2022
Bài Học Khiêm Nhường
29/10 Thứ Bảy trong tuần thứ Ba Mươi Mùa Quanh Năm
Pl 1:18-26; Tv 42:2,3,5; Lc 14:1,7-11
Bài Học Khiêm Nhường
Thời Chúa Giêsu cũng như thời nay biết bao người chưa hề một lần tự nhủ mình phải khiêm tốn, không nên kiêu căng tự mãn. Câu chuyện thánh Luca kể lại đã gồm tóm giáo lý của Chúa về sự khiêm nhường: Hễ ai nhấc mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nhấc lên. Ngài đưa ra kết luận này nhân dịp đến dự một bữa tiệc tại nhà viên thủ lãnh các người Biệt phái khi thấy những người được mời chọn chỗ nhất. Các môn đệ của Chúa không được làm như thế nhưng phải học đến tận cùng mẫu gương khiêm nhượng thẳm sâu nơi Thầy mình. Thánh Phaolô trong thư Philipphê nói:
“Ngài, phận là phận của một vị Thiên Chúa nhưng Ngài đã không nghĩ phải giành cho được chức vị đồng hàng cùng Thiên Chúa. Song Ngài đã tự hủy mình ra không là lãnh lấy phận tôi đòi, trở thành giống hẳn người ta, đem thân đội lốt người phàm. Ngài đã tự hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết và là cái chết trên Thập Giá.”
Khiêm nhường trước hết hệ tại thái độ xác định vị trí khách quan của mình: tội lỗi trước Đấng Toàn Năng và Chí Thánh. Người khiêm nhường nhìn nhận rằng mọi sự mình có đều do lãnh nhận nơi Chúa, rằng mình là đầy tớ vô dụng, tự mình không là gì khác hơn là tội nhân. Nhưng kẻ khiêm nhường lại không thất vọng, ngã lòng, nhưng sẽ mở tâm hồn đón nhận ơn Chúa, đón nhận năng lực của ân sủng.
Tin Mừng hôm nay thuật lại rằng hôm đó Chúa Giêsu đến dùng bữa tại nhà một đầu mục nhóm Biệt phái. Nhận thấy ở đó có những thực khách háo hức chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu liền nói với họ một dụ ngôn, trong đó Ngài mời gọi người ta hãy sống khiêm nhường bằng cách chọn lấy địa vị sau chót: khi anh được mời đi ăn cưới, anh đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng cũng được mời… Trái lại, khi được mời, anh hãy ngồi vào chỗ cuối.
Xét bề ngoài, thì đây chỉ là một vấn đề lịch sự, bởi vì xếp chỗ ngồi là việc của chủ nhà, chứ không phải của người dự tiệc. Tuy nhiên, việc chọn chỗ cuối như thế phải được thực hiện một cách đơn sơ, tự nhiên, chứ nếu tìm chỗ cuối với hậu ý và hy vọng được mời lên chỗ cao hơn, thì đó là một sự khiêm nhường giả tạo, một sự kiêu ngạo tinh tế.
Lời khuyến cáo của Chúa Giêsu còn tiềm ẩn một ý nghĩa sâu sắc hơn. Ðối với Ngài, tiệc cưới tượng trưng cho Nước Thiên Chúa, trong đó kẻ nào nhắc mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ hạ mình xuống sẽ được nhắc lên. Vượt ngoài tầm đòi hỏi của xã giao, lời nói của Chúa làm cho con người đi xuống chiều sâu của khiêm nhường và tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa là một vinh dự, một ân ban, mà chỉ những ai tự hạ và ý thức mình là hư vô mới có thể lãnh nhận. Còn kẻ tưởng mình cao trọng, chắc chắn không thể chiếm hữu Nước Thiên Chúa, và Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu căng, nhưng ban ơn cho người khiêm nhường.
