2023
Thành Kiến Làm Cản Trở Ðức Tin
1.2 Thứ Tư Thứ Tư trong tuần thứ Tư Mùa Quanh Năm
Dt 12:4-7,11-15; Tv 103:1-2,13-14,17-18; Mc 6:1-6
Thành Kiến Làm Cản Trở Ðức Tin
Đoạn Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Kitô bị những người đồng hương từ chối.
Sự từ chối này có những lý do riêng của nó. Đó là họ chỉ nhận thấy Đức Kitô là con bác thợ mộc Giuse, bà con lối xóm với họ. Hoặc có thể họ không muốn nhìn nhận Ngài như một tiên tri, luôn đòi hỏi mọi người phải sám hối theo ý Thiên Chúa.
Hẳn rằng ngày hôm nay những người tín hữu chúng ta không còn bị nhầm lẫn về Đức Kitô một Thiên Chúa làm người. Nhưng chúng ta vẫn có thể dửng dưng và từ chối sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống hôm nay.
Nếu những thân nhân của Đức Kitô ngày xưa đã vấp phải những yếu tố nhân loại của Ngài, để không nhận ra Ngài, thì đó cũng là những chướng ngại làm chúng ta không nhận ra Ngài ngày hôm nay, một Đức Kitô trong tha nhân.
Không ít người trong chúng ta đã từ chối những giá trị, những việc làm của anh em đồng loại, bởi vì họ là những con người không cùng một niềm tin, hoặc họ bị coi chỉ là những con người tầm thường, có chút lầm lỗi trong dĩ vãng.
Cách nhìn và đánh giá như thế sẽ là một cách sống xa lạ với Tin Mừng, sẽ là một cách sống xa lạ với với điều chính Đức Kitô đã rao giảng vì Ngài đã chỉ đám đông và trả lời: Những ai thi hành ý muốn Thiên Chúa, thì họ chính là anh em, chị em và là mẹ tôi vậy. Những người dám hy sinh cho đồng loại, những người dám sống vì kẻ nghèo, đang là hình ảnh của Thiên Chúa mà mỗi người chúng ta không thể không nhìn nhận.
Cũng có thể ngày hôm nay, mỗi người trong chúng ta đang từ chối Đức Kitô khi xa lánh những đòi hỏi của Tin Mừng, được coi là những phiền nhiễu của Thiên Chúa. Một Tin Mừng kêu gọi phải yêu thương đồng loại như chính mình, phải hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Một Tin Mừng kêu gọi phải bán hết của cải, làm phúc bố thí rồi mới bước theo Ngài. Tóm lại, Đó là một Tin Mừng kêu gọi sống trong một con người mới.
Từ chối những đòi hỏi cốt yếu của Tin Mừng chỉ để sống với những hình thức những nghi lễ bên ngoài, chắc hẳn là sẽ êm ái hơn. Nhưng đó chỉ là sự êm ái của những kẻ không muốn bị liên luỵ bởi Tin Mừng, của những kẻ không nhìn nhận Đức Kitô. Ai trong chúng ta khẳng định được rằng là mình đã không từ chối Đức Kitô.
Thái độ của dân làng Nadarét cũng có thể là cơn cám dỗ của người Kitô hữu hôm nay. Chúng ta có thể tự hào và tự mãn với những bài giáo lý, những hiểu biết về đạo, để rồi quay lung trước lời mời gọi của Chúa trong những sự kiện, những biến cố đang xảy ra chung quanh chúng ta. Nói cách khác, việc sống đạo của chúng ta hôm nay không thể đóng khung trong một số kiến thức có sẵn về Thiên Chúa, về ơn cứu độ, cũng như trong một số nghi lễ đã được quy định sẵn, trái lại phải được thể hiện qua việc lắng nghe, tìm kiếm ý định của Chúa trong lịch sử, trong chính lòng cuộc đời cá nhân và trong sinh hoạt của cộng đồng xã hội. Vấn đề là chúng ta có thực sự thoát ra được những thành kiến, những quan niệm, những lối nhìn sẵn có để thực sự lắng nghe tiêng nói mới mẻ của Chúa qua các biến cố, qua các sự kiện của thực tế hôm nay.
