặt ra để ông Trưởng Hội Đường và các người theo phe ông nhận ra cốt lõi của luật. Trước hết và trên hết đó là lòng nhân ái. Nhiều khi chúng ta dùng luật mà xem thường hay xúc phạm vùi dập của con người. Câu 17 là câu kết luận của bài Tin Mừng “ những kẻ chống đối Chúa Giêsu phải xấu hổ còn toàn dân thì vui mừng” . Đó là 2 thái độ của những người nghe Lời Chúa. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã cho họ biết họ đang đứng ở vị trí nào trong Nước Thiên Chúa.
Thật trùng hợp khi ngày nay trong chúng ta, vẫn có khối kẻ sống nệ luật như ông Trưởng Hội Đường này. Chúng ta đã dùng luật Chúa và luật Giáo Hội để lên án tố cáo người khác, không đúng nơi, đúng lúc. Một cách không nhân nhượng. Chúng ta dễ dàng thoải mái xét đoán khi không có thẩm quyền ấy và nhiều khi những lời tố cáo đó chỉ theo nhãn quan tình cảm của ta mà thôi. Như người Do Thái xưa đã dùng luật mà lên án Chúa Giêsu, ngày nay chúng ta cũng dùng chính Lời Chúa để kết tội người khác một cách vô tình hay hữu ý.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần thoát ra khỏi những kiểu giữ đạo vì sợ điều này điều kia. Hay đi lễ nhà thờ chỉ vì thói quen, hoặc muốn chứng tỏ rằng mình đạo đức hơn người. Lời Chúa thôi thúc chúng ta rằng: khi giữ những luật lệ của đạo là điều cần thiết. Tuy nhiên, cần mặc cho nó một tình yêu. Nếu có tình yêu, chúng ta sẽ mến Chúa, yêu anh chị em mình cách chân tình. Luôn muốn và làm điều tốt nhất cho anh chị em chúng ta. Không còn chuyện bè phái, lươn lẹo, lật lường, nhưng ngay thẳng, chân thành và thánh thiện. Chỉ khi làm được chuyện đó, chúng ta mới thấy được luật của Chúa là luật làm cho con người được hạnh phúc, bình an và hoan lạc thực sự. Nếu không thì chỉ là chiếc xiềng quá nặng mà chúng ta vẫn cố đeo trên cổ đến nỗi bò lê lết để mang nó hằng ngày.
2022
Dấu Chỉ Của Thời Ðại
22/10 Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mươi-Chín Mùa Quanh Năm
Ep 4:7-16; Tv 122:1-2,3-4,4-5; Lc 13:1-9
Dấu Chỉ Của Thời Ðại
Trong Tin Mừng của ngày hôm qua chúng ta đã nghe Chúa Giêsu dạy về việc phải biết nhìn xem những dấu chỉ của thời đại, biết phân định những biến cố xảy ra theo ánh sáng của Lời Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy một thí dụ cụ thể là Chúa Giêsu đã đọc dấu chỉ của thời đại, tức là hai biến cố đau thương vừa xảy ra: quan tổng trấn Philatô đã giết chết một số người Galilê nơi đền thờ; và tháp Silôê sập đè chết mười tám người. Chúa Giêsu đã thuật lại hai biến cố này trước: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết những người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
Tai họa là điều tiêu cực xảy ra, không phải là hình phạt của một vị Thiên Chúa muốn trả thù vì tội lỗi của con người và những anh chị em nạn nhân, không phải là những kẻ xấu tệ, đáng khinh. Những biến cố xảy ra là những dịp kêu gọi con người trở lại cùng Thiên Chúa. Dụ ngôn về cây vả không có trái cũng vậy.
Dụ ngôn mời gọi người nghe hãy ăn năn hối cải và thực hiện đền bù trổ sinh hoa trái tốt và thôi không lạm dụng lòng nhân từ của Thiên Chúa nữa. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đức tin bằng những việc tốt lành của đức bác ái, một đức tin sống động mới xác tín cá nhân để thực hiện những công việc làm của kẻ yêu mến Thiên Chúa và anh chị em.
