2022
Các Thánh Anh Hài
28.12 Các Thánh Anh Hài
1 Ga 1:52; Tv 124:2-3,4-5,7-8; Mt 2:13-18
Ngày xưa, ở Belem người ta nghe tiếng hàng vạn các bà mẹ khóc than con mình, vì hàng ngàn trẻ thơ vô tội đã biết giết chết bởi bạo chúa Hê-rô-đê. Ngày nay, mỗi năm cũng có hàng triệu thai nhi bị chính những bà mẹ đang tâm giết hại những đứa con của mình. Họ còn nguỵ biện cho những lý do để hạ sát các thai nhi là vì đông con, là vì quá nghèo, vì không đủ điều kiện nuôi con nên đành phá bỏ đi. Nhưng xem ra chẳng có lý do nào chính đáng cho bằng việc coi thường sự sống là quà tặng Thiên Chúa.
“Phá thai” đồng nghĩa với việc giết hại người khác vì lợi ích của bản thân mình. Ước mong sẽ có nhiều tấm lòng từ bi can đảm ngăn chặn sự ác đang hoành hành trong xã hội chúng ta. Xin đừng ai biện họ cho hành động gian ác của mình bằng bất cứ lý do gì. Tội ác là như nhau! Đôi khi giết một thai nhi không có khả năng tự vệ là dễ nhưng tội ác còn lớn gấp bội vì Chúa sẽ đòi lại công bằng cho các thai nhi.
Tin Mừng hôm nay thuật lại một chuyện thật đau lòng: biết bao nhiêu cái chết oan nghiệt của các bé thơ còn măng sữa ở Belem và vùng phụ cận. Các em đã phải chết đau thương tức tưởi. Còn Hài Nhi Giêsu được đưa sang Ai cập trốn thoát, bởi đang đêm sứ thần Chúa đã hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!” (Mt 2, 13). Sự việc này thật ứng nghiệm Lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ rằng: Ta đã gọi Con Ta ra khỏi Ai cập.
Vô cùng đau đớn và nghiệt ngã, các trẻ thơ vô tội bị giết chết vì âm mưu đen tối của vua Hêrôđê, sau khi phát hiện mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa không tiếp tay cho ý định độc ác của ông. Ông thấy mình bị dao động ngôi báu, đùng đùng giận dữ vì sợ mất ngôi vua của mình. Lập tức ông lệnh cho giết chết tất cả các trẻ em từ hai tuổi trở xuống (giết nhầm hơn bỏ sót). Thật khủng khiếp và tang thương cho các bà mẹ trong cả thành Belem và vùng phụ cận.
Hài Nhi Giêsu đâu có đến để lật đổ ông? “Vì nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Ngài đến cứu nhân độ thế, ông không hiểu nên đã nhẫn tâm giết bao nhiêu đứa trẻ cách ghê sợ, để mong thủ tiêu một đứa trẻ mà ông đang tìm. Ông sát hại những tấm thân bé bỏng, bởi vì nỗi sợ mất ngôi đã giết chết tâm hồn ông. Ông tưởng thực hiện được điều ông muốn là ông được sống lâu trên ngai báu, đang khi ông lại tìm giết chính Đấng ban sự sống. Ông đã gây nên chuyện đau lòng động trời trong cả thành Belem và vùng phụ cận. Cả một chiến dịch tang thương đã xảy ra, ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia đã nói: “Ở Rama, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Rakhen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa” (Mt 2, 18). Ngày nay nếu ai coi thước phim này trong tủ phim Sống Lời Chúa, sẽ thấu cảm nỗi đau oan nghiệt của các bà mẹ, đang gào thét trong tuyệt vọng, vì không thể chống cự, để giữ cho đứa con của mình quyền sống.
Đó là những chuyện đau lòng cách đây hơn 2000 năm: vua Hêrôđê tàn bạo và những bà mẹ đau khổ tuyệt vọng vì không thể giữ lại đứa con mình sinh ra.
Còn những bà mẹ trong thế gian hôm nay thì sao?
