2020
Đường về Emmau : Xin đừng vô cảm
ĐƯỜNG VỀ EM MAU : XIN ĐỪNG VÔ CẢM
Người xưa có câu: “Lời chào cao hơn mâm cỗ” ngụ ý đặt lễ nghĩa lên hàng đầu, đặt giá trị tinh thần lên trên giá trị vật chất. Dù trước mặt có mâm cao cỗ đầy nhưng không chào hỏi, mời mọc thì chẳng ai quan tâm động đũa. Lời chào thể hiện sự tôn trọng, thân thiện nên khi gặp nhau, chào trước rồi mới các việc khác tiếp sau. Lời chào được nói ra phải xuất phát từ trái tim sự chân thành, niềm nở cho ta thấy sự kính trọng dành cho người trên.
Tưởng nghĩ chắc có lẽ không chỉ người Việt Nam nhưng đã là người thì bất cứ dân tộc nào cũng coi trọng lời mời, coi trọng lời chào hơn là bữa ăn. Với tâm tình này, ta được mời gọi nhình lại con đường Emmau.
Có lẽ không cần phải dài lời, ta thấy các môn đệ buộc lòng không còn cách nào khác là phải về quê “đuổi vịt cho vợ” vì người mà mình thần tượng, người mà mình theo đuổi bị treo trên cây thập giá. Cái chết đã làm tiêu tan niềm hy vọng của bất cứ những ai đi theo con người mang tên Giêsu. Điều này cũng chả có gì là khó hiểu và cũng chả có gì để phân tích hay bàn tán cũng như suy nghĩ.
Câu chuyện đường về Emmau phải chăng quá quen thuộc với mỗi người Kitô hữu nhất là sau biến cố Chúa Giêsu chết và phục sinh. Trên con đường về quê đó, tâm trạng của hai môn đệ dường như bế tắt và tuyệt vọng. Đang thất tha thất thểu thì bỗng dưng gặp một vị khách bộ hành. Và, ta thử hỏi nếu như đường ai nấy đi thì sẽ là gì kế tiếp. Chắc có lẽ Chúa Giêsu sẽ đồng hành với người khác trên đoạn đường khác. Ở đây, hành trình Emmau ta lại thấy lóe lên tình cảm giữa người với người và 2 môn đệ. Chính khi 2 môn đệ mời khách bộ hành vào quán trọ cũng là lúc mà họ gặp chính Chúa Giêsu.
Chuyện về Emmau hơn bao giờ hết thấm thía và đúng mọi thời đại và nhất là thời đại ngày hôm nay của nhân loại, của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Cuộc đời hay nói đúng hơn là chuyến hành hương về Giêrusalem của mỗi người chúng ta xem chừng ta không đơn giản. Có những lúc chúng ta đi trong đêm đen của đời sống đức tin, đi trong những đoạn đường chán ngán và vô vọng. Điều hết sức dễ thương đó là Vị Khách Bộ Hành Emmau xưa vẫn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời. Thế nhưng đáng tiếc thay lòng ta vẫn cứ chộn rộn lo những cái chuyện gì đó chẳng dính dáng gì đến ơn cứu độ của ta.
Để ý một tí, ta thấy các môn đệ buồn bã và nói với Khách Bộ Hành : “Ủa ! Ông kỳ ghê nha ! Ông không biết chuyện gì về cái ông mang tên Giêsu à ?”. Tâm trạng đó nói lên sự tiếc nuối, sự đau đớn khi mất điểm tựa. Và, chính lúc nói lên tâm tình của mình, vị Khách Bộ Hành mới kể chuyện Kinh Thánh cho 2 ông nghe.