Trước nhan Thiên Chúa không có những phân biệt đối xử, những kỳ thị cho người này cao trọng hơn người kia. Chúng ta tự nhiên thường hay có thái độ khinh thị anh chị em và kiêu ngạo cho mình tốt lành hơn cả. Chúng ta cần thay đổi tâm thức để mặc lấy những tâm tình của Chúa, hành xử như Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy biến đổi con tim mình để nó đừng ích kỷ, đừng khinh dễ anh chị em, đừng xét đoán hạ thấp anh chị em, nhưng ngược lại biết mở rộng trong sự vị tha, tình huynh đệ, sự hòa hợp, tình thương, lòng nhân từ, niềm vui, sự bình an, lòng quảng đại và hy vọng. Thay đổi chính tâm hồn mình là một điều khó, một tiến trình liên lỉ, dài hạn, đòi hỏi hy sinh và can đảm cộng tác với ơn Chúa. Ðừng an ủi mình, đừng trấn an lương tâm mình bằng việc phân tích phê bình những sơ sót của anh chị em, dường như thể chúng ta tốt lành hơn: “Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết giống như vậy”.
Thiên Chúa nhắc nhở ta qua những mạc khải, qua lời các ngôn sứ, qua Thánh Tử Giêsu và hôm nay còn nhắc nhở ta qua Giáo hội, qua những biến cố trong cuộc sống hàng ngày. Lời Chúa nhắc nhở ta có lúc gắt gao, mãnh liệt, quở trách nặng nề qua những thất bại trong công việc làm ăn, qua những khó khăn tai ương, những nghịch cảnh và qua cả những yếu đuối, đam mê và tội lỗi. Cũng có lúc, Chúa nhắc nhở ta bằng những lời thì thầm, nhẹ nhàng và sâu lắng qua quy luật tự nhiên, qua trật tự trong vũ trụ. Nhìn chiếc lá vàng rơi về cội, nhìn dòng nước xuôi về nguồn, ta hiểu được rằng con người cũng phải trở về với gốc tích của mình. Nhìn những áng mây trôi lang thang, ta hiểu được rằng cuộc sống này luôn biến đổi, ngoài Thiên Chúa ra không có gì là trường tồn vĩnh cửu.
Mỗi ngày trên đường đi làm, ta chứng kiến những tai nạn giao thông có người chết tức tưởi khi tuổi đời còn rất trẻ, có những thai nhi đã phải chết ngay từ trong trứng nước…Đến cơ quan, ta lại đối diện với công việc mưu sinh hàng ngày. Những lúc ta bị người khác hiểu lầm, bị đồng nghiệp xúc phạm, lúc ta phải đối diện với nỗi sợ hãi, trống rỗng trong tâm hồn, ta như thấy mất hướng sống và rơi vào bế tắc. Bạn bè xung quanh ta có những người đã đạt đến đỉnh vinh quang phú quý, nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con khôn thế mà chỉ một chút hiểu lầm thì đường ai nấy đi, kéo nhau ra tòa ly dị. Tình đời quả là éo le ngang trái…
Câu chuyện “Cây vả” trong Tin Mừng hôm nay là một ví dụ sống động về ngày giờ của Chúa. Tất cả mọi phút giây dù sống trong vinh hoa phú quý hay bần cùng khốn khó, Chúa đều nhắc ta tìm ý Chúa. Chúa đã dựng nên ta trong tình yêu nên Ngài không nỡ để ta phải mạng vong. Trái lại bằng mọi giá Ngài đã cứu chuộc và cho ta được thông phần hạnh phúc với Chúa. Tuy vậy, Thiên Chúa cũng là Đấng công bình và ngay thẳng, thưởng phạt đúng người đúng việc.
Hàng ngày, Chúa vẫn gửi cho ta những dòng tin nhắn để nhắc ta chuẩn bị tương lai cho một ngày viên mãn. Thái độ của chúng ta là chú ý lắng nghe hay thờ ơ lãnh đạm. Mỗi người chỉ sống một lần nên chúng ta phải sống sao cho ra sống, đừng sống hoài sống phí. Hơn nữa là con cái Thiên Chúa chúng ta được mời gọi trở về trong vòng tay yêu thương của Cha, trong ngôi nhà ấm áp của tình yêu. Một lần nữa, Giáo hội mời gọi chúng ta dừng lại chiêm nghiệm thân phận con người trong mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa. Con người sinh ra không phải để qua đi như cỏ cây hoa lá. Con người chết đi không như một dấu chấm hết mà là để khởi sự tiến sâu vào mầu nhiệm sự sống đích thực vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống.
