2023
Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống
Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống
Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc sống của mỗi người
Nietzche, một triết gia vô thần đã ngạo nghễ tuyên bố : “Thiên Chúa đã chết rồi”. Ông muốn khai tử Thiên Chúa và cho rằng, con người ngày nay đã đạt đến cao điểm của nền văn minh khoa học, nên Thiên Chúa không còn lý do để hiện hữu. Ông đã phạm một sai lầm rất lớn khi muốn loại bỏ Thiên Chúa và vào cuối đời, ông đã chết trong tuyệt vọng. Cũng tương tự, triết gia Jean Paul Satre đã trở thành con người vô thần khi chối từ Thiên Chúa. Ông cảm thấy cuộc đời của mình hoàn toàn trống rỗng và vô nghĩa như một cơn buồn nôn. Để diễn tả tâm trạng bất an nơi mình, ông đã viết cuốn ‘La Nausée’ (cơn buồn nôn). Cho dù nhiều người đang cố gắng đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để chạy theo chủ nghĩa vô thần hiện sinh, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hiện hữu. Tuy nhiên, chỉ khi nào chúng ta đi sâu vào cảm thức đức tin, chúng ta mới có thể khám phá ra sự hiện hữu của Ngài và tiếp cận được Ngài.
Trong bài đọc 1, tác giả sách Các Vua đã thuật lại câu truyện về ngôn sứ Elia trên đường đến núi Hô-rep để gặp Chúa. Chúa không ở trong những tiếng động ầm ĩ của gió bão, cũng không ở trong những tiếng rung chuyển của cơn động đất hay trong ngọn lửa hừng hực phun trào trên đỉnh núi cao. Cuối cùng, Chúa đã đến với Elia trong tiếng gió thổi hiu hiu rất âm thầm và nhẹ nhàng. Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay cũng vậy, có biết bao tiếng động ồn ào làm cản che đôi tai khiến chúng ta không nghe được tiếng Chúa nói, hoặc bịt kín đôi mắt khiến chúng ta không thể nhận ra dung mạo của Chúa. Sự ồn ào gây nên không phải bởi những tiếng gầm rú của xe cộ ngoài đường phố hay bởi những loa nhạc mở hết công suốt tại các phòng trà. Trên hết, đó là những tiếng động xào xạc của tiền bạc, của lòng tham nơi con người khi họ đang hướng về một lối sống hưởng thụ và ích kỷ. Chính cuộc sống duy vật ấy đang dần khai tử Thiên Chúa, và hình ảnh của Thiên Chúa đang dần trở nên mờ nhạt trong tâm hồn con người ngày hôm nay.
Cũng tương tự như thế, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu thuật lại giai thoại Chúa Giêsu đi trên biển để đến với các môn đệ, nhưng các ông tưởng là thấy ma. Con thuyền lênh đênh giữa biển khơi đầy sóng to và gió lớn khiến các ông khiếp sợ. Sự sợ hãi đã khiến các ông không nhận ra Chúa. Trong cuộc sống hiện nay cũng vậy, chúng ta sẽ không thể nhận ra sự hiện diện của Chúa cho dù Ngài đang đứng bên cạnh chúng ta, đặc biệt mỗi khi chúng ta chìm ngập trong sợ hãi và bị những bóng ma cản che con mắt đức tin. Đó là bóng ma của tiền bạc, của lạc thú, của một nếp sống hưởng thụ khi chỉ nghĩ đến bản thân mình một cách ích kỷ. Phêrô đã dần dần nhận ra Chúa và muốn đến với Ngài. Nhưng khi nỗi sợ hãi dâng cao, ông lại từ từ lún chìm giữa lòng biển khơi ngập sóng. Những bóng ma trong đêm tối dễ làm cho con người chúng ta khiếp sợ. Sự khiếp hãi làm sói mòn đức tin và nó đốt cháy lòng tín thác của chúng ta đặt để nơi Chúa.
Thưa ngài, xin cứu con với
Đây là lời cầu cứu của thánh Phêrô lúc ông đang từ từ lún chìm vì sợ. Con thuyền của các tông đồ đang lênh đênh giữa biển khơi đầy sóng to và gió lớn khiến các Ngài hoảng loạn. Nỗi sợ hãi tăng cao khi các ông tưởng nhìn thấy một bóng ma đang lù lù tiến đến. Cũng vậy, khi cuộc đời chúng ta cứ bình lặng êm trôi, chúng ta rất dễ hướng lòng về Chúa. Nhưng khi gặp nhiều thử thách với bao sóng dữ như muốn nuốt chửng, chúng ta dễ bị chao đảo và vuột mất niềm tin nơi mình. Triết gia Karl Marx đã từng mỉa mai nói rằng “Thiên Chúa chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng nơi phận người đầy khổ đau, là tiếng kêu cứu của một con người bị áp bức mà không biết bấu víu vào đâu. Ảo tưởng đó sẽ bị xóa bỏ, khi xã hội con người đạt đến tự do bình đẳng, không còn người bóc lột người và tất cả được no cơm ấm áo”. Nhận định của ông rất phiếm diện và ngày nay, học thuyết Marxism đang dần dần bị con người đào thải. Niềm tin tôn giáo không phải là một thứ thuốc phiện gây mê như ông đã từng nói. Càng sống sung túc về đời sống vật chất, con người lại càng cảm thấy nhu cầu cần đi tìm kiếm một thực tại linh thánh để có thể khỏa lấp những khao khát sâu xa nơi mình. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm cho con người thỏa mãn những khát vọng sâu xa ấy.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của thánh Phaolô được nói đến trong bài đọc 2 hôm nay. Vị Thánh Tông đồ đã trải qua nhiều đau khổ, nhưng luôn kiên định trong niềm tin vào Đức Giêsu. Thánh nhân viết : “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không nguôi. Nếu tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9,2-3). Ngài viết tiếp : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi Đức Kitô, phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ hay gươm giáo (Rm 9,35). Phaolô đã vượt qua được những sóng gió vì Ngài đã cắm sâu vào mầu nhiệm Thập giá cùng với Đức Kitô, đã vượt qua mọi sợ hãi để luôn bình thản trước những cơn sóng dữ của cuộc đời. Vì vậy Thánh nhân đã kết luận : “Không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô” (Rm 9,39).
Đào sâu cảm thức đức tin
Có rất nhiều nhà khoa học lỗi lạc đã thể hiện niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa như Louis Pasteur, Copernic, Newton, Thomas Edison,v…v… Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của ông Louis Amstrong, phi hành gia đầu tiên người Mỹ đã đặt chân lên đến mặt trăng. Vừa sau khi phi thuyền đáp xuống, ông đã quỳ gối, giơ tay làm dấu Thánh giá để biểu thị đức tin nơi mình. Cũng vậy, ông Newton, một khoa học gia lỗi lạc, khi nhìn ngắm trăng sao để nghiên cứu bầu trời, đã cảm thấy con người rất nhỏ bé trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, là kiệt tác do bàn tay Thiên Chúa tạo thành. Ông luôn sống khiêm tốn để ngày càng đi sâu vào cảm thức đức tin. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với Phêrô : “Hỡi kẻ kém lòng tin, sao lại hoài nghi”. Đây cũng là lời trách cứ Chúa nói với chúng ta, mỗi khi đức tin của chúng ta bị chao đảo. Để đức tin nơi chúng ta được nuôi dưỡng và được kiện cường, điều kiện tiên quyết là phải có một tấm lòng biết mở rộng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đức Maria là thầy dạy đức tin và cũng là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học hỏi thái độ đức tin nơi Ngài.
Kết luận
Thiên Chúa luôn hiện diện và đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống. Dấu chân của Ngài luôn in đậm nét trong mọi biến cố cuộc sống đời thường của mọi người, nhưng nhiều khi chúng ta chưa hoặc không nhận ra Ngài. Kinh nghiệm mà thánh Phêrô cũng như các tông đồ đã trải nghiệm năm xưa trên biển hồ Galilê cũng thường được lập lại trong cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay. Cùng với Thánh Phêrô, chúng ta hãy thưa lên với Chúa : “Thưa thầy, xin hãy cứu con. Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con”.
Tác giả: GB. Văn Hào, SDB
2023
Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con
13.8
Chúa Nhật thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
1 V 19:9,11-13; Tv 85:9-10,11-12,13-14; Rm 9:1-5; Mt 14:22-33
Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con
Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại bỏ đi? Trong Tin Mừng, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng Tin Mừng thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15).
Thật là một quyết định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo khổ cực.
Phải chăng đoạn Tin Mừng hôm nay phản ảnh cho một kinh nghiệm sống đức tin của Giáo Hội thời sơ khai? Thực vậy, như một con thuyền tròng trành giữa biển khơi dậy sóng, Giáo Hội chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé và yếu đuối giữa một thế gian đối nghịch và không ngừng áp đảo…
Phêrô xuất hiện, và ông đã đáp trả lời trấn an của Thầy mình. Ông tin rằng đây không phải là một bóng ma, một phantasma, nhưng là chính Chúa Giêsu Đấng đang gọi mời ông và các môn đệ. Phêrô bắt đầu bước xuống biển và đi trên mặt nước. Nhưng một lần nữa, ông lại sợ khi sóng to gió lớn nổi lên. Quyết tâm của ông bị chao đảo. Ông từ từ lún chìm trong dòng nước. Cho dù Chúa Giêsu có nói hay không nói với Phêrô “ Sao kém tin thế”, thì Phêrô cũng đã gào lên với Chúa “Thưa Thầy, xin cứu con”.
Đây là một động thái tổng hợp cả hai mặt: vừa nghi ngờ khiến ông bị chìm, vừa bày tỏ lòng tin như một phương sách cuối cùng. Lòng tin đó khởi dẫn ông tìm đến ơn cứu độ giữa lúc bị chìm dưới biển. Không phải chỉ Phêrô, nhưng tất cả những ai lúc đó đang ở trên thuyền, chứng kiến những sự kiện nói lên sự trọng thị đối với Chúa Giêsu – chính xác hơn là sự tôn phục Ngài, chúng ta cũng như các tông đồ sẽ phải thốt lên “ Đúng Ngài là con Thiên Chúa”. Đức Giêsu đã mặc khải uy quyền của Ngài vượt trên sức mạnh thiên nhiên và khuất phục cả những mãnh lực làm chúng ta chảo đảo sợ hãi. Nhưng quan trọng hơn hết, Ngài khải thị cho chúng ta chính thần tính của Ngài và biểu tỏ sức mạnh có thể cứu lấy những gì đã hư mất.
Đa phần chúng ta chưa từng có kinh nghiệm về sự hiện diện linh thánh của Thiên Chúa sâu xa như các môn đệ, và trải nghiệm đức tin giống như các ngài đã kinh qua khi thắng vượt được sự nghi ngờ và nỗi sợ hãi. Các ngài e rằng, mình có thể rơi vào những ảo giác bên ngoài nhằm đánh lừa , và cái họ thấy trước mắt chỉ là một bóng ma đầy kinh khiếp.
Vì thế, đây là mấu chốt khiến câu chuyện ma trong trình thuật Tin Mừng hôm nay trở nên khá thú vị. Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng đến với chúng ta trong hình hài thân xác, hoặc giữa cơn bão tố, hay trong lúc chúng ta chao đảo đức tin. Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta trong muôn vàn cách thái khác nhau. Ngôn sứ Elia đã đến một cái hang trên núi Horeb, ngọn núi của Chúa, để gặp Chúa. Nhưng Chúa không hiện diện trong cơn giông bão. Ngài không có mặt trong cơn động đất, trong núi lửa, nhưng Chúa đến trong “tiếng gió hiu hiu nhè nhẹ”. Sau khi Elia nghe những âm thanh nhẹ nhàng này, ông tiến ra đứng trước cửa hang để đón gặp Chúa. Trong sự thanh vắng sau cơn bão tố, Chúa đã xuất hiện , hoàn toàn tĩnh lặng giữa núi rừng. Thần khí của Chúa đã đến với Elia dưới một một dạng thức thiêng liêng. Người ta có thể sánh ví, Ngài đến giống hệt như một bóng ma vậy.
Trong cuốn chuyện Quo vadis, tác giả Sienkievich đã đặt Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát trong thế đối diện với Néron, một hoàng đế hùng mạnh, chủ tể của trần gian. Phêrô đã run rẩy, ngẩng mái đầu bạc trắng của mình lên trời cao mà thầm thĩ kêu xin: Lạy Chúa, con biết làm gì với thành phố mà Chúa sai con tới. Của y nào là biển cả và đất liền. Của y nào là muông thú trên mặt đất cũng như thuỷ tộc dưới lòng đại dương. Của y nào là những vương quốc, thành quách và 30 chiến đoàn đang canh giữ. Còn con, lạy Chúa, con chỉ là một tên ngư phủ, sống quanh quẩn trên các mặt sông hồ. Con biết làm gì đây. Làm sao con thắng được sự dữ mà y đã gieo rắc.
Quả là mong manh, bé bỏng và yếu đuối, thế nhưng Giáo Hội vẫn không ngừng đi tới vì tin rằng Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện như lời Ngài xác quyết: Thầy đây, đừng sợ. Cho dẫu đó chỉ là một sự hiện diện vô hình, tưởng chừng như ảo ảnh. Thế nhưng cộng đoàn nhỏ bé ấy đã làm đảo lộn cả lịch sử. Néron đã biến đi như một cơn mộng dữ đẫm máu. Còn Phêrô, người chài lưới già nua và dốt nát vẫn còn đấy, đã chiếm lĩnh đến muôn thuở cả trần gian.
Cũng chính vì thế mà câu chuyện của 2.000 năm về trước luôn là nguồn suy tư và sức mạnh cho Giáo Hội, đặc biệt trong những giai đoạn phải đối diện với những khó khăn và thử thách, với những phong ba và bão táp, để ở đó, Giáo Hội hâm nóng lại niềm tin của mình và can đảm tiến bước.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy thẳng thắn kiểm điểm lại đời sống của mình. Nếu lúc này, chúng ta không cảm nhận được sự bình an, niềm vui mừng và hy vọng thì chắc chắn đó là vì chúng ta đã lìa xa Chúa. Nếu như lúc này chúng ta đang chao đảo và như muốn chìm xuống đáy nước, thì chắc hẳn đó là vì chúng ta đã không còn tin tưởng, cậy trông và phó thác vào Chúa. Hãy quay trở về cùng Chúa và hãy kêu lên như thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin cứu vớt con. Chắc chắn Ngài sẽ ra tay phù trợ, bởi vì Ngài không phải chỉ là một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm được những sự chúng ta kêu van, mà hơn thế nữa, Ngài còn là một người cha đầy lòng thương xót, luôn sẵn sàng cứu vớt và nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Có Chúa cùng đi với chúng ta trên vạn nẻo đường đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi trước những phong ba và bão táp, chúng ta sẽ không còn lo lắng trước những gian nan và thử thách như lời thánh vịnh đã viết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công, thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tước cũng không ra gì.
Thiên Chúa luôn hiện diện và đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống. Dấu chân của Ngài luôn in đậm nét trong mọi biến cố cuộc sống đời thường của mọi người, nhưng nhiều khi chúng ta chưa hoặc không nhận ra Ngài. Kinh nghiệm mà thánh Phêrô cũng như các tông đồ đã trải nghiệm năm xưa trên biển hồ Galilê cũng thường được lập lại trong cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay. Cùng với Thánh Phêrô, chúng ta hãy thưa lên với Chúa: “Thưa thầy, xin hãy cứu con. Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con”.
2023
Trở nên đồng hình đồng dạng
Lễ Chúa Giêsu Hiển Dung
Trở nên đồng hình đồng dạng
Hàng năm vào ngày 6 tháng 8, Giáo Hội mừng lễ Kính Chúa Giêsu Hiển Dung, còn được gọi là Kính Chúa Giêsu Biến Hình Trên Đỉnh Núi Taborê. Trên đỉnh núi Taborê Chúa đã cho ba môn đệ ‘thân tín’ nhất của Ngài là Phêrô, Giacôbê và Gioan ‘nếm một chút’ và ‘cảm nghiệm một phần nào’ niềm vui sướng và hoan lạc của Nước Chúa Hằng Sống. Mới ‘chỉ nếm một chút’ thôi và mới ‘cảm nghiệm một phần nào’ thôi niềm hoan lạc hạnh phúc của Nước Chúa Hằng Sống mà Phêrô đã cảm thấy ngất ngây tột đỉnh, đến nỗi đã không ngần ngại và cũng không cần phải suy nghĩ lâu gì, và đã thốt lên rằng: Lạy Thầy, ở lại trên núi luôn được không? Nếu được, con sẽ dựng ngay ba lều: một cho Thầy, một cho Môisen và một cho Êlia.
Nhưng muốn được hưởng niềm hoan lạc sung sướng của Nước Chúa, chúng ta phải ‘hiển dung’, phải ‘biến hình’, phải ‘thay đổi’ nếp sống nên tốt hơn. Đó là ý nghĩa chính yếu của Thánh Lễ Kính Chúa Giêsu Hiển Dung mà Hội Thánh kêu gọi con cái mừng kính trọng thể hàng năm.
Như một cây cảnh hay cây ăn trái chúng ta trồng chẳng hạn. Để cây có thể lớn lên, lớn lên nữa, lớn lên hơn nữa, cây đó cũng phải ‘thay hình’ và ‘đổi dạng’. Phải đau đớn nứt nẻ thân cây, và ngay cả ‘lột xác’, bỏ rơi lại dưới đất những vỏ cây khô. Có như thế, cây mới lớn lên cao, lớn lên cao mãi được. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, muốn lớn lên, lớn lên mãi trong tình nghĩa tử làm con cái của Chúa, chúng ta cũng phải như thân cây. Chúng ta phải can đảm hy sinh chấp nhận mọi đớn đau trong sự ‘biến hình’ và “đổi dạng” trút bỏ lại những cằn cỗi, già nua của những vỏ cây là hiện thân của những tham sân si, ghen ghét, hận thù, bất công, vu oan, cáo vạ…
Hơn nữa, để có thể leo lên tới đỉnh Núi Thánh của Chúa trong niềm vui hoan lạc, chúng ta cũng phải bỏ xuống khỏi đôi vai, thân xác và ra khỏi lòng chúng ta những cồng kềnh, lỉnh kỉnh của mọi điều gian trá bất nhân. Bằng không chúng ta sẽ khó lòng leo lên tới được đỉnh núi Taborê. Mà sợ còn gẫy gánh dọc đường khi chỉ mới ngang lưng sườn núi vì bị những cồng kềnh, lỉnh kỉnh đó đè bẹp chúng ta ngã quỵ.
Vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, Ngài đã được giới thiệu như là Người Con chí ái và là Đấng cứu độ của nhân loại. Tại nơi chịu phép rửa, Chúa Giêsu đã lãnh lấy chức vụ người Tôi Tớ đau khổ, nhưng lại được Thánh Thần hướng dẫn. Còn trong cuộc biến hình hôm nay, Ngài đã được giới thiệu trong tư cách một vị tiên tri mà mọi người phải vâng nghe.
Tiếng bởi trời đã tỏ cho các tông đồ và qua các tông đồ, cho mỗi người chúng ta nhận biết về Đức Kitô. Thế nhưng sau những giây phút bàng hoàng và sợ hãi, các tông đồ chỉ còn thấy Chúa Giêsu trở về với vóc dáng cua một con người bình thường, quang cảnh huy hoàng với Môsê và Elia đã biến mất. Đấng mà các ông vừa mới được chiêm ngưỡng sự vinh quang, Đấng mà các ông vừa mới được kêu gọi vâng phục chính là Chúa Giêsu nhưng trong điều kiện làm người của Ngài.
Chúng ta rất dễ bị lôi cuốn, hấp dẫn bởi những cái ngoạn mục, những cái vượt ra ngoài ranh giới thông thường. Trong Tin Mừng chúng ta thấy ông Phêrô, sau khi được thấy mặt Thầy chiếu sáng như mặt trời và áo Thầy trở nên trắng như ánh sáng, rồi Thầy lại còn đàm đạo cùng Môsê và Elia, đã vội vàng đề nghị: Chúng con được ở đây thì tốt lắm, nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một thầy Thầy, một cho Môsê và một cho Elia.
Nhưng hiện tại vẫn phải là con đường xuống núi, tiếp tục tiến về Giêrusalem, đối diện với cái chết. Hiện tại chưa phải là lúc dừng lại trong vinh quang. Cuộc sống vẫn phải là cuộc hành trình của niềm tin, của sự gắn bó với Chúa Giêsu, dù rằng Ngài đang tiến đến thập giá. Vinh quang chỉ có thể đến ngang qua đau khổ.
Với sự kiện Chúa biến hình trên núi, các tông đồ như được thêm sức mạnh để cùng đi với Ngài trong đoạn đường còn lại. Nhiều người trong chúng ta rất dễ dàng đón nhận những lời nói của ông thánh này bà thánh nọ phán dạy qua những lần hiện ra ở chỗ này, chỗ khác, như những lời nói đáng tin cậy nhất với những việc lạ lùng kèm theo.
Thế nhưng trong chương trình của Chúa, Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta, Ngài đã giảng dạy bằng những hình ảnh hết sức bình thường và quen thuộc, chẳng hạn hình ảnh chim trời, cây vả, mẻ lưới, tiệc cưới… Chính Ngài cũng đã sống những điều ngài giảng dạy một cách thật bình thường, cho dù Ngài đủ khả năng lôi cuốn dân chúng bằng những việc lạ lùng. Chẳng hạn như sau khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều, thì dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã dứt khoát từ khước.
Chúa Giêsu hôm nay đã tỏ mình ra là Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các môn đệ. Chúa mời gọi các tông đồ xác tín niềm tin của mình để nhờ đó mà vượt qua những khó khăn để trung tín trong tình yêu. Vâng chính nhờ tin vào Chúa mà các ông đã không quản ngại gian khó để mang tin mừng yêu thương đến cho mọi người. Chính niềm tin vào Chúa mà các ông đã sống hết mình yêu thương con người.
Hôm nay Chúa vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta xác tín niềm tin vào Chúa để sống chứng nhân giữa dòng đời. Một đời sống chứng nhân mang tin yêu vào trong thế giới lắm bon chen, ích kỷ. Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta tỏ mình ra là con cái của Chúa khi chúng ta sống theo sự sáng không theo đường lối gian ta, khi chúng ta sống yêu thương phục vụ là dấu chỉ rõ ràng về chân dung người môn đệ của Chúa.
Hôm nay, lễ Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà Chúa đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống “nhân chi sơ tính bản thiện” của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.
Lễ Hiển Dung hôm nay mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
2023
Lúa tốt và cỏ dại
Lúa tốt và cỏ dại
Sự khôn ngoan của nước Trời
Kinh nghiệm nhà nông dạy rằng, công cấy công bỏ, công làm cỏ công ăn. Người nông dân phải chăm chỉ nhổ cỏ dại để có thể thu hoạch lợi tức. Trong đời sống xã hội cũng thế, muốn cộng đồng được an lành và phát đạt, chúng ta phải loại trừ tội ác và thanh trừng kẻ xấu. Đây là những suy tính rất thông thường, nhưng trong trật tự nước Trời, Chúa dạy chúng ta không được hành xử như thế. Hãy để cả lúa và cỏ lùng cùng mọc lên. Đến mùa gặt, ông chủ sẽ nhổ cỏ dại đem đi đốt, còn lúa tốt thì thu vào kho. Làm nghề nông chẳng ai thực hành như thế bao giờ. Tuy nhiên, Chúa lại muốn chúng ta ứng dụng theo sự chỉ dẫn khôn ngoan của Ngài. Sự khôn ngoan của nước Trời khác xa với sự toan tính khôn khéo theo kiểu cách thế gian.
Để minh họa thêm cho sứ điệp trên, Giáo hội giới thiệu thêm cho chúng ta một đoạn trong sách Khôn ngoan được đọc lên trong bài đọc 1 của phụng vụ hôm nay. Tác giả nêu bật phẩm tính khoan hậu và lòng từ bi của Thiên Chúa. Ngài luôn khơi dậy nơi con người niềm hy vọng vì được tha thứ. Tác giả viết : “Chúa xử khoan hồng, vì Ngài làm chủ được sức mạnh. Ngài lấy lượng từ bi cao cả mà cai quản chúng con. Làm như vậy, Chúa dạy chúng ta rằng, người công chính phải có lòng nhân ái. Ngài cho con cái niềm hy vọng, vì người có tội được Ngài ban ơn sám hối”. Dụ ngôn ‘lúa tốt và cỏ lùng’ trong bài Tin mừng cũng mang chở sứ điệp tương tự như vậy. Thiên Chúa là đấng khoan dung luôn kiên nhẫn đợi chờ tội nhân quay đầu trở về.
Đừng vội kết án
Trong đời sống cộng đoàn, chúng ta dễ có khuynh hướng thích kết án người khác, nhất là khi thấy những tội công khai sờ sờ trước mắt. Đây là một lề thói tự nhiên nơi bất cứ một tổ chức xã hội nào. Nhưng, Chúa Giêsu thì khác. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và cả đám đông trên tay mỗi người nắm chặt một hòn đá để toan tính ‘xử đẹp’ chị ta. Chúa Giêsu vẫn lặng lẽ cúi xuống viết trên đất. Ngài nhắc nhở thân phận tội lỗi nơi mọi người và đừng vội kết án tha nhân. “Ai trong các ông sạch tội, cứ việc ném đá chị ấy đi”. Người còn nhẹ nhàng nói với chị “Tôi không kết án chị đâu. Hãy về và đừng phạm tội nữa” (Ga 8,6 ). Lòng khoan dung của Thiên Chúa là đặc nét nổi bật nói lên lòng thương xót vô điều kiện nơi Ngài. Chúa ghét cay ghét đắng thói vạch lá tìm sâu, bới tìm những cỏ lùng để bứng tận gốc và hay kết tội người khác. Thói xấu này phát xuất từ sự cao ngạo, coi mình là chuẩn mẫu để đánh giá anh chị em mình. Thánh Gia-cô-bê cũng dạy chúng ta: “Anh em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu và xét đoán anh em mình là nói xấu và xét đoán lề luật. Chỉ có một Đấng ra lề luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn bạn là ai mà dám xét đoán người thân cận” (Gc 4,11-12).
Có một giai thoại trong cuộc đời của thánh Đa-minh. Khi Ngài lâm trọng bệnh, các anh em trong cộng đoàn đến thăm. Ngài nói với mọi người : “Tôi không hiểu sao Thiên Chúa lại không cho lửa xuống thiêu rụi thành này vì ở đấy có một người tội lỗi xấu xa quá sức tưởng tượng”. Các anh em tu sĩ hỏi Ngài : “Thưa Cha, xin Cha cho chúng con biết người đó là ai, để chúng con cầu nguyện cho anh ta và đến khuyên bảo, giúp anh ta ăn năn sám hối”. Cha Đaminh thở dài và nói: “Người đó chính là tôi đây. Bởi vì tôi đã nhận biết bao ơn lành của Chúa mà tôi vẫn còn đầy những tội lỗi xấu xa. Tôi là tội nhân đáng ghét nhất”.
Sự khiêm tốn luôn đi đôi với lòng nhân hậu và sự khoan dung. Đức Giêsu đã khiêm tốn hạ mình cho đến chết và chết trên Thập gía. Đây là cách diễn bày lòng thương xót trọn vẹn nhất. Trong 3 năm rao giảng, Chúa Giêsu không bao giờ kết án một ai. Ngài cận kề và đồng bàn với cả những tay thu thuế, bọn đĩ điếm hay phường trộm cướp. Ngài còn trực tiếp phong thánh cho một tên cướp chuyên nghiệp khi anh ta cùng bị đóng đinh trên thập giá, nhưng đã tín thác vào lòng thương xót của Ngài. Chúa không kết án những người có tội, song Ngài kịch liệt chỉ trích những biệt phái giả hình, những con người tự mãn về mình nhưng lại cứ hay kết án người khác.
Kiên nhẫn và nhân hậu trong sứ vụ giáo dục
Giáo dục là một nghệ thuật. Nghệ thuật ấy đòi hỏi sự kiên trì và tấm lòng bao dung. Suốt 40 năm trường ròng rã trong sa mạc, dân Do Thái đã được Chúa dạy dỗ và uốn nắn qua những thử thách, đồng thời Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn lấy tình cha mà sửa dạy họ. Người được giáo dục phải mở rộng cõi lòng để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Trong thư gửi tín hữu Rôma được trình bày trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phao-lô đã nhắc lại điều kiện quan trọng này. Về phía nhà giáo dục, chúng ta cần phải noi gương Chúa Giêsu và thực thi những quy tắc mà bài Tin Mừng hôm nay nêu ra. Nhà giáo dục cần kiên nhẫn, chớ vội vã nhổ cỏ lùng để cho lúa tốt được phát triển. Thánh Phanxicô Salê, vị tiến sĩ Đức Ái đã đặt đức ái như quy chuẩn đầu tiên cho việc giáo dục. Có một lần, nơi giáo xứ Ngài phụ trách có một thanh niên tổ chức đánh bài ăn tiền ở nhà. Sợ hàng xóm dòm ngó, chủ nhà dọn chiếu bạc lên trên gác. Mải mê trong cuộc đỏ đen để sát phạt nhau, chủ nhà trượt chân ngã xuống đất và bị què. Với tấm lòng mục tử, Thánh Phanxicô Salê đã đến nhà để thăm hỏi. Sợ chàng thanh niên xấu hổ, Ngài không hề chửi mắng hay la rầy. Trước khi ra về, thánh nhân chỉ nhẹ nhàng nói : “Con hãy cẩn trọng, lần sau có đánh bài, con hãy ngồi dưới đất mà đánh, kẻo lại trượt chân và bị què tiếp”. Về đến nhà, người đệ tử đi theo Cha thánh mới hỏi Ngài: “Sao Cha lại khuyên người ta như thế, cứ tiếp tục đánh bài mà ngồi ở dưới đất”. Vị thánh mới từ tốn giải thích: ‘Sửa chữa một lỗi phạm không phải là chuyện đơn giản, nhưng phải kiên nhẫn từ từ. Nếu ngồi dưới đất đánh bài, hàng xóm nhìn thấy sẽ dị nghị khiến anh xấu hổ. Dần dần, anh ta sẽ bỏ được thói quen xấu”. Giáo dục cần phải có tấm lòng nhân ái và sự kiên trì. Cha Thánh Gioan Boscô cũng nhắc lại nguyên tắc này khi nói với các con cái Ngài: “Chúng con hãy nhớ rằng, một giọt mật ngọt bắt được nhiều ruồi hơn là một thùng dấm chua”.
Kết luận
Trong thư gửi giáo đoàn Ephêsô, thánh Phaolô đã dạy chúng ta: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn hay la lối thóa mạ và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,29-32). Đây là những nguyên tắc rất căn bản khi chúng ta nhìn ra biết bao ‘cỏ lùng’, trong các giáo xứ, các giáo họ và ngay cả trong các cộng đoàn tu sĩ. Vậy, chúng ta đã hành xử như thế nào?
GB Trần văn Hào SDB