2020
Cần Lắm, Thần Khí Sự Thật
Cần Lắm, Thần Khí Sự Thật
Làm sao để có nhãn quan mới, suy nghĩ mới và sự hiểu biết mới để biện phân, để chọn lựa, để xác tín?
Khi Đức Giêsu loan báo việc ra đi, các môn đệ cảm nhận những việc bi thảm sắp xảy ra, lòng dạ rối bời. Nhưng Đức Giêsu đoan chắc Người sẽ không để họ mồ côi, Người sẽ đến với họ. Họ sẽ thấy Người sống và chính họ cũng sẽ sống. Lúc mắt họ mở ra, tâm trí họ hiểu được, lòng họ bừng sáng, họ sẽ nhìn thấy Người trong cái nhìn mầu nhiệm hiệp thông lạ lùng: “Ngày đó anh em sẽ biết rằng Thày ở trong Cha Thày. Anh em ở trong Thày và Thày ở trong anh em.”
Các điều răn của Đức Giêsu không chỉ là những giáo huấn về luân lý, mà còn diễn tả một mầu nhiệm của sự kết hợp sâu xa trong tình hiệp thông yêu thương, một cách sống “thần linh” do bởi Người luôn giữ các giới răn của Chúa Cha và luôn ở trong Chúa Cha.
Với Chúa Giêsu, tình yêu chân thật chỉ có thể chứng minh bằng sự vâng lời chân thành chứ không phải là một thứ cảm xúc, một cách ứng xử. Vì “nếu” các môn đệ yêu mến Thày, họ sẽ vâng lời Thày, như Đức Giêsu đã chứng minh Người rất mực yêu mến Chúa Cha qua sự vâng lời trọn vẹn, và Chúa Cha đã không bỏ rơi Người, thì các môn đệ sẽ nhận được một món quà Thần linh gửi tới từ Chúa Cha, là Đấng Bảo Trợ khác đến ở với họ luôn mãi.
Khi ở với các môn đệ, Đức Giêsu là Đấng Bảo Trợ cho họ. Người biện hộ, bảo vệ họ trước sự chỉ trích, phê phán của người Do thái; Người mặc khải các mầu nhiệm, dạy dỗ, yên ủi họ, giúp họ can đảm, thì giờ đây, Người hứa sẽ xin Chúa Cha ban cho họ Đấng Bảo Trợ khác là Thần Khí Sự Thật sẽ đến ở trong họ, ở với họ để hướng dẫn và giúp họ có khả năng đối phó với mọi hoàn cảnh.
Thần Khí Sự Thật đã tỏ mình qua Đức Giêsu. Thần Khí ấy sẽ đưa các môn đệ vào trong “sự thật”, sẽ che chở họ khỏi tinh thần thế gian, sẽ hoạt động trong tâm trí và trong tâm hồn họ, giúp họ đi sâu vào mầu nhiệm Đức Giêsu kết hiệp với Chúa Cha, và nhờ Người, họ được kết hiệp với Đức Giêsu, như Đức Giêsu hằng kết hiệp với họ.
Chỉ có các môn đệ mới biết Thần Khí Sự Thật và mọi hoạt động của Người, còn thế gian thì không. Nhờ đó, họ có nhãn quan mới, suy nghĩ và hiểu biết mới, có được những những kinh nghiệm mới để biện phân, để chọn lựa, để xác tín.
Không những thế, Đức Giêsu còn hứa sẽ đến cùng họ trong một dạng thức khác. Thế gian cứ tưởng là không có Đức Giêsu vì không thấy Người, nhưng các môn đệ vẫn nhận ra sự hiện diện của Người, sự hiện diện của một Đấng đang sống, và vì thế, họ cũng sẽ được sống.
Ở với các môn đệ một cách hữu hình, được cảm nhận qua những giác quan không phải là cách hay nhất, hữu hiệu nhất. Đức Giêsu hé mở cho họ biết về một cách thức hiện diện mới, không gì có thể ngăn cản, không gì có thể chia lìa, vượt trên thời gian và không gian, vượt lên trên cả những quy luật vật lý hạn hẹp của địa cầu. Khi “Ngày đó” đến, họ sẽ biết Đức Giêsu hằng ở trong Chúa Cha, họ được ở trong Người và Người ở trong họ.