Đời sống đức tin của mỗi Kitô hữu chúng ta đã hơn một lần hay nói đúng hơn là quá nhiều lần chênh vênh. Và, ta thấy càng chênh vênh hơn nữa khi ta không bám víu vào vị Khách Bộ Hành trên đường đi của ta. Cũng không khó hiểu khi đời ta chênh vênh. Thay vì ta mời khách bộ hành mang tên Giêsu vào nhà thì ta mời tiền bạc, địa vị và danh vọng. Những vị khách đó xem chừng chỉ làm cho ta thỏa mãn cái ước muốn tạm bợ để rồng lòng ta vẫn trống vắng và có khi mất niềm tin vào Chúa.
Thực tế nhất là trong cơn đại dịch mà cả thế giới đang gánh chịu, chuyện quan trọng nhất của người Kitô hữu vẫn là niềm tin vào Chúa. Để sống niềm tin, để có niềm tin chắc có lẽ không có cách nào khác là mình mời Chúa vào trong gia đình của mình.
Có những người vui vẻ thốt lên : “Không có Lễ buồn quá ! Không có Lễ chán quá !”.
Xem chừng đó là cảm thức của tự nhiên của một tín hữu quen đi Nhà thờ như một thói quen đạo đức. Thế nhưng, không nên dừng lại ở thói quen đạo đức mà phải đi xa hơn nữa đó là mình hãy bày tỏ niềm tin của mình vào Chúa giữa những lúc thử thách như thế này.
Chúa ở đâu ? Chúa ở trong lúc mình rước Lễ thiêng liêng, khi mình đọc và suy niệm lời Chúa và nhất là khi mình “nuốt” lời Chúa vào trong đời mình.
Có vài giáo phận thông báo có lễ như bình thường thì cũng nhao nhao lên so sánh. Để làm gì ? Mỗi giáo phận thì Đấng Bản Quyền có quyền ra quyết định cho giáo phận của mình. Và rồi ta vẫn thấy có những ràng buộc kèm theo đó tuân theo quy định của nhà chức trách để rồi cứ phải đứng núi này trông núi nọ.
Vấn đề lớn nhất không phải là được đến tham dự Thánh Lễ tập trung hay không mà là ta có mời Chúa đến trong gia đình chúng ta không ? Ta có tin câu nói : “Ở đâu có 2, 3 người tụ họp và cầu nguyện là có Ta ở đó” không ?
Nếu như vậy thì tại sao ta lại không dành quỹ thời gian nào đó chừng 15 phút đồng hồ để cả gia đình ngồi lại với nhau trước Bàn Thờ Chúa trong gia đình để cùng nhau đọc Lời Chúa, chia sẻ Lời Chúa, tìm hiểu Lời Chúa và nhất là để sống Lời Chúa.
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường cho con đi và Lời Chúa chính là lương thực cho Kitô hữu. Ta không quên chi tiết là Chúa Giêsu đã kể lại cho 2 môn đệ về những gì xảy ra trong Thánh Kinh để đến lúc bẻ bánh thì lòng các ông bừng cháy sao ?
Và như vậy, mỗi gia đình đều có Lời Chúa nhưng ta có mời Chúa vào trong tâm hồn của chúng ta hay không ? Chúng ta dường như vô cảm với Chúa dẫu rằng miệng vẫn càm ràm “không có Thánh lễ tập trung buồn quá !”
Chúa đã, đang và vẫn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống nhưng rồi ta vẫn vô cảm với Chúa đó thôi. Nếu như ta chân tình với Chúa và mời Chúa vào trong tâm hồn qua việc đón nhận Lời Chúa thì lòng ta sẽ bình an và bừng cháy như 2 môn đệ Emmau.
Xin cho mỗi người chúng ta như 2 môn đệ Emmau xưa là biết mời Chúa vào trong gia đình mình, trong tâm hồn mình. Khi và chỉ khi ta có Chúa thật trong gia đình, trong tâm hồn thì ta mới được bình an. Mỗi người chúng ta có cách lựa chọn cũng như cách đáp trả niềm tin vào Chúa giữa lúc khó khăn của đại dịch này.