2022
Nhận ra thánh ý Chúa
21/10 Thứ Sáu trong tuần thứ Hai Mươi-Chín Mùa Quanh Năm
Ep 4:1-6; Tv 24:1-2,3-4,5-6; Lc 12:54-59
Nhận ra thánh ý Chúa
Cuộc sống đầy những chuyện chúng ta phải quyết định. Nhận ra Ý Chúa là điều không dễ, nhưng rất cần biết Ý Chúa để có thể làm đúng Tôn Ý Ngài. Chúa có buồn khi tôi bê trễ công việc? Chúng ta có những khái niệm về sự thật, nhưng làm sao chúng ta biết chắc rằng các ý tưởng đó xuất phát từ Thiên Chúa? Đôi khi rất khó phân biệt ý Chúa hay ý mình.
Cũng như người Do Thái thời Chúa Giêsu, nhiều người trong chúng ta cũng rất thích được chứng kiến các phép lạ. Mỗi khi nghe thấy ở đâu đó có hiện tượng lạ (Đức Mẹ hiện ra, Đức Mẹ làm phép lạ…) thì con người đua nhau kéo nhau đến để xem, cầu nguyện và xin ơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần có sự hiểu biết một cách đúng đắn. Thiên Chúa ban các phép lạ không phải để tạo sự chú ý, gây ảnh hưởng nhưng là để khơi lên niềm tin của con người vào Thiên Chúa và giúp con người biết được thánh ý của Ngài. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta phải biết đọc ra ý nghĩa lịch sử và những biến cố xảy ra, để tìm ra đâu là ý muốn của Thiên Chúa trong các biến cố này.
Hôm nay, trong bài Tin Mừng Đức Giê-su cũng đã khen ngợi họ về sự lanh lợi, sự hiểu biết và mau lẹ ứng dụng kinh nghiệm sống của mình trong đời sống hàng ngày. Và Chúa Giêsu cũng mong muốn họ áp dụng, thích ứng những kinh nghiệm dân gian đó vào đời sống đức tin, đọc ra được những dấu chỉ của thời cuộc. Tuy nhiên, kinh nghiệm sống, giỏi thiên văn của người Do thái dường như đã và đang chôn vùi họ trong sự tự tôn, trong sự ích kỷ, trong sự thiển cận của mình. Đức Giê-su đã mời gọi họ đi xa hơn những kinh nghiệm thường ngày mà họ đang cảm nhận. Ngài gọi mời họ khám phá, đi ra khỏi sự hạn hẹp và dám tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thế nhưng, mặc cho sự gọi mời, mặc cho chân lý vẫy gọi, người Do thái, những kinh sư, những luật sĩ, họ vẫn cứng lòng, chai dạ trước sự thật, trước đức tin.
Ngày nay, có lẽ nhiều người Ki-tô hữu chúng ta cũng đang mang tâm trạng, đi vào vết xe đổ của những người Do thái và luật sĩ xưa. Chúng ta đã lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy. Chúng ta là những người Ki-tô hữu chính danh. Chúng tin tin vào Chúa, chúng ta có Chúa ở trong mình. Thế nhưng chính đời sống của chúng ta lại không phản ánh, chiếu tỏa ánh sáng của Chúa cho anh chị em mình. Là người tin có Chúa, thế nhưng khi gặp những nghịch cảnh trong đời sống như ốm đau, thất bại… chúng ta dễ dàng tìm đến thầy bói toán. Là người mang trong mình dòng máu Ki-tô hữu, thế nhưng khi phải đối diện với thử thách, với chủ nghĩa trần tục, chúng ta dễ dàng chao đảo và buông xuôi…
Chúa Giêsu muốn các môn đệ và mỗi người chúng ta, trong khi dựa vào kinh nghiệm để nhận biết các hiện tượng và biến cố xảy ra trong tự nhiên thì đồng thời cũng cần biết đọc ra ý nghĩa sâu xa của các hiện tượng và biến cố đó, nhất là sự hiện diện của Thiên Chúa bởi vì khi anh em thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Từng phút giây của ngày sống, Chúa vẫn hiện diện với chúng ta. Ngài vẫn không ngừng chăm sóc và nuôi dưỡng chúng ta bằng Lời và bằng Bánh Hằng Sống. Bổn phận của chúng ta là phải biết tỉnh thức để nhận ra sự hiện diện của Ngài và nghe theo sự hướng dẫn của Ngài. Ngoài ra, chúng ta cũng cần biết rằng, Ngày Phán Xét là một chân lý, chứ không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng ì Chúa Giêsu đã xác quyết với các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu.” (Lc 21, 32-33).