Dân Israel đã học hỏi sự khiêm nhường trước hết bằng kinh nghiệm về sự toàn năng của Chúa, Đấng cưú thoát họ. Họ giữ cho kinh nghiệm ấy được sống động bằng cách tưởng nhớ đến kỳ công của Thiên Chúa trong việc phụng tự của họ. Phụng tự đó là trường dạy khiêm nhường. Trong lúc ca tụng và tạ ơn Thiên Chúa, người Israel bắt chước gương vua Đavít khi nhảy múa trước hòm bia để tôn vinh Chúa… Rồi những nhục nhã, thất bại và lưu đày cũng cho họ ý thức về sự bất lực căn bản của con người.
Chính lúc chúng ta khiêm hạ và sống bác ái vô vị lợi, chúng ta đang “thêu dệt” công trình nhân cách chính mình trong cuộc sống hằng ngày. Hơn nữa, tinh thần đức tin của chúng ta đang vươn tới núi Sion Thành Thánh, nơi đại hội Giêrusalem của những người tin, đó là đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa là những kẻ đã được ghi tên trên trời, như thư Do Thái phác họa (Dt 12, 18-19.22-24a).
Sách Huấn Ca cũng nhấn mạnh làm việc phục vụ yêu thương một cách khiêm tốn thì càng được yêu mến hơn: “Hỡi các con trai và con gái của ta, hãy thi hành công việc của các con một cách khiêm tốn thì các con sẽ được yêu mến hơn khi các con đem quà tặng cho kẻ khác” (Hc 3,17-18). Hơn nữa khiêm tốn giúp ta thực thi bác ái với một tâm hồn quảng đại không mong đáp trả như Chúa Giêsu đã kêu gọi (Lc 14, 12-13) đó là đức ái không tìm tư lợi mà thánh Phaolô khuyên người tín hữu (1Cr 13, 4).
Với lời mời gọi và gương sống tự hạ, khiêm nhường của Chúa từ lúc sinh ra cho đến lúc chết trên Thập giá, chúng ta hãy quyết đi vào con đường khiêm nhường bằng cách sống đúng với giới hạn của một thụ tạo nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa vô biên, để nhờ đó Ngài sẽ là tất cả cho chúng ta.
Giáo huấn của Chúa Giêsu mang sứ điệp tinh thần khiêm tốn và cách thực thi sống bác ái quảng đại không vụ lợi, không mong được đáp trả như người đời thường nghĩ: “Có qua có lại mới toại lòng nhau”. Giáo huấn khiêm tốn và bác ái đó đã được thánh Phaolô nối tiếp khi chia sẻ với giáo hữu thành Ephêsô: “Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau” (Ep 4, 2). Trong thư gửi giáo đoàn Galat, vị Tông đồ còn nhấn mạnh các hoa trái sinh từ Thánh Linh trong đó có đức ái và sự khiêm tốn hiền hòa.
Để sống khiêm nhường đích thực, chúng ta hãy ngắm nhìn Chúa Giêsu Thánh Thể, Đấng đã hạ mình xuống làm tội nhân chịu treo trên Thập Giá, đối với người đời đây đã là địa vị quá thấp hèn, nhưng Chúa còn muốn ẩn thân dưới hình Bánh hình Rượu, bề ngoài bất động, hầu cho ta được thấy sự tiêu hao mình đi vì lợi ích của mọi người.
2022
Can đảm chết với Chúa
10 Thứ Năm trong tuần thứ Ba Mươi Mùa Quanh Năm
Ep 6:10-20; Tv 144:1,2,9-10; Lc 13:31-35
Can đảm chết với Chúa
Trong bài Tin mừng thứ Năm tuần XXX hôm nay, những người Pharisiêu đưa ra một phép thử đối với Chúa Giêsu khi họ nói cho Ngài biết rằng Ngài cần phải trốn đi chỗ khác vì Hêrôđê muốn tìm giết Ngài. Thực ra, tiểu vương Hêrôđê không hề có ý định giết Chúa Giêsu bởi vì ông ta đã từng mong muốn gặp được Đức Giêsu để biết Ngài quyền năng thế nào khi dân chúng ca tụng Ngài (Lc 9, 9); vả lại, sau này, trong cuộc thương khó, khi gặp Ngài, ông ta vẫn mong sao được thấy các phép lạ Ngài làm (23, 8); nhưng đến khi Ngài không chiều ý ông ta, thì ông ta thất vọng mà trả Ngài về lại cho Philatô, chứ không có hành động ác độc đối với Ngài (Lc 23, 11).