2020
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta
Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta
Thiên Chúa và con người hoàn toàn khác nhau. Đơn giản nhất ta biết được đó là Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng và con người là vật được tạo thành. Và rồi ta thấy Lời của Thiên Chúa chắc chắn khác lời của con người. Để chứng minh cho Lời khác nhau này, ta dễ tìm thấy nơi Is 55,9 : Như trời cao hơn đất thế nào, thì đường lối Ta vượt trên đường lối các ngươi, và tư tưởng Ta cũng vượt trên tư tưởng các ngươi thế ấy.
Đã từ lâu lắm rồi, từ tạo thiên lập địa, sau khi con người đánh mất tình nghĩa với Thiên Chúa thì Thiên Chúa vẫn giữ giao ước tình yêu với con người. Giao Ước Tình Yêu của Thiên Chúa được thực hiện nơi chính người Con chí ái của Cha.
Thiên Chúa đã nói với cha ông tự ngàn xưa về tình yêu của Ngài dành cho con người. Cụ thể nhất tình yêu ấy được diễn tả : nhưng trong ngày sau hết, Thiên Chúa nói với nhân loại qua Người Con.
Thật vậy, Người Con chính là dấu chỉ, là Lời mà Thiên Chúa trao ban cho con người. Chúa Giêsu đến thế gian cũng chỉ là muốn nói, muốn bày tỏ cho con người rằng Thiên Chúa mãi mãi yêu thế gian và cứu thế gian. Điều quan trọng nhất và cốt lõi nhất đó là con người phải nghe và giữ lời Thiên Chúa.
Và điều này, ta lại thấy, lại khám phá nơi Đức Giêsu cách trọn hảo. Chúa Giêsu khi đến thế gian Ngài cũng làm theo những gì Cha nói chứ Ngài không làm theo ý của Ngài : “Lương thực của Ta là làm theo ý của Cha Ta”.
Vâng lời Thiên Chúa phải chăng đó là điều quan trọng nhất của cuộc đời những người tin vào Thiên Chúa. Ai nói mình tin Chúa mà không nghe lời Chúa phải chăng là người nói dối ? Nghiệt một nỗi là con người dễ chiều theo xu hướng nghe lời của người phàm hơn là nghe lời của Thiên Chúa. Đơn giản và dễ hiểu rằng lời Thiên Chúa thì đắng đót, lời Thiên Chúa sắc bén tựa gươm đao và như dao xuyên thấu lòng người.
Các tông đồ ngày xưa, ta nhìn vào cuộc đời của các ngài, ta thấy hơn một lần các ngài vấp ngã. Tông đồ trưởng Phêrô còn vấp ngã vì Thấy huống hồ chi là những con người nhỏ bé như chúng ta.
Ta thấy sau khi tin vào Thầy phục sinh, các tông đồ mạnh mẽ : “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người phàm”(Cv 5, 32).
Để nói lời này trước các quan chức thời đó không phải là điều đơn giản. Nói như vậy đồng nghĩa với chuyện rơi đầu là chẳng chơi. Thế nhưng vì tin vào Đức Kitô Phục Sinh nên các tông đồ đã mạnh dạn nói và sống.
Thật vật, để mạnh dạn nói lời Chúa trước quan quyền, trước công chúng không phải là chuyện đơn giản. Đơn giản nhất là chuyện làm dấu Thánh Giá của người Kitô hữu làm hàng ngày. Có khi quên nhưng có khi lại ngại và có khi lại sợ. Có người không dám nhận mình là Kitô hữu để rồi không dám làm dấu.
Ngày nay, ta thấy xã hội phát triển và rồi trên các trang mạng xã hội, ta thấy nhiều người nói mà không biết họ nói cái gì. Nhiều lần nhiều lúc ta thấy các phát ngôn viên, xướng ngôn viên nói những điều chả đâu ra đâu nhưng người ta lại hùa theo. Người ta thường thích cũng như tò mò những lời của người này người kia nói và hơn nữa là đi chia sẻ, phân phát cho nhiều người.