Phụng vụ Lời Chúa ngày hôm nay gọi mời chúng ta biết dùng những khôn ngoan, kinh nghiệm của thời cuộc để khám phá, đào sâu và đọc ra được những dấu chỉ của thời đại. Đứng trước trào lưu trần tục hóa, người Ki-tô hữu cảm nhận được tình yêu vĩnh cửu của Chúa dành cho trần gian. Đối diện với sự tha hóa về đạo đức, người Ki-tô xác tín rằng chỉ nơi Chúa sự thật, công lý mới trường tồn, hằng bất biến. Cuối cùng, người Ki-tô hữu luôn được gọi mời sống tâm tình tạ ơn, xác tín vào lòng Chúa xót thương. Dám tin và đọc ra những dấu chỉ, sự gọi mời mà Chúa đã và đang gửi đến cho nhân loại chúng ta. Có như thế, cuộc đời người Ki-tô hữu luôn là một bản trường ca vang xa, tán tụng hồng ân Chúa như lời thánh vịnh đã nói lên rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà. Thợ nề vất vả cũng là uổng công”(Tv 126).
Thiên Chúa có quyền tuyệt đối trên các quyền lực thế gian. Ngài là Đấng cầm cân nẩy mực trên mọi quyền lực và mọi biến cố xảy ra trong vũ trụ, quá khứ, hiện tại, và tương lai. Vì vậy, con người cần vững tin nơi Thiên Chúa, nhất là những khi chịu thử thách và bị bách hại.
Thiên Chúa không muốn chúng ta thất bại. Chúng ta càng lắng nghe Chúa, chúng ta càng có thể phân biệt tiếng Chúa với tiếng của thế gian. Chúa Giêsu đã nói: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh” (Ga 10, 4). Ngài xác định: “Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ” (Ga 10, 8). Chúng ta càng nhận biết Chúa Chiên Lành, chúng ta càng ít chú ý tiếng nói sai trái.
2022
NGỌN LỬA ẤY ĐÃ BÙNG LÊN
20/10 Thứ Năm trong tuần thứ Hai Mươi-Chín Mùa Quanh Năm
Ep 3:14-21; Tv 33:1-2,4-5,11-12,18-19; Lc 12:49-53
NGỌN LỬA ẤY ĐÃ BÙNG LÊN
Mở đầu trang Tin Mừng, Đức Giêsu cho thấy tình yêu của Ngài đối với nhân loại, Ngài muốn thiêu đốt nhân loại bằng ngọn lửa tình yêu mãnh liệt của Ngài: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong ngọn lửa ấy đã bùng lên”. Trong Kinh Thánh, mỗi khi nói đến lửa là nói đến sự thanh luyện, thánh hóa của lễ, trừng phạt… Nhưng lửa trong Kinh Thánh cũng nói đến sự hiện diện của Thiên Chúa, đó cũng là biểu tượng tình yêu trọn vẹn của Thiên Chúa đối với nhân loại. Khi nhập thể vào trần gian, Chúa Giêsu đã hiện diện với nhân loại bằng tình yêu và hình ảnh con người. Ngài đem ngọn lửa tình yêu đó vào trần gian, hiện diện giữa nhân loại và Ngài mong cho ngọn lửa ấy được nhân rộng, được phân chia ra, không chỉ hiện diện cách ấm áp mà con bùng lên giữa nhân loại. Ngọn lửa ấy cũng được Chúa Thánh Thần soi sáng và làm lan tỏa nơi các tông đồ để các ngài sẻ chia cho nhân loại.
Chúng ta cũng được ngọn lửa mà chính Chúa Giêsu ném vào trần gian hôm nay thanh luyện, soi sáng và Chúa muốn chúng ta đem ngọn lửa của đời mình thắp sáng chính mình và tha nhân bằng tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta cũng cần để ngọn lửa Đức tin của mình bùng cháy trong cuộc sống hàng ngày của mình để mọi người, qua đời sống chứng nhân của mình nhận ra ngọn lửa tình yêu Thiên Chúa đang hiện diện giữa nhân loại.
“Lửa” mà Người nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay đúng hơn nên hiểu về “Thánh Thần”. Người đến để cho những kẻ tin Người được Thần Khí của Thiên Chúa. Người mong muốn, đến nỗi nôn nóng thấy việc đó chóng xảy đến để loài người chóng nhận được Thánh Thần khiến họ có thể kêu lên “Abba ! Lạy Cha”. Một cách cụ thể, có thể nói, trong suốt cuộc đời trần gian, Chúa Giêsu hằng mong mỏi ngày lửa Thánh Thần sẽ xuống trên các môn đệ, vì đó là mục đích cuộc giáng sinh cứu thế của Người, để tất cả loài người trở thành con cái Thiên Chúa.