Sở dĩ những người Pharisiêu cố tình dùng danh Hêrôđê “hù dọa” Chúa Giêsu là để dò xét thái độ của Ngài như thế nào: Nếu Ngài sợ mà tìm cách lo cho mạng sống của mình, thì điều đó chứng tỏ Ngài là một ngôn sứ giả. Nếu Ngài vẫn không chịu im tiếng, đồng thời vẫn cương quyết tiến lên Giêrusalem thì họ sẽ công khai chống lại Ngài và loại trừ Ngài.
Đối diện trước mưu mô, tính toán của những người Pharisiêu, Chúa Giêsu không hề nao núng; Ngài vẫn tiếp tục hành trình tiến lên Giêrusalem trong tư cách của vị ngôn sứ lớn đến “”viếng thăm dân Người” và sẵn sàng đổ máu tại Giêrusalem để cứu chuộc dân Người.
Và chúng ta phần nào cảm nhận được tâm trạng não nề thống thiết của Chúa Giêsu không? Ngài sinh xuống trần gian để thực hiện ý định của Thiên Chúa là muốn họ được hạnh phúc vĩnh cửu (Ga 6,40) vì chỉ có Chúa mới làm thỏa mãn mọi khát vọng sâu xa của con người.
Thế nhưng, than ôi! con người đã bao lần khước từ điều này! Chúa mượn hình ảnh gà mẹ ấp ủ con dưới cánh nhưng gà con ương ngạnh không chịu. Chúa đành để mặc con người làm theo ý họ. Lời Chúa cho thấy có hai ý muốn đối nghịch nhau: ý con người đối nghịch với ý Chúa. Ý con người thường gian tà, độc ác, như Hêrôđê muốn giết Chúa, Biệt phái tìm cách loại trừ Chúa, người Do thái giết các ngôn sứ… Còn ý Chúa thì luôn tốt lành, bao dung, như Chúa Giêsu đã thể hiện qua việc trừ quỷ, chữa bệnh, khẳng khái trước bạo lực, đón nhận thập giá để cứu chuộc muôn người.
Chúng ta sẽ càng cảm thông với những tâm tình của Chúa Giêsu, khi chúng ta biết rằng lúc đó Ngài đang tiến về Giêrusalem, tiến đến gần giây phút thực hiện cuộc Vượt qua của Ngài để đem ơn cứu rỗi cho mọi người, nhưng cũng chính lúc đó sự chống đối của các kẻ thù Chúa mỗi lúc một gia tăng. Những người Biệt phái, Luật sĩ, Tư tế trong dân, đang tìm cách loại trừ Chúa, ngay cả vua Hêrôđê Antipas cũng không ưa thích gì Ngài, chính ông ra lệnh chặt đầu Gioan Tẩy giả, đó là điềm không tốt cho Chúa Giêsu lúc đó đang có mặt trên phần đất thuộc thẩm quyền của ông.
Tuy nhiên, sự độc ác của con người không thể làm cho Thiên Chúa không yêu thương con người. Trái lại, Thiên Chúa đã chấp nhận trở nên yếu hèn, bị khinh chê, Ngài vẫn yêu thương con người và yêu thương cho đến chết trên Thập giá. Tuy nhiên, cái chết của Chúa Giêsu không phải là một chiến bại vĩnh viễn, bởi vì rồi đây con người sẽ trở lại nhìn nhận Thiên Chúa. Lời tiên báo của Chúa Giêsu hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng hy vọng: “Các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến lúc các ngươi nói: chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa”.
Ðây không chỉ là lời tiên tri về cuộc khải hoàn của Ngài vào thành Giêrusalem, nhưng còn là lời tiên tri về cuộc chiến thắng cuối cùng của Ngài vào thời cánh chung, khi Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự.
Cái chết luôn là một đe dọa đối với con người. Lo sợ càng tăng khi cái chết là một cực hình. Là con người như chúng ta, Chúa Giêsu cũng không tránh khỏi những lo âu sợ hãi trước cái chết như Ngài đã cho thấy điều đó trong cơn hấp hối tại vườn Giêtsimani. Tuy nhiên, trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tỏ ra bình thản trước việc Hêrôđê đang tìm cách sát hại Ngài, Chúa Giêsu bình thản đến độ dững dưng với thách đố ấy. Tại sao?thưa tại bởi Ngài luôn trung thành tuyệt đối với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, cả cuộc đời Ngài là một tiếng xin vâng đối với thánh ý của Chúa Cha. Do đó một khi biết rằng có một hiến lễ phải hoàn tất và hiến lễ ấy nằm trong chương trình của Thiên Chúa, thì không gì phải làm Ngài bận tâm, ngoài việc chu toàn công việc được giao phó.
Còn chúng ta thì sao? Trước những khổ đau và nghịch cảnh của cuộc sống, chúng ta đã xác tín vào Thiên Chúa chưa? Hay chúng ta đã quá lo lắng, sợ hãi đến nỗi phải đi coi bói, hoặc tin tưởng vào một điều dị đoan nhảm nhí nào đó. Tệ hơn nữa, vì hiềm khích, tham lam và kiêu ngạo, ta đã đắm chìm trong tội, nên không thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Ta đã bị một lớp mây mù dày đặc của tội lỗi làm cho mắt mình không còn phân biệt được tốt – xấu. Hay đôi khi nhận ra, nhưng vì miếng cơm, manh áo, vì danh dự, vì chức quyền, ta đã nhắm mắt trước tình yêu của Ngài, và đã đi ngược lại với tiếng Lương Tâm.
Vậy, chớ gì Lời Chúa hôm nay giúp mỗi người chúng ta có được một xác tín: Thiên Chúa là người Cha đầy yêu thương, nhờ đó, chúng ta sẽ có được sự tin tưởng phó thác trước tương lai và bình an trong mọi thử thách, mọi nghịch cảnh ở đời vì biết rằng tương lai không hoàn toàn thuộc về mình và mọi nghịch cảnh có xảy đến cho ta cũng không nằm ngoài ý định yêu thương của người Cha. Đồng thời còn biết sẵn sàng chấp nhận số phận thương đau với Chúa bằng một sự kiên trì nhẫn nại vì: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi”
2022
PHẤN ĐẤU QUA CỬA HẸP VÀO NƯỚC TRỜI
26/10 Thứ Tư trong tuần thứ Ba Mươi Mùa Quanh Năm
Ep 6:1-9; Tv 145:10-11,12-13,13-14; Lc 13:22-30
PHẤN ĐẤU QUA CỬA HẸP VÀO NƯỚC TRỜI
Tin mừng hôm nay,ta thấy Thánh Luca ghi lại Lời Đức Giêsu trả lời cho hai câu hỏi: Câu hỏi một : Ai sẽ được ơn cứu độ ? Thưa hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ với các tổ phụ của dân Do thái, đang khi chính dân này lại bị loại ra ngoài. Câu hỏi hai : Muốn được hưởng ơn cứu độ đòi người ta phải làm gì ? Thưa đòi người ta phải chiến đấu để vào qua cửa hẹp.
Đức Giêsu đã tự ví mình là cửa chuồng chiên : “Tôi là cửa cho chiên ra vào” (Ga 10, 7). Người đòi những ai muốn vào Nước Thiên Chúa phải bước qua cửa hẹp : “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Theo thánh Phaolô : “Bước qua cửa hẹp” là phải chiến đấu đến cùng, phải đi con đường hẹp của thập giá, phải can đảm chống lại sự cám dỗ của ma quỷ, thế gian và xác thịt, đồng thời luôn làm theo thánh ý Chúa Cha như lời Chúa Giêsu : ”Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : “Lạy Chúa ! Lạy Chúa !” là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21).