Tôi ngồi chờ kết quả xét nghiệm máu cùng phòng với một chị kia tại trạm y tế. Bác sĩ đang tháo que nhựa tránh thai ở ngay bắp tay cho chị, vì dụng cụ này đã hết hạn sau mấy tháng. Người bên cạnh hỏi: “Tháo như vậy lại tiếp tục có thai thì sao?” “Lại lên thớt”- chị trả lời tỉnh queo. Tôi nghe mà thấy nhói ở trong lòng. Đây là một trong biết bao nhiêu cái nhìn và hành vi xảy ra như cơm bữa nơi đây. Người ta coi rẻ mạng sống con người như vậy và là chuyện xảy ra hằng ngày, không mảy may tiếc xót hay động lòng. Tôi bần thần lặng nhìn, còn nhiều người khác đang ra vào phòng khám… Bao nhiêu thai nhi bị tước mất quyền sống, phải chết oan, không phải dưới tay bạo chúa hung thần, mà bởi chính cha mẹ của mình, vì sự có mặt của con nằm ngoài ý muốn của mẹ cha, vì sợ bị mất mặt, sợ thiếu điều kiện chăm sóc… Họ có đau xót xé lòng như những bà mẹ ở Rama năm xưa?
Ta thấy các thánh Anh Hài đã phải chết vì Chúa khi còn non thơ chưa hề hay biết. Tuy chưa biết nói, các ngài đã trở thành chứng nhân anh dũng của Người. Các ngài chưa biết nói mà đã tuyên xưng Chúa Kitô. Các ngài chưa đủ sức xông ra chiến trường, mà được lãnh nhận ngành thiên tuế dành cho người chiến thắng vinh quang.
Tuy còn bé thơ mà các ngài đã phải chết vì Chúa, chết thay để Chúa Hài Đồng được sống. Để từ đó, ơn cứu độ được thực hiện cho chúng con sau này nhờ Máu Chúa Kitô đổ ra. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta ơn can đảm lội ngược dòng đời và đón nhận cả những điều thế gian cho là dại dột. Xin cho chúng con dám chết đi cho những gì ngược lại giáo huấn của Chúa, để Máu Thánh Chúa đổ ra không trở nên vô ích, nhưng thanh tẩy chúng con sạch mọi tội lỗi và cho chúng ta được sống muôn đời.
Các thánh Anh Hài đã chết thay cho Hài Nhi Giêsu, dẫu các ngài chẳng có công trạng chi to lớn, nhưng qua sự hy sinh của các ngài mời gọi ta nhìn vào thực trạng xã hội hôm nay, còn đó những bạo chúa Hêrôđê khước từ, chống đối Thiên Chúa, muốn “ thay trời hành đạo ” trong cách hành xử tàn ác, bất công với anh em đồng loại; nhiều bạo chúa Hêrôđê vì tiền, quyền, danh, lợi, đam mê mà loại trừ, sát hại anh em mình, nhất là những anh em bé nhỏ, nghèo hèn; tệ hại nhất là những bạo chúa Hêrôđê đang mang trong mình những trọng trách, những bổn phận của những người làm cha, mẹ, người con, người vợ, người chồng nhưng vì ích kỷ, hẹp hòi đã đang tâm giết hại chính con đẻ, người “ đầu ấp, tay gối”, giết hại chính các bậc sinh thành dưỡng dục nên mình bằng lời nói và hành động; qua cách sống trái ngược với Tin Mừng nơi ta là người Kitô hữu, cách sống đó đã đưa đẩy ta trở thành bạo chúa Hêrôđê làm biến dạng, xóa mờ hình ảnh tuyệt mỹ của Thiên Chúa, đôi khi ta lại trở thành những “ kỳ đà cản mũi” khi những người anh em chung quanh muốn tìm và đến với Chúa.