Thế mà, như chúng ta biết, Thánh Thần không thể được ban xuống cho các môn đệ, bao lâu Ðức Kitô chưa bị treo lên cây Thập giá. Do đó tiếp theo câu nói Người mong muốn biết bao cho lửa cháy lên, Chúa Giêsu đã khẳng định luôn: “Người phải chịu một phép rửa và lòng Người khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”. Câu nói này, ai cũng hiểu là để ám chỉ cuộc Tử nạn của Người.
Ngọn lửa mà Chúa Giêsu mong muốn không dễ dàng bùng cháy nếu Ngài không trải qua cuộc khổ nạn và cái chết. Đó cũng là tình yêu tột đỉnh của Ngài đối với nhân loại và đó cũng là phép rửa mà Chúa nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Ước mong ngọn lửa tình yêu mau chóng lan rộng, nên Chúa Giêsu mong chờ cuộc thương khó và cái chết đau thương trên Thập giá: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất”. Đó là một bảo chứng tình yêu mà chính Ngài đã thực hiện khi đến trần gian.
Chúa Giêsu đã đến và mang ngọn lửa tình yêu của Ngài thắp sáng và soi sáng giữa một xã hội thiếu vắng tình thương và Ngài ước mong ngọn lửa ấy bùng cháy nơi chúng ta để chính chúng ta được soi sáng và sưởi ấm. Chúng ta cũng mang ngọn lửa ấy thắp sáng trần gian này để ngôn lửa tình yêu Chúa Giêsu không lụi tàn đi mà ngày càng được nhân rộng qua mọi thời đại và lan tỏa đến mọi người.
Bản chất của Thiên Chúa là yêu thương. Chúa Giêsu nhập thể vì tình yêu thương nhân loại của Ngài. Vì yêu thương nên con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thế nhưng Tin Mừng hôm nay lại mang đầy kịch tính: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao ? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ”. Theo lẽ thường tình, con người chúng ta ai cũng thích những gì dễ dãi, tự do buông theo ý mình. Đó là khuynh hướng tự nhiên của thân xác, của cái tôi lúc nào cũng muốn tự làm Chúa chính mình. Nhưng sứ điệp của Chúa Giêsu lại đòi chúng ta đi vào con đường hẹp, ngược lại những gì chúng ta muốn.
Sự chia rẽ bắt nguồn từ đây, với những người luôn sẵn sàng mở lòng đón nhận sứ điệp của Chúa Giêsu và hành động theo những đòi hỏi của Tin Mừng, thì họ khép mình vào kỷ luật, đi theo con đường hẹp, ghập ghềnh, chông chênh sỏi đá. Họ lập tức bị “ném đá” bởi những người quen sống trong sự dối trá, lừa gạt, tham nhũng…. Vì quen sống buông thả nên họ lấy làm “trái tai gai mắt” trước lối sống theo Tin Mừng nên họ tìm cách chống đối, chỉ trích, kết án…cũng là để phần nào biện minh cho lối sống sa đọa của mình.
Theo Chúa Giêsu, chúng ta chọn đi vào cửa hẹp, đi trên con đường chông gai và chấp nhận cả những chống đối, chia rẽ. Nhưng đó là con đường đưa đến bình an, hạnh phúc. Người sống theo Tin Mừng cũng được mời gọi để bảo vệ và giữ gìn ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã mang vào trần gian. Muốn thế, chúng ta phải chiến đấu để ngọn lửa ấy luôn được thắp sáng trong chính mình và trong tha nhân. Chúng ta cũng chiến đấu để đón nhận sự bình an đích thật. Chúng ta cũng chiến đấu để luôn luôn chọn lựa sống theo những giá trị của Tin Mừng để chúng ta xác nhận với Chúa rằng: ngọn lửa mà Chúa đã ném vào trần gian nay đã bùng lên.
Sứ điệp Tin Mừng mà Chúa Giêsu rao giảng khi đến trần gian luôn mang đặc tính yêu thương, hòa bình, nhân ái, không gây thù oán, chia rẽ…. Cũng chính vì yêu thương nhân loại mà Đức Giêsu đã nhập thể vào trần gian. Thế nhưng trình thuật của Thánh Luca trong bản văn Tin Mừng hôm nay, lại làm ta ngỡ ngàng trước lời rao giảng của Chúa Giêsu khi Ngài nhắc đến sự chia rẽ, chống đối bởi chính Ngài. Lời đó dường như đi ngược lại với tinh thần Kitô giáo, với những gì Chúa Giêsu đã nói và đã làm. Đó là một nghịch lý của Tin Mừng.