Đó là điều sẽ xảy ra sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Dù Đấng Phục Sinh chưa cho họ thấy tất cả sự vinh hiển của Người, nhưng các môn đệ đã được soi sáng để biết mầu nhiệm Thiên Chúa ở cùng.
Nhắc lại việc tuân giữ các điều răn mà Người đã ban cho các môn đệ, Đức Giêsu muốn họ lấy đức tin mà đón nhận Lời Người. Những ai gắn bó với các giới răn của Người mới có thể nhận được Thần Khí Sự Thật, và mở ra với tình yêu của Đức Giêsu và của Chúa Cha, trong sự kết hợp sâu xa của tình hiệp thông yêu thương thần linh. Đó là những gì Đức Giêsu muốn tỏ cho họ biết.
Chúng ta sẽ chẳng bao giờ nhận được Chúa Thánh Thần nếu chỉ tin mà không tuân giữ Lời Đức Giêsu, chỉ muốn thấy một Đức Giêsu không có bóng dáng thập giá, không dám coi tất cả mọi sự là rác, là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu và được kết hợp với Người, không muốn trở nên đồng hình đồng dạng trong cái chết của Người, làm sao hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết? (x. Pl 3,8-11).
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR
2020
Lửa tình yêu
Chúa nhật
VI Phục Sinh
17.5.2020
Ga 14, 15-21
LỬA TÌNH YÊU
Với bối cảnh chia ly, các môn đệ cảm thấy đau lòng bởi cuộc chia cách. Các ông tự hỏi là làm thế nào các ông có thể tiếp tục sống với Chúa Giêsu nếu Người ra đi. Chúa Giêsu hứa là Người sẽ không bỏ các môn đệ một mình, không người che chở, không ai hướng dẫn. Người loan báo có mộtsự trợ giúp khác sẽ đến, đó là Thần Khí sự thạt (14,15-17) và chính Người cũng sẽ đến (14,18-21). Người tuyên bố rằng tất cả những giáo huấn Người đã ban cho các ông từ trước đến nay sẽ không bị lỗi thời, nhưng vẫn có giá trị mãi mãi. Chỉ người nào gắn bó với các giới răn của Người mới có thể nhận được Thần Khí và mở ra với tình yêu của Chúa Giêsu và của Chúa Cha.
Chúa Giêsu hứa sai một Đấng Bầu chữa. Danh xưng lạ lùng này, vốn không có trong cách dùng thông thường của ngôn ngữ chúng ta, là chữ phiên dịch từ một kiểu nói Hy lạp có nghĩa được kêu tới bên cạnh…”; các tiếng đồng nghĩa với nó có thể là: người trợ giúp, trạng sư, kẻ nâng đỡ… Khi Chúa Giêsu nói đến một vị Bầu chữa khác, ta có thể nghĩ rằng chính Người là Đấng Bầu chữa đầu tiên là Vị rồi đây được sai đến với các sứ đồ sẽ làm cho họ hiểu hơn về Người; Ngài sẽ là kẻ mặc khải, bảo vệ Chúa Kitô trong tâm hồn người tín hữu chống lại các cơn cám dỗ và bách hại của thế gian.
Ta thấy Thánh Thần là hồng ân được ban cho chúng ta như hoa quả mà Chúa Kitô thâu lượm được nhờ cuộc Tử nạn của Người. Chính khi làm cho chúng ta đồng hóa với Chúa Kitô mà Thánh Thần đặt trong chúng ta tâm tình con thảo mà Chúa Cha mong đợi nơi chúng ta. Như thánh Phêrô nói: “Tất cả những ai được Thần khí tác sinh, đều là con cái Thiên Chúa”.