Mỗi ngày trên các trang mạng, những lời nói chả đâu vào đâu thì người ta thích và người ta chia sẻ cho người khác nhanh như chớp. Trong khi đó, điều cần thiết nhất của người Kitô hữu đó chính là Lời Chúa nhưng rồi người ta không chịu đọc, không nghe và cũng không chia.
Xét về chuyện này cũng không khó hiểu lắm vì lời Chúa thì đắng đót chứ không ngọt ngào như lời của con người. Lời của con người ngày hôm nay ta thấy đủ ngôn từ hoa mỹ và có cánh. Những lời này nghe bùi tai và đầy những ước hẹn. Thế nhưng sau những ngôn từ hoa mỹ của con người ta sẽ nhận được gì ?
Lời của Chúa mãi mãi là Lời Hằng Sống, Lời của Chúa mãi mãi là lương thực nuôi sống đời người Kitô hữu. Ai nào đó hấp thụ Lời của Chúa thì đời của người đó được Lời Chúa sinh hoa kết quả và trước hết là dinh dưỡng cho con người đó. Ngược lại, ai nào đó sống theo lời của con người thì cứ quanh quẩn trong kiếp người.
Chuyện quan trọng nhất trong đời sống Kitô hữu đó chính là lắng nghe để sau khi nghe là sống Lời Chúa. Để nghe được Lời Chúa, con người cần phải lắng đọng trong tâm hồn. Giữa cuộc sống ồn ào và náo nhiệt, người Kitô hữu cần phải có cõi lặng để dừng lại và trầm lắng thì mới nghe được Lời Chúa.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta giữa bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời và những ồn ào náo nhiệt luôn biết lắng nghe tiếng Chúa trong mọi khung cảnh của đời sống. Và hơn nữa, ta xin Chúa cho ta biết vâng nghe và sống theo Lời mời gọi của Chúa chứ đừng nghe và sống theo tiếng người đời.
2020
Chạm vào những vết thương
Chạm vào những vết thương – Chúa Nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa
Đức Giêsu đã bị giết chết, các môn đệ co cụm, sợ hãi trước một tương lai tăm tối. Họ không dám đi đâu, làm gì vì “sợ người Do thái.”
Trong sự bế tắc ấy, Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với họ nói: “Bình an cho anh em.” Dù chưa hiểu hết ý nghĩa của sự bình an, nhưng với sự hiện ra của Thầy, còn mang những dấu tích của cuộc khổ nạn trên thân thể, đã làm bùng lên trong lòng họ sự vui mừng, phấn chấn. Nỗi mừng vui trọng đại này được Giáo hội lưu lại trong kinh nguyện Mùa phục sinh, như muốn nhắn gửi cho con cái mọi thời về cái tâm bất biến giữa giòng đời vạn biến: “Các môn đệ vui mừng. Halleluia. Vì được nhìn thấy Chúa. Halleluia.”
Những thương tích trên thân thể Đức Giêsu vẫn còn đó, như dấu chỉ cho một tình yêu cao cả và lòng xót thương vô bờ Người dành cho nhân loại, mà các môn đệ có sứ mạng rao truyền: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Các môn đệ thi hành sứ mạng này, không phải để trừng trị, trả thù những kẻ gian ác, nhưng là để công bố sự tha thứ và hòa giải, làm chứng cho Tin mừng Phục sinh, cho ơn Cứu Chuộc nơi Đức Giêsu chứa chan, cho lòng Thương Xót vô biên Người vẫn dành cho con người, từ đời nọ đến đời kia.
Sứ mạng này, các môn đệ sẽ thực hiện cùng với Đấng Phục Sinh luôn ở cùng, như một thẩm quyền tối hậu để hậu thuẫn cho sứ điệp, như một thế lực để duy trì sức mạnh thừa sai, để soi sáng cho tâm trí và làm bừng lên ngọn lửa nhiệt thành.
Sứ mạng ấy đã tồn tại theo thời gian lịch sử, trải qua những sự thử thách ghê gớm giữa sự sống và cái chết, giữa đức tin và khoa học, giữa mầu nhiệm và những vấn đề thuộc bình diện nhân loại. Đừng vội trách Tôma là kẻ cứng tin, như các tông đồ khác, Tôma cũng chỉ hướng tới thập giá, dù ông can đảm: “Chúng ta hãy tới đó để cùng chết với Ngài.” (Ga 11,16)
Rất yêu mến thầy, nên khi thấy thầy chịu chết, ông đau đớn rút vào trong cô tịch. Vì thế, khi Đấng Phục Sinh hiên ra, Tôma đã vắng mặt. Nhưng Tôma thật lòng, dám nói lên sự nghi ngờ vướng mắc của mình và tuyên bố sẽ chẳng tin nếu không được thấy tận mắt, sờ tận tay vào những vết thương của Chúa.
Tám ngày sau, các môn đệ tập hợp lại, lần này có Tôma. Các cửa đều đóng kín. Sự gặp gỡ với Đấng Phục Sinh lần trước vẫn chưa giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi. Họ cần có sức mạnh Chúa Thánh Thần thì mới dạn dĩ xuất hiện trong tư thế là chứng tá cho Đức Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh.
Đức Giêsu biết rõ tâm hồn Tôma, nên lần hiện ra này, Người sẵn sàng để cho ông kiểm chứng “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin.” Tôma sụp xuống trong sự kinh hoàng, thốt lên lời tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con.”
Không ít lần, trong những thời khắc khủng hoảng tăm tối nhất, người tín hữu vẫn ao ước được Lòng thương xót Chúa chạm đến như tông đồ Tôma. Nhưng những vết thương của Giáo Hội, của các quốc gia, của từng gia đình và của mỗi người gây ra bởi dại dịch Coronavirus chính là những vết thương của Chúa Kitô, và những vết thương ấy phải được nhìn thấy để chạm vào.
Làm sao có thể chạm vào những vết thương của Chúa, khi chúng ta nhắm mắt trước mọi vết thương rách toác của người đồng loại trong trận đại dịch này?
Làm sao có thể hôn kính những vết thương trên Thân Thể Chúa Kitô, đang khi bỏ mặc những vết thương trên thân thể, trong tâm hồn, trong đời sống của những người khốn cùng đang kề bên?
Làm sao có thể tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh chiến thắng sự chết, khi hằng ngày chúng ta vẫn dửng dưng với những cái xấu và ác, mặc nhiên thừa nhận sự gian dối, nạn tham nhũng và không dám nói lên, hoặc đồng tình với những người đang đấu tranh cho sự thật, đang phải trả giá cho công lý?
Làm sứ giả cho lòng thương xót của Chúa là mạnh dạn chỉ ra các vết thương trong xã hội, cho thấy cái cơ cấu của tội lỗi là nguồn gốc của mọi vết thương. Cần lắm một tình yêu liên đới và lòng thương cảm, “xót ai cũng là xót phận mình” mới có thể cùng nhau tìm kiếm những phương thế mới để chữa lành.
Và thuốc chữa lành chính là sống Lòng thương xót Chúa khi bắt tay làm những điều tốt đẹp; khi tìm kiếm chân lý tránh xa sự giả dối; khi biết yêu thương, tìm kiếm sự tha thứ – hòa giải chứ không nuôi dưỡng sự trả thù.
Lạy Chúa Giêsu
Nhân loại hôm nay đang trải qua bao là sự dữ.
Con người hôm nay đang sống trong tuyệt vọng lo âu.
Chúng con đến kêu cầu Chúa giàu lòng xót thương.
Ngài mở ra con đường, đưa đến tận nguồn suối yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu con tin tưởng nơi Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa.
(Lời Bài hát Chúa giàu lòng xót thương của Lm. Giuse Vũ Đức Hiệp)
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR
2020
Bình an của Thầy
BÌNH AN CỦA THẦY !