Là những người thừa hưởng nguồn ơn cứu độ, tiếp cận với ánh sáng Tin Mừng của Thiên Chúa ngang qua Đức Kitô, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương ta, kế đến ta tri ân các thánh Anh Hài, các ngài đã và mãi trở thành tấm gương cho ta trong đời sống dấn thân, hy sinh, nhắc nhở ta hay biết chết đi những thói hư tật xấu, chết đi chính con người ích kỷ của mình để Đức Kitô được sống, để rồi qua ta Thiên Chúa rộng đường ban ơn cứu độ cho mọi người nhất là những người chưa tin nhận Thiên Chúa
2022
Thánh Gioan, Tông Đồ Thánh Sử
27.12 Thánh Gioan, Tông Đồ Thánh Sử
1 Ga 1:1-4; Tv 97:1-2,5-6,11-12; Ga 20:2-8
Gioan là tông đồ yêu dấu, tông đồ tình yêu mà trong bữa tiệc ly đã dựa đầu vào lòng Chúa Giêsu. Mọi điều Ngài viết là tình yêu. Nhưng Ngài cũng là ngư phủ thô kệch hăng hái và bồng bột khi Chúa gọi làm môn đệ, đến nỗi Chúa Giêsu gọi là “con cái sấm sét” (Mc 3,7). Gioan là ngư phủ ở Galilê, con của ông Giêbêđê và bà Salomê. Năm 20 tuổi, Ngài là môn đệ của thánh Gioan tẩy giả đang giảng dạy trong sa mạc. Ngài tìm kiếm sự hoàn thiện. Gioan tẩy giả đã thấy Chúa Thánh Thần xuống trên Chúa Kitô và loan báo cho mọi người rằng Người ở giữa họ, nhưng người ta không nhận biết Người. Ngày kia, Chúa Giêsu đi qua, Gioan tẩy giả chỉ cho Gioan và Anrê: “Đây là chiên Thiên Chúa”. Lập tức, hai ông đã theo Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã yêu thương Gioan cách đặc biệt vì sự trong trắng, nhiệt tâm và thành tín của Ngài. Ở trường học Thần Linh, Ngài tự biến đổi, thủ đắc tinh thần hiền hậu, học được đức ái chân thật và tiến tới tinh thần hy sinh. Gioan cùng với anh là Giacôbê, cũng như mỗi người đều tin rằng, Chúa Giêsu sắp tái lập vương quyền và họ xin Người cho họ được giữ những chỗ danh dự trong ngày vinh quang của thày. Nhưng Chúa Giêsu đã từng nói vương quốc của Ngài không thuộc thế gian này và đã trả lời bằng việc trao thánh giá cho họ: “Các con có thể uống chén Ta không ?” Đầy nhiệt tâm, họ trả lời: “Dạ được”. Như thế là họ biết rằng, việc chia sẻ vinh quang sẽ tiếp sau việc chia sẻ đau khổ.
Suốt ba năm sống công khai của Chúa Giêsu, Gioan không rời thày mình. Ngài có mặt khi thầy làm phép lạ và tâm sự với thày bằng những lời mang lại sự sống. Ngài đã thấy thầy chói sáng trên núi Tabor. Với kỷ niệm này, Gioan viết rằng: “Chúng tôi đã thấy vinh quang Con Một Thiên Chúa Cha: Chúa Giêsu đã chọn Ngài với Phêrô để dọn lễ Vượt qua, và trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói những lời mà Gioan không bao giờ quên được. Ngài sẽ ghi lại diễn từ ấy trong sách Phúc âm của mình.
Chỉ có một mình Gioan trong số 12 tông đồ trung thành theo Chúa Giêsu tới thánh giá. Ngài đứng cạnh Mẹ Maria. Chúa Giêsu đã nói với Mẹ Maria: “Này là con bà”, và với Gioan : “này là Mẹ con”. Và mọi người đã trở thành con mẹ trong con người của Gioan.
Khi viết sách Tin Mừng, thánh Gioan – người môn đệ được Chúa Giêsu thương mến không viết về Thầy Giêsu như một nhà viết sử thuần túy. Ngài tuyên bố rất rõ ràng mục đích ngài viết sách Tin Mừng Thứ Tư là để cho mọi người tin vào Đức Kitô; và vì tin, họ đạt được cuộc sống đời đời” (Ga 20, 31). Lời Chúa trong ngày kính thánh Gioan Tông Đồ cho chúng ta thấy rõ tại sao ngài làm chứng cho Đức Kitô. Ngài hiến dâng sự sống của mình để hiệp thông với con người và để con người được hiệp thông với Thiên Chúa.
Trong bài đọc I, thánh Gioan khẳng định rất rõ ràng “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống.” Trong lời chứng này, thánh Gioan dùng một loạt các động từ: nghe, thấy, chiêm ngưỡng, chạm tới, để làm chứng cho Đức Kitô. Đó là tất cả kinh nghiệm đức tin mà thánh nhân đã lãnh nhận từ Thiên Chúa và Giáo Hội chứ không phải do nỗ lực khôn ngoan của con người. Đức Giêsu hằng sống không vì ích lợi riêng tư cá nhân nhưng vì sự hiệp hiệp thông của con người với nhau và hiệp thông với Thiên Chúa.