Chính vì Tình Yêu nên Ba Ngôi đã hiệp nhất nên Một Thiên Chúa, đó là mầu nhiệm Ba Ngôi cực thánh. Một Chúa Ba Ngôi đã thể hiện rõ ràng trong Ngôi Lời nhập thể ở tất cả những hoạt động cũng như lời giảng dạy của Người. Điều đó cho thấy Chúa Thánh Thần vẫn luôn luôn hiệp cùng Chúa Cha ở trong Chúa Con vậy. Ngay từ trong Cựu Ước, Chúa Thánh Thần đã là “Lời và Hơi Thở của Thiên Chúa là nguồn gốc của sự hiện hữu và sự sống mọi thụ tạo.” (Tv 33, 6; 104, 30; St 1, 2; 2, 7; Gv 3, 20-21; Xh 37, 10).
Đến với Tân Ước thì Đức Ki-tô luôn dạy dỗ môn đệ về Thần Khí Sự Thật. Không những chỉ là Lời giảng dạy, mà chính Chúa Giêsu cũng chịu sự tác động mãnh liệt của Thần Khi (khi Người sinh ra tại hang đá Bê-lem, khi Người chịu phép rửa trên sông Giođan, khi Người được Thàn Khí dẫn vào hoang địa để chịu quỷ cám dỗ, khi Người biến hình trên núi Tabo, khi cầu nguyện kể cả khi Người tử nạn trên Gôngôtha).
Quả vậy, không phải anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nô lệ để mà phải sợ hãi; nhưng anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nghĩa tử làm cho chúng ta thốt lên: Abba, Cha! Chính Thần khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14- 16). “Ta sẽ không để các con mồ côi. Ta sẽ trở lại với các con”. Chúa Giêsu đã đến làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Cha Người. Người đã đến bằng con đường nhập thể để thực hiện kế hoạch tình yêu đó.
Thiên Chúa luôn đi bước trước, yêu thương con người trước và khi con người tuân giữ luật Chúa, họ chứng tỏ họ đã đón nhận, muốn triển nở tình yêu, thăng hoa tình yêu nơi bản thân của mình và trân trọng tình yêu ấy, do đó, họ tuân giữ những điều Chúa dạy để tình yêu của Chúa không bị ứ đọng mà tình yêu của Chúa được lan tỏa đến với mọi người. Chúa Giêsu hiểu giá trị của Lời Ngài, Lời ban sự sống, cứu độ và dẫn đưa con người tới hạnh phúc.
Tuy vậy, Lời của Chúa không thể sinh hoa kết quả nếu con người chỉ nói trên đầu môi chóp lưỡi, nói cách suông, ơ hờ, hời hợt, nhưng những điều Chúa nói cần phải đem ra thực hành với lòng yêu mến. Xưa, Chúa đã trấn an các môn đệ : “Đừng xao xuyến, đừng lo âu”. Ngài ra đi về cùng Chúa Cha nhưng ngài sẽ xin Chúa Cha sai Đấng phù trợ đến. Thánh Thần sẽ hiện diện để hướng dẫn, soi đường chỉ lối cho các môn đệ, cho mọi người. Ngày nay, Chúa cũng nhắc nhở chúng ta : “Nếu chúng ta yêu mến Chúa thì phải tuân giữ giới răn của Chúa”.
Tất cả lề luật chỉ tóm gọn trong hai điều : “mến Chúa và yêu tha nhân” (Mt 22, 40). Đây là điều chính yếu. Bởi vì đó là chân lý. Chúa đã xin Chúa Cha sai Chúa Thánh Thần đến để gìn giữ Giáo Hội đi trong sự thật. Chỉ khi nào chúng ta tuân giữ giới răn Chúa, thực hành những điều Ngài dạy với lòng yêu mến.Chúng ta mới được hưởng dồi dào ân sủng, bình an và sự hiện diện của Ba Ngôi Thiên Chúa nơi tâm hồn và nơi cuộc sống trần thế này.
“Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến”. Chúng ta gặp lại ở đây, dưới hình thức rõ ràng và đánh động hơn, một trong những chân lý cơ bản thường năng được trình bày trong Tân ước. Tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu cấu tạo nên tương quan với Chúa Cha. Vâng giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu là vâng phục Chúa Cha; cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Chúa Cha; ca tụng Chúa Giêsu, tức nhìn nhận thực thể của Người trong niềm thán phục và vui mừng, là phó thác vào Chúa Cha.”Các con sẽ phải khốn quẫn, nhưng hãy vững lòng! Ta đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
Yêu mến… thì sẽ thực thi… phải luôn gắn liền với nhau. Yêu mến Chúa Giêsu thì hẳn phải thực thi lệnh truyền của Ngài, mà lệnh truyền đó đã được Chúa Giêsu gói trọn trong hai giới răn: “Mến Chúa và yêu người”. Yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em đồng loại là hai mặt của một tình yêu. Thánh Gioan đã nói rất rõ: “Ai nói rằng mình biết Người mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Ga 2, 4).
Chúa Giêsu căn dặn các môn đệ là phải yêu và thực hành tình yêu đó cách chân thật, vô vị lợi, dán chấp nhận hy sinh vì người mình yêu. Tình yêu đó được chính Đức Giêsu đã hành động, đi qua và Ngài đưa ra lời mời gọi: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu như chính thầy là gì, nếu không phải là một tình yêu tự hủy, khiêm tốn, phục vụ và hiến dâng mạng sống vì người mình yêu.
Và Lời Chúa ngày hôm nay dạy chúng ta hãy yêu mến Chúa Giêsu để được ban Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, được Chúa Cha và Chúa Giê-su yêu thương và được Chúa Giê-su tỏ mình ra. Yêu mến Chúa Giêsu không phải bằng tình cảm ủy mị, ướt át mà bằng những việc làm cụ thể là tuân giữ các giới răn, thực thi các lệnh truyền của Người.
2020
Lịch Sử Là Đường Thẳng Hay Cong ?
Chúa Nhật 5 Phục Sinh (A)
Lịch Sử Là Đường Thẳng Hay Cong ?
Có sinh thì có tử. Cuộc sống con người không kéo dài mãi. Điều làm cho cuộc sống tiếp diễn trên trái đất này chính là sự kế tục của hàng hàng lớp lớp những người được sinh ra và chết đi. Ngay cả trái đất, vì đã có lúc được sinh ra, chắc chắn sẽ đến lúc chết đi, nhưng nó chấm dứt khi nào và chấm dứt như thế nào thì chưa ai biết.
Sự tiến bộ trong mọi lãnh vực của cuộc sống, vì được kế thừa và phát huy qua các phát kiến nên đời sống có khác và khá hơn, tri thức và khoa học cũng theo đà tiến đó, nhưng dù ở thời nào, người ta cũng bị đẩy vào sự bế tắc khi cố tìm hiểu vấn đề “người ta từ đâu đến; sống để làm gì và chết sẽ đi đâu?”
Giải được bài toán này, người ta mới tìm thấy ý nghĩa và giá trị thật cho đời sống mình. Bằng không, lịch sử giống như những tấm hình chuyển động, trải dài trong cái vô nghĩa và sự vô lý của nó.
Không ai nắm bắt được lịch sử, không ai làm chủ được lịch sử, không ai ôm trọn lịch sử trong tay mình, chỉ có Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể đã đưa ra một lời giải thỏa đáng cho toàn bộ ý nghĩa và giá trị thật của lịch sử. Lời giải không mang tính lý thuyết nhưng là hành động quyết liệt đến độ, không thể thay đổi được nữa.
Đó là hành trình từ Chúa Cha để đến thế gian, giờ đây Người sắp lìa bỏ thế gian để trở về cùng Chúa Cha; từ chỗ Đức Giêsu đang ở với các môn đệ, Người sẽ đi trước để dọn chỗ cho họ, rồi Người sẽ lại đến để đem họ về với Người, để Người ở đâu, họ cũng được ở đó với Người. Điểm đến cuối cùng là Nhà Cha Trên Trời, nơi các môn đệ sẽ được ở với Người.