Trên đời này, có lẽ ai ai cũng sợ ! Đơn giản là vì con người nhỏ bé quá, mong manh quá, dễ chết quá nhất là với sự đe dọa tính mạng của con virus quái ác đang hoành hành trên toàn thế giới.
Ai ai cũng sợ và sợ nhất là giờ chết đến. Kèm theo đó là sợ mất người yêu, mất danh dự, mất quyền lực, mất của cải vật chất. Thế cho nên, con người rất cần sự bình an. Và, bình an mà con người tìm kiếm phải chăng là bình an giả tạo, bình an phù du. Chỉ có bình an của Chúa Giêsu mới là bình an thật, bình an vĩnh viễn trong cuộc đời của Kitô hữu chúng ta.
Cảm nghiệm được sự bình an của Chúa, ta thấy Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khi khởi đầu sứ vụ Giáo Hoàng của Ngài, Ngài nói với nhân loại : “Đừng sợ !”. Không chỉ khởi đầu mà suốt cả triều đại Giáo Hoàng của Ngài, Đức Thánh Cha luôn luôn nói với cộng đoàn tín hữu và cả thế giới “Đừng Sợ”.
Thật thế ! Ai nào đó có Đức Kitô Phục Sinh trong tâm hồn sẽ bảo đảm không sợ. Ngược lại, ai chưa có Đức Kitô Phục Sinh sẽ cứ mãi mãi loay hoay tìm kiếm sự bình an trong trần gian và càng tìm càng kiếm thì lại càng bất an vì tất cả ở đời này cũng chỉ là phù vân.
Khi con người sợ thì con người thích bình an và thèm khát sự bình an.
Ta thấy người Do Thái khi chào nhau hay nói “Shalom”. “Shalom” của người Do Thái cũng chỉ là chúc bình an cho nhau như chúng ta vẫn thường chào nhau theo kiểu của con người. Con người cần hơn nữa và trên mọi sự đó chính là sự bình an đến từ Chúa.
Ta thấy mỗi khi Thánh Lễ bắt đầu và kết thúc, ta được chủ tế chào với lời chào Bình an và chúc Bình an của Chúa : “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” … “Anh chị em hãy trao bình an (của Chúa) cho nhau” … “Lễ xong chúc anh chị em về bình an”
Để ý, ta thấy lần nào cũng như lần nấy, khi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đều chào và chúc các môn đệ : “Bình an cho anh em”. (và hơn một lần Chúa nói Bình an của Thầy không phải như bình an của thế gian). Và, khi có sự bình an của Thầy, ta thấy các môn đệ không còn sợ hãi nữa.
Nếu như trước đây, các môn đệ ru rú đóng kín cửa ở trong nhà vì sợ liên lụy đến con người mang tên Giêsu (không chỉ đóng kín mà còn khóa chặt cửa nữa. Nếu như thời nay thì chắc các môn đệ gắn camera và xem camera luôn luôn để canh chừng có người lạ đến nơi các ông đang trú ngụ nữa) thì khi đón nhận sự bình an các ông thay đổi. Các môn đệ không còn ở trong nhà nữa mà lên đường loan Tin Mừng Phục Sinh.
Điểm rất đặc biệt mà ta phải chú ý nữa đó là khi Chúa hiện ra, Chúa ban bình an thì kèm theo đó là bàn tay với dấu đinh và cạnh sườn với vết đòng đâm thâu. Chúa không hiện ra với một thân xác hoàn mỹ nhưng với con người đau khổ Giêsu trên thập giá. Điều này muốn nói với các môn đệ và cả chúng ta nữa rằng phải qua đau khổ, phải qua cái chết nhục nhã mới đến Phục Sinh và đến vinh quang.
Điều này có nghĩa rằng phải qua đau khổ mới đến vinh quang, qua cái chết mới phục sinh. Và, ta có thể dễ thấy nơi hình ảnh của hạt lúa. Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu không thối đi, không chết đi thì không sinh nhiều bông hạt khác mà chỉ trơ trọi một mình.
Ai nào đó bước theo Đức Kitô trên con đường khổ giá và chết đi cho chính mình thì mới hưởng sự bình an viên mãn.
Con người này nay, ta thấy sung túc, giàu có, quyền lực nhưng vẫn bất an chứ không như ta thấy bên ngoài.
Ta thấy những đại gia, nhà cao cửa rộng cửa kín cao tường và có bảo vệ. Tại sao thế ? Tại vì họ bất an và sợ hãi. Ai nào đó đến vùng nghèo và của anh chị em đồng bào, ta dễ dàng nhận thấy sự bình an của họ. Sự bình an của người nghèo, của dân tộc thiểu số toát ra ngay lối sống của họ. Nhà cửa của họ đôi khi chả có khóa nữa nhưng họ bình an. Họ cũng chả có trang bị vũ khí hay vật gì đó phòng hộ cũng như chẳng có bảo vệ. Nhìn như thế xem thử ai bình an hơn ai.
Xã hội đang xôn xao với chuyện vợ chồng đại gia ở Thái Bình. Nếu như trước đây, xem chừng họ bình an vì họ xây dựng đời họ trong một pháo đài với đầy đủ tiện nghi, quyền lực nhưng đến giờ họ ra sao thì ai ai cũng thấy.
Bình an của thế gian đó là đầy quyền lực, đầy của cải, đầy thế giá, nhà cao cửa rộng … Thế nhưng rồi thực tế tất cả những thứ đó cũng chỉ là phù vân. Ai nào đó chạy theo những thứ đó chắc chắn cũng chẳng bình an, có chăng chỉ là tạm bợ.
Trở lại cuộc đời của ta, ta đã được thanh tẩy, ta đã được nghe lời chứng của các môn đệ nhưng rồi ta có bình an không ? Hay là bình an đó đâu đó đi chơi và không chịu đến nhà của ta.
Còn nhớ lời của một số vị thánh tử đạo khi ra pháp trường. Khi đối diện với cái chết, các Ngài đơn giản : Quan cứ giết tôi càng sớm càng tốt. Giết sớm để tôi mau về với Chúa của tôi hơn.
Tại sao các Ngài can đảm nói như vậy ? Các Ngài nói như vậy vì lẽ các Ngài đã mở lòng đón nhận Đức Kitô Phục Sinh vào trong cuộc đời để rồi thấy vinh quang của thế gian và của cả cái chết chẳng là gì cả.
Ta cũng thế, khi và chỉ khi ta mở lòng ra thật sự để Đức Kitô Phục Sinh vào ngự trong lòng thì ta mới bình an.
Trong cuộc sống thực tại, ta thấy có những người đi đến đâu là ở đó bất an. Đơn giản là vì họ không có sự bình an của Chúa để rồi đi đâu cũng gây oán thù, đi đến đâu cũng gây chia rẽ và bất hòa cho người khác.
Nhìn lại một chút về cuộc đời của Thánh Phanxicô Átxidi. Khi Thánh nhân khám phá và nhìn ra cây cỏ, muông thú và cả cái chết là bạn thì Ngài bình an. Ngài gọi sự chết là “chị chết” trong khi ai ai cũng sợ cái chết.
Chính vì khát khao sự bình an, tìm kiếm sự bình an và nhất là mang sự bình an đến cho mọi người nên Ngài để lại tâm tư để đời : Lạy Chúa xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, để con … xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa”.
Ngày hôm nay, ta cũng thầm thì với Chúa, xin Chúa cho mỗi người chúng ta trở nên như khí cụ bình an của Chúa để mang bình an của Chúa cho người khác. Muốn có sự bình an của Chúa, ta hãy xin Chúa cho ta mở lòng mình ra, mở cửa tâm hồn của mình ra để đón nhận Đức Kitô Phục Sinh vào trong đời mình.