2024
TIN VUI PHỤC SINH
31.3 Chúa Nhật Lễ Phục Sinh
St 10:34,37-43; Tv 118:1-2,16-17,22-23; Cl 3:1-4; 1 Cr 5:6-8; Ga 20:1-9
TIN VUI PHỤC SINH
Lễ Phục Sinh là một ngày lễ trong lịch Phụng vụ của Giáo Hội. Đức Giêsu đã chế ngự được sự chết, không chỉ cho bản thân Người, mà còn cho tất cả chúng ta nữa. Niềm vui của Lễ Phục Sinh tràn ngập trên toàn trái đất, niềm vui vì sự chết đã bị khuất phục
Bài đọc từ sách Công Vụ Tông đồ là một phần bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô. Trong đó, ngài tóm tắt sứ vụ của Đức Giêsu, đã lên đến tột đỉnh trong sự chết của Người. Nhưng sứ vụ của Ngươi không kết thúc ở đó – Thiên Chúa đã cho Người sống lại, cho phép một số nhân chứng được nhìn thấy Người. Thánh Phêrô là một trong những nhân chứng đó. Ngài tiếp tục công bố rằng Đức Giêsu chính là Đấng mà tất cả các ngôn sứ đã nói đến, nghĩa là Đấng Mêsia. Tất cả những ai tin tưởng nơi Người, thì các tội lỗi của họ đều sẽ được tha thứ.
Tin Mừng kể lại việc phát hiện ra ngôi mộ trống. Tự thân ngôi mộ trống (với những mảnh khăn liệm được xếp gọn) không phải là bằng chứng trực tiếp của sự sống lại. Tuy nhiên, điều đó lại là bước đầu tiên hướng tới việc xác lập sự thật rằng Đức Giêsu đã vượt qua cái chết và chuẩn bị cho các môn đệ gặp gỡ Chúa sống lại.
Nhiều Bài đọc của chu kỳ Phục Sinh đều có ý muốn dạy dỗ những người tân tòng theo lối sống của người Kitô hữu. Bài đọc 2 hôm nay và Bài đọc thay thế là những ví dụ hay. Do đó, mùa Phục Sinh cung cấp cho chúng ta một cơ hội để suy niệm về ý nghĩa của việc được trở thành những thành viên đã được rửa tội của Thân Thể Đức Ki-Tô.
Mỗi năm, vào ngày Chúa Nhật Phục Sinh, hàng chục ngàn khách hành hương tụ họp tại Quảng Trường Thánh Phêrô ô Rôma, để được lãnh nhận Phép Lành Phục Sinh của Đức Thánh Cha. Đây là một cơ hội tuyệt vời, bởi vì người kế vị Thánh Phêrô công bố thông điệp Phục Sinh: “Đức Kitô đã sống lại, Allêluia”. Ngài đang làm điều mà Thánh Phêrô đã làm trong ngày lễ ‘Phục Sinh đầu tiên – ngài đang xác nhận lòng tin của các tín hữu. Và có thể chắc chắn rằng điều này xác nhận lòng tin của những người có dịp may được hiện diện tại đó.
Phêrô đang làm điều mà Chúa đòi hỏi nơi ông trong bữa Tiệc Ly, khi Người nói: “Simon, Simon ơi, kìa Satan xin được sàng anh như sàng gạo, nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22 1 31-32).
Phêrô phải củng cố lòng tin nơi các anh chị em của ông! Khi chúng ta xem xét cách thức ông hành động trong suốt cuộc Thương Khó, thì dường như ông có vẻ là người xa lạ. Làm thế nào một người có lòng tin không kiên định như vậy, mà lại xác nhận được lòng tin cho bất cứ ai? Chúng ta hãy nhớ lại một cách ngắn gọn hành động của ông trong đêm Đức Giêsu bị bắt.
Chúng ta vẫn nhớ những lời nói can đảm của ông trong bữa Tiệc Ly: “Thưa thầy, ngay cả khi mọi người đều mất lòng tin vào Thầy, thì con sẽ không bao giờ mất lòng tin vào Thầy”, ông thực sự chân thành khi nói những điều đó. Ông nghĩ rằng mình can đảm và mạnh mẽ. Nhưng chỉ một lúc sau, khi Đức Giêsu cảm thấy đau buồn, cô độc và sợ hãi trong vườn cây dầu, Người đã yêu cầu Phêrô canh thức với Người, nhưng ông vẫn không thể nào làm được điều đó – ông đã lăn ra ngủ vùi. ông đã bỏ mặc Đức Giêsu phải uống chén đắng một mình. Điều tệ hại hơn đã phải đến.
Một lúc sau, trong đêm hôm đó, nơi sân nhà của vị thượng tế, có người quay sang Phêrô và nỏi “Thế chẳng phải ông là một trong những kẻ thuộc về ông Giêsu đó sao? Chẳng phải ông đã cùng trong vườn với ông ta sao?” Và điều gì xảy ra? Không phải là một lần, mà đến ba lần, Phêrô đã chối Đức Giêsu, ông chối rằng mình chưa từng bao giờ biết Người. Thế rồi gà gáy. Đến lúc đó, Đức Giêsu quay lại nhìn Phêrô và ngay tức khắc, Phêrô nhận ra được điều mình đã làm – ông đã chối không quen biết chính người bạn của mình. Rồi ông đi ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Đó là giây phút thấp hèn nhất trong cuộc đời ông. Ông đã nhận ra được một sự thật rất đau lòng về bản thân. Ông không thể mạnh mẽ, không thể can đảm hoặc quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng Đức Gỉêsu không hề coi ông là đồ bỏ đi. Người đã nhìn thấy trước tất cả điều này. Thậm chí Người còn ngăn cản điều đó nữa.
Nhưng Người vẫn tiếp tục tin tưởng nơi ông. Người biết rằng có một khía cạnh khác tốt đẹp hơn nơi Phêrô. Sau khi sống lại, Người đã phục hồỉ lại một Phêrô khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn ngay tại nơi mà Người đã từng ở trước đây và đặt ông làm viên đá mà trên đó, Người sẽ xây dựng Giáo Hội của Người.
Và Phêrô đã trở nên người tốt lành, ông được phục hồi và tiếp tục củng cố lòng tin cho những anh chị em trong cộng đoàn. Chính ông là người đã dẫn dắt các Tông đồ, trong việc làm chứng về sự sống lại. Chính ông là người quy tụ lại những kẻ đi theo Đức Giêsu vốn đã bị tản mác. Chính trên nền tảng lời chứng của ông, mà cả cộng đoàn đều trầm trồ: “Chúa đã sống lại thật rồi và Người đã hiện ra với ông Phêrô”.
Ông Phêrô được gọi là một vị thánh đã từng vấp ngã. Ông được nhiều người quý mến, chắc hắn là bởi vì nhược điểm của ông làm cho chúng ta cảm thấy gần gũỉ với ông. Sự can đảm không đáp ứng được cho tất cả chúng ta. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều chỉ là những con người hay chết, không nhất quán trong lòng tin của mình. Nhưng chúng ta không được phán xét bản thân mình và ngườỉ khác qua những sai sót có tư cách nhất thời, nhưng là qua lời cam kết đối với lòng tin của mình trong cả một thời gian dài.
Chính Đức Giêsu đã xác nhận lòng tin cho Phêrô. Cũng chính Đấng sống lại đã xác nhận lòng tin của chúng ta. Chúng ta là một cộng đoàn của những kẻ tin, mà lòng tin phổ biến của những kẻ tin thì củng cố lòng tin của mỗi cá nhân.
Tin Đức Kitô Phục Sinh và cảm nghiệm được ơn phục sinh, các tông đồ mở toang cửa, hăng say ra đi đem Tin mừng Phục sinh cho mọi người bất chấp mọi khó khăn gian khổ. Người Kitô hữu tin vào Đức Kitô phục sinh, không được giữ niềm vui cho mình, mà phải loan tin vui đó cho mọi người trong gia đình, trong xã hội bằng cách giúp đỡ, chia sẻ, phục vụ mọi người trong yêu thương.
Xin Đức Kitô Phục Sinh luôn chiếu tỏa anh sáng của Ngài vào trong tâm hồn u tối của mỗi người, để chúng ta hiểu được những đòi hỏi đích thực của đức tin, vì theo Chúa đó là bước đi trên con đường thập giá, bước đi trên con đường chiến đầu và hy sinh, nhờ đó, chúng ta sẽ được chia sẻ phần vinh quang Phục Sinh với Ngài.
2024
VÀO CUỘC THƯƠNG KHÓ VỚI CHÚA
24.3 Chúa Nhật Lễ Lá
Mc 11:1-10; Ga 12:12-16; Is 50:4-7; Tv 22:8-9,17-18,19-20,23-24; Pl 2:6-11; Mc 14:115; Mc 15:1-39
VÀO CUỘC THƯƠNG KHÓ VỚI CHÚA
Chúa nhật Lễ Lá là khởi đầu cho hành trình đi vào tuần thương khó với Chúa Giê-su. Gọi là tuần thương khó vì xét theo nhân tính thì Chúa Giê-su cũng trải qua đau khổ tê tái khi bị người đời ngược đãi, khi bị tòa án kết án bất công và khi bị đám đông đã từng reo hò khi Chúa vào đền thờ, khi Chúa cho họ ăn bánh no nê, khi Chúa cứu chữa bệnh nhân và phục sinh kẻ chết, thế mà họ lại quay lưng để cùng nhau đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.
Trong Kinh Thánh, ít nhất ba lần, Đức Giê-su tiên báo cho các Tông đồ biết về thân phận và sứ mệnh của Ngài, đó là: người Tôi tớ trung tín của Thiên Chúa (x. Mt 16, 21-22; Is 50, 4-7).
Hơn nữa, Ngài đã từng tỏ lộ rõ rệt: “Tôi đến thế gian không phải làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (x. Ga 6, 38). Trong mọi việc, Ngài hằng vâng phục, thực hiện theo chương trình cứu độ của Chúa Cha, “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17), và “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ez 33, 11).
Thật vậy, sứ mệnh của Đức Giê-su là hoàn tất ý định của Chúa Cha, cho dù “…bị đánh, bị giật râu, bị nhạo cười và bị phỉ nhổ. Nhưng vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn” (x. Is 50, 6-7). Ở điểm này, chúng ta khác hoàn toàn với người Tôi Trung của Chúa! Chúng ta bất tuân phục, chúng ta luôn tìm mưu cầu ích lợi riêng tư, cá nhân. Hầu như chúng ta muốn người khác làm theo ý mình, tệ hơn là bắt người khác tùng phục bản thân ta! Mỗi lần chúng ta cử hành Lễ Lá, chúng ta cùng nhau nhìn kỹ vào Đức Giê-su, học sống như Ngài: biết vâng phục và thực hiện Thánh ý Chúa nơi cuộc sống mình.
Hơn nữa, vì hết lòng yêu thương chúng ta, người Tôi Tớ tín trung của Thiên Chúa đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mà mặc lấy thân phận xác phàm yếu hèn của con người, hầu giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, cứu chuộc chúng ta khỏi sự huỷ diệt, và đưa chúng ta về với nguồn cội tình yêu là Thiên Chúa Cha, “…tuy là thân phận Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Ngài huỷ bỏ chính mình, nhận lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm” (x. Pl 2, 6-7). Ngược lại với A-đam nguyên tổ, Đức Ki-tô khiêm nhường, hạ mình, vâng phục Thiên Chúa đến nỗi tự nguyện chết trên thập tự, “Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá” (Pl 2, 8).
Phải chăng, mỗi khi tham dự Lễ Lá, chúng ta được thông phần vào cuộc Thương Khó – Tử Nạn của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta cũng nên soi lại mình đã sống khiêm hạ mỗi ngày chưa? Một trong bảy mối tội đầu dẫn đến nhiều tội lỗi khác như thể ‘tội mẹ đẻ ra tội con’, chính là: thói ngạo mạn, tính kiêu căng, lòng tự mãn. Chính tật xấu này mà thường đưa đẩy chúng ta tới sự bất tuân, không biết vâng phục Thánh ý Chúa, được thể hiện qua Giáo Hội và qua các giáo huấn của Giáo Hội.
Trong thực tế ai ai cũng ham sống sợ chết, phương chi là chết thay cho người khác lại là chuyện hiếm hoi. Tuy nhiên, chuyện khó có thể xảy ra theo cái nhìn người đời, thì lại được diễn tả nơi hình ảnh Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Hôm nay, toàn thể Giáo hội hoàn vũ bắt đầu bước vào Tuần Thánh, tuần mà mọi người chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giê-su trong những giờ cuối cùng ngang qua cuộc thương khó và sự chết trên thập giá của Ngài.
Thiên Chúa là Tình Yêu đã sáng tạo con người từ hư vô trở nên mà có và trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Người luôn mong muốn con người được sống và hạnh phúc. Qua mọi thời, tình yêu đó được diễn tả ngang qua các ngôn sứ, các thủ lãnh, các vua chúa để dẫn dắt dân đi đúng đường ngay nẻo chính. Dân sai lạc thì Người lại đến qua trung gian để nhắc nhở và răn dạy. Thế nhưng mà thay vì biết ơn và sống trung thành, thì con người lại vô tình bội nghĩa và bất trung lần này lượt khác với Thiên Chúa, là Đấng luôn trung tín và yêu thương.
Vì Thiên Chúa là Tình Yêu nên Người không mệt mỏi để tha thứ cho con người. Vì yêu nên sẵn sàng trao ban và hy sinh cho người mình yêu, thậm chí “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một mình để ai tin vào Ngài có sự sống đời đời (Ga 3,16)”. Con Một của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể. Ngài đã đáp lời xin vâng Chúa Cha để chấp nhận mang thân phận con người ‘bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh’ và giống con người mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. (x. Dt 4,15). Ngài là Thiên Chúa thật và là con người thật. Ngài đã sống ẩn dật suốt 30 năm tại làng Nazaret trong gia đình Thánh Gia.
Sau đó, Đức Giê-su bắt đầu công khai rao giảng Nước Trời cho tất cả mọi người ở mọi nơi mọi lúc. Ngài là hiện thân của Lòng Thương xót của Thiên Chúa ở với nhân loại tội lỗi. Thiên Chúa vô hình được tỏ lộ rõ ràng nơi Đức Giê-su Ki-tô hữu hình. Lời giảng đầy uy quyền (x.Mc 1,2) đã thốt ra từ môi miệng của Ngài để khích lệ, kêu gọi, khuyên răn, ngăm đe kẻ có tội; chăm sóc và an ủi kẻ bệnh tật; rao giảng và giải thích Lời Thiên Chúa cho muôn người,…
Bên cạnh lời nói, Đức Giê-su đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa qua việc thi thố các phép lạ là làm cho kẻ điếc nghe được, câm nói được, mù được sáng, què đi được, bệnh tật được chữa lành, kẻ chết được cứu sống,…(x. Lc 7, 19-23). Ngài hiện diện ở đâu là niềm vui và sự chữa lành đến ở đó. (x. Mc 6,53-56; Mc 5, 21-43; Ga 4, 43-54). Ngài gần gũi, thân thiện và tiếp đón những người thu thuế, người tội lỗi, người phong hủi, mà người Do Thái cho ô uế và đáng khinh.(x. Lc 19: 1-10; Mc 1, 40-45). Một tình yêu quảng đại và rộng lớn khi Đức Giê-su không ngần ngại đến với dân ngoại cũng như thương xót họ.(x. Mt 15, 21-28; Lc 10,29-37; Lc 17,17-18),…
Mặt khác, vì yêu nên Đức Giê-su luôn tìm mọi phương cách để giúp con người sở hữu được bình an và niềm vui. Trong sứ vụ rao giảng của mình, Đức Giê-su đã chọn cho mình những môn đệ riêng để dạy dỗ, hướng dẫn và đào tạo nhằm giúp các ông cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Ngài. (x. Lc 6,12-16).
Ngài yêu thương các ông hết mực với tình yêu chân thành và trung tín như bạn hữu. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. (Ga 15,15)”. Thế nhưng mà trong số các ông lại có những người dám cả gan phản bội và chối bỏ Ngài. Dẫu biết rằng sứ vụ của Đức Giê-su đến trần gian là để yêu thương, để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho muôn người, nhưng không thể không kể đến một phần cộng tác của con người trong sự đau khổ và cái chết của Ngài.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay khởi đầu tuần Thánh, tuần thương khó của Chúa, chúng ta hãy đọc lại cuộc thương khó của Chúa trong Tin Mừng. Hãy nhìn Giê-su như một con người thực thụ để bạn có thể hiểu và rút ra được bài học cho riêng mình. Chúa đã trải qua tất cả mọi cung bậc cảm xúc của kiếp người và Ngài đã chiến thắng. Ngài chiến thắng không phải bằng sức lực của riêng mình mà là sức mạnh đến từ chính Chúa Cha, Đấng Ngài luôn kết hợp nên một. Cuộc sống của chúng ta mỗi ngày cũng phải đối diện với nhiều thử thách. Đừng bao giờ chúng ta chiến đấu một mình. Hãy để cho Chúa Cha hành động trong chúng ta. Hãy để cho sức mạnh Thiên Linh hướng dẫn chúng ta. Chắc chắn c húng ta sẽ có thể vượt qua và hoàn thành tốt đẹp vai trò và sứ mạng của mình trên trần gian này.
2024
Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu
17.3 Chúa Nhật thứ Năm Mùa Chay
Gr 31:31-34; Tv 51:3-4,12-13,14-15; Dt 5:7-9; Ga 12:20-33
Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…” Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết…”
Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con Người bước vào vinh quang.
Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.
Trong khi bài Tin Mừng được tuyên bố, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu nói một lời khó hiểu: “Khi tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người đến với tôi”. Lời này ám chỉ hai điều: việc Ngài sắp bị đóng đinh thập giá và tầm ảnh hưởng vô biên từ cái chết của Ngài trên thập giá.
Vì không có thói quen nhắc đến những nguyên nhân trừu tượng và những ý niệm tổng quát không thể kiểm chứng được, Chúa Giêsu mời chúng ta lưu ý đến một biến cố sắp xảy ra liên quan đến Ngài cách tuyệt đối –bởi Ngài là người độc nhất bị nâng lên khỏi mặt đất- và sẽ liên quan đến chúng ta một cách cũng tuyệt đối như thế bởi vì hết thảy mọi người sẽ được lôi cuốn bởi biến cố này và sẽ dấn thân vào đó.
Thập giá không phải là một biến cố anh hùng mà Chúa Kitô ao ước đương đầu bằng tất cả bầu nhiệt huyết cách mạng. Đây là một biến cố khá nhỏ nhen, bần tiện, với một hậu cảnh tôn giáo chính trị khó hiểu, mà Chúa Giêsu đã tìm cách tránh trong một thời gian dài, nhưng vẫn không trốn thoát nó. Khi Ngài thấy biến cố này đang đến và Ngài không thể hoãn lại lâu hơn nữa, Ngài đã đón nhận nó bằng tác động vâng phục hoàn toàn tự do của một người con, sẵn sàng tự hiến như Chúa Cha đã yêu cầu Ngài.
Vì trong cơ bản thập giá là cuộc tự hiến hoàn toàn mà Chúa Con dâng lên Cha Ngài bằng hành vi vâng phục được thể hiện trong một vụ án bất công, kèm theo sự ruồng bỏ của những kẻ thuộc về Ngài, trong một cái chết gây ra bởi nỗi đau đớn tột cùng do việc bị đóng đinh thập giá. Qua hành vi vâng phục này Chúa Giêsu hiến mình trong một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha Đấng có thể cứu Người khỏi chết và khỏi quyền lực tối tăm đang tấn công Ngài.
Chúa Giêsu không chấp nhận thập giá vì Ngài, Ngài chấp nhận nó vì chúng ta. Chính thập giá của thế giới mà Ngài đã mang, thập giá mà sự bất tuân của chúng ta và việc chúng ta từ chối Chúa Cha đã áp đặt cho chúng ta, nó là công trình tay chúng ta làm ra, hoa quả trổ sinh từ những bất chính của chúng ta. Khi chấp nhận thập giá chung của loài người, khi mang nó như thể nó thuộc về bản thân Ngài, Chúa Giêsu đã sống nó trong một tiếng kêu hy vọng và tin tưởng mà Chúa Cha sẽ đón nhận. Sự hiến dâng và lời khẩn cầu của Ngài đã cứu Ngài và cứu chúng ta nữa cùng với Ngài.
Sự cứu độ của chúng ta, với tư cách là cộng đồng nhân loại và với tư cách cá nhân, chỉ nằm trong việc trở về với Thiên Chúa, trong ý muốn vâng phục của con cái, hoa quả của một Giao Ước Mới. Và chúng ta không thể thực hiện được điều này bằng sức riêng mình, vì việc từ chối ban đầu chống lại tình yêu Thiên Chúa tiếp tục đè nặng trên chúng ta và áp đặt cho chúng ta một gánh nặng ngày càng khiến chúng ta tê liệt.
2024
NHÌN LÊN THÁNH GIÁ
10.3 Chúa Nhật thứ Tư Mùa Chay
St 36:14-16,19-23; Tv 137:1-2,3,4-5,6; Ep 2:4-10; Ga 3:14-21
NHÌN LÊN THÁNH GIÁ
Trong sa mạc, dân Israel kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống.
Nhìn lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho ta.
Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng. Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên với Chúa.
Trong Tin mừng Gioan, Thánh sử nêu bật hai chủ đề chính “Tin” và ” Yêu”. Hai phạm trù này không thể tách rời nhau. “Tin” là đi vào quỹ đạo của Đức Giêsu, đón nhận quà tặng vô giá nơi Ngài, hiểu biết Ngài và sống sung mãn tình yêu trong Ngài. “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy(15,9)”. Ngài còn dặn dò các môn sinh: ” Như Thầy yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau (13,34)”.
Thiên Chúa định nghĩa tình yêu là gì (bài Tin Mừng – Ga 3, 14-21)
Con người tốn bao nhiêu giấy mực để định nghĩa tình yêu mà cũng chẳng nói hết được ý nghĩa của nó. Còn Thiên Chúa có lối định nghĩa tình yêu hoàn toàn khác, nhưng lại vô cùng sâu sắc và thực tế. Tình yêu chỉ có thể định nghĩa đầy đủ bằng hành động, chứ không thể diễn tả bằng lời nói suông. Cho nên đối với Thiên Chúa, yêu là ban tặng. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).
Thiên Chúa yêu thương Israel nên đã cứu họ thoát khỏi cái chết đời này, cái chết trong nô lệ cho ngoại bang, như bài đọc đã nhắc tới. Đó là hình bóng nói đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại đang bị kiềm tỏa do cái chết đời đời bởi tội lỗi. Thiên Chúa yêu nhân loại nên tìm đủ mọi cách để cứu vớt nhân loại khỏi cái chết đời đời ấy. Với dân Israel, Người dùng vị thủ lãnh của nước Ba-tư để giải phóng dân Người và tái thiết Giê-ru-sa-lem. Còn với toàn thể nhân loại, Thiên Chúa đã trao nộp Con Một là Chúa Kitô cho họ, để Ngài phải hy sinh mạng sống mà cứu họ khỏi cái chết vĩnh cửu. Trên thế gian, người ta yêu thương và tặng quà, có thể là những món quà thật đắt tiền, nhưng chẳng ai dám lấy mạng sống con ruột mình để làm quà tặng cả.
Vậy mà Thiên Chúa đã làm như thế. Với Người, Con Một thật đáng quý giá chừng nào, nhưng Người lại đánh đổi để lấy lại nhân loại, như thế đủ biết Người yêu thương nhân loại đến mức ta không thể lấy gì mà đo lường được. Món quà càng trân quý đối với người tặng bao nhiêu thì tình yêu của người tặng dành cho người được tặng càng lớn lao bấy nhiêu.
“Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã phục hồi mọi sự”, đó là một luận đề chính trong giáo lý của thánh Phao-lô. Không những Chúa Kitô đã khởi đầu công cuộc phục hồi cho ta danh nghĩa làm con Thiên Chúa nhờ cuộc Thương khó và Phục sinh của Người, Người còn trở nên gương mẫu và nguyên lý phục hồi quyền dưỡng tử của ta. Nói khác đi, chẳng những ta được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, mà ta còn được cùng đồng hành với Chúa Kitô để sống tình con cái với Thiên Chúa là Cha của Chúa Kitô và của ta nữa. Chúa Kitô là sự thật và ánh sáng. Sự thật ấy cho ta biết Thiên Chúa yêu thương ta đến độ hy sinh Con Một vì ta.
Ánh sáng ấy là gương mẫu và dẫn dắt ta sống như con cái Thiên Chúa. Do đó để kết thúc cuộc đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã khẳng định: “Kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3, 21). Nghĩa là nếu ta muốn sống đúng với Sự Thật là Thiên Chúa yêu thương ta, thì ta hãy đến với Ánh Sáng là Chúa Giê-su, để tất cả đời ta, lời nói, việc làm, tư tưởng đều được diễn tiến trong Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô. Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ không kết án. “Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường tội lỗi, quay trở lại để được sống” (Ed 33, 11). “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. “Cũng như Môsê treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những ai tin ở Ngài sẽ không phải chết, nhưng được sống đời đời”.
Thập giá đã trở thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.