Chỉ có Đức Giêsu mới vạch ra một con đường đến đích. Nhìn vào đích đến, người ta mới hiểu được ý nghĩa lời Kinh thánh đã nói, không có gì chắc chắn trên cõi đời này, cuộc sống là tạm bợ, thế giới là phù vân và lịch sử thì nhất thời, chúng chỉ có giá trị là chuẩn bị cho cõi đời đời (x.1Ga 2,17)
“Nhà Cha Trên Trời” chính là điểm hội tụ đem lại ý nghĩa tròn đầy và giá trị trọn vẹn cho lịch sử nhân loại, cho lịch sử từng người. Vì thế hành trình đi – đến lại – và đem các môn đồ đi, là việc Đức Giêsu vừa diễn tả việc Người phá tung cái vấn nạn muôn thuở kiên cố mà người ta, dù cố gắng đến đâu, cũng bất lực, vừa trấn an các môn đồ đừng xao xuyến và mời gọi họ tin vào Thiên Chúa và tin vào Người.
Tin vào Thiên Chúa là Đấng Chân Thật, tin vào Người là con đường, là sự thật và là sự sống, Đức Giêsu cho thấy vai trò trung gian duy nhất của Người. Sự cần thiết phải tin vào Đức Giêsu, không phải là tin vào những điều huyễn hoặc, giả dối, nhưng nhờ tin, các môn đồ có được sự hiểu biết về vị thày, qua công việc thày làm, họ nhận biết về Cha của Người là Thiên Chúa.
Vì thế, người ta cần đến với Đức Giêsu, tin vào Người và làm môn đệ Người, vì Đức Giêsu đã quả quyết: “Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” Nghĩa là không ai có thể đạt thấu Thiên Chúa theo con đường tự mình hoạch định, nó chỉ đưa đến bế tắc, nhưng phải theo “cung đường” khác, cung đường mà nhờ biết Đức Giêsu “đi đâu”, họ sẽ biết được con đường dẫn đến Chúa Cha, và ai đi trên cung đường sự thật ấy, sẽ đạt được sự sống.
Không dừng tại đó, Đức Giêsu còn cho họ biết điều huyền diệu hơn khi quả quyết: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết Người và đã thấy Người.” Nhưng chẳng có ai thấy Thiên Chúa bao giờ. Lời cầu xin của Philípphê chính là khát vọng của nhân loại muốn thấy Thiên Chúa! Nhưng con chuột chũi làm sao có thể nhìn thấy mặt trời? Phàm nhân sao có thể thấy được Đấng Chí Tôn, Chí Thánh? Chỉ có một cách, Đức Giêsu hướng sự khát khao của con người vào chính Người, “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.”
Đó là mầu nhiệm không thể diễn tả dựa trên những hình ảnh, những khái niệm thuộc về thế gian này. Đức Giêsu chỉ có thể giãi bày đến thế. Chính Chúa Cha làm những việc của mình bên trong mọi hành vi của Đức Giêsu, vì Người với Chúa Cha là một.
Mầu nhiệm Ngôi hiệp giữa hai ngôi Cha và Con được minh chứng qua những công việc Đức Giêsu làm, là đưa lịch sử đến đích của nó, là cho người ta thấy ý nghĩa và giá trị thật của đời người trong thánh ý của Thiên Chúa.
Và những những ai là môn đệ của Đức Giêsu sẽ làm được điều lớn lao hơn, khi chính họ sẽ hướng dẫn những người khác đi trên con đường Giêsu là sự thật và sự sống. Con đường lịch sử của mỗi người nhờ đức tin mà đạt được cùng đích.
2020
Mục Tử Theo Tiêu Chuẩn Giêsu
Mục Tử Theo Tiêu Chuẩn Giêsu
Dùng lối ẩn dụ để chỉ mối tương quan mật thiết giữa mục tử và đàn chiên, vừa nhấn đến tầm quan trọng giữa những mục tử và người giữ cửa, Đức Giêsu phác họa cho chúng ta thấy rong ruổi trên những vùng đất hoang vắng, những mục tử phải tìm ra những đồng cỏ tươi tốt để nuôi chiên và không ngừng chăm sóc, bảo vệ chiên của mình. Vì chiên và mục tử cùng sống chung nên hiểu nhau, biết nhau và tạo nên mối thân tình. Các mục tử thường đặt tên cho những con chiên họ yêu quý, quan tâm đến từng con, nên chiên mến anh, nghe lời anh chứ không nghe theo người lạ.