Bước qua cửa hẹp là chọn sống theo các đòi hỏi của Tin Mừng : là đi con đường chật hẹp, leo dốc ít người muốn theo, là đường thánh giá mà Đức Giêsu đã xin bỏ ý riêng để vâng phục ý Chúa Cha (Lc 22, 41). Người cũng đòi các môn đệ phải chọn cửa hẹp noi gương Người : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo (Lc 9, 23).
Bước qua cửa hẹp đòi phải loại trừ “cái tôi” : Ở đây là chiến đấu với “cái tôi” ích kỷ của mình, cái tôi nặng nề vì những vun quén cá nhân, “cái tôi” phình to ra vì sự tự mãn tự kiêu và tham vọng cao. Thật ra cửa vào sự sống không hẹp bao nhiêu, nhưng đã trở nên hẹp vì “cái tôi” quá to. Cần phải làm cho “cái tôi” ấy nhỏ lại mới được vào Nước Trời (Mt 18, 3). “Cái tôi” của chúng ta luôn có khuynh hướng bành trướng do sự thu tích tri thức, tiền bạc, khả năng. Cả kinh nghiệm, tuổi tác, chức vụ cũng có thể làm cho “cái tôi” ấy bị xơ cứng và phình to ra. Để trở nên như trẻ nhỏ, chúng ta cần phải đươc ơn Chúa dần dần biến đổi nên khiêm nhường tự hạ hơn (Mt 18, 3-7). Đây là một cuộc chiến đấu với chính mình. Khi huỷ mình ra không, ta sẽ dễ đi qua cửa hẹp và dễ vào trong Nước Trời. Hãy noi gương khiêm hạ của Gioan Tẩy giả khi trả lời các môn đệ về tương quan giữa ông với Đấng Thiên Sai Giêsu : “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3, 30).
Phải chiến đấu mới vào được Nước Trời : Đời sống Kitô hữu là một cuộc chiến đấu liên tục để vượt qua “cái tôi” ích kỷ và phải nhanh chân chiến đấu để vào Nước Trời trước khi quá muộn. Ơn Cứu độ là của Chúa ban cho, nhưng đòi ta phải kiên trì cầu xin và biết giơ tay đón nhận. Ước gì đừng bao giờ chúng ta tự hào vì mình đã biết Chúa, nhưng phải luôn khiêm hạ, đơn sơ như trẻ thơ để Chúa biết và thừa nhận ta khi nói với chúng ta : “Khá lắm ! Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !” (Mt 25, 21).
“Ta không biết các ngươi” : Nhiều người Do thái đã đến chậm khi cửa Nước Trời đã đóng lại. Họ gõ cửa đòi vào. Họ tưởng mình chắc sẽ có một chỗ nơi bàn tiệc Nước Trời, vì họ đã từng ngồi đồng bàn với Chúa Giêsu, và đã nhiều lần nghe Người giảng dạy, đã chứng kiến các phép lạ Người làm. Thế nhưng họ đã bị Chúa từ chối : “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt Ta, hỡi những quân làm điều bất chính !” (Lc 13, 27). Chúa cũng có thể nói với mỗi người chúng ta như vậy, nếu chúng ta dù có chăm chỉ học hỏi Kinh thánh và cầu nguyện, có siêng năng xưng tội rước lễ, nhưng lại không thực hành theo Lời Chúa dạy, không chịu mở cửa tâm hồn để mời Chúa vào làm chủ cuộc đời của ta.
