2023
Hạt giống, hạt cải
27.1 Thứ Sáu Thứ Sáu trong tuần thứ Ba Mùa Quanh Năm
Dt 10:32-39; Tv 37:3-4,5-6,23-24,39-40; Mc 4:26-34
Hạt giống, hạt cải
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa
Dụ ngôn về hạt cải được thuật lại trong Tin mừng Mác-cô hôm nay củng cố lòng tin của chúng ta vào tương lai của Hội thánh. Chúa Giê-su nói: “Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng” (Mc 4, 31-32).
Khác với các giống rau cải tại Việt Nam, ở Ít-ra-en, có giống cải mọc cao gần 3 mét, cành lá xum xuê, chim chóc rất thích ăn những hạt nhỏ bé của nó nên chúng thường tập trung thành đàn dưới những tàn lá của cây cải để tìm thức ăn.
Hình ảnh hạt cải nhỏ bé, một khi được gieo trồng xuống đất có thể phát triển thành cây cao cho chim trời núp bóng, gợi lên một tương lai sáng lạn của Hội thánh Chúa trên hoàn cầu.
Dụ ngôn hạt cải cũng tạo được niềm phấn khởi lạc quan. Sự lớn lên kỳ diệu của hạt cải gợi lên sự phát triển của Nước Thiên Chúa. Dùng dụ ngôn này, Đức Kitô muốn tạo niềm tin tưởng nơi các môn đệ, có lẽ lúc bấy giờ đang dao động trước những khó khăn buổi đầu của công trình rao giảng của chính Chúa Giêsu. Do đó, Ngài không ngại tưởng tượng cái không-như-thật trong cách trình bày của Ngài, khi bảo rằng hạt cải mọc lên lớn hơn các thứ rau, cành lá xum xuê đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng. Nhưng điều không như thật trên bình diện khoa học đó lại là như thật trên bình diện giáo huấn của Ngài. Thiên Chúa thích cho thấy sức mạnh của Ngài trong cái yếu đuối, mong manh của buổi ban đầu.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy ra đi gieo vãi Lời Chúa. Gieo trong kiên trì. Dù đêm hay ngày. Người gieo giống luôn gieo vào nhân thế hạt giống của tin mừng, hạt giống của yêu thương và hạnh phúc. Nếu cô giáo của Malcolm Dolkoff không gieo vào lòng cậu bé lòng tin và nghị lực thì không có một nhà văn tài ba. Người Kitô không gieo Lời Chúa thì làm sao có cánh đồng lúa bát ngát bông lúa vàng là tâm hồn các tín hữu?
“Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống này nảy mần và mọc lên, bằng cách nào thì người ấy không biết”. Sự kỳ diệu của hạt giống là vẫn âm thầm lớn lên theo quy luật tự nhiên và sẽ có một ngày nó trở thành cây cao bóng cả cho đàn chim trú ngụ. Người Kitô hãy gieo trong kiên trì, gieo với niềm cậy trông để nhờ ơn Chúa lời ta nói, việc ta làm sẽ sinh hoa kết trái nơi môi trường chúng ta đang sống.
Hạt giống Nước Thiên Chúa lại chỉ như một hạt cải. Nhưng nó sẽ thành cây rau lớn. Ðức Yêsu và công việc của Người bề ngoài người ta chỉ thấy nhỏ mọn thôi, nhưng đừng vì vậy mà coi thường và không đón nhận. Phúc cho những ai không bị xúc phạm vì Người và cách sống của Người. Những kẻ không muốn trở nên bé nhỏ không thể vào Nước Thiên Chúa.
2023
Chiếu sáng
26.1 Thứ Năm Thánh Timôthêô và Titô, Gm
Dt 10:19-25; Tv 24:1-2,3-4,5-6; Mc 4:21-25
Chiếu sáng
Thánh Timôthê (c. 97?):
Những gì chúng ta biết được về cuộc đời Thánh Timôthê thì giống như của một Giám mục bận rộn ngày nay. Ngài được vinh dự tháp tùng thánh Phaolô, và cả hai đều được ưu tiên rao giảng Phúc Âm và chịu đau khổ.
Thánh Timôthê có cha là người Hy Lạp và mẹ là người Do Thái tên là Eunice. Là kết quả của một hôn nhân “hỗn hợp”, nên ngài bị người Do Thái coi là bất hợp pháp. Chính bà ngoại thánh nhân, bà Lois, là người đầu tiên trở lại Kitô giáo. Sau đó, Timôthê được thánh Phaolô rửa tội khoảng năm 47, và sau đó cùng tiếp tay với ngài trong công cuộc tông đồ. Chính ngài và thánh Phalô cùng sáng lập Giáo hội Côrintô. Trong 15 năm làm việc với thánh Phaolô, Timôthê trở nên người bạn trung tín nhất của Phaolô. Ngài được thánh Phaolô gửi đi truyền giáo, thường phải đương đầu với những xáo trộn trong các giáo đoàn mà thánh Phaolô thành lập.
Khi Timôthê đang ở với Phaolô thì bị bắt tại Rôma. Trong một thời gian, chính Timôthê cũng bị tù (Dt 13,23). Và thánh Phaolô đã bổ nhiệm Timôthê làm đại diện cho ngài ở Êphêsô.
Timôthê quá trẻ so với trách nhiệm nặng nề phải đảm trách. “Ðừng để ai coi thường anh vì sự trẻ trung,” trong thư I thánh Phaolô viết cho Tm 4,12a). Một vài đoạn khác cho chúng ta biết dường như Timôthê hay bẽn lẽn. Và một trong những câu của thánh Phaolô thường được trích dẫn là câu viết cho Timôthê: “Ðừng chỉ uống nước lã, nhưng hãy dùng thêm chút rượu, vì anh đau dạ dày và ốm yếu luôn” (1Tm 5,23).
Thánh Titô (c. 94?):
Titô có nét đặc biệt là người bạn thân và là môn đệ của thánh Phaolô cũng như tiếp tay trong công cuộc truyền giáo. Ngài là người Hy Lạp, hiển nhiên xuất thân từ Antiôkia. Mặc dù ngài là Dân Ngoại, thánh Phaolô đã không để ngài phải chịu cắt bì ở Giêrusalem. Titô được coi như người hòa giải, người quản đốc, người bạn rất tốt. Trong lá thư thứ hai gửi giáo đoàn Côrintô, thánh Phaolô cho chúng ta thấy tình bạn sâu đậm giữa ngài với Titô, và tình đồng đội giữa hai người khi rao giảng Tin Mừng: “Khi tôi đến Troas… Tinh thần tôi không được khuây khỏa vì không gặp được Titô, người anh em của tôi. Do đó tôi từ giã họ và tiếp tục đến Macedonia… Ngay cả khi đến Macedonia, thể xác chúng tôi cũng chưa được yên, mà phải chịu đau khổ đủ mọi cách, xung đột bên ngoài, lo sợ bên trong. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng an ủi những kẻ yếu hèn, đã an ủi chúng tôi bằng cách sai Ti-tô đến…” (2 Cr 2,12a, 13; 7, 5-6).
Trong Thư Gửi Titô, lúc ấy Titô được coi như quản đốc của cộng đồng Kitô giáo trên đảo Crete, có trách nhiệm tổ chức, chấn chỉnh những lạm dụng và bổ nhiệm các giám mục phụ tá.
Trong khi thi hành sứ vụ công khai, Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn mà nói với các môn đệ và dân chúng. Ngài thường dùng những hình ảnh rất cụ thể, gần gủi với đời sống thường nhật của họ mà dạy họ về chân lý. “Chiếc đèn và đấu đong” là hai hình ảnh rất bình dị mà Đức Giêsu đã dùng trong Tin mừng theo thánh Mác-cô hôm nay.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Chẳng lẽ mang đèn tới để đặt dưới cái thùng hay dưới gầm giường? Nào chẳng phải là để đặt trên đế sao?”
Chiếc đèn là vật dụng rất thân thuộc với người Do Thái, mà nó cũng rất thân thuộc với người Việt nam chúng ta, hầu như ai cũng biết và cần dùng đến. Khi bóng tối bao phủ, màn đêm buông xuống thì ánh đèn được đốt lên, người ta thường đặt nó trên đế, đặt nơi vị trí cao để ánh sáng của nó có thể lan tỏa đến mọi vật, chiếu sáng cho mọi người. Nếu đốt đèn lên mà đem dấu đi dưới cái thùng hay đặt dưới gầm giường thì quả là sai mục đích, là mâu thuẫn và uổng phí, thà nó tắt đi còn hơn, vì làm như thế là làm mất giá trị của chiếc đèn. Chúng ta công nhận với nhau rằng, công dụng của chiếc đèn là chiếu sáng cho mọi người, soi cho tỏ mọi vật, để nhờ đó ta có thể phân biệt mọi sự cách chuẩn xác và đúng đắng.
“Chiếc đèn” trong Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu muốn nói đến ấy là Tin Mừng, “Tin Mừng ơn cứu độ” mà Ngài đã thắp lên nơi cõi lòng các môn đệ, thắp lên nơi tâm hồn những người đang nghe và đón nhận lời Ngài, Lời chân lý. Chiếc đèn ấy (Tin mừng ấy) không thể được dấu kín, nhưng phải lan tỏa ra cho hết thảy mọi người, hay nói cách khác, Tin mừng mới đầu chỉ một thiểu số biết thôi, nhưng theo thời gian Tin mừng đó cần được chiếu tỏa, phải được loan báo cho mọi dân tộc (x. Mc 13, 10).
Khi đón nhận tin mừng cứu độ từ Chúa Giêsu Kitô, khi đón nhận ánh sáng phục sinh lúc lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người Ki-tô hữu trở nên là ngọn đèn cháy sáng giữa muôn dân. Ngọn đèn đức tin ấy được lan tỏa đến mọi người qua đời sống “nên thánh” trong chân lý mạc khải, qua sứ vụ ngôn sứ của người tín hữu. Bằng đời sống cầu nguyện, gắn bó mật thiết với Chúa, qua cách sống chân thành, biết nêu gương lành trong gia đình – xã hội, biết thực thi tình bác ái giữa cộng đoàn, nơi mình đang sống, thì mỗi người chúng ta như ngọn hải đăng giữa biển đời, như ánh đèn chân lý giữa xã hội đầy giả trá đang kêu gào công bình sự thật.
Tuy nhiên, chiếc đèn đức tin nơi ta sẽ không thể phát sáng nếu không đón nhận nguồn sáng nơi Chúa, nơi mẹ Giáo Hội qua Lời của Chúa Giêsu Kitô và các bí tích. Bởi thế, mỗi người chúng cần xin ơn trợ lực, để dám dùng những “cái đấu” (“cái đấu” là mức độ tâm hồn mở ra để đón nhận) thật to của để đón nhận ân sủng Chúa với lòng quảng đại trao ban lại cho những ai cần đến ơn Chúa. Lạy Chúa, ước gì mỗi người chúng con là một ngọn đèn cháy sáng giữa gia đình, nơi công sở, nơi thôn xóm, nơi đường phố… khi nhịp bước giữa đời. Để con biết làm mọi việc tầm thường, với tinh thần phi thường của Chúa.
2023
Trở lại như Thánh Phaolô
25.1 Thứ Tư
Thánh Phaolô, Tông Đồ trở lại
Dt 10:11-18; Tv 110:1,2,3,4; Mc 4:1-20
Trở lại như Thánh Phaolô
Hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của Thánh Phaolô. Theo Sách Công Vụ các sứ đồ, quyển sử ký ghi lại giai đoạn tiên khởi của Giáo Hội, Saolê, tên gọi Do Thái của Phaolô, là một thanh niên thông thái và đầy nhiệt huyết đối với Đạo. Vừa thụ huấn xong với một thày Rabbi nổi tiếng trong nước, Saolê xung phong đi săn lùng những người môn đệ của Đức Kitô mà anh cho là một bè phái đi ngược lại với đạo giáo.
Một hôm, đang trên đường đi Damascô để lùng bắt các môn đệ của Chúa Giêsu, anh đã bị một luồng Sáng đánh quật té xuống khỏi ngựa và từ trong ánh sáng ấy, anh đã nhận ra tiếng nói của Chúa Giêsu : “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt hại”.
Từ đó, sự hăng say bách hại các kitô hữu đã biến thành lòng nhiệt thành phụng sự Giáo Hội của Đức Kitô. Thiên Chúa đã xử dụng Phaolô làm khí cụ Truyền Giảng Tin Mừng cho Dân Ngoại, tức là các dân tộc ở ngoài Do Thái giáo.
Nhìn lại cuộc đời Thánh Phaolô, ta nhận thấy sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Ơn Gọi của vị Tông đồ dân ngoại quả là một mầu nhiệm lạ lùng.
Chúa Kitô Phục Sinh đã đổi mới tư tưởng và trái tim của Phaolô. Không biết Đức Giêsu tại thế, Phaolô đã ghét cay ghét đắng và sát hại không thương tiếc các môn đệ của Người. Giờ đây trái tim của Phaolô được Chúa Giêsu chiếm lĩnh như chiếm đoạt trái tim của người yêu ( Pl 3, 12 ). Và Phaolô trở nên như một “người tình” của Chúa Giêsu, đến nỗi Phaolô phải thú nhận: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” ( Gl 2, 20 ).
Đúng như Phaolô viết : “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” (2 Cr 5, 14), tất cả nhiệt tình nơi con người và cuộc đời Phaolô đều phát xuất từ mối tình đó: Tình yêu của Chúa Kitô là “chủ thể yêu thương Phaolô”, Tình yêu Chúa Kitô là “đối tượng mà Phaolô yêu mến”. Tâm trí của Phaolô đã hoàn toàn mở ra cho Chúa Kitô, và vì thế có khả năng mở rộng cho mọi người, Phaolô trở nên tất cả cho mọi người (1 Cr 9, 12), sẵn sàng làm mọi sự cho “Tin mừng Tình yêu” mà người rao giảng.
Phaolô hiên ngang được sống và được chết cho Chúa Kitô. Biết mình đã tin vào ai, Phaolô đã sung sướng sống nghèo, lấy việc lao động mà đổi miếng ăn, không để giáo hữu phải cung phụng mình (1Cr 9,3-18; 2 Cr11,8-10), sung sướng vì đã mất tất cả và chịu đủ thứ khốn khổ vì Chúa Kitô. Phaolô không ngại hùng hồn kể về những ”… lao tù đòn vọt, bao lần suýt chết, năm lần bị người do thái đánh bốn mươi roi bớt một, ba lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi”; Phải chịu đủ thứ nguy hiểm và ra vào tù nhiều lần.
Nói đên Phaolô là nói đến vị Tông đồ của mọi thời đại
Đọc sách Công vụ Tông đồ từ chương 8 trở đi, ta sẽ bắt gặp một Saolô, ở Tacxô, là người Do Thái, trí thức, thông thạo nhiều thứ tiếng miền Do Thái – Hy Lạp, rất sùng đạo theo môn phái Gamaliên ở Giêrusalem. Saolô là biệt phái nhiệt thành đi lùng sục bắt bớ Đạo Chúa, tham gia vào vụ giết Stêphanô và rong ruổi trên mọi đường Đamát để truy lùng các Kitô hữu.
Theo các nhà chú giải Kinh thánh, biến cố ngã ngựa trên đường Đamát là chìa khóa để chúng ta hiểu về con người, ơn gọi và sứ mạng của Phaolô. Saolô đã bị Thiên Chúa quật ngã và chinh phục. Saolô được ơn gặp Đấng Phục sinh, được ơn trở lại. Saolô được biến đổi để trở nên chứng nhân vĩ đại là Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại.
Vì thế, có thể nói rằng nửa đời về trước Phaolô là một người Biệt phái chính cống, kiêu căng, nhiệt thành với truyền thống cha ông; còn nửa đời sau Phaolô là một vị Tông Đồ thông minh uyên bác, vô cùng nhiệt thành với tình yêu Thiên Chúa, như chính Ngài thú nhận: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” và xác tín: “Không có gì tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Rm 8, 35-39). Từ đây cuộc đời của Phaolô đã viết nên thiên anh hùng ca. Thiên anh hùng ca của vị Tông Đồ đã sống và đã chết cho Đức Kitô.
Cuộc trở lại của thánh Phaolô đã đánh dấu một khúc quanh quan trọng nhứt trong lịch sử của Giáo Hội tiên khởi. Tin Mừng không chỉ giới hạn trong ranh giới của Do Thái cũng như Lề Luật Maisen, Tin Mừng không còn là một nối dài của Do Thái giáo, nhưng chính là một tôn giáo mới cho mọi dân tộc mọi văn hóa.
Giáo Hội tưởng niệm biến cố trở lại của thánh Phaolô như cao điểm của tuần lễ cầu cho hiệp nhứt. Nơi thánh Phaolô, con người đã dám vượt ra khỏi ranh giới của dân tộc, của đạo giáo của mình, để tuyên bố : hãy trở thành Hy Lạp với người Hy Lạp, La Mã với người La Mã, nô lệ với người nô lệ. Giáo Hội nhận ra kiểu mẫu đích thực của hiệp nhứt. Sự hiệp nhứt chỉ có thể thực hiện được, nếu mỗi người môn đệ của Chúa Giêsu có đủ can đảm ra khỏi chính mình. Phải chăng đó không là đòi hỏi đầu tiên của sự trở lại ?
Theo từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản khoa học xã hội, “trở lại” nghĩa là về nơi mình ra đi.
Nơi mình đã xuất phát, nơi mình đã ra đi đối với người Kitô chúng ta là gì nếu không phải là Thiên Chúa. Như vậy, trở lại chính là quay trở về với Thiên Chúa.
Sự quay trở lại ấy đòi hỏi một sự từ bỏ tận căn và một thái độ sẵn sàng tuyệt đối. Chúng ta hãy đọc lại cuộc trở lại của thánh Phaolô : Phaolô là một người thanh niên hăng say với lý tưởng. Lý tưởng của anh chính là phụng sự Chúa hết mình bằng cách tiêu diệt những kẻ mà anh cho là tà đạo. Nhưng trong phút chốc, lần ngã ngựa đau điếng cả người hôm đó đã buộc anh phải xoay chiều hoàn toàn : những gì anh cho là tà đạo trước kia nay anh phải xem là chính đạo. Phaolô phải quay ngược đường trở lại. Từ bỏ tất cả những gì mình hằng ôm ấp từ trước đến nay, từ bỏ con đường mình đang đi, Phaolô đã trở thành một khí cụ mềm nhũn trong tay Chúa.
Ra khỏi chính mình, từ bỏ chính mình để trở thành khí cụ trong tay Chúa : đó là đặc điểm của sự trở lại trong Kitô giáo chúng ta.
Sự trở lại đó không chỉ là sự quay về với Chúa của những người không tín ngưỡng, của những người từ một Giáo Hội khác, nhưng là đòi hỏi từng ngày của người kitô. Mỗi lúc một đến gần với cùng đích của chúng ta là chính Chúa : đó là lý tưởng của người kitô chúng ta.
Càng đến gần với Chúa, càng sẵn sàng trở nên khí cụ của Chúa, chúng ta càng đến gần với tha nhân.
Xin thánh Phaolô mà chúng ta tưởng niệm biến cố trở lại hôm nay, giúp chúng ta hiểu được sự trở lại đích thực mà người kitô chúng ta phải theo đuổi mỗi ngày.
2023
Thi hành thánh ý
24.1 Thứ Ba Thánh Phanxicô đệ Salê, Gmtsht
Dt 10:1-10; Tv 40:2,4,7-8,10,11; Mc 3:31-35
Thi hành thánh ý
Thánh Phanxicô Salê sinh tại Savoie, nước Pháp, ngày 21 tháng 8 năm 1567. Được tấn phong Giám mục Génève năm 1602, ngài cống hiến toàn thể hoạt động tông đồ của ngài cho việc đưa dân tộc Chablais trở về với đức tin Công giáo, vì họ đã theo Tin lành. Nhờ những hoạt động đa dạng, ngài đã giáo dục dân Kitô hữu và tỏ cho họ biết rằng linh đạo được rộng mở cho mọi tầng lớp xã hội. Ngài hiến mình hoàn toàn cho sứ mạng mục tử của ngài, trở nên đơn sơ với người đơn sơ, tranh luận thần học với Tin lành, đưa những linh hồn muốn phục vụ Đức Kitô vào “đời sống thiêng liêng”, mở ra cho họ những kho tàng tình yêu của Thiên Chúa, chăm chú trong việc đặt đời sống thiêng liêng vừa tầm với giáo dân, và biến đời sống thiêng liêng trở nên thích thú và đáng mong ước. Ngài sử dụng sách báo cách tốt đẹp, và cổ xúy lao động và văn hoá, đối xử với mọi người cách trìu mến, hiền dịu và khôn ngoan không phô trương.
Ngài qua đời tại Lyons ngày 28 tháng 12 năm 1622 và được phong thánh năm 1665. Năm 1877, Đức Piô IX công bố ngài là Tiến sĩ Hội Thánh. Được gợi hứng bởi “đức ái tông đồ” và “sự hiền lành và kiên nhẫn Phúc Âm của Thánh Phanxicô Salê, Thánh Gioan Bosco đã chọn ngài làm mẫu gương và Đấng bảo trợ cho sứ mệnh của mình giữa giới trẻ. Khi bế mạc Lễ kỷ niệm Bốn trăm năm ngày sinh của ngài, Đức Phaolô VI đã ban cho ngài tước hiệu là Tiến sĩ Đức Ái Thần linh.
Khi nghe câu trả lời của Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay, thoạt nghe người ta dễ hiểu lầm là từ khi bắt đầu đời công khai, Chúa Giêsu đã mất gia đình và người thân của mình. Thật vậy, khi Chúa đang ngồi giảng giữa đám đông, có kẻ nói với Ngài: “Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy tìm Thầy”. Chẳng những Chúa Giêsu không ra gặp mẹ, mà Ngài còn nói: “Ai là mẹ Ta? Ai là anh em Ta? Chính những ai thi hành ý Thiên Chúa, người ấy là Mẹ Ta và là anh em Ta”.
Thật ra qua câu nói này, Chúa Giêsu gián tiếp khen ngợi Mẹ Ngài, bởi vì Mẹ là người toàn thân theo ý Chúa, Mẹ đã hiểu rõ xứ mạng của Chúa Giêsu, con của Mẹ. Như thế câu nói của Chúa Giêsu cho thấy Ngài đặt quan hệ tình nghĩa trên nền tảng đức tin, thể hiện niềm tin của mình bằng việc thực thi ý Chúa. Chúa Giêsu là Con Một Thiên Chúa đồng bản tính với Chúa Cha; còn chúng ta được trở lên con cái Thiên Chúa nhờ Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần, và nhờ tình yêu Chúa, chúng ta được kết hợp với nhau trong một quỹ đạo mới, một tình nghĩa mới, cao đẹp hơn tình nghĩa cha mẹ, chị em ruột thịt.
Chắc chắn một điều là Chúa không chối bỏ tình máu mủ ruột thịt tự nhiên của gia đình trần thế đâu, bởi vì chính Chúa đã sinh ra, lớn lên, đã sống 9/10 cuộc đời trần thế nơi một gia đình của nhân loại tại Nazareth (Lc 2,51). Và Chúa đã chết đi trong một gia đình nhân loại và được Mẹ Người đem đi an táng.
Ngoài ra trong đời tông đồ truyền giáo, Chúa Giêsu đã xác nhận giới răn thứ tư. Chúa yêu thương các trẻ em là hoa quả của gia đình, Chúa ẵm bế, ban phép lành cho trẻ em, cho trẻ em chết sống lại…(Mc 9, 33; Mt 19,13; Lc 8, 49). Chúa Giêsu đã dự tiệc cưới Cana để bảo vệ hôn nhân (Ga 2, 1-11). Chúa lập luật bất khả phân ly để bảo vệ gia đình tự nhiên (Mt 19, 3-9).
Trên đỉnh thánh giá, Chúa Giêsu còn trao gởi mẹ hiền cho Gioan (Ga 19, 27). Tất cả những chứng cứ đó nói lên rằng Chúa tôn trọng gia đình. Tình yêu gia đình máu mủ không thể xóa được. Nhưng Chúa Giêsu hôm nay cho chúng ta thấy còn có một thứ gia đình thiên quốc, mà hồi lên 12 tuổi Chúa đã minh chứng cho cha mẹ Ngài (Lc 2, 49), đó mới là tình yêu thiêng liêng cao cả phải đạt tới. Sau này Chúa Giêsu đã ra định luật cho kẻ theo Ngài : “Kẻ nào theo Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và chính cả đời sống mình nữa thì không thể làm môn đệ của Ta” (Lc 14, 33).
Qua Tin Mừng hôm nay Chúa đã gợi mở cho chúng ta một cái nhìn mới, một lối suy nghĩ mới về gia đình. Thông thường, một gia đình hội tụ cha, mẹ và con cái. Chúa Giêsu cũng có một gia đình như thế mà chúng ta quen gọi là “Thánh Gia” : Ngài có cha (theo luật pháp) là Thánh Cả Giuse và mẹ là Đức Maria. Nhưng Chúa Giêsu không muốn nói về gia đình tự nhiên này, Ngài hướng chúng ta đến một gia đình thiêng liêng rộng lớn hơn nhiều. Đại gia đình ấy có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em. Điều kiện để gia nhập vào đại gia đình ấy là “làm theo ý Thiên Chúa” (Mc 3, 35).
Chúng ta thuộc về đại gia đình thiêng liêng của Chúa nhờ bí tích Rửa tội. Ơn huệ này thôi thúc chúng ta đáp lại thánh ý Thiên Chúa, không chỉ bằng lời nói nhưng bằng việc làm, không phải là lắng nghe xuông nhưng là thực hành triệt để những điều Chúa truyền dạy. Hơn nữa, mỗi người và mỗi gia đình Công giáo phải trở nên những thành viên đắc lực mở rộng đại gia đình của Chúa qua việc đem Chúa đến cho mọi người không phân biệt giàu nghèo, chủng tộc. Đồng thời đừng quên giúp đỡ và yêu thương nhau như những người anh chị em trong cùng một nhà.