Trong xã hội ngày nay hoặc ngay trong cộng đoàn giáo xứ, chúng ta thường “gán” cho người khác những gì mà chúng ta đã “nghĩ” về họ, nhất là những lỗi lầm quá khứ, những hành vi bất chính từ bao đời. Chúng ta “ dán nhãn” cho họ và nghĩ rằng “khó thay đổi hoặc khi chứng kiến sự thay đổi của họ, chúng ta lại cho rằng : đó là do một tác nhân nào đó… để trục lợi. Định kiến này xuất phát từ sự ghen tỵ, óc hẹp hòi dựa vào những yếu tố, nhân loại như : nghề nghiệp, gia cảnh… Những yếu tố này bày ra trước mắt chúng ta mỗi khi chúng ta nói đến hoặc đánh giá người đó vì thậm chí chúng ta còn xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm của họ.
Chúa Giêsu đã nói gì về định kiến này ? Ngài nói : “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc và trong gia đình mình mà thôi Vì ông bà ta có câu “quen quá hóa nhàm, hoặc gần chùa gọi bụt bằng anh”. Những người thân thuộc lại trở thành những kẻ thù nghịch, gièm pha, hạ giá, xúc phạm nhau.
Dù Chúa Giêsu đã cảnh báo dân làng về điều đó, nhưng họ vẫn không từ bỏ được thành kiến ấy. Thành kiến lúc này đã trở thành hàng rào chắn, trở thành bức tường ngăn cản và bóp nghẹt niềm tin của họ (c.6).
Dù biết những thành kiến của họ, nhưng Chúa Giêsu vẫn ngạc nhiên vì họ không tin. Sự cứng lòng, chai đá khiến họ thích ở lì trong cái cũ, trong tội lỗi hơn là vươn ra đón lấy ánh sáng cứu độ. Và ơn cứu độ không thể đến với họ, nếu họ không mở lòng đón nhận : “Chúa Giêsu không thể làm được phép lạ nào tại đó, chỉ đặt tay chữa lành một vài bệnh nhân” (c.5). Ở đây, chúng ta có thể xem như cuộc loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu bị thất bại, thất bại ngay tại quê hương của Ngài.
2023
Chỉ cần tin thôi !
31.1 Thứ Ba Thánh Gioan Bosco, Lm
Dt 12:1-4; Tv 22:26-27,28,30,31-32; Mc 5:21-43
Chỉ cần tin thôi !
Thánh Gioan Boscô là một vị thánh nổi tiếng trong Giáo Hội vì những đóng góp to lớn của Ngài cũng như của Hội dòng do Ngài thiết lập trên khắp thế giới. Tên đầy đủ của Ngài là Giovanni Melchiorre Bosco. Ngài chào đời ngày 16 tháng 8 năm 1815 tại làng Becchi, thuộc tỉnh Piémont miền Bắc nước Ý, trong một gia đình nông dân nghèo. Cha Ngài là Phanxicô Bosco. Khi ông qua đời, Boscô mới lên hai tuổi. Như vậy Boscô đã phải mồ côi cha từ lúc hai tuổi. Mẹ Ngài là bà Magarita, một người đàn bà rất đạo đức, yêu lao động và rất ham thích việc cầu nguyện. Tuy phải làm lụng vất vả mới kiếm đủ tiền để nuôi con, nhưng không bao giờ bà sao lãng việc giáo dục con cái. Chính bà đã truyền thụ cho Bosco nhiều đức tính cao quý cũng như một trí tuệ thông minh sắc sảo, và một lòng đạo đức có chiều sâu. Chính nhờ đó mà sau này Don Boscô sớm có được một đời sống tốt lành thánh thiện trong công việc tông đồ.
Boscô đã không được may mắn hưởng những ngày thơ ấu êm đềm như các trẻ nhỏ cùng trạc tuổi. Bosco rất ham học hỏi, nhưng vì không có đủ tiền đi học nên cậu phải đến nhờ cha sở dạy cho. Nhưng rủi thay chỉ ít lâu sau cha sở lại qua đời.
Từ đó, để có tiền đi học, Boscô đã phải làm nhiều việc khác nhau như: chăn bò, làm công việc đồng áng, bồi bàn cà phê, may quần áo, may giầy.v.v.. Mãi đến năm 11 tuổi, Don Boscô mới chính thức được bước chân đến trường. Và năm 16 tuổi Boscô đã vào được bậc trung học.
Từ nhỏ, Don Boscô đã có ý nguyện muốn dâng mình cho Chúa trong bậc tu trì. Chính vì vậy, mà vào năm 1835, Ngài đã xin vào Đại chủng viện Torino. Ý nguyện của Ngài được chấp nhận và sáu năm sau Ngài được thụ phong linh mục. Và vào ngày 5 tháng 6 năm 1841 lúc đó ngài đã được 26 tuổi. Sau khi chịu chức, Ngài khởi đầu mục vụ tông đồ bằng cách đi thăm các trại giáo hóa dành cho các thanh thiếu niên phạm pháp tại Giáo phận Torino.
Cuối năm 1841, Ngài nhận nuôi dưỡng Bartôlômêô Garelli, một trẻ em vô gia cư. Dần dà, Ngài nhận nuôi thêm nhiều trẻ em vô gia cư hoặc mồ côi khác. Ban đầu, Ngài quy tụ các em để tổ chức vui chơi, tham dự Thánh Lễ và học giáo lý. Sau khi có nơi ăn chốn ở cố định ở Valdocco, Thành Torinô, Ngài đã cho xây nhà nội trú, mở các lớp dạy học và mở các xưởng dạy nghề cho các em. Số lượng trẻ em ngày càng đông, khiến công việc của Ngài ngày càng vất vả, nên có một lúc Ngài đã từng bị sưng phổi nặng nhưng rất may là cơn bệnh cũng đã qua.
Năm 1859, Gioan Bosco cùng với các đồng chí của mình chính thức thành lập Hội dòng của Thánh Phanxicô Đệ Salê (tiếng Latin: Societas Sancti Francisci Salesii), với hàm ý noi gương Đức ái Tông đồ, sự Hiền lành và lòng kiên nhẫn của thánh nhân. Ngày 25 tháng 3 năm 1855, Micae Rua trở thành tu sĩ đầu tiên với lời tuyên khấn dòng trọng thể. Năm 1860, Giuse Rossi trở thành sư huynh đầu tiên được đón nhận vào Dòng. Sau đó, ngày 14 tháng 6 năm 1862, 22 tu sĩ Salêdiêng khác đã thực hiện lời tuyên khấn.
Gioan Bosco cũng đã thành lập Dòng Con Đức Mẹ phù hộ (còn được gọi là Dòng Nữ Salêdiêng Don Bosco) vào ngày 5 tháng 8 năm 1872. Năm 1876, Ngài thành lập Hiệp hội Cộng tác viên Salêdiêng. Ba Nhóm này và nhiều Nhóm khác được thành lập sau này liên kết với nhau thành một Gia đình, một tổ chức xã hội Công giáo thống nhất. Vào năm 1872, Ngài tiếp tục lập thêm hai hội dòng khác: Hội Đức Mẹ hằng Cứu giúp để bảo trợ ơn gọi linh mục; Hội Dòng nữ Salésienne nhằm giáo dục các em cô nhi. Các tổ chức này đã có tầm ảnh hưởng khắp nơi ngay khi Ngài còn tại thế.
Với những nỗ lực không mệt mỏi của mình, Gioan Bosco kiệt sức, lâm bệnh và qua đời ngày 31 tháng 1 năm 1888 tại Torino, hưởng thọ 73 tuổi. Để tưởng thưởng cho những công lao to lớn quí báu của Ngài với giáo hội và xã hội, Giáo Hội đã phong Ngài lên bậc chân phước ngày 2/6/1929 và ngày 1/4/1934 Đức Giáo hoàng Piô XI đã phong ngài lên bậc hiển thánh với biệt hiệu: Cha và Thầy của thanh thiếu niên.
Ngài qua đi nhưng hình ảnh của người cha hiền còn sống mãi trong lòng nhân thế. Lòng nhiệt thành và từ tâm của Ngài đối với bầy trẻ côi cút phải là bài học sáng ngời soi dẫn tâm hồn con người trong muôn thế hệ.
Tin mừng hôm nay nói đến hai người nữ được Chúa Giê-su chữa lành và cứu sống: một là người phụ nữ bị băng huyết 12 năm, một là cô bé đã chết 12 tuổi. Người phụ nữ xuất huyết 12 năm được ơn chữa lành do lòng tin mãnh liệt của bà; cô bé đã chết 12 tuổi được Chúa cứu sống do sự vững tin của người cha. Có một mối liên kết giữa những người nữ được nói tới ở đây với Israel – con số 12 chẳng phải là biểu tượng cho 12 chi tộc Israel đó sao.
Mở đầu đoạn tin mừng là việc người cha đến xin Chúa Giêsu cứu chữa cho cô con gái 12 tuổi sắp chết của ông; đoạn giữa là sự kiện người bà bị xuất huyết đã 12 năm tìm cách đến gần sờ đụng vào Chúa Giêsu để được cứu chữa: Đối với người Do-thái, máu huyết là chất thiêng, biểu hiện cho sự sống – người đàn bà bị xuất huyết lâu dài tức là sự sống đang rời bỏ bà và bà lâm vào tình trạng rất nguy kịch (vì các thầy lang đã bó tay mà bà thì cũng đã tán gia bại sản bởi căn bệnh) – tuy nhiên nhờ lòng tin mãnh liệt vào Chúa Giê-su mà bà đã được chữa lành; đoạn cuối là việc Chúa Giê-su cứu sống cô bé 12 tuổi nhờ lòng tin của người cha. Mặt khác, để quyền năng Chúa được thể hiện và phép lạ xảy ra, chúng ta thấy tất cả những nhân vật chính trong trình thuật đều vượt qua những rào cản của luật lệ: Người đàn bà loạn huyết theo luật Do-thái không được đến gần tiếp xúc với ai vì có thể làm cho đối tượng mình tiếp xúc ra nhơ uế (Lv 15, 19 – 27), vậy mà bà lại dám cả gan chen chúc vào giữa đám đông theo Chúa Giêsu để động chạm vào áo của Người – bà đã vi phạm luật. Còn ông Gia-ia khi chứng kiến và biết Chúa Giêsu đã bị nhơ uế do người phụ nữ kia mà vẫn để cho Người đến nhà mình để cứu chữa cho con gái thì ông cũng là kẻ vi phạm luật lệ và nhà ông bị nhơ uế. Về phía Chúa Giêsu, Ngài dường như không quan tâm đến việc mình bị mắc uế hay không mắc uế, Ngài chỉ quan tâm đến con người và những nỗi thống khổ của họ. Cho nên, bất chấp những luật lệ khô cứng, phép lạ sống động đã xảy ra.
Như vậy, đoạn Tin mừng cho thấy Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống và mời gọi con người tin vào Ngài để có được sự sống đích thực và khỏi chết muôn đời. Qua đó, trình thuật cũng diễn tả cho thấy Israel đang trong tình trạng nguy khốn; sự sống niềm tin của họ đã bị xơ cứng và đang chết dần mòn bởi những vỏ bọc luật lệ vô hồn, lắm khi trở thành bất nhân. Họ cần tin vào Chúa Giêsu để được giải thoát khỏi ách nặng nề của lề luật và có được cách thế sống niềm tin tràn đầy niềm vui và tình yêu như Thiên Chúa mong muốn.
Giáo hội mời gọi con cái mình, những Ki-tô hữu xét lại niềm tin cũng như cách thế sống đức tin của mình một cách tích cực và cấp thiết hơn trong một thế giới mà các giá trị sự sống thánh thiêng dần bị đánh mất và các giá trị luân lý đang bị suy đồi, đồng thời chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa duy lợi nhuận vật chất đang được đề cao và tôn vinh lên thành ‘thượng đế’. Vì vậy, nếu khi phải lựa chọn, bạn đặt quan trọng một dịch vụ làm ăn hơn là Thánh lễ, một đám tiệc hơn là Thánh Thể, một cuộc vui chơi hơn là những việc tông đồ bác ái, công ích…là bạn đang sống theo chủ nghĩa duy vật chất – bạn đang đánh mất niềm tin của mình.
Khi đời sống bạn lâm vào tình trạng khổ đau thử thách (nghèo đói, tật bệnh, gia đình có nguy cơ tan vỡ…) hoặc có những vấn đề nan giải, bạn suy sụp tuyệt vọng, chạy tìm sự khôn ngoan thế tục hơn là các giá trị giá trị tin mừng, cậy dựa vào các thế lực tăm tối của sa tan (tiền bạc, bói toán, đồng bóng…) hơn là cậy trông vào Chúa thì đó là dấu hiệu niềm tin của bạn đã chết. Thiên Chúa là Đấng có thể cứu bạn, bạn hãy tha thiết chạy đến với Người để xin ơn đức tin, xin Người cứu chữa khỏi tình trạng khốn khổ của mình.
“Đừng sợ, chỉ cần tin thôi!” (c.36) lời của Chúa Giêsu nói với ông Giai-rô cũng là thông điệp Người nhắn gửi mỗi người chúng ta. Sống trong một thế giới đa tạp, niềm tin đang dãy chết, các giá trị giả – thật, thật – giả nhiễu nhương khó phân biệt, chúng ta cần cầu nguyện rất nhiều, cần cắm neo cuộc đời mình trong lòng bàn tay Chúa, trong tình thương xót của Chúa. Đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng cho những ai khao khát kêu xin Người. Do đó, bạn đừng ngần ngại xin ơn đức tin và hãy kiên trì, kiên vững trong lòng tin. Bởi vì trong cuộc sống chúng ta chỉ cần tin Chúa, can đảm bước đi theo lời chỉ bảo, hướng dẫn của Người, chúng ta sẽ không bao giờ sợ lầm đường lạc lối, và Chúa sẽ thực hiện những điều lạ lùng, diệu kỳ trên cuộc đời của chúng ta.
2023
Uy quyền trên quỷ dữ
30.1 Thứ Hai
Thứ Hai trong tuần thứ Tư Mùa Quanh Năm
Dt 11:32-40; Tv 31:20,21,22,23,24; Mc 5:1-20
Uy quyền trên quỷ dữ
Chúa Giê-su và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa. Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người. Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lai được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích. (Mc. 5, 1 -3)
Trình thuật về phép lạ Chúa chữa người bị quỷ ám và đàn heo biến mất đặt ra những vấn đề khó xử và có nhiều điều khác thường tưởng chừng như mê tín dị đoan.
Hình như đây là những sự kiện biệt lập được ghép lại với nhau. Chúa Giêsu lúc đó đang ở vùng Ghêrasa nằm phía đông Biển Hồ Ghen-nê-xa-rét là vùng đất dân ngoại, nơi nuôi heo là thú vật ô uế đối với người Do thái. Khi Chúa chữa cho một người bị quỷ ám ở đây thì có một sự cố xảy ra trong một trại nuôi heo lớn. Có lẽ là hai sự kiện này xảy ra vào cùng kỳ, nên được tác giả lợi dụng ghép lại với nhau để sự kiện này giải thích cho sự kiện kia và rút ra một bài học luân lý. Đó cũng là một lối kết cấu câu chuyện có tính cách bình dân vậy.
Sau khi dẹp yên bão tố ở biển hồ Tiberia, Chúa Giêsu cùng các môn đệ trực chỉ sang miền Gêsara, là một thành phố dân ngoại thuộc miền thập tỉnh Gêsara nằm về hướng tây nâm biển hồ có núi đồi mấp mô chạy dài tới biển Địa trung hải.
Chúa vừa bước chân lên đất liền, thì gặp ngay một người bị quỉ ám thân mình trần trụi (Lc 8, 27), sống chui rúc ở các mồ mả, tiến ra (c. 2). Hắn khỏe vô địch, xiềng xích sắt gông cùm hắn bẻ gẫy như củi khô (c. 3-4). Hắn lấy đá rạch nát mình mẩy và thu trếu nghe dễ sợ mà không ai trị nổi. Cũng vì vậy mà ít ai dám qua lại vùng này.
Thế mà hôm nay Chúa Giêsu đến đó. Ngay từ đàng xa đã thấy Chúa, người bị ám xông tới như gặp một con mồi. Nhưng đến nơi hắn lại quì sụp xuống van xin “Xin đừng làm khổ tôi” (c. 27) “và Chúa truyền cho thần ô uế ra khỏi người ấy” (Lc 8, 29). Ở lại trong một người vẫn còn sướng hơn về hỏa ngục. Nói khác đi, con được một thân chủ là hỏa ngục còn rộng hơn được một chút. Ma quỉ biết rằng Chúa đến tiêu diệt uy lực của chúng, uy quyền mà chúng có từ khi Adong, Evà pahm tội. Nay Chúa đến, chúng dần dần mất chủ quyền mà trở về nơi khóc lóc khổ sở…
Khi Chúa phán hỏi: “Tên ngươi là gì ?” (c. 9) thì người đó nói “Tên tôi là cơ binh” (c. 9). Cơ binh là một đạo quân La mã thời ấy có khoảng 6826 người lính. Điều này muốn nói lên rằng thần dữ ở trong người xấu số rất là đông đảo, và cũng nói lên rằng ngoài satan, còn vô số quỉ thần khác nữa. Cho nên, khi nhập vào nạn nhân là chúng làm chủ trí khôn tình cảm, lý chí, nạn nhân sẽ không làm chủ mình được nữa.
Tin Mừng cho thấy kẻ bị ám có sức mạnh phi thường dù gông cùm xích sắt cũng vô ích, đá sỏi rạch nát mình mà không đau đớn. Một người thường không thể làm như thế. Khi được lệnh xuất ra chúng còn xin được nhập vào bầy heo đang ăn ở sườn núi (c.11), rồi chạy xồng xộc xuống biển chết ngộp lối hai ngàn con (c.13). Đấy còn là sức mạnh của ma quỉ. Chúng ta còn thấy được sức mạnh đó không. Ma quỉ thường thổi phồng trong tội trọng của điều răn thứ V, VI, VII, VIII…
Chúa Giêsu đem ơn cứu độ đến cho mọi người, đây là ý tưởng mà thánh Marcô không ngừng nêu bật trong các trình thuật của Ngài. Không như các kinh sư đương thời ngồi chờ đợi người ta đến với mình, Chúa Giêsu đã ra đi gặp gỡ con người, nhất là những người khốn khổ và bị khinh miệt nhất. Ngài không đóng khung trong gia đình, nơi thị trấn hay dân tộc của Ngài, nhưng vượt qua mọi ranh giới và cấm kỵ để đến với mọi người.
Dường như tất cả những người mà Ngài tìm đến đều có thái độ dè dặt: chỉ có ma quỷ mới biết rõ Ngài là ai, nhưng chúng không thể hoán cải được nữa; các luật sĩ và biệt phái ngày càng tỏ ra chai lì; bà con thân thuộc của Ngài thì chỉ nhìn về Ngài bằng những tính toán vụ lợi; dân chúng thì không nhận ra ý nghĩa đích thực của sứ mệnh cứu thế của Ngài; còn dân ngoại thì xin Ngài rời xa họ để họ khỏi mang họa vào thân. Chính khi Chúa Giêsu chiến thắng ma quỷ, thì đó cũng là lúc Ngài bị tẩy chay, và trong tình thế như thế, cái chết trên thập giá đối với Chúa Giêsu là chuyện đương nhiên.
Trong đời sống thiêng liêng, đôi lúc chúng ta cũng phải chiến đấu giữa cái thiện và cái ác thường giằng xé trong nội tâm chúng ta. Muốn thắng được cái ác, chúng ta phải thiết tha cầu xin ơn Chúa giúp và năng sống đời cầu nguyện kết hợp với Chúa. Nếu chúng ta luôn giữ mối thân tình sâu xa với Chúa thì không quyền lực nào có thể làm chúng ta gục ngã. Trái lại, những ai sống khô khan nguội lạnh sẽ không có đủ sức mạnh để thắng vượt cám dỗ, sẽ bị dục tình đeo bám như sư tử gầm thét rình mồi cắn xé tâm hồn chúng ta.
Đứng trước cái thiện và cái ác, chúng ta phải dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, Đấng đã trao trọn tình yêu để thu phục cái ác đưa nhân loại về hiệp nhất sâu xa trong Thiên Chúa là nguồn sự thiện và sự sống. Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên chỉ nơi Thiên Chúa con người mới tìm được ý nghĩa cuộc sống mình. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã từng xác quyết: “Con người mang trong mình một khát vọng sự vô tận, một nỗi nhớ nhung sự vĩnh cửu, một kiếm tìm vẻ đẹp, một ước mong tình yêu, một nhu cầu ánh sáng và sự thật đẩy nó tới với Đấng Tuyệt Đối: con người mang trong mình ước mong Thiên Chúa. Và trong một cách thức nào đó, con người biết nó có thể hướng tới Thiên Chúa và cầu khấn Ngài”.
Xin Chúa nâng đỡ yếu đuối để từng ngày qua đi, chúng ta vươn lên sự thánh thiện và viên mãn trong tình thương của Thiên Chúa.
2023
Sóng gió cuộc đời
28.1 Thứ Bảy
Thánh Tôma Aquinas, Lmts
Dt 11:1-2,8-19; Lc 1:69-70,71-72,73-75; Mc 4:35-41
Sóng gió cuộc đời
Mọi người đều đồng ý rằng Thánh Tôma Aquinas là tiếng nói trổi vượt của truyền thống Công Giáo về lý lẽ và về sự mặc khải của Thiên Chúa. Ngài là một bậc thầy vĩ đại của Giáo Hội Công Giáo thời trung cổ, và được vinh danh với tước vị Tiến Sĩ Hội Thánh và Tiến Sĩ Thiên Thần.
Lúc năm tuổi, ngài được cha mẹ cho vào tu viện Biển Ðức ở Monte Cassino với hy vọng ngài sẽ thích lối sống ấy và trở nên một tu viện trưởng. Trong tu viện, các thầy giáo đều ngạc nhiên về sự tiến bộ của ngài, và mọi bạn cùng lớp đều thua kém ngài về việc học cũng như việc trau dồi nhân đức.
Khi đến tuổi khôn được lựa chọn con đường cho chính mình, Thánh Tôma đã khước từ mọi sự của thế gian và quyết tâm chọn Dòng Ða Minh trái với ý định của cha mẹ. Năm 1239, lúc mười bảy tuổi, ngài gia nhập Dòng Ða Minh ở Naples. Theo lệnh của bà mẹ, ngài bị các anh em bắt cóc và giam ở nhà trên một năm trời. Gia đình còn đi xa hơn nữa bằng cách dùng một cô gái điếm đến dụ dỗ ngài. Nhưng tất cả mọi cố gắng ấy đều vô hiệu, Thánh Tôma vẫn kiên trì với ơn gọi. Như một phần thưởng cho sự trung tín này, Thiên Chúa đã ban cho ngài ơn thanh sạch tuyệt đối, mà nhờ đó ngài xứng đáng với tước vị là “Tiến Sĩ Thiên Thần.”
Sau khi tuyên khấn ở Naples, ngài theo học ở Cologne với vị thầy nổi tiếng là Thánh Albert Cả. Ở đây ngài có biệt danh là “bò câm”, vì ngài to con và thường im lặng, nhưng thực sự ngài là một người rất giỏi. Vào năm hai mươi hai tuổi, ngài được bổ nhiệm để dạy học tại hai thành phố. Ðồng thời ngài cũng bắt đầu công bố các sáng tác của ngài. Bốn năm sau, ngài được gửi đến Balê. Vào năm ba mươi mốt tuổi, ngài đậu bằng tiến sĩ.
Ở Balê, ngài được vinh dự làm bạn với Vua Louis (sau này được phong thánh). Năm 1261, Ðức Urbanô IV gọi ngài về Rôma để dạy học, và ngài nhất quyết từ chối mọi vinh dự của một chức sắc trong giáo hội. Không những Thánh Tôma có tài viết, mà ngài còn có tài giảng thuyết với nhiều kết quả tốt đẹp.
Sự đóng góp lớn lao của ngài cho Giáo Hội Công Giáo là các trước tác. Sự đồng nhất, sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của mặc khải và kiến thức loài người, được thấy đầy dẫy trong các văn bản của ngài.
Tập “Summa Theologica” là công trình sau cùng của ngài đề cập đến toàn thể thần học Công Giáo, nhưng không may chưa được hoàn tất. Ngài ngưng sáng tác sau khi cử hành Thánh Lễ vào ngày 6 tháng Mười Hai, 1273. Ðược hỏi lý do, ngài trả lời, “Tôi không thể tiếp tục… Tất cả những gì tôi viết, đối với tôi dường như chỉ là cọng rơm so với những gì tôi được thấy và những gì tôi được mặc khải.” Ngài từ trần ngày 7 tháng Ba, 1274.
Thánh Tôma là một trong những thần học gia vĩ đại và ảnh hưởng đến mọi thời đại. Ngài được phong thánh năm 1323 và được Ðức Giáo Hoàng Piô V tuyên xưng là Tiến Sĩ Hội Thánh.
Sự kiện Chúa Giêsu và các môn đệ sang bên kia biển hồ, như được trình thuật trong Tin Mừng hôm nay, không phải chỉ có ý nghĩa địa lý: di chuyển từ nơi này sang nơi nọ, cũng như sóng gió nổi lên không chỉ mang ý nghĩa về khí tượng thuần tuý; nhưng các biến cố đó còn mang ý nghĩa thần học nữa. Chúa Giêsu và các môn đệ rời bỏ miền đất Israel để đi sang phía dân ngoại, điều đó mang ý nghĩa truyền giáo; sóng gió nổi lên tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ, của ma quỷ nổi lên chống lại Chúa và các môn đệ.
Sáng kiến vượt hồ là sáng kiến của Chúa Giêsu. Các môn đệ luôn thinh lặng bước theo Người và tận tình thực hiện những việc Người đề nghị. Đức Giêsu luôn tỏ ra là chủ, nắm vững mọi hướng đi.
Tuy nhiên, như trình thuật Tin Mừng cho thấy, lúc đó Chúa Giêsu đang ở đàng lái, gối đầu mà ngủ. Giấc ngủ ấy khiến ta liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Trong cái chết đó, Chúa Giêsu dường như đã thất bại, trong khi đó các quyền lực sự dữ tưởng chừng như đã thành công, vì đã thủ tiêu được người mà họ coi như kẻ thù, như kẻ quấy rầy nền đạo đức tôn giáo của họ. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã thức dậy, nghĩa là Ngài đã phục sinh, và sự Phục Sinh của Ngài loan báo cuộc chiến thắng vĩ đại của Ngài trên mọi quyền lực của ma quỷ và sự dữ cũng như của bất cứ thế lực nào chống đối Giáo Hội.
Lời Chúa Giêsu trách các môn đệ: “Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?” rất đúng cho chúng ta là những người đã biết Chúa Giêsu từ lâu, đã sống với Người, đã được chứng kiến biết bao nhiêu việc kỳ diệu Người làm trong đời sống chúng ta, mà vẫn không biết phản ứng hay lấy những quyết định tương hợp với kinh nghiệm ấy. Nhận biết đúng đắn chân tính của Chúa Giêsu thì sẽ có một thái độ đúng đắn đối với bản thân Người.
Ðời sống của Giáo Hội cũng như của mỗi Kitô hữu được ví như một cuộc ra khơi. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện, ngay cả khi chúng ta tưởng như Ngài vắng mặt trong những thử thách, phong ba của cuộc đời. Ðiều quan trọng là chúng ta biết chạy đến cầu nguyện với Chúa để Ngài làm yên cơn sóng gió và dẫn đưa con thuyền cuộc đời chúng ta về tới bến bờ bình an.