Nhờ đó mà niềm vui được trọn vẹn. Như thế, theo thánh Gioan niềm vui là điều cốt tủy của Tin Mừng cần được rao giảng. Nếu người loan báo chỉ mang tin buồn và gây thất vọng cho người nghe, đó không phải là Tin Mừng của Đức Kitô. Dĩ nhiên, nhiều khi người loan báo phải đánh thức lương tâm khán giả để thúc đẩy họ tới việc ăn năn hối cải; nhưng một khi họ đã thú nhận tội lỗi, họ phải cảm thấy niềm vui vì tội được tha và họ được giao hòa với Thiên Chúa.
Trong Trình thuật Tin Mừng, thánh Gioan kể lại biến cố vào sáng ngày Phục Sinh: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Maria Magdala đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simon Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.” Hành động của hai môn đệ làm chúng ta tự hỏi: Tại sao người môn đệ này lại để cho Phêrô vào trước? Có lẽ bởi vì Phêrô là người lãnh đạo các Tông đồ.
Hành động của người môn đệ, tuy tới trước nhưng không vào, nói lên sự tôn trọng quyền bính của ông. Tuy nhiên, đây không phải là lý do chính yếu mà thánh nhân đề cập. Mục đích thánh nhân đề cập đến chi tiết này có lẽ là Ngài muốn nêu bật lên hành động Tin của người môn đệ vào Đức Kitô đã sống lại. Hơn nữa, tác giả cũng muốn gởi tới độc giả một lời khuyên nhủ: người nào yêu mến Đức Kitô nhiều bao nhiêu dễ chạy nhanh hơn và nhận ra Ngài dễ hơn (Ga 21, 7).
Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta cần ý thức hơn bổn phận làm chứng cho Đức Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng và bằng cuộc sống chứng nhân. Mục đích của việc làm chứng là để cảm thông với con người và dẫn họ tới niềm tin vào Đức Kitô. Để lời rao giảng có hiệu quả, chúng ta cần có một niềm tin mạnh mẽ và vững vàng nơi Đức Kitô, qua việc lắng nghe, ngắm nhìn, chiêm ngưỡng, và cảm nghiệm Ngài trong cuộc sống.
2022
Chịu bách hại
26.12 Thánh Stêphanô, Tđ
Cv 6:8-10; Tv 31:3-4,6,7,8,17,21; Mt 10:17-22
Chịu bách hại
Hôm nay lễ kính thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội. Giữa bầu khí an bình hân hoan của Mùa Giáng Sinh mà mừng kính một vị tử đạo thì xem ra không bình thường, vì sự tử đạo thường gợi lên máu đào và chết chóc. Nhưng chắc chắn Giáo Hội đã có một lý do rất đặc biệt để mừng lễ của vị tử đạo tiên khởi này vào ngay sau Lễ Giáng Sinh.
Trong lá thư gởi cho các thiếu nhi khắp thế giới được ký vào ngày 3/10/1995, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II xem ra muốn giải thích cho chúng ta cái lý do sâu xa ấy. Ngài viết cho các em thiếu như nhi sau: “Những ngày tiếp theo ngày sinh của Chúa Giêsu cũng là đến ngày lễ theo truyền thống của Cựu Ước, tám ngày sau đó Hài Nhi đã được đặt tên, tên của Ngài là Giêsu”.
Sau bốn mươi ngày chúng ta tưởng niệm việc Ngài được dâng hiến trong đền thờ giống như bất cứ đứa con trai đầu lòng nào của Israel. Trong dịp này, một cuộc gặp gỡ phi thường đã diễn ra, vừa cùng với Hài Nhi đến trong đền thờ, Mẹ Maria đã gặp cụ già Simêon. Cụ đã bồng Hài Nhi Giêsu trên tay và tiên báo như sau: “Lạy Chúa, giờ đây xin để tôi tớ Chúa được ra đi bình an theo như lời Chúa hứa, vì chính tôi tớ Chúa đã thấy ơn cứu độ mà Ngài đã chuẩn bị trước mặt muôn dân. Ðó là ánh sáng soi cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài”. Sau đó ông nói với Mẹ Maria: “Con Trẻ này sẽ là duyên cớ cho nhiều người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy, Con Trẻ là dấu hiệu bị người đời chống đối, và chính là một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà. Ngõ hầu những ý nghĩ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra”.
