2020
Giải Mã Mầu Nhiệm
Chúa Nhật 3 PS (A) Giải Mã Mầu Nhiệm
Không dễ để hiểu và chấp nhận sự chết và phục sinh của Đức Giêsu; không dễ để tin và dựa vào những chứng cứ xác thực để chứng minh về sự Hiện diện của Đấng Phục sinh đang sống và trở nên chứng nhân cho Người.
Đức Giêsu, Đấng Kitô đã chết. Không gì có thể đảo ngược lại tình thế, vì chết là hết. Thấy hay không thấy xác Đức Giêsu trong mồ, hoặc đã bị lấy đi, điều đó không còn quan trọng, vì chẳng có chuyện người chết sống lại, mà sống lại để không – làm – gì, cũng thế mà thôi. Không còn gì quan trọng có thể níu họ ở lại, họ lê gót trở về trong nỗi thất vọng, cay đắng trên từng bước chân của mình.
Bám víu lấy những kí ức để sống là phi lý khi những hoài bão đã vỡ tan. Những góc nhìn phiến diện, những lý do chủ quan đưa ra, đã gây nên một cuộc tranh luận gay gắt giữa hai môn đệ trên đường đi Emmau đến nỗi, họ không biết có sự hiện diện của một khách bộ hành cùng đi với họ. Mắt họ còn bị ngăn cản không biết đó là Đức Giêsu.
Điều gì khiến mắt họ bị ngăn cản không nhận ra Đức Giêsu? Vì nhãn giới trần tục của họ bị ám bởi những khát vọng đầy mùi vị thế gian; vì trí lòng họ còn chứa đầy những logic của con người, chưa hiểu được lời các ngôn sứ trong Kinh thánh, chưa biết được kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, chưa được khai sáng bởi đức tin. Vì đức tin là ân ban, không phải thành tựu của khôn ngoan con người; mầu nhiệm là sự nhận lãnh, chứ chẳng bởi do kiểm nghiệm bằng các giác quan.
Họ theo Chúa không phải vì Chúa, mà vì mục đích riêng; họ chỉ nuôi dưỡng những khát khao, chỉ thích nghe theo sự thôi thúc của những vọng tưởng, thế nên, tất cả tan tành trước cái chết của Đức Giêsu, Đấng mà họ coi như một ngôn sứ có quyền năng của Thiên Chúa. Sự thất vọng bao phủ họ như nấm mồ u ám.
Nhưng Đức Giêsu đã đồng hành với họ, nhẫn nại lắng nghe tâm tư tình cảm, để họ trút ra những gì làm mắt họ bị ngăn cản, trí não họ như bùn đất và tâm hồn như bị đóng băng. Rồi Người mới bóc tách những suy nghĩ phàm trần của họ qua việc kiên trì giải thích Kinh thánh, giúp họ lần ra “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt Kinh thánh, là lời các ngôn sứ báo trước về ơn cứu độ của Thiên Chúa, về sự cứu chuộc của Đức Kitô qua cái chết và sự phục sinh của Người.
Mắt họ được sáng, không phải đôi mắt trần, mà là con mắt đức tin, đã khiến lòng họ bừng cháy, không phải là những khát vọng trần tục, mà là niềm hy vọng của cuộc sống mới. Niềm vui khám phá và sự an bình nội tâm mà vị khách lạ đem đến khiến họ háo hức, khẩn khoản nài xin Người ở lại với họ vì trời đã tối, hay nói khác đi, vì ánh sáng đức tin mà vị khách đồng hành đã thắp lên, đã rọi sáng vào tâm hồn tăm tối của họ, khiến họ muốn ở mãi với Người.
Trong bữa ăn tối, Đức Giêsu chủ động cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho họ. Mắt họ được bừng mở và họ nhận ra Người. Cử chỉ ấy chỉ có nơi vị Thầy mới đây đã làm trong phòng Tiệc ly. Không thể nhầm được. Họ biết rằng, người ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu Phục Sinh bằng cặp mắt nhân loại, mà chỉ nhận ra Người hiện diện với cặp mắt đức tin được Chúa ban tặng.
Từ đây, với kinh nghiệm quý giá này, họ biết chắc Người luôn ở với họ, với nhân loại trong Kinh thánh, qua việc Bẻ Bánh trong cộng đoàn những người tin, chứ không còn qua hình dạng theo kiểu loài người nữa. Như thế, Bữa Tiệc Ly với tất cả ý nghĩa của nó, trở nên sống động trong tâm khảm của cộng đoàn của Đức Giêsu phục sinh, Đấng đang sống, đang hiện diện và đang cử hành.
Trở lại Giêrusalem, họ gặp các tông đồ để chia sẻ niềm vui, để làm chứng cho Đấng Phục Sinh hiện ra với họ, và chính họ cũng được các tông đồ củng cố chứng tá ấy, khi thuật lại việc Đấng Phục Sinh hiên ra cho ông Simon Phêrô.
Như thế đức tin chính là ơn huệ của sự Phục sinh, và người ta chỉ có thể hiểu Kinh Thánh khởi đi từ cuộc Phục Sinh của Đức Giêsu, và cũng chỉ có thể hiểu về mầu nhiệm phục sinh nhờ Kinh thánh và cử hành lễ Bẻ Bánh.
2020
Đường về Emmau : Xin đừng vô cảm
ĐƯỜNG VỀ EM MAU : XIN ĐỪNG VÔ CẢM
Người xưa có câu: “Lời chào cao hơn mâm cỗ” ngụ ý đặt lễ nghĩa lên hàng đầu, đặt giá trị tinh thần lên trên giá trị vật chất. Dù trước mặt có mâm cao cỗ đầy nhưng không chào hỏi, mời mọc thì chẳng ai quan tâm động đũa. Lời chào thể hiện sự tôn trọng, thân thiện nên khi gặp nhau, chào trước rồi mới các việc khác tiếp sau. Lời chào được nói ra phải xuất phát từ trái tim sự chân thành, niềm nở cho ta thấy sự kính trọng dành cho người trên.
Tưởng nghĩ chắc có lẽ không chỉ người Việt Nam nhưng đã là người thì bất cứ dân tộc nào cũng coi trọng lời mời, coi trọng lời chào hơn là bữa ăn. Với tâm tình này, ta được mời gọi nhình lại con đường Emmau.
Có lẽ không cần phải dài lời, ta thấy các môn đệ buộc lòng không còn cách nào khác là phải về quê “đuổi vịt cho vợ” vì người mà mình thần tượng, người mà mình theo đuổi bị treo trên cây thập giá. Cái chết đã làm tiêu tan niềm hy vọng của bất cứ những ai đi theo con người mang tên Giêsu. Điều này cũng chả có gì là khó hiểu và cũng chả có gì để phân tích hay bàn tán cũng như suy nghĩ.
Câu chuyện đường về Emmau phải chăng quá quen thuộc với mỗi người Kitô hữu nhất là sau biến cố Chúa Giêsu chết và phục sinh. Trên con đường về quê đó, tâm trạng của hai môn đệ dường như bế tắt và tuyệt vọng. Đang thất tha thất thểu thì bỗng dưng gặp một vị khách bộ hành. Và, ta thử hỏi nếu như đường ai nấy đi thì sẽ là gì kế tiếp. Chắc có lẽ Chúa Giêsu sẽ đồng hành với người khác trên đoạn đường khác. Ở đây, hành trình Emmau ta lại thấy lóe lên tình cảm giữa người với người và 2 môn đệ. Chính khi 2 môn đệ mời khách bộ hành vào quán trọ cũng là lúc mà họ gặp chính Chúa Giêsu.
Chuyện về Emmau hơn bao giờ hết thấm thía và đúng mọi thời đại và nhất là thời đại ngày hôm nay của nhân loại, của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Cuộc đời hay nói đúng hơn là chuyến hành hương về Giêrusalem của mỗi người chúng ta xem chừng ta không đơn giản. Có những lúc chúng ta đi trong đêm đen của đời sống đức tin, đi trong những đoạn đường chán ngán và vô vọng. Điều hết sức dễ thương đó là Vị Khách Bộ Hành Emmau xưa vẫn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Thế nhưng đáng tiếc thay lòng ta vẫn cứ chộn rộn lo những cái chuyện gì đó chẳng dính dáng gì đến ơn cứu độ của ta.