Có khi nào chúng ta nghĩ rằng mình cũng ở trong số những người bị đuổi đi cho khuất mắt Chúa và trong số những quân làm điều bất chính nói trên hay không ? Lời chữa mình của người Do thái cũng có thể là của nhiều tín hữu chúng ta hôm nay : Vì chúng ta đã từng năng dự thánh lễ và nghe giảng lời Chúa, từng là thành viên Hội đồng Mục vụ hay Ban Chấp Hành các hội đoàn công giáo tiến hành… Nhưng điều quan trọng Chúa đòi phải có là phẩm chất đức tin chứ không phải chỉ là danh hiệu tín hữu. Phẩm chất của người Kitô hữu là sống theo Lời Chúa dạy và luôn chiến đấu loại bỏ các thói hư để có thể vào được Nước Trời ngang qua cửa hẹp.
Để bước qua một cánh cửa hẹp, chúng ta phải tập thói quen bác ái : luôn quên mình để sống khiêm nhường phục vụ tha nhân, quyết tâm loại trừ các thói hư cồng kềnh không thể lọt vào Nước Trời là tham lam tiền bạc, tranh giành nhau địa vị cao thấp, ham hưởng thụ các lạc thú bất chính: nhậu nhẹt thâu đêm suốt sáng, cờ bạc cá độ gây tán gia bại sản… Những thói hư cồng kềnh đó còn là thói ích kỷ, làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân bên cạnh…
Vất bỏ những thói hư nói trên quả thật không dễ dàng, vì đây là một cuộc “chiến đấu” nội tâm trường kỳ đầy khó khăn. Tuy vậy, chúng ta không được nản lòng, vì xác tín rằng : có Chúa Kitô luôn đồng hành với chúng ta. Người sẽ cử Thánh Thần đến ở lại với chúng ta nếu chúng ta biết cầu xin và sẵn sàng đón nhận ơn Thánh Thần. Vào giờ chết của chúng ta, Chúa Giêsu sẽ đón nhận chúng ta vào dự bàn tiệc Nước Trời với tổ phụ Ápraham là “Cha các tín hữu”.
2022
Sức Mạnh Nội Tại Của Nước Chúa
25/10 Thứ Ba trong tuần thứ Ba Mươi Mùa Quanh Năm
Ep 5:21-33; Tv 128:1-2,3,4-5; Lc 13:18-21
Sức Mạnh Nội Tại Của Nước Chúa
Khi giảng dạy cho dân chúng về Nước Trời, Chúa Giêsu thường dùng những dụ ngôn, những kiểu so sánh, cách nói ẩn dụ với những hình ảnh quen thuộc trong đời sống hàng ngày của họ. Qua hai dụ ngôn về hạt cải và men trong bột, thánh Luca muốn trình bày cho chúng ta về sức mạnh lan tràn của Nước Thiên Chúa và khả năng làm biến đổi của Lời Thiên Chúa.
Quả vậy, “Nước Thiên Chúa giống như chuyện một hạt cải người nọ lấy gieo vào trong vườn mình. Nó lớn lên và trở thành cây, chim trời làm tổ trên cành được”. Cải ở vùng Thánh Địa là một loại cây, tuy có hạt rất nhỏ nhưng khi gieo vào đất tốt, cây cải mọc cao lớn, cành lá xum xuê, chim trời đến cư ngụ và làm tổ. Điều này muốn diễn tả, Nước Thiên Chúa là một “sự lớn dần”, là một cái gì “mọc lên” … Đó là một sự phát triển không thể cầm giữ nỗi, người ta không thể cản ngăn, vì đó chính là sức mạnh của sự sống.
Cũng vậy, “Nước Thiên Chúa giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba đấu bột, cho đến khi tất cả bột dậy men”. Men dùng để dậy bột làm bánh là một dẫn chứng rất thân thuộc và bình dị đối với mỗi gia đình người Do Thái. Chỉ cần một chút men được trộn vào bột và một khi bột đã ngấm men (dậy men), thì cả khối bột sẽ trương nở ra rất nhiều. Thực vậy, Tin Mừng nước Thiên Chúa một khi đã len lõi được vào tâm hồn con người và được rao giảng đến đâu là ở đó lòng người được biến đổi.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm hai dụ ngôn về Nước Trời: hạt cải và nắm men. Cả hai dụ ngôn làm nổi bật khởi điểm khiêm tốn nhỏ bé của Nước Chúa so với sự hoàn thành cuối cùng.
Dụ ngôn hạt cải nhấn mạnh sự phát triển theo chiều rộng: từ hạt cải nhỏ bé trở thành cây to, đến độ chim trời có thể đến làm tổ được. Dụ ngôn nắm men được đem trộn vào bột nhấn mạnh đến chiều sâu, tức phẩm chất của Nước Chúa: từ một chút men có thể làm dậy cả khối bột. Cả hai dụ ngôn đều nhấn mạnh đến sức mạnh nội tại của Nước Chúa, một sức mạnh chỉ được nhìn thấy bằng đức tin mà thôi. Thật thế, khi kể hai dụ ngôn này, Chúa Giêsu không nhằm đến diễn tiến Nước Chúa đang xảy ra như thế nào trong lịch sử, mà chỉ nhằm nhấn mạnh đến tình trạng hoàn tất chung cuộc vào lúc cuối lịch sử: mặc cho những thử thách, những ngăn trở, Nước Chúa dù được bắt đầu một cách khiêm tốn nhỏ bé, nhưng chắc chắn sẽ đạt đến mức phát triển trọn vẹn.
Hai dụ ngôn: Hạt Cải và Nắm Men trong bột, gởi đến chúng ta một sứ điệp hy vọng, nhất là khi phải đương đầu với trở ngại, thử thách trong đời sống đức tin. Nhìn thấy những điều tiêu cực luôn xảy ra trong Giáo Hội và trên thế giới, chúng ta có thể tự hỏi: Những hạt cải giá trị Kitô liệu còn có thể mọc lên và phát triển trong một thế giới ngày càng bị tục hóa và bị nhiễm tinh thần đối nghịch với Thiên Chúa không? Một chút men Lời Chúa có đủ sức thu hút và biến đổi con người nên tốt hơn không? Ðã hơn 2,000 năm kể từ khi Con Thiên Chúa nhập thể làm người và thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại qua cái chết trên Thập giá, nhưng thử hỏi nhân loại ngày nay có tốt đẹp hơn ngày xưa không?
Nếu suy nghĩ theo lý luận tự nhiên, chúng ta có thể dễ dàng rơi vào thất vọng. Tuy nhiên, những lời của Chúa Giêsu qua hai dụ ngôn trên đây không cho phép chúng ta bi quan ngã lòng. Chúng ta không nhìn thấy tương lai Nước Chúa sẽ như thế nào nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác vào đó, bằng sự cầu nguyện và dấn thân làm những gì có thể với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
Sứ điệp Tin Mừng nuớc Thiên Chúa thoạt đầu xem ra không có sức hấp dẫn gì đối với người nghe, cụ thể là đối với người Do Thái thời đó, họ đã từ chối lời của Đức Kitô và từ chối chính Ngài. Nhưng một khi nước Thiên Chúa được rao giảng cho con người thì sứ điệp Tin Mừng đó sẽ tự len lõi vào trong tâm hồn con người và tự lớn lên. Sự phát triển không ngừng của Hội Thánh Chúa cho chúng ta niềm xác tín ấy, và cũng chính điều đó mà chúng ta khẳng định “truyền giáo” là một trong những đặc tính của Giáo Hội. Dù bị bắt bớ, dù bị từ chối và khinh chê nhưng Giáo Hội vẫn tiếp tục rao giảng Lời Thiên Chúa cho con người, vì Giáo Hội tin vào sức sống mãnh liệt của Thánh Thần Chúa sẽ thực hiện điều kỳ diệu.
Do đó, qua hai dụ ngôn “hạt cải” và “men trong bột” hôm nay cũng mời gọi mỗi chúng ta tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, vì Chúa luôn quan phòng và đang hoạt động âm thầm trong Hội Thánh, cũng như trong mỗi người chúng ta. Nhờ đó, chúng ta an tâm, kiên trì và bền đỗ trong mỗi ngày trong sứ mạng truyền giáo của mình.