Như vậy, ngay từ những ngày đầu của cuộc đời Chúa Giêsu, chúng ta đã nghe được lời tiên báo về cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, và cũng ám chỉ đến cuộc tử đạo của Maria, Mẹ Ngài. Ngày thứ Sáu Tuần Thánh, Mẹ sẽ đứng thinh lặng bên Thập Giá của Con Mẹ. Cũng thế, không bao lâu sau khi Chúa Giêsu được sinh hạ thì Hài Nhi Giêsu đã phải đương đầu với một mối đe dọa trầm trọng. Ông vua hung bạo Hêrôđê sẽ ra lệnh tàn sát tất cả các trẻ em dưới hai tuổi. Và vì lý do này, Chúa Giêsu sẽ phải bị bắt buộc cùng với cha mẹ trốn sang Ai Cập.
Chắc hẳn tất cả chúng con đã biết các biến cố gắn liền với việc sinh hạ của Chúa Giêsu. Cha mẹ chúng con, các linh mục, các giáo lý viên và những biến cố ấy, và cùng với toàn thể Giáo Hội, mỗi người trong chúng con sống lại một cách thiêng liêng trong biến cố ấy trong Mùa Giáng Sinh. Như vậy, chúng con đã biết những khía cạnh bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu.
Sống lại một cách thiêng liêng những biến cố bi thảm trong thời thơ ấu của Chúa Giêsu, đó không phải là những lời nhắn nhủ mà Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II gởi riêng cho các em thiếu nhi. Vì qua các em, Ngài cũng mời gọi tất cả mọi người sống một cách thiêng liêng cuộc tử nạn của Chúa Giêsu ngay trong chính mầu nhiệm Giáng Sinh.
Mầu nhiệm Giáng Sinh gắn liền với mầu nhiệm Tử Nạn Thập Giá của Ngài. Hài Nhi nằm trong máng cỏ nghèo hèn, cuộc tử nạn đã được báo trước, có lẽ đó là lý do tại sao ngay ngày thứ nhất của tuần bát nhật Giáng Sinh, Giáo Hội mừng kính vị thánh Tử Ðạo tiên khởi là thánh Stêphanô.
Mừng lễ thánh Stêphanô, vị tử đạo tiên khởi của Giáo Hội hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta noi gương ngài. Ngài là một vị phó tế của cộng đoàn Jêrusalem (Cv 6,5) một người được mô tả là đầy Thánh Thần. Ngài được trao phó làm việc bác ái trong cộng đoàn, nhưng sách Công Vụ cho thấy là các phó tế vẫn tham dự vào việc giảng dạy và bênh vực đức tin. Trước khi chịu chết, Stêphanô đã giảng một bài thật dài và thật hùng hồn, tóm tắt lịch sử ơn cứu độ để minh chứng và qui trách nhiệm cái chết của Chúa Giêsu cho các Thượng tế, luật sĩ và Pharisiêu. Và cũng vì lời giảng dạy đó mà Stêphanô phải chịu ném đá chết.
Cuộc tử đạo của Stêphanô được diễn ra theo mô hình của cuộc khổ nạn của Chúa Kitô: người ta cũng xách động dân chúng làm chứng gian chống lại ông; ông đối chất với Thượng tế có uy quyền trước mặt mọi người.(Cv 6, 15). Ông nhìn thấy Con Người tức là Chúa Giêsu bên hữu Chúa Cha (7, 55). Ông cầu xin ơn tha thứ cho những kẻ giết ông (7, 60). Cuộc thương khó của thánh Stêphanô giống hệt cuộc thương khó của Chúa Giêsu.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dặn dò các môn đệ ba điều:
Số phận những người theo Chúa là chịu bắt bớ như Ngài: Họ sẽ nộp anh em cho Hội Đồng. Nhưng trong những thử thách đó, người môn đệ cảm thấy được an ủi, vì đó là dịp làm chứng cho Thầy. Sau này sách Công vụ còn nói: Các Tông đồ hân hoan vìcảm thấy xứng đáng chịu khổ vì Chúa Kitô.
Chúa Thánh Thần sẽ đồng hành với họ trong những cuộc bắt bớ và sẽ dạy họ phải nói gì trước những kẻ bắt bớ. Lý lẽ hùng hồn của Stêphanô đã minh chứng điều đó.
Lời dặn thứ balà nhiều khi chính những người thân thuộc sẽ bắt bớ họ, cũng như Chúa Giêsu đã chịu đồng bào mình lên án chết: Anh sẽ nộp em, cha nộp con cho ngươi ta giết.
Khi suy gẫm những lời dặn đò của Chúa hôm nay, ta có cảm tưởng Chúa cũng đang dặn dò chúng ta như vậy:
Người tông đồ nhiều khi bị hiểu lầm, bị bách hại. Đó là số phận chung của những người theo Chúa.
Nhưng trong những thử thách của đời sống đức tin, dựa vào sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta vui mừng vì có dịp làm chứng cho Chúa.
Và chúng ta đừng lấy làm lạ, nhiều khi những người làm khổ chúng ta, bách hại chúng ta không là ai khác mà lại chính là những người thân của chúng ta, vì hiểu lầm không biết hay vì ác ý. Chính Chúa Giêsu cũng đã bị môn đệ thân tín là Giuda bán đứng.
2022
Đón mừng Chúa Giáng Sinh
24.12 Lễ Vọng Chúa Giáng Sinh
Is 62:1-5; Tv 89:4-5,16-17,27-29; Cv 13:16-17,22-25; Mt 1:1-25; Mt 1:18-25; Is 9:1-6; Tv 96:1-2,2-3,11-12,132; Lc 2:1-14
Đón mừng Chúa Giáng Sinh
Thiên Chúa muốn cứu độ con người bằng cách sai Con Một Chúa xuống thế gian, nhập thể làm người. Cách làm người của Con Thiên Chúa vừa bình thường lại vừa tuyệt đối khác thường. Bình thường vì Người được sinh ra bởi một người nữ (x. Gl 4, 4). Khác thường vì Người không được sinh ra bởi người nam (cha ruột), nhưng do quyền năng Chúa Thánh Thần (Mt 1, 18. 20). Mátthêu diễn tả một cách tinh tế như sau: “Giacóp sinh Giuse, chồng của bà Maria, từ bà Chúa Giêsu được sinh ra, cũng gọi là Đức Kitô” (c. 16).
Có thể nói, Chúa Giêsu có dược “nhập khẩu” vào dòng dõi vua Đavít hay không đều tùy thuộc vào lời đáp trả của thánh nhân. Nên Thánh Mátthêu đã làm nổi bật dung mạo vị cha nuôi của Chúa Giêsu, vừa nhấn mạnh rằng, nhờ qua thánh nhân, Con Trẻ được đưa vào trong dòng dõi vua Ðavít một cách hợp pháp, và như thế thực hiện những Lời Kinh Thánh, trong đó Ðấng Thiên Sai được các tiên tri loan báo như là “Con của Vua Ðavid ”. Như thế Con Thiên Chúa đã có một người mẹ để trọn vẹn là người. Ngài có cha nuôi là thánh Giuse để được thuộc về dòng Đavít với một gia phả. Có một gia đình cần thiết để sống và lớn lên.
Đêm nay là đêm vui nhất trong Giáo Hội Công giáo chúng ta, cũng là đêm linh thiêng nhất, vì đêm nay Giáo hội loan báo tin vui cho toàn thể nhân loại, cho mọi người và từng người: “Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.
Nghe lại những lời trên của Thiên Thần báo cho các mục đồng tuy xa xưa những vẫn luôn mới mẻ trong đêm nay, giúp chúng ta sống lại bầu khí linh thiêng của Ðêm Thánh, Ðêm mà cách đây 2017 năm tại Bêlem, Con Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã thân hành xuống thế, giáng sinh làm người giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, và cư ngụ giữa chúng ta. Đây là cuộc hòa mình của Thiên Chúa vào trong lịch sử nhân loại.
“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. Đây là lời loan báo vang vọng trong đêm đen cho những ai đang tỉnh thức, như các mục đồng tại Bêlem; Lời ấy vang lên cho những ai đã sống theo đòi hỏi của Mùa Vọng và một khi đã tỉnh thức trong đợi chờ, sẵn sàng tiếp nhận sứ điệp của niềm vui, được hát lên trong Thánh lễ đêm nay.
Khi nghe những lời trên Giáo hội hết sức vui mừng, niềm hy vọng dâng trào và đức tin được củng cố. Noel là lễ Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Nơi Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người, gần gũi với con người, đã từ bỏ tất cả vì chúng ta. Con Trẻ nằm trong máng cỏ là Thiên Chúa thật. Thiên Chúa không hiện hữu đơn độc, nhưng là một cộng đoàn Ba Ngôi, với tình yêu hỗ tương trong sự cho đi và nhận lại. Ngài là Cha, Con và Thánh Thần. Hài Nhi Giêsu không chỉ biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa cho nhân loại, nhưng còn hiến mạng vì chúng ta, mà không đòi hỏi một đặc quyền nào hết. Thánh Iréné khi suy niệm về Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Con đã viết: “Thiên Chúa làm người để con người được trở nên Thiên Chúa”.
Trong giờ vọng lễ Mừng Chúa giáng sinh đêm nay, chúng ta hướng nhìn về Thánh Giuse, vị hôn phu của Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, cha nuôi Đức Giêsu, mẫu gương của người “công chính” (Mt 1, 19). Vai trò của Thánh Giuse với nhân đức trổi vượt không thể nào bị rút gọn về khía cạnh luật pháp mà thôi. Ngài được Thiên Chúa tín nhiệm trao ban quyền làm “Người gìn giữ Ðấng cứu thế”, trong gia đoạn đầu của công trình cứu chuộc, khi hoà hợp hoàn toàn với vị hôn thê của mình, tiếp rước Con Thiên Chúa làm người và canh chừng cho sự tăng trưởng nhân bản của Con Thiên Chúa. Vì thế, thật xứng hợp biết bao hướng về ngài, cầu xin ngài trợ giúp chúng ta sống trọn vẹn mầu nhiệm Ðức Tin cao cả này.
Chúa Cha đã yêu thương nhân loại đến nỗi trao tặng Người Con Một, Người Con ấy là Ân Sủng của Thiên Chúa, đem ơn cứu độ đến trần gian (Tt 2, 11 ), là Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Cuộc giáng sinh diệu kỳ của Con Một Chúa đã đánh dấu bước điểm khởi đầu mới của lịch sử. Ngôi Lời đã nhập thể vì chúng ta và sống giữa chúng ta. Nơi bàn tiệc Thánh Thể mỗi ngày có sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa ở giữa chúng ta.
Nếu xưa kia tại Bêlem, các thiên thần ca hát, hôm nay đây chúng ta vẫn cùng với các Thiên Thần và Tổng Lãnh Thiên Thần hát ca mỗi lần dẫn vào mầu nhiệm Thánh Thể : “Thánh! Thánh! Thánh! Chúa Thiên Chúa các đạo binh !”
Trong đêm cực thánh này, Chúa Kitô đã từ trời cao sinh xuống giữa chúng ta. Ngôi Lời nằm khóc trong máng cỏ, được gọi là Giêsu, nghĩa là Thiên Chúa cứu độ “bởi vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi mọi tội lỗi” (Mt 1 21). Không phải trong một lâu đài mà Ðấng cứu chuộc sinh ra, nhưng trong một chuồng loài vật; và sống giữa chúng ta. Người sinh xuống trần gian, từ cung lòng của một Người Nữ được chúc phúc hơn mọi nguời nữ; Người là Con Ðấng Tối Cao, sự giáng sinh của Người đã làm cho chúng ta được ơn cứu rỗi.
Quả thật, khi chiêm ngắm liên lỉ dung mạo của Chúa Giêsu, chúng ta khám phá được rằng, tình yêu của Thiên Chúa là chung kết và tối thượng, nghĩa là ở ngay từ một Hài Nhi bé bỏng đã mang đến cho chúng ta một tình không bao giờ vơi cạn. Tình yêu ấy chấp nhận bước vào cuộc đời này trong một thân phận không thể thấp hèn hơn được nữa, để những ai trong Đêm Giang Sinh dù không có một mái nhà, dù đang đau khổ vì tình yêu bị phản bội, khổ đau vì bị con cái hắt hủi thì nhìn vào mái ấm gia đình ở nơi hang đá vẫn cảm thấy trong cuộc đời này có ai đó đồng cảm và thông cảm được với mình.
Noi gương ngài, chúng ta mở rộng lòng mình ra, chuẩn bị nội tâm để đón nhận và gìn giữ Chúa Giêsu trong đời sống chúng ta. Uớc chi Chúa có thể gặp thấy trong chúng ta lòng quảng đại sẵn sàng đón Chúa đến, như đã xảy ra như vậy tại Bêlem trong Ðêm Cực Thánh Chúa sinh ra đời.