Để ý một tí, ta thấy các môn đệ buồn bã và nói với Khách Bộ Hành : “Ủa ! Ông kỳ ghê nha ! Ông không biết chuyện gì về cái ông mang tên Giêsu à ?”. Tâm trạng đó nói lên sự tiếc nuối, sự đau đớn khi mất điểm tựa. Và, chính lúc nói lên tâm tình của mình, vị Khách Bộ Hành mới kể chuyện Kinh Thánh cho 2 ông nghe.
Đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu chúng ta đã hơn một lần hay nói đúng hơn là quá nhiều lần chênh vênh. Và, ta thấy càng chênh vênh hơn nữa khi ta không bám víu vào vị Khách Bộ Hành trên đường đi của ta. Cũng không khó hiểu khi đời ta chênh vênh. Thay vì ta mời khách bộ hành mang tên Giêsu vào nhà thì ta mời tiền bạc, địa vị và danh vọng. Những vị khách đó xem chừng chỉ làm cho ta thỏa mãn cái ước muốn tạm bợ để rồng lòng ta vẫn trống vắng và có khi mất niềm tin vào Chúa.
Thực tế nhất là trong cơn đại dịch mà cả thế giới đang gánh chịu, chuyện quan trọng nhất của người Kitô hữu vẫn là niềm tin vào Chúa. Để sống niềm tin, để có niềm tin chắc có lẽ không có cách nào khác là mình mời Chúa vào trong gia đình của mình.
Có những người vui vẻ thốt lên : “Không có Lễ buồn quá ! Không có Lễ chán quá !”.
Xem chừng đó là cảm thức của tự nhiên của một tín hữu quen đi Nhà thờ như một thói quen đạo đức. Thế nhưng, không nên dừng lại ở thói quen đạo đức mà phải đi xa hơn nữa đó là mình hãy bày tỏ niềm tin của mình vào Chúa giữa những lúc thử thách như thế này.
Chúa ở đâu ? Chúa ở trong lúc mình rước Lễ thiêng liêng, khi mình đọc và suy niệm lời Chúa và nhất là khi mình “nuốt” lời Chúa vào trong đời mình.
Có vài giáo phận thông báo có lễ như bình thường thì cũng nhao nhao lên so sánh. Để làm gì ? Mỗi giáo phận thì Đấng Bản Quyền có quyền ra quyết định cho giáo phận của mình. Và rồi ta vẫn thấy có những ràng buộc kèm theo đó tuân theo quy định của nhà chức trách để rồi cứ phải đứng núi này trông núi nọ.
Vấn đề lớn nhất không phải là được đến tham dự Thánh Lễ tập trung hay không mà là ta có mời Chúa đến trong gia đình chúng ta không ? Ta có tin câu nói : “Ở đâu có 2, 3 người tụ họp và cầu nguyện là có Ta ở đó” không ?
Nếu như vậy thì tại sao ta lại không dành quỹ thời gian nào đó chừng 15 phút đồng hồ để cả gia đình ngồi lại với nhau trước Bàn Thờ Chúa trong gia đình để cùng nhau đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa, tìm hiểu Lời Chúa và nhất là để sống Lời Chúa.
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường cho con đi và Lời Chúa chính là lương thực cho Kitô hữu. Ta không quên chi tiết là Chúa Giêsu đã kể lại cho 2 môn đệ về những gì xảy ra trong Thánh Kinh để đến lúc bẻ bánh thì lòng các ông bừng cháy sao ?
Và như vậy, mỗi gia đình đều có Lời Chúa nhưng ta có mời Chúa vào trong tâm hồn của chúng ta hay không ? Chúng ta dường như vô cảm với Chúa dẫu rằng miệng vẫn càm ràm “không có Thánh lễ tập trung buồn quá !”
Chúa đã, đang và vẫn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống nhưng rồi ta vẫn vô cảm với Chúa đó thôi. Nếu như ta chân tình với Chúa và mời Chúa vào trong tâm hồn qua việc đón nhận Lời Chúa thì lòng ta sẽ bình an và bừng cháy như 2 môn đệ Emmau.
Xin cho mỗi người chúng ta như 2 môn đệ Emmau xưa là biết mời Chúa vào trong gia đình mình, trong tâm hồn mình. Khi và chỉ khi ta có Chúa thật trong gia đình, trong tâm hồn thì ta mới được bình an. Mỗi người chúng ta có cách lựa chọn cũng như cách đáp trả niềm tin vào Chúa giữa lúc khó khăn của đại dịch này.
2020
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta
Thiên Chúa và con người hoàn toàn khác nhau. Đơn giản nhất ta biết được đó là Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và con người là vật được tạo thành. Và rồi ta thấy Lời của Thiên Chúa chắc chắn khác lời của con người. Để chứng minh cho Lời khác nhau này, ta dễ tìm thấy nơi Is 55,9 : Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.
Đã từ lâu lắm rồi, từ tạo thiên lập địa, sau khi con người đánh mất tình nghĩa với Thiên Chúa thì Thiên Chúa vẫn giữ giao ước tình yêu với con người. Giao Ước Tình Yêu của Thiên Chúa được thực hiện nơi chính người Con chí ái của Cha.
Thiên Chúa đã nói với cha ông tự ngàn xưa về tình yêu của Ngài dành cho con người. Cụ thể nhất tình yêu ấy được diễn tả : nhưng trong ngày sau hết, Thiên Chúa nói với nhân loại qua Người Con.
Thật vậy, Người Con chính là dấu chỉ, là Lời mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Chúa Giêsu đến thế gian cũng chỉ là muốn nói, muốn bày tỏ cho con người rằng Thiên Chúa mãi mãi yêu thế gian và cứu thế gian. Điều quan trọng nhất và cốt lõi nhất đó là con người phải nghe và giữ lời Thiên Chúa.
Và điều này, ta lại thấy, lại khám phá nơi Đức Giêsu cách trọn hảo. Chúa Giêsu khi đến thế gian Ngài cũng làm theo những gì Cha nói chứ Ngài không làm theo ý của Ngài : “Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta”.
Vâng lời Thiên Chúa phải chăng đó là điều quan trọng nhất của cuộc đời những người tin vào Thiên Chúa. Ai nói mình tin Chúa mà không nghe lời Chúa phải chăng là người nói dối ? Nghiệt một nỗi là con người dễ chiều theo xu hướng nghe lời của người phàm hơn là nghe lời của Thiên Chúa. Đơn giản và dễ hiểu rằng lời Thiên Chúa thì đắng đót, lời Thiên Chúa sắc bén tựa gươm đao và như dao xuyên thấu lòng người.
Các tông đồ ngày xưa, ta nhìn vào cuộc đời của các ngài, ta thấy hơn một lần các ngài vấp ngã. Tông đồ trưởng Phêrô còn vấp ngã vì Thấy huống hồ chi là những con người nhỏ bé như chúng ta.
Ta thấy sau khi tin vào Thầy phục sinh, các tông đồ mạnh mẽ : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cv 5, 32).
Để nói lời này trước các quan chức thời đó không phải là điều đơn giản. Nói như vậy đồng nghĩa với chuyện rơi đầu là chẳng chơi. Thế nhưng vì tin vào Đức Kitô Phục Sinh nên các tông đồ đã mạnh dạn nói và sống.
Thật vật, để mạnh dạn nói lời Chúa trước quan quyền, trước công chúng không phải là chuyện đơn giản. Đơn giản nhất là chuyện làm dấu Thánh Giá của người Kitô hữu làm hàng ngày. Có khi quên nhưng có khi lại ngại và có khi lại sợ. Có người không dám nhận mình là Kitô hữu để rồi không dám làm dấu.
Ngày nay, ta thấy xã hội phát triển và rồi trên các trang mạng xã hội, ta thấy nhiều người nói mà không biết họ nói cái gì. Nhiều lần nhiều lúc ta thấy các phát ngôn viên, xướng ngôn viên nói những điều chả đâu ra đâu nhưng người ta lại hùa theo. Người ta thường thích cũng như tò mò những lời của người này người kia nói và hơn nữa là đi chia sẻ, phân phát cho nhiều người.
Mỗi ngày trên các trang mạng, những lời nói chả đâu vào đâu thì người ta thích và người ta chia sẻ cho người khác nhanh như chớp. Trong khi đó, điều cần thiết nhất của người Kitô hữu đó chính là Lời Chúa nhưng rồi người ta không chịu đọc, không nghe và cũng không chia.
Xét về chuyện này cũng không khó hiểu lắm vì lời Chúa thì đắng đót chứ không ngọt ngào như lời của con người. Lời của con người ngày hôm nay ta thấy đủ ngôn từ hoa mỹ và có cánh. Những lời này nghe bùi tai và đầy những ước hẹn. Thế nhưng sau những ngôn từ hoa mỹ của con người ta sẽ nhận được gì ?
Lời của Chúa mãi mãi là Lời Hằng Sống, Lời của Chúa mãi mãi là lương thực nuôi sống đời người Kitô hữu. Ai nào đó hấp thụ Lời của Chúa thì đời của người đó được Lời Chúa sinh hoa kết quả và trước hết là dinh dưỡng cho con người đó. Ngược lại, ai nào đó sống theo lời của con người thì cứ quanh quẩn trong kiếp người.
Chuyện quan trọng nhất trong đời sống Kitô hữu đó chính là lắng nghe để sau khi nghe là sống Lời Chúa. Để nghe được Lời Chúa, con người cần phải lắng đọng trong tâm hồn. Giữa cuộc sống ồn ào và náo nhiệt, người Kitô hữu cần phải có cõi lặng để dừng lại và trầm lắng thì mới nghe được Lời Chúa.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta giữa bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời và những ồn ào náo nhiệt luôn biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi khung cảnh của đời sống. Và hơn nữa, ta xin Chúa cho ta biết vâng nghe và sống theo Lời mời gọi của Chúa chứ đừng nghe và sống theo tiếng người đời.
2020
Chạm vào những vết thương
Chạm vào những vết thương – Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa
Đức Giêsu đã bị giết chết, các môn đệ co cụm, sợ hãi trước một tương lai tăm tối. Họ không dám đi đâu, làm gì vì “sợ người Do thái.”
Trong sự bế tắc ấy, Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với họ nói: “Bình an cho anh em.” Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của sự bình an, nhưng với sự hiện ra của Thầy, còn mang những dấu tích của cuộc khổ nạn trên thân thể, đã làm bùng lên trong lòng họ sự vui mừng, phấn chấn. Nỗi mừng vui trọng đại này được Giáo hội lưu lại trong kinh nguyện Mùa phục sinh, như muốn nhắn gửi cho con cái mọi thời về cái tâm bất biến giữa giòng đời vạn biến: “Các môn đệ vui mừng. Halleluia. Vì được nhìn thấy Chúa. Halleluia.”
Những thương tích trên thân thể Đức Giêsu vẫn còn đó, như dấu chỉ cho một tình yêu cao cả và lòng xót thương vô bờ Người dành cho nhân loại, mà các môn đệ có sứ mạng rao truyền: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Các môn đệ thi hành sứ mạng này, không phải để trừng trị, trả thù những kẻ gian ác, nhưng là để công bố sự tha thứ và hòa giải, làm chứng cho Tin mừng Phục sinh, cho ơn Cứu Chuộc nơi Đức Giêsu chứa chan, cho lòng Thương Xót vô biên Người vẫn dành cho con người, từ đời nọ đến đời kia.
Sứ mạng này, các môn đệ sẽ thực hiện cùng với Đấng Phục Sinh luôn ở cùng, như một thẩm quyền tối hậu để hậu thuẫn cho sứ điệp, như một thế lực để duy trì sức mạnh thừa sai, để soi sáng cho tâm trí và làm bừng lên ngọn lửa nhiệt thành.
Sứ mạng ấy đã tồn tại theo thời gian lịch sử, trải qua những sự thử thách ghê gớm giữa sự sống và cái chết, giữa đức tin và khoa học, giữa mầu nhiệm và những vấn đề thuộc bình diện nhân loại. Đừng vội trách Tôma là kẻ cứng tin, như các tông đồ khác, Tôma cũng chỉ hướng tới thập giá, dù ông can đảm: “Chúng ta hãy tới đó để cùng chết với Ngài.” (Ga 11,16)
Rất yêu mến thầy, nên khi thấy thầy chịu chết, ông đau đớn rút vào trong cô tịch. Vì thế, khi Đấng Phục Sinh hiên ra, Tôma đã vắng mặt. Nhưng Tôma thật lòng, dám nói lên sự nghi ngờ vướng mắc của mình và tuyên bố sẽ chẳng tin nếu không được thấy tận mắt, sờ tận tay vào những vết thương của Chúa.
Tám ngày sau, các môn đệ tập hợp lại, lần này có Tôma. Các cửa đều đóng kín. Sự gặp gỡ với Đấng Phục Sinh lần trước vẫn chưa giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi. Họ cần có sức mạnh Chúa Thánh Thần thì mới dạn dĩ xuất hiện trong tư thế là chứng tá cho Đức Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh.
Đức Giêsu biết rõ tâm hồn Tôma, nên lần hiện ra này, Người sẵn sàng để cho ông kiểm chứng “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin.” Tôma sụp xuống trong sự kinh hoàng, thốt lên lời tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con.”
Không ít lần, trong những thời khắc khủng hoảng tăm tối nhất, người tín hữu vẫn ao ước được Lòng thương xót Chúa chạm đến như tông đồ Tôma. Nhưng những vết thương của Giáo Hội, của các quốc gia, của từng gia đình và của mỗi người gây ra bởi dại dịch Coronavirus chính là những vết thương của Chúa Kitô, và những vết thương ấy phải được nhìn thấy để chạm vào.
Làm sao có thể chạm vào những vết thương của Chúa, khi chúng ta nhắm mắt trước mọi vết thương rách toác của người đồng loại trong trận đại dịch này?
Làm sao có thể hôn kính những vết thương trên Thân Thể Chúa Kitô, đang khi bỏ mặc những vết thương trên thân thể, trong tâm hồn, trong đời sống của những người khốn cùng đang kề bên?
Làm sao có thể tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh chiến thắng sự chết, khi hằng ngày chúng ta vẫn dửng dưng với những cái xấu và ác, mặc nhiên thừa nhận sự gian dối, nạn tham nhũng và không dám nói lên, hoặc đồng tình với những người đang đấu tranh cho sự thật, đang phải trả giá cho công lý?
Làm sứ giả cho lòng thương xót của Chúa là mạnh dạn chỉ ra các vết thương trong xã hội, cho thấy cái cơ cấu của tội lỗi là nguồn gốc của mọi vết thương. Cần lắm một tình yêu liên đới và lòng thương cảm, “xót ai cũng là xót phận mình” mới có thể cùng nhau tìm kiếm những phương thế mới để chữa lành.
Và thuốc chữa lành chính là sống Lòng thương xót Chúa khi bắt tay làm những điều tốt đẹp; khi tìm kiếm chân lý tránh xa sự giả dối; khi biết yêu thương, tìm kiếm sự tha thứ – hòa giải chứ không nuôi dưỡng sự trả thù.
Lạy Chúa Giêsu
Nhân loại hôm nay đang trải qua bao là sự dữ.
Con người hôm nay đang sống trong tuyệt vọng lo âu.
Chúng con đến kêu cầu Chúa giàu lòng xót thương.
Ngài mở ra con đường, đưa đến tận nguồn suối yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu con tin tưởng nơi Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.
(Lời Bài hát Chúa giàu lòng xót thương của Lm. Giuse Vũ Đức Hiệp)
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR