2023
Dấu Hỏi Cho Người Khác
28.9 Thứ Năm trong tuần thứ Hai Mươi-Năm Mùa Quanh Năm
Kg 1:1-8; Tv 149:1-2,3-4,5-6,9; Lc 9:7-9
Dấu Hỏi Cho Người Khác
Đọc lại khi khởi đầu sứ vụ của Chúa Giêsu, khởi sự bằng việc Chúa nhận phép rửa Gioan trên sông Giođan. Gioan Tẩy Giả khi thấy Chúa đang tiến về phía mình, Gioan đã giới thiệu với dân chúng biết về Chúa Giêsu: “đây chiên Thiên Chúa đây Đấng xóa tội trần gian” (x Ga 1, 29). Lời giới thiệu của Gioan đã khẳng định sứ vụ và ơn cứu độ của Chúa sắp được tỏ hiện giữa trần gian.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi tiểu vương Hê-rô-đê nghe nhiều người bàn tán về Chúa Giê-su, một người nổi tiếng làm những việc lạ lùng, có kẻ nói: “Đó là một ngôn sứ thời xưa sống lại”, còn tiểu vương khẳng định: “Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế”. Tiểu vương không sao ngờ, việc Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng lại có đông dân chúng đi theo như thế, một thường dân không giàu có, chỉ xuất phát từ lòng thương xót mà Chúa làm nhiều dấu lạ: Người đã chữa bệnh tật như một lương y tài giỏi:“Dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-su-sa-lem, duyên hải Tia và Xi-đôn đến để nghe Người giảng và để được chữa lành bệnh tật” Lc 6,17. Và theo thánh sử Mác cô ghi nhận :”Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được” Mc 7,37. Không những thế, lời giảng dạy và giáo lý của Người thật cao thượng, khác lạ nhưng đậm nét nhân văn: “ Hãy yêu kẻ thù,…… và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” Lc 6, 27 hay : “Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người” Mc 9,36.
Khi biết những điều ấy, tiểu vương sửng sốt và rất muốn được gặp mặt Chúa để giải tỏa nỗi thắc mắc và cũng muốn biết Người đã thu phục dân chúng như thế nào? Chúng ta có nhận ra Hê-rô-đê là người ngoại giáo mà còn kinh ngạc và mong muốn tìm cách gặp Chúa, còn chúng ta thì sao? Sự viêc này nhắc nhở chúng ta điều gì? Anh chị em có khao khát tìm kiếm Chúa Giê-su, mỗi ngày trong lời cầu nguyện, đọc Lời Chúa, suy ngẫm về Ngài hay chưa? Chúng ta có yêu mến Ngài như Ngài đã yêu thương, bài học cho chúng ta là hãy nhìn lại sinh hoạt hàng ngày của chính mỗi người về các hành động đã làm với người thân và tha nhân. Tình huống xảy ra trong buổi phân chia hàng thực phẩm cứu trợ, dù đã được nhận đủ phần của mình, nhưng vẫn có người cố ý lấy thêm phần của người khác. Thánh Catarina Gênes chia sẻ: “Muốn biết ai có lòng kính mến Chúa bao nhiêu, hãy xem kẻ ấy yêu thương người ta ngần nào”. Những điều chúng ta đã làm có xuất phát từ lòng yêu thương và mong muốn sự tốt đẹp cho mọi người không?
Tin mừng hôm nay ghi lại phản ứng của vua Hêrôđê khi nghe người ta đồn đoán về Đức Giêsu. Có người cho rằng: Đức Giêsu là ông Gioan sống lại. Kẻ khác thì lại nói: Ông Êlia, hay một vị ngôn sứ nào đó đã xuất hiện. Còn vua Hêrôđê thì không hề tin rằng Đức Giêsu là ông Gioan Tẩy Giả. Nhưng trước những lời đồn đoán về Đức Giêsu, ông cũng phải phân vân và tự hỏi: “Ông Gioan, chính ta đã chém đầu rồi! Vậy thì ông này là ai mà ta nghe đồn những chuyện như thế?
Thật vậy, từ khi bắt đầu khai giảng nước Trời, danh tiếng của Đức Giêsu đã loan đi khắp cả vùng. Tất cả những lời dạy, việc làm, và nhất là cuộc sống của Ngài, đã không ngừng là một dấu hỏi cho người đương thời. Những lời rao giảng và những việc Ngài làm ngày càng lan rộng, điều đó hẳn đã đến tai của vua Hêrôđê. Ông phân vân, bối rối trước những điều mình nghe thấy nên mới tự hỏi: Ông này là ai vậy?
Hiển nhiên, câu hỏi “Đức Giêsu là ai?”, đối với vua Hêrôđê, chắc chắn tác động mạnh đến tâm trí ông, bởi vì ông đã chém đầu ông Gioan và nay người ta lại nói “Đức Giêsu là ông Gioan từ cõi chết trỗi dậy.” Ông đã làm điều dữ và điều dữ tất yếu sẽ chi phối tâm trí ông. Nên ông đã rất phân vân.
Qua sự việc mà vua Hêrôđê đang phải đối diện, chúng ta nhận ra điều tất yếu này: ông là một bằng chứng hết sức cụ thể cho chúng ta thấy, không ai có thể che dấu, hay xóa sạch được tội lỗi của mình bằng cách loại trừ, hay tiêu diệt những người đã lên án vì những việc xấu xa của mình đã làm; và dù người lên án đã bị loại trừ đi nữa, thì lương tâm là sự tố cáo từ trời cao vẫn không bao giờ câm nín đối với kẻ làm điều dữ.
Trong tình trạng tâm trí phân vân ấy, ông muốn tìm gặp Đức Giêsu. Từ ý muốn ấy mà sau này, Thiên Chúa ban cho ông có cơ hội được gặp Ngài, nhưng trong một tình cảnh rất đặc biệt, là trong cuộc thương khó.
Chắc rằng ông đã rất vui sướng khi gặp được Đức Giêsu, vì ước ao của ông đã được thỏa nguyện. Ông đã nghe nhiều về việc Ngài làm được những phép lạ lớn lao, nên ông ước mong được chứng kiến tận mắt một vài phép lạ. Nhưng vua Hêrôđê chẳng nhận được gì cả: Ngài đã không trả lời ông, cũng chẳng làm một phép lạ nào. Như Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: “Ai tìm kiếm Chúa hết lòng thì sẽ gặp được Ngài” (Gr 29,13), Vua Hêrôđê không nhận được gì từ Đức Giêsu, vì ông chỉ muốn nhìn thấy phép lạ; nên Ngài chẳng tỏ cho ông biết điều gì. Khi thấy Đức Giêsu không chịu làm, ông nhạo báng Ngài (x. Lc 23, 7-11).
Như thế, nếu nhìn xuyên suốt cuộc đời của ông, chúng ta thấy rõ điều ông muốn tìm gặp Đức Giê-su: ông muốn thấy các phép lạ, chứ không phải là muốn tìm hiểu nguồn gốc của Đức Giê-su, không phải là ơn tha thứ, niềm vui, ý nghĩa cuộc đời, hay sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa.
“Ông này là ai ?”, vua Hêrôđê đã tìm thấy câu trả lời và khiến ông hụt hẫng: Giêsu chỉ là một anh khờ dại, chỉ đáng bị khinh bỉ và chế giễu. Cuộc tìm kiếm với nhiều tò mò của ông vua Hêrôđê kết thúc. Ông chẳng bao giờ biết được Đức Giêsu thật sự là ai.
Với vua Hêrôđê, Thiên Chúa đã đem đến cho ông hai cơ hội để ông sống theo sự thật, nhưng ông đã không đón nhận: cơ hội thứ nhất, qua lời tố cáo thẳng thắn của ông Gioan, ông đã không nghe và còn cho chém đầu ông Gioan; cơ hội thứ hai, ông muốn tìm cách gặp Chúa Giêsu, và Thiên Chúa ban cho ông có cơ hội ấy trong Cuộc Thương Khó. Nhưng ông cũng không nhận ra. Hai cơ hội để tìm ra sự thật qua đi, vua Hêrôđê vẫn chìm đắm trong sự mê muội của mình, chẳng bao giờ biết được Đức Giêsu thật sự là ai.
“Đức Giêsu là ai?”, câu hỏi này đã được đặt ra cho vua Hêrôđê, cho những người đương thời với Đức Giêsu. Sau này, chính Đức Giêsu cũng hỏi các môn đệ của Ngài như vậy: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?” (Lc 9, 20).
Và hôm nay, câu hỏi mà Đức Giêsu hỏi các môn đệ năm xưa vẫn còn sống động trong lòng ta, vẫn còn đặt ra cho mỗi người chúng ta trong mọi lúc của cuộc sống. Chúng ta hãy để cho lòng mình sự “chất vấn” liên tục về câu hỏi quan trọng ấy. Và có lòng khát khao “tìm gặp” Ngài. Với lòng khát khao, yêu mến chân thành, khi đứng trước câu hỏi “Đức Giê-su là ai đối với tôi trong cuộc đời này?”, chúng ta dễ dàng tuyên xưng như thánh Phêrô xưa đã tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô của Thiên Chúa.”
2023
Sự công bằng của Chúa
24.9 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Năm Mùa Quanh Năm
Is 55:6-9; Tv 145:2-3,8-9,17-18; Pl 1:20-24,27; Mt 20:1-16
Sự công bằng của Chúa
Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không phải là đường nẻo của các ngươi. Với dụ ngôn những người thợ giờ thứ mười một, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa đường lối và cách cư xử của Chúa.
Thật vậy, một người chủ thuê thợ vào làm trong vườn nho của mình. Những người thợ này được thuê vào những giờ giấc khác nhau. Những người được thuê vào sáng sớm với giá thoả thuận là một quan tiền một ngày. Những người thợ khác thì được thuê vào giờ thứ ba, giờ thứ sáu và giờ thứ chín. Nhưng cũng có những người được thuê vào giờ thứ mười một, nghĩa là vào một thời điểm rất muộn. Tuy được thuê vào các giờ khác nhau, nhưng họ lại kết thúc công việc trong cùng một lúc.
Như thế, số giờ làm việc có khác nhau, nhưng số tiền mọi người lãnh được lại bằng nhau, kẻ đến sớm cũng như người tới muộn, mỗi người đều nhận được một quan tiền, theo sự thoả thuận giữa ông chủ và những người thợ được thuê sớm nhất. Cách đối xử của ông chủ đã làm cho những người đến muộn vui mừng, nhưng lại tạo nên sự bất mãn nơi những kẻ được thuê từ sáng sớm. Bất mãn vì không được hơn người tới muộn, mà cũng có thể là bất mãn vì người tới muộn cũng được lãnh như mình. Và ông chủ đã trả lời cho những kẻ bất mãn về lý do hành động của ông như sau: Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn hay sao?
Những ám chỉ của dụ ngôn thật rõ ràng: Ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa. Những người thợ được thuê từ sớm là những người Do Thái. Còn những người thợ giờ thứ mười một là tất cả các dân tộc khác, được gọi là dân ngoại. Dụ ngôn là câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người biệt phái và Do Thái, từng kêu trách về sự ưu đãi của Chúa đối với những người họ gọi là dân ngoại. Đồng thời qua đó Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy rõ lòng nhân từ của Thiên Chúa thì vượt lên trên tất cả những loại trả công của nhân loại. Tuy nhiên, không phải vì thế mà hành động của Ngài lại mang tính cách tuỳ tiện và bất chấp sự công bằng. Đối với Nước Trời, không có vấn đề buôn bán hay trả giá, mà hoàn toàn chỉ vì lòng nhân từ và thương xót của Chúa.
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách giáo huấn: Nào là mùa nho tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp không có công ăn việc làm. Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống tối thiểu. Từ đó, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện dụ ngôn ngày hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài muốn làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các ông chủ trên trái đất này. Họ có bổn phận giữ sự công bằng với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Ngài không có một bổn phận như thế đối với loài người vì Ngài đứng ở bên kia sự công bằng của loài người, một sự công bằng được giới hạn bởi những gì chúng ta mắc nợ.
Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với sức cố gắng của một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, và cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Ngài có khả năng vô biên. Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân từ của Chúa còn đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn.
Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay, một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh chính yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị ràng buộc bởi bổn phận và những gì chúng ta mắc nợ người khác.
Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng buộc bởi kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp trả, một sự ban phát hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận mà thôi. Hơn nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ cũng như nếp sống của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên, bởi vì chính chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi, và nhiều đòi hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản duy nhất của lòng nhân từ Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những anh em ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn những gì do lòng nhân từ của Chúa gợi ra.
Ước gì qua Lời Chúa hôm nay xin cho mỗi người chúng ta biết sống theo Lời Chúa dạy: Đừng ghen tị để ăn ở cho xứng với Tin Mừng của Đức Kitô. Đó là “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người” (Rm 12,14-18).
2023
Tha thứ
17.9 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
Hc 27:30-28; Tv 103:1-2,3-4,9-10,11-12; Rm 14:7-9; Mt 18:21-35
Tha thứ
Hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: anh em đã lãnh nhận sự tha thứ của Chúa, thì cũng hãy tha thứ cho nhau. Không phải là một lần hay chỉ “quá tam ba bận” mà là tha thứ mãi mãi.
Như vậy, tha thứ đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến ta có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình. Ông đòi tính sổ với các con nợ và đòi cho đến đồng bạc cuối cùng. Đó cũng là cách đối xử chung của con người hôm nay. Người ta đòi công lý phải được báo thù. Người ta đòi mắt đền mắt răng đền răng. Người ta khó chấp nhận một sự bao dung tha thứ đối với kẻ thù của mình.
Đọc lại Tin Mừng chúng ta thấy Chúa Giêsu đã dùng nhiều câu chuyện để xác quyết rằng: Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không. Đúng thế, khi người con hoang đàng đang kéo lê những bước chân mệt mỏi trở về, thì cha cậu, thoạt nhìn thấy, đã vội chạy tới, ôm choàng lấy cậu mà hôn, rồi lại còn truyền cho gia nhân đem áo cho cậu mặc, nhẫn cho cậu đeo, giày cho cậu đi, rồi giết con bê báo mở tiệc ăn mừng. Người cha đã tha thứ cho cậu một cách nhưng không.
Cũng thế qua đoạn Tin Mừng chiều hôm nay, tên đầy tớ mắc nợ ông chủ một món nợ khổng lồ. Hắn không có gì để trả. Thế nhưng ông chủ đã xoá bỏ tất cả cho hắn, để hắn được tự do trở về gia đình. Ông chủ đã tha cho hắn một cách nhưng không.
Trong cuộc sống của Chúa Giêsu, chúng ta cũng thấy Ngài đã tha thứ rất nhiều lần. Ngài đã tha thứ cho Madalena, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Chúa Giêsu không những tha thứ mà còn yêu thương những kẻ kết án và đóng đinh Người vì Người biết họ hành động cách mù quáng, mà mù quáng thì đáng thương hơn là đáng trách. Họ mù quáng nên không nhận ra Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ tưởng rằng khi kết án Chúa Giêsu là họ bảo toàn vinh quang Thiên Chúa, không để cho uy danh Thiên Chúa bị xâm phạm bởi một người phàm làng Nadarét ngạo mạn xưng mình là Con Thiên Chúa.
Ngài không những sống tha thứ mà còn dạy các môn đệ và mỗi người chúng ta biết tha thứ cho mọi người. Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết, khi Phêrô đến hỏi Ngài: Phải tha thứ mấy lần, có phải bảy lần không? Ngài đã trả lời với Phêrô rằng: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,22). Tha thứ bảy mươi lần bảy không có nghĩa là 490 lần, mà là tha thứ không có giới hạn, tha thứ mãi mãi. Để quảng diễn tư tưởng đó, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn “Tên mắc nợ không biết thương xót” (x. Mt 18, 23-35). Trong dụ ngôn này, nhà vua chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa “là Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” (Tv 102,8). Ngài không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn thống hối để được sống (x. Ez 18,23). Trong thời Cựu Ước, dân Do thái đã bao lần phạm tội, lỗi giao ước, bội thề…nhưng hễ họ ăn năn sám hối trở về, Thiên Chúa lại tha thứ cho họ. Cùng với tâm tình đó, Đức Giêsu khẳng định: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5,32). Đức Giêsu còn kể nhiều dụ ngôn để nói về lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa, trong đó có ba dụ ngôn (Lc 15): Con chiên bị mất, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu. Đức Giêsu không chỉ dạy tha thứ cho kẻ thù mà còn dạy cho chúng ta phải cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù nữa. Ngài nói: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Tuy nhiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta một điều kiện rất nhỏ mọn đó là chúng ta cũng phải biết tha thứ cho nhau. Trong kinh Lạy Cha, chúng ta vốn thường đọc: Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Trong câu chuyện hôm nay chúng ta thấy ông chủ đã xử trí như thế nào đối với tên đầy tớ độc ác? Vì hắn không tha cho bạn hắn món nợ cỏn con là 100 đồng, lại còn tống giam người bạn khổ sở ấy. Thì bây giờ ông chủ cũng sẽ đối xử với hắn như thế, nghĩa là tống hắn vào ngục cho đến khi trả xong món nợ kếch xù ấy. Và Chúa Giêsu đã kết luận: Thiên Chúa cũng sẽ đối xử với các ngươi như thế nếu các ngươi không biết tha thứ cho nhau. Nếu chúng ta không biết tỏ ra khoan dung tha thứ cho người khác, thì chúng ta sẽ chẳng được hưởng nhờ lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa.
Qua mẫu gương và lời dạy của Đức Giêsu, và vì những lý do trên, nên mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hiện sự tha thứ trong gia đình, trong cộng đoàn và mỗi môi trường chúng ta sống. Tuy nhiên, để thực hiện sự tha thứ không phải là chuyện dễ dàng.
Vì thế, chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Giêsu. Ngoài mẫu gương của Đức Giêsu chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của các đấng bậc trong đạo ngoài đời: Gương của Thánh Stêphanô tha thứ cho Saolê và những kẻ giết mình; Gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tha thứ cho kẻ sát thủ Mehmet Ali Agca; Gương của Thánh Maria Goretti tha thứ cho Alessandrô là kẻ làm hại mình; Ông Gandhi vị anh hùng dân tộc Ấn Độ cũng chủ trương rằng: “Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau”…
2023
Sửa lỗi
10.9 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Ba Mùa Quanh Năm
Ed 33:7-9; Tv 95:1-2,6-7,8-9; Rm 13:8-10; Mt 18:15-20
Sửa lỗi
Con người luôn có lầm lỗi. Ai nên khôn mà không dại một lần. Và chắc chắn là không chỉ một lần mà rất nhiều lần trong cuộc đời. Phạm lỗi cũng không dừng lại ở lứa tuổi nào mà ở bất cứ lứa tuổi nào cũng có thể phạm lỗi. Có điều là chẳng mấy ai trong chúng ta dám nhận mình có lỗi. Chẳng mấy ai dám thú nhận về những lầm lỗi của bản thân.
Đó là điều mà chúng ta cần phải được người khác sửa lỗi. Nếu không được người khác sửa sai thì mình sẽ không bao giờ đứng lên làm lại cuộc đời. Một đứa bé để có thể nói đúng, nói không sai chính tả cần được cha mẹ sửa giọng nhiều lần mới có thể nói không bị ngọng. Về nhân bản con người cũng phải được người khác dạy bảo, sửa lỗi thì mới hoàn thiện chính mình.
Việc sửa lỗi là một công việc khó khăn và tế nhị. Nên hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta một bí quyết vàng để thực hiện công việc này qua từng bước sau: Trước hết: «Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa dạy nó, riêng ngươi và nó thôi». Đây là bước quan trọng nhất, khi sự thật còn ở trong bóng tối, còn kín, chỉ có hai người biết thôi.
Vì thế không được phép nói cho người thứ ba biết sai lầm của người khác khi ta chưa giúp họ. Nếu bước này không thành công thì mới đi bước tiếp: «Nếu nó không nghe lời ngươi, hãy đem theo một hoặc hai người nữa… Nếu nó không nghe họ, hãy trình với cộng đoàn. Nếu nó không nghe cộng đoàn, ngươi hãy kể nó như người ngoại giáo». Đây là bước kế tiếp phải làm trong tinh thần xây dựng, yêu thương và hiệp thông trong cộng đoàn. Nhất là xin Cộng đoàn cầu nguyện để ơn Chúa biến đổi lòng của họ, để họ cải tà quy chính. Khi họ không nghe ai nữa thì chỉ còn cách duy nhất là hãy phó thác họ cho lòng từ bi của Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc sửa lỗi nhau nhằm mục đích tốt cho nhau. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu.
Sống dưới bầu trời này mọi người đều là anh em của nhau: “tứ hải giai huynh đệ”. Giáo Hội là một cộng đoàn huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia dình của Ngài.
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”.
Chúa Giêsu nhắc chúng ta trách nhiệm đó. Vấn đề ở đây không có ý nói về việc tôi can thiệp vào đời tư của người khác, nhưng chúng ta phải ý thức hơn đó chính là trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em mình, giúp cho tha nhân sống tốt hơn, vì ích lợi cho chính người anh em đó, vì ích chung của Giáo Hội.
Tuy nhiên, việc sửa lỗi tha nhân, giúp đỡ anh em sửa đổi con người mình là một công việc tế nhị, khó khăn, không mấy dễ dàng. Nó đòi hỏi chúng phải hy sinh và kiên nhẫn. Khi sửa lỗi tức là tôi đang can thiệp, đang đụng chạm trên sự tự do và nhân vị của mỗi con người. Chính vì lẽ đó mà Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: đầu tiên, cá nhân đối diện cá nhân.
Kế đến, nếu người phạm lỗi không chịu nghe những lời góp ý để sửa lỗi lầm, thì chúng ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý. Việc này sẽ thấu tình đạt lý và có sức hoán cải hơn.
Cuối cùng, nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn, như người ngoại giáo. Đây quả là một biện pháp khôn ngoan và hữu ích. Nó làm cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được bình tĩnh, nhẫn nại, đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người phạm lỗi. Mặt khác, biện pháp đó còn giúp cho người có lỗi có dịp hồi tâm, có cơ hội phản tỉnh để nhận ra sự thiếu sót, lỗi lầm của mình. Khi đó, không một tội nhân nào còn có lý do gì khác để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.
Sửa lỗi nhau để giúp nhau nên tốt là điều cần, nhưng nếu việc làm đó vì phô trương, khoe khoang, sẽ không đem lại lợi ích cho ai cả; trái lại hậu quả tai hại sẽ lớn hơn nhiều. Ước gì mỗi người Kitô hữu chúng ta hiểu được rằng muốn sửa lỗi anh em, cần thiết phải thành tâm, yêu thương họ như Chúa, nhất là ý thức để Chúa hoán cải họ hơn là chính mình hoán cải…
Việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.