Các mục tử thường quy tụ các đàn vật của họ vào một ràn chung mỗi tối. Ràn thường làm bằng đất đá hoặc cây cối vây quanh, che chắn an toàn, bảo đảm cho đàn vật khỏi mọi nỗi hiểm nguy. Họ cắt cử một người bảo vệ canh cửa. Mỗi sáng, khi một mục tử lên tiếng với người giữ cửa, đàn chiên của anh ta sẽ nhận ra tiếng anh và nghe theo lời hướng dẫn của anh, nhờ đó anh dễ dàng tách chiên của mình ra khỏi đàn.
Cách duy nhất để đến với chiên, chứng tỏ mình là mục tử, là phải đi qua cửa, được người giữ cửa mở ra. Chính cái cửa xác định ai là kẻ trộm cướp và ai là mục tử. Đức Giêsu xưng mình là “Cửa ràn chiên” là thế. Ai không qua cửa mà vào, nhưng lại trèo qua lối khác mà vào, tức là không đến với đàn chiên cách chính thức, kẻ ấy là trộm cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử.
Đức Giêsu là cánh cửa cứu độ duy nhất mở ra để người ta đến với Thiên Chúa. Nếu người ta nhờ Đức Giêsu mà biết được Thiên Chúa chân thật và biết mình đang ở trong sự che chở quyền năng của Người là thế nào, người đó sẽ có cảm nhận về sự an toàn và đảm bảo, mọi âu lo sợ hãi đều tan biến.
Đùng lối ẩn dụ để kể câu chuyện này, tâm trí Đức Giêsu hướng đến đoàn chiên khốn khổ là dân của Thiên Chúa, đang bị cai trị bởi những mục tử giả là các nhà lãnh đạo dân, những kẻ giữ trọng trách coi sóc đoàn chiên như người giữ cửa, nhưng đã xử với đàn chiên như những kẻ trộm cướp, là giết hại và phá hủy. Họ không thực hành theo đường lối của Thiên Chúa, cũng không theo lời dạy của Người, chỉ lo cho bản thân, lo kiếm lợi lộc, chạy theo bạo quyền, mà bỏ mặc dân Chúa lầm than.
Khi Đức Giêsu bảo những kẻ đến trước đều là quân trộm cướp, Người không có ý nói đến các ngôn sứ và những người được Chúa sai đến, nhưng Người muốn ám chỉ đến những kẻ tiếm đoạt quyền hành tối cao của Thiên Chúa, dùng những mưu đồ chính trị bất lương để tranh giành địa vị, dùng bạo lực để thống trị và áp bức, gây ra những khổ đau, bất công cho dân Chúa, như đang xảy ra tại Paléttin.
Tuyên bố mình là cửa, Đức Giêsu cho thấy Người đang thực hiện đúng chức năng bảo vệ đoàn chiên. Không những thế, Người còn phân biệt và giúp mọi người nhận chân được ai là mục tử tốt, kẻ nào là trộm cướp: Ai qua cửa mà vào. Ai được Thiên Chúa sai đến. Ai nắm giáo huấn của Người. Ai có tương quan tốt đẹp với chiên người ấy là mục tử đích thật.
Đức Giêsu còn là cửa sinh tử, cửa dẫn đến ơn cứu độ, đến đồng cỏ sự sống, sự sống viên mãn. Không loại trừ ai khỏi ơn cứu độ, ai tin vào Đức Giêsu, nghĩa là ai qua Cửa thì được cứu, vì Người đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.
Hôm nay chúng ta đang đi theo Ai? phục vụ Ai và vào Cửa nào? Làm sao nhận ra tiếng mục tử mà theo?
Hôm nay, những mục tử được Chúa giao phó đoàn chiên có nhận ra chiên của mình mà chăn dắt, hay chỉ chăn dắt chiên của người khác? Có biết tên của từng con chiên để gọi hay chỉ biết đến cách làm cho “danh mình được cả sáng?” Có che chở và bảo vệ chiên của Chúa giữa những nanh vuốt của thú dữ hay bỏ chiên để lo cho mạng sống và địa vị mình?
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR