2020
Gia đình theo các sách Khôn Ngoan
Giữa yêu thương, giáo dục và chia sẻ các bổn phận
Nếu các văn bản Ngũ Thư và các ngôn sứ dường như không có những mẫu gương đáng tin cậy hoặc đáng quan tâm về việc xây dựng một gia đình thì phần thứ ba của Cựu Ước lại khác, đây là phần bao gồm các bản văn khôn ngoan. Dù được viết cách đây hơn 2000 năm, những bản văn đáng trân trọng này gồm có những giáo huấn và nguyên tắc vẫn còn thích đáng cho các gia đình ngày nay hay ít ra cũng cho phép gợi lên một vài suy tư về vấn đề này.
Những mẫu gương để noi theo?
Khi phân tích sâu những bản văn này và sử dụng những công cụ khác nhau của các khoa học xã hội nhân văn, ta có thể tái tạo những những gì là khuôn khổ một gia đình vào thời đại ấy. Ta cũng phải lưu ý rằng những mối bận tâm của các gia đình thời tiền hiện đại, ở vùng Cận Đông, theo tục đa thê và phụ quyền cách đây hơn 2000 năm thì rất khác với gia đình thời hậu hiện đại, ở phương tây, một vợ một chồng và bình đẳng của ngày nay. Như thế, dường như các gia đình trong Cựu Ước không phải là những hình mẫu phù hợp của các gia đình ngày xưa cũng chẳng phải là những gương gia đình cho thời nay. Chẳng hạn, ngày nay chúng ta nhìn với cặp mắt xấu về một người đàn bà lấy cả anh em chồng để bảo đảm giống nòi cho người chồng đã khuất của mình (Stk 38), như bà Tamar chẳng hạn, hoặc một người đàn ông cao giọng tuyên bố rằng mình sẽ lấy làm vợ một cô điếm thường xuyên phản bội mình và sẽ đặt tên cho con là “không-được-thương” và “không-phải-dân-Ta” (Hs 1, 6-9), như ngôn sứ Hôsê chẳng hạn!
Tuy nhiên, dù các gia đình trong những trình thuật Cựu Ước khó lòng là những gia đình mẫu lý tưởng, chúng cũng tra vấn các độc giả thời hiện đại. Một người cha yêu thương con cái sẽ nhận ra mình trong sự suy sụp của Abraham khi Thiên Chúa đòi ông phải sát tế người con duy nhất của mình (Stk 22,1-19); một người vợ gắn bó với gia đình chồng có thể thấy mình trong tình yêu của bà Rút, người từ chối rời bỏ bà mẹ chồng là Naomi (R 1,16-18); và các anh chị em đang xung đột lẫn nhau vẫn không thiếu những hình mẫu mà họ có thể tự đồng hóa với mình, như Cain và Aben (Stk 4), Giacóp và Êsau (Stk 25-36) hay Giuse và các anh em mình (Stk 37-50). Mọi gia đình hiện đại đều có thể nhận ra mình trong các trình thuật Cựu Ước. Qua những trình thuật này, các gia đình này có thể hiểu rằng Thiên Chúa hiện diện trong câu chuyện “bất toàn” của mình như Ngài đã từng hiện diện trong gia đình của những nhân vật Kinh Thánh.
Các sách Khôn Ngoan và gia đình
Nếu các gia đình trong Ngũ Thư chủ yếu là những cấu trúc văn chương và các gia đình của các sách ngôn sứ là những ẩn dụ để nói về mối liên hệ gắn kết Thiên Chúa với dân Ngài thì các gia đình trong phần thứ ba gồm các trình thuật khôn ngoan của Cựu Ước là gì? Văn chương khôn ngoan của Kinh Thánh đóng góp một phần lớn dòng chảy văn chương khôn ngoan rất phổ thông ở vùng Cận Đông thời cổ. Các nhà hiền triết là nguồn gốc của tất cả các văn bản này, họ đã quan sát kỹ mọi khía cạnh của đời sống nhân sinh. Đầy kinh nghiệm, họ đã rút ra những kết luận về cách hành xử tốt để cư xử và thành công trong cuộc sống mình. Với mong muốn chuyển tải kiến thức này cho thính giả cũng như cho các thế hệ tương lai, họ đưa ra hàng loạt những lời khuyên nhủ, những bài học và những khuyến cáo thường là gián tiếp về chủ đề gia đình. Dù được viết cách đây hơn 2000 năm và vài giáo huấn ngày nay đã trở nên lỗi thời nhưng còn những điều khác vẫn phù hợp cho các gia đình ngày nay.
Gia đình, nơi chốn yêu thương và hãnh diện
Yếu tố đầu tiên ta có thể lưu ý đến trong các trình thuật khôn ngoan là ngữ vựng thể hiện yêu thương gắn bó với gia đình. Sách Giảng Viên khuyên nhủ: “Cùng với người vợ yêu thương, bạn hãy hưởng trọn cuộc đời, hết mọi ngày trong kiếp sống phù du đã được ban cho bạn dưới ánh mặt trời” (Gv 9,9a). Tác giả phần thứ nhất của sách Châm Ngôn nhớ lại: “Thuở xưa, khi thầy còn nhỏ dại trước mặt phụ thân và được mẫu thân yêu dấu như con một” (Cn 4,3). Như vậy, gia đình là nơi chốn ưu tiên dành để yêu thương và cho những mối liên hệ trìu mến dịu dàng. Nó cấu thành cốt lõi thâm sâu của đời sống và kinh nghiệm của mọi người. Nó cũng là cái khuôn đầu tiên mà sự giáo dục của mỗi cá nhân được hình thành trước khi mở ra những chân trời của mình và phiêu lưu vào trong phạm vi xã hội và cộng đồng. Theo nghĩa này, một sự giáo dục thành công và cách hành xử gương mẫu trên bình diện xã hội sẽ trở thành sự hãnh diện và niềm vui vô song cho các bậc cha mẹ: “Thân phụ người công chính sẽ mừng vui, đấng sinh thành người khôn sẽ hoan hỷ” (Cn 23, 24; xem thêm Cn 10,1; 15,20; 27,11; 29,3). Theo Ben Sirac, giáo dục thành công một đứa trẻ và làm cho nó trở nên một người trưởng thành đầy khôn ngoan, điều đó sẽ làm giảm thiểu tác động của cái chết: “Người cha có chết thì cũng như chưa chết, vì đã để lại đứa con giống như mình” (Hc 30,4). Ngược lại, không có sự phiền não nào lớn hơn đối với cha mẹ có đứa con dại dột: “Sinh ra đứa ngu là chuốc lấy phiền muộn, làm cha kẻ dại nào vui sướng gì đâu” (Cn 17,21; xem thêm Cn 17,25; 19,13; 28,7). Thất bại khi giáo dục con cái là nỗi tủi nhục cho cha mẹ và là ám ảnh tuổi về già: “Cha bất nhân bị con trách móc, vì con mà chịu nhục là lỗi tại cha” (Hc 41,7).
Kỷ luật và sửa dạy của bậc cha mẹ
Vì đóng vai trò rất quan trọng trong não trạng của các tác giả sách khôn ngoan của Cựu Ước, giáo dục thích đáng con cái phải đạt được bằng mọi giá và các bậc cha mẹ phải hành động để đạt được điều ấy. Vì thế, kỷ luật mà cha mẹ đặt để được nhìn rất tích cực và xây dựng và phải được con cái tuân phục để có thể thành công trong cuộc sống. Sách Châm Ngôn nhắc lại hiệu quả này: “Con khôn giữ lời cha nghiêm huấn, kẻ nhạo báng chẳng nghe lời sửa dạy” (Pr 13, 1).
Tầm quan trọng của một lối giáo dục thành công đôi khi sử dụng những biện pháp mạnh. Nhưng rất quan trọng khi lưu ý rằng sự sửa dạy được thực hiện trong bối cảnh yêu thương, ngay cả khi điều này dường như mâu thuẫn và khó hiểu ngày nay. Ben Sirac quả quyết: “Thương con thì cho roi cho vọt, sau này sẽ vui sướng vì con” (Hc 30,1). Sách Châm Ngôn thì so sánh người cha sửa dạy đứa con khờ dại như Thiên Chúa sửa dạy dân bất nghĩa bất trung của mình: “Vì Đức Chúa khiển trách kẻ Người thương, như người cha xử với con yêu quý” (Cn 3,12). Tác giả sách Khôn Ngoan giải thích rằng kỷ luật đối với dân rất khác với cơn giận mà Thiên Chúa dành cho kẻ dữ: “Quả vậy, khi dân chịu thử thách, – dầu việc Chúa sửa dạy chỉ là bởi tình thương – họ mới thấy rõ, quân vô đạo đã khốn khổ dường nào khi bị phán xét theo cơn thịnh nộ. Bởi vì dân thánh Ngài, Ngài chỉ thử thách họ như người cha cảnh cáo. Còn lũ ác nhân thì Ngài hạch hỏi như ông vua nghiêm khắc kết án tội nhân” (Kn 11,9-10). Mối tương liên giữa hai lối sửa dạy này là cả hai được đặt trong bối cảnh tình yêu và có mục đích đưa về đường ngay nẻo chính chứ không phải hành khổ.
Vai trò của người mẹ
Dù cho các trình thuật khôn ngoan được soạn thảo trong bối cảnh một xã hội gia trưởng phụ quyền cổ xưa, vai trò và vị trí của người mẹ được đánh giá cao. Thật ra, ngày nay, một vài lời nói của Ben Sirac về chủ đề phụ nữ đã hoàn toàn lỗi thời (chẳng hạn xem Hc 25,13-26,18; 42,9-14), nhưng tất cả những gì được đề cập ở trên về người cha thì cũng có thể được áp dụng cho người mẹ. Con cái phải làm vinh dự và tôn kính mẹ cùng mức độ như người cha (Cn 19,26; 20,20; 28,24; 30,11.17; Hc 3,1-16; 7,27; 23,14; 41,17); như người cha, bà cũng vui mừng vì hành động của một người con khôn ngoan (Cn 23,25; Hc 3,2) và buồn sầu vì một hậu duệ ngu xuẩn (Cn 10,1; 15,20; 17,25); và giáo huấn của mẹ phải được tôn trọng và để tâm đến như giáo huấn của cha (Cn 6,20-21; 23,22). Nếu trách nhiệm sửa dạy thuộc về người cha thì sự khôn ngoan về bản chất gắn bó với người phụ nữ, vì từ Hípri được dùng để chỉ sự khôn ngoan trong Cựu Ước, hokmah, là một từ giống cái. Hơn nữa, khi Ben Sirac và những tác giả khác của các sách khôn ngoan muốn nhân cách hóa sự khôn ngoan thì họ làm điều đó dưới dấu vết của một người phụ nữ chín chắn và đáng kính (Cn 1,20-33; 8,1-9,6; Hc 1,4-10; 4,11-19; 24; G 28; Kn 6-9).
Ba yếu tố còn vẫn thích đáng cho ngày nay
Từ những bản văn khôn ngoan cổ xưa này, chúng ta có thể giữ lại ba yếu tố vẫn còn thích đáng cho các gia đình ngày nay. Trước hết, gia đình là nơi chốn ưu tiên của yêu thương và giáo dục. Chính trong khuôn khổ thân tình và yêu mến này mà các giá trị cơ bản được lưu truyền để cho phép một con người thành công, ở mức độ cá nhân cũng như xã hội. Kế đến, tầm quan trọng của kỷ luật bảo đảm cho sự thành công của lối giáo dục này. Sự nghiêm khắc trong việc đào tạo con cái không dựa trên quan điểm của ông bác sĩ này hay nhà tâm lý đang thời thượng kia, mà là khoa sư phạm của Thiên Chúa. Sự cứng rắn chủ yếu không dựa trên cơn giận và cố chấp, nhưng trên tình yêu và ước muốn sâu xa có trong con người sửa dạy là bảo đảm cho mỗi cá nhân sống trong niềm vui của một cuộc sống hoàn hảo (xem Êd chương 18 và đặc biệt đoạn cuối là các câu 30-32). Cuối cùng, dù cho các văn bản này được soạn thảo cách đây hơn 2000 năm trong một ngữ cảnh văn hóa rất khác biệt với chúng ta, song hãy giữ lại điều mà chúng khẳng định về vai trò chính yếu của người mẹ trong việc giáo dục con cái và mở ra sự chia sẻ đồng đều và xây dựng trong những trách nhiệm của bậc cha mẹ.
Francis Daoust
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ
2020
Lãnh đạo như Giêsu 2
Tôi có mong muốn noi theo gương mẫu lãnh đạo của Chúa Giê-su?
Bạn có thể nói rằng, “Trước khi tôi nhìn nhận Chúa Giê-su là mẫu gương lãnh đạo của tôi thì tôi cần hiểu lãnh đạo như Giê-su nghĩa là như thế nào.” Bản chất và khái niệm cốt lõi của lãnh đạo như Giê-su được tóm lược trong mệnh lệnh “giữa anh em thì không được như vậy” mà Chúa Giê-su truyền cho các môn đệ trong việc lãnh nhận và thực thi vai trò lãnh đạo. Hãy đọc Mt 20:25-28
“Nhưng Ðức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”.
Đối với những môn đệ của Chúa, lãnh đạo phục vụ không phải là một lựa chọn, mà là một mệnh lệnh. Lãnh đạo phục vụ trở nên một tuyên bố sống động về việc chúng ta là ai trong Chúa Kitô, chúng ta đối xử với nhau như thế nào và chúng ta bày tỏ tình yêu của Chúa Giêsu cho thế giới ra sao.
Phần thú vị trong việc học hỏi lãnh đạo như Giê-su là Ngài sẽ không dẫn đưa chúng ta vào bất cứ hoàn cảnh nào một cách đơn độc, với một hoạch định để chúng ta thất bại. Gêrêmia 29: 11-14 cho ta thấy điều này:
“Vì chính Ta biết các kế hoạch Ta định làm cho các ngươi – sấm ngôn của Ðức Chúa -, kế hoạch thịnh vượng, chứ không phải tai ương, để các ngươi có một tương lai và một niềm hy vọng. Bấy giờ các ngươi kêu cầu Ta, các ngươi đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nhận lời các ngươi. Các ngươi sẽ tìm Ta và các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi sẽ hết lòng kiếm Ta, Ta sẽ cho các ngươi được gặp – sấm ngôn của Ðức Chúa. Ta sẽ đổi vận mạng của các ngươi và sẽ thu họp các ngươi về từ khắp các dân, từ mọi nơi Ta đã xua các ngươi đến – sấm ngôn của Ðức Chúa -, Ta sẽ dẫn các ngươi trở về nơi Ta đã bắt các ngươi phải rời xa để đi đày.”
Như trong mọi việc, khi Chúa Giê-su nói với chúng ta về lãnh đạo thì Ngài nói về điều gì đúng đắn và hiệu quả. Chúng ta có thể xác tín rằng Lời của Ngài là minh chứng về tình yêu vô điều kiện và sự hy sinh của Ngài cho sự sống đời đời của chúng ta. Là những người theo Chúa Giêsu, chúng ta phải tin vào Ngài trong mọi hoàn cảnh, và chúng ta có thể mạnh dạn cầu xin Ngài ban ơn khôn ngoan trong mọi sự, cả trong vai trò lãnh đạo của chúng ta.
Có khi nào bạn tự hỏi: “Chúa Giê-su có phải là một mẫu gương lãnh đạo phù hợp trong thế giới ngày nay không?”
Một rào cản thường gặp nhất trong việc noi theo mẫu gương lãnh đạo của Chúa Giêsu là sự nghi ngờ tính phù hợp của những điều mà Chúa Giêsu dạy trong những tình huống lãnh đạo cụ thể của bạn. Dù với tâm thế thế nào đi nữa thì chúng ta cũng gặp phải cùng một sự hoài nghi như Phê-rô khi Chúa Giêsu yêu cầu Phêrô làm một việc khá bất thường và không đúng chút nào trong nghề đánh cá của ông. Hãy đọc Lc 5:1-11 bạn sẽ được giải đáp.
Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông.
Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Bạn nghĩ Phê-rô đang nghĩ gì khi trả lời, “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả?” Nghe có vẻ như có thể ông ấy suy nghĩ đại lọai là: “Tôi đang lắng nghe Chúa Giêsu giảng cho đám đông một cách uy quyền và khôn ngoan. Tôi tôn trọng Ngài là người thầy và lời giảng của Ngài là Lời Chúa. Nhưng giờ đây Ngài yêu cầu tôi làm một việc trái ngược với kiến thức và bản năng của tôi trong công việc của mình. Ngài không biết đánh bắt cá. Tôi biết rõ về cá và việc đánh bắt cá, đó là công việc của tôi và điều Ngài yêu cầu không thực tế chút nào. Nếu tôi làm theo lời Ngài nói, có lẽ tôi sẽ phí thời gian và công sức và các thợ chài của tôi sẽ cho tôi là tên khùng điên.”
Tuy nhiên, sự nghi ngờ của Phê-rô không ngăn cản sự tin tưởng của ông vào người hướng dẫn ông. Nhờ lòng tin, ông đã chứng kiến một thành quả phi thường và ông chìm đắm trong nhận thức về sự khác biệt quá lớn lao giữa chính con người ông và những gì Chúa Giêsu nói.
Hãy dành ít phút để nhìn lại sứ mạng nơi trần thế của Chúa Giêsu. Bạn có đón nhận Chúa Giêsu như một người tư vấn cho vai trò lãnh đạo trong cuộc sống và nơi công sở của bạn không? Hãy nhìn lại những thách đố trong vai trò lãnh đạo dưới đây mà bạn có thể đang đối diện và tự hỏi, “Chúa Giêsu có bất cứ hiểu biết thực tiễn hoặc kinh nghiệm phù hợp nào trong việc giải quyết những vấn đề về lãnh đạo mà tôi gặp phải hàng ngày không?”
- Làm việc hoặc sống với và chăm lo cho người không hoàn hảo
- Huấn luyện, phát triển và ủy nhiệm
- Chịu áp lực liên tục từ đối thủ cạnh tranh
- Liên tục chịu thử thách về sự cam kết và tính chính trực
- Xử lý những đối đầu, chỉ trích và loại trừ
- Đối diện những yêu cầu đối nghịch từ bạn và thù
- Bị cám dỗ về sự thỏa mãn, được công nhận và sử dùng quyền cách sai trái
- Đối diện với hàng loạt những vấn đề cá nhân
- Giao tiếp hiệu quả trong môi trường đa văn hóa
- Thách thức những điều cũ và hệ thống cấp bậc để đổi mới
- Nỗ lực truyền đạt về viễn cảnh mới một cách thấu đáo
- Để ý đến những vai trò lãnh đạo yếu kém, thậm chí cho dù có rủi ro cho cá nhân
- Đặt sự nghiệp hoặc tương quan vào tâm thế để phục vụ một mục đích cao cả hơn
Hầu hết trong mọi tình huống câu trả lời của bạn đều là “Có”. Tại sao vậy? Bởi vì tất nhiên Chúa Giêsu đã đối diện với mọi tình huống bạn gặp phải. Thư gởi tín hữu Do Thái có nói về Chúa Giêsu thế này:
Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách… Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần. (Dt 2:18, 4:15-16)
Ngoài hình ảnh nhà lãnh đạo, với những trải nghiệm cá nhân qua nhiều năm tháng, Chúa Giê-su cũng thấu hiểu những thách đố trong đời sống và công việc hàng ngày. Dù là Thiên Chúa, Chúa Giê-su không quản ngại làm công việc của một con người. Ngài đã sống ba mươi năm đầu tiên trên thế gian như một người lao động – thợ mộc thành Nazareth. Chúng ta sẽ khó mà nhận ra hết được sự tuyệt vời của việc Chúa Giê-su hiểu công việc trong một ngày và biết những khó khăn trong việc đáp ứng các nhu cầu. Ngài biết sự nản lòng khi gặp phải một khách hàng khó chịu và một khách hàng không thực hiện trách nhiệm thanh toán của mình. Ngài biết sự khó khăn trong việc sống trong một gia đình bình thường và trong một gia đình gia thế, và Ngài biết các vấn đề vay quanh chúng ta trong cuộc sống hàng ngày nơi dương thế.
Suy ngẫm:
Nếu bạn có nghi ngờ về việc noi gương lãnh đạo của Chúa Giêsu, hãy viết ra giấy những lý do vì sao bạn nghi ngờ. Điều gì về Chúa Giê-su làm bạn phải nghi ngờ? Điều gì từ phía bạn khiến cho bạn chần chừ?
2020
Chọn thánh ca phụng vụ sao cho đúng hướng dẫn của Giáo Hội?
Việc chọn được một bài thánh ca hay, phù hợp với phụng vụ là vấn đề không dễ giải quyết đối với nhiều ca trưởng. Giải quyết vấn đề này cũng là tìm ra những tiêu chí cần thiết cho việc phê bình những sáng tác được gọi là thánh ca.
Huấn thị về âm nhạc trong Phụng vụ thánh (Instructiode Musicain Sacra Liturgia) do Thánh Bộ Lễ nghi ban hành ngày 5-3-1967 đã định nghĩa thánh nhạc là “loại âm nhạc được sáng tác để thờ phượng Thiên Chúa, nên phải biểu lộ tính thánh thiện và diễn tả được hình thức nghệ thuật tốt đẹp”.
Như vậy chúng ta có hai tiêu chuẩn rõ ràng để lựa chọn bài thánh ca dùng trong phụng vụ là: Tính thánh thiện (sanctitas) hay tiêu chuẩn tôn giáo và hình thức tốt đẹp (bonitas formae) hay tiêu chuẩn nghệ thuật.
Ca từ của bài thánh ca dùng trong phụng vụ
Ca từ được coi như một nửa giá trị của ca khúc. Ca từ của một bài thánh ca phụng vụ trước hết phải bám sát bản văn phụng vụ (Kinh Thánh, Thánh vịnh, Thánh thi,…), ăn khớp với các động tác trong phụng vụ thánh lễ và phù hợp với Giáo lý Công giáo. Có thể xem ca từ như anh chị em với thơ.
Vì vậy, ngoài việc xứng hợp để dùng trong phụng vụ (tính thánh thiện), ca từ còn phải tuân theo những quy tắc của nghệ thuật thi ca (hình thức tốt đẹp), tránh những khuyết điểm căn bản như: Sai ngữ pháp; dùng từ không chuẩn, không có trong văn chương Việt Nam hoặc triết lý vụn vặt, luẩn quẩn; ngắt câu, ngắt chữ không đúng, làm sai lạc ý nghĩa; thô thiển, không có tính văn chương; có dấu giọng không phù hợp với giai điệu nhạc.
Nếu lấy hai tiêu chuẩn phù hợp với phụng vụ và mang tính thi ca để đánh giá ca từ của một bài thánh ca, chúng ta đã góp phần biểu lộ tính thánh thiện và diễn tả hình thức nghệ thuật tốt đẹp của thánh ca (đúng nghĩa) trong buổi cử hành phụng vụ.
Ngôn ngữ âm nhạc của bài thánh ca phụng vụ
Trong các yếu tố tạo thành âm nhạc, giai điệu đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Về tính thánh thiện của âm nhạc dùng trong phụng vụ, Thánh Giáo hoàng Pi-ô X đã viết trong tự sắc (motu proprio):
“… Một sáng tác càng thánh thiện và càng mang tính phụng vụ, khi càng gần với bình ca về nhịp điệu, cảm hứng và phong cách…” .
Nhịp điệu, theo cách dùng từ của bản văn trên được hiểu là chuyển động của giai điệu. Chuyển động của giai điệu bình ca thường là loại chuyển động liền bậc (quãng 2 hoặc quãng 3 tùy loại thang âm) và chỉ sử dụng ba loại bán cung: Mi – Fa, Si – Do và La – Sib.
Như vậy:
– Một giai điệu càng chuyển động liền bậc, càng giống bình ca và do đó càng có tính thánh thiện.
– Những giai điệu mang nhiều bán cung nhân tạo (chromatic) thường biểu lộ tâm trạng ủy mị, kịch tính hơn là tính thánh thiện.
– Những giai điệu dùng quá nhiều chuyển động cách bậc (nhảy quãng xa) thường mang lại cảm giác phóng túng, phù hợp với ca nhạc sân khấu, opera hơn là tính thánh thiện của thánh ca phụng vụ.
Tuy nhiên, trong bình ca cũng có dùng giới hạn những quãng xa như: quãng 4 đúng, quãng 5 đúng; không chuyển động với quãng 4 tăng (được gọi là “con quỷ trong âm nhạc”, diabolus in musica); không chuyển động với quãng 5 giảm; rất hiếm khi chuyển động với quãng 6 (vì mang tính trữ tình, lãng mạn).
Xét về tiêu chuẩn hình thức tốt đẹp, một giai điệu liền bậc thường chứa đựng một nội dung hòa âm phong phú. Một giai điệu đẹp bao giờ cũng được xây dựng trên một khung (hay cấu trúc) hòa âm được chuẩn bị kỹ lưỡng.
Đã đành một giai điệu mang tôn giáo tính cần phải được viết trên một nền hòa âm xứng hợp nhưng không phải lúc nào sáng tác đúng luật hòa âm, đối âm (hình thức tốt đẹp) cũng đảm bảo được tôn giáo tính (tính thánh thiện).
Phải nhìn nhận rằng trình độ hòa âm, phối khí của các nhạc sĩ Công giáo ngày nay hơn hẳn các bậc đàn anh, đàn chị, tiền bối của nền thánh ca Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có không ít nhạc sĩ đương thời tạo nên những bài thánh ca hợp xướng được xây dựng trên những liên kết hòa âm chỉnh về luật như ví dụ trong các sách giáo khoa về hòa âm nhưng giai điệu của từng bè khó hát hoặc hát khó nghe.
Một ngôn ngữ âm nhạc quan trọng khác là tiết điệu. Tiết điệu là yếu tố đầu tiên cấu thành âm nhạc. Trong cuốn Giáo trình sáng tác nhạc, nhà soạn nhạc người Pháp Vincent d’Indy có nói: “Có nhiều dân tộc không biết đến hòa âm, một vài dân tộc không biết đến cả giai điệu, nhưng không một dân tộc nào lại không biết tiết điệu”.
Những câu hỏi đặt ra khi chọn bài • Có gì thú vị về giai điệu, hòa âm, tiết tấu? • Âm nhạc và ca từ có phù hợp với nhau không? • Nếu đây là một bản phối nhạc, hòa âm cho hợp xướng thì cần xem nó có phù hợp với tinh thần của bản gốc không, hay hòa âm quá mức cần thiết? • Âm vực của các bè thế nào? • Có phù hợp với ban hợp xướng của mình không? • Phần bè hòa âm nghe có thú vị? • Thử đánh giá xem tác phẩm này có hấp dẫn người biểu diễn và khán thính giả không? • Có nằm trong khả năng của ca đoàn mình hay không? |
TS Nguyễn Bách
2020
Giáo dục nhân bản trong gia đình
- Gia đình Việt Nam hiện nay
Gia đình Việt Nam trong những thập kỷ qua có nhiều sự biến đổi dưới tác động của sự thay đổi nhanh chóng của xã hội theo nhiều chiều hướng, cả tích cực lẫn tiêu cực.
Một số dữ liệu thống kê cung cấp bức tranh tạm phác hoạ của gia đình Việt Nam:
– Tuổi kết hôn trung bình là 25 tuổi. Tuổi kết hôn có chiều hướng tăng qua các năm có thể cho thấy người trẻ có sự chín chắn, cẩn trọng hơn trong quyết định hôn nhân.
– Tỷ lệ lao động nữ đã qua đào tạo tăng từ 12,3% (2007) lên 20,9% (sơ bộ 2017). Các số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ nữ giới được học tập và tham gia lao động ngoài xã hội ngày càng tăng. Tuy nhiên, sự tham gia của nam giới vào công việc nội trợ, và cả việc giáo dục con cái không tăng đáng kể và chưa tương xứng với sự gia tăng của phụ nữ tham gia thị trường lao động (Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 11 (96)).
– Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trong gia đình Việt liên tục từ năm 2006 đến nay: 109,8 bé trai/100 bé gái (năm 2006) lên 113,8 bé trai/100 bé gái (năm 2013), mất cân bằng cả ở nông thôn và thành thị; người có điều kiện kinh tế, học vấn cao hơn lại lựa chọn giới tính khi sinh nhiều hơn. Theo dự báo đến năm 2050, VN thừa 3-4 triệu đàn ông không lấy được vợ.
– 27,5% gia đình Việt có xung đột: Theo khảo sát trên 1.500 người của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và Môi trường (iSEE) tiến hành trong tháng 5 và tháng 6/2015, gia đình Việt Nam đang đối mặt với một số vấn đề như xung đột, bất hòa giữa các thành viên trong gia đình (27,5%), ngoại tình (16%), nợ quá khả năng chi trả (9,9%) và các vấn đề khác.
– Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, năm 2016 có 24.308 vụ ly hôn đã xét xử; năm 2017 là 27.948. Một số liệu khác lại cho thấy con số lớn hơn nhiều: năm 2000 là 51.361; năm 2005 là 65.929 (điều tra do Bộ VH-TT&DL, phối hợp với Tổng Cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF, trích theo Family).
- Giáo dục gia đình qua một số nghiên cứu
2.1 Giáo dục gia đình và tác động đến con cái
– Nguyễn Thị Anh Thư (2006) phân tích 2 trường hợp trẻ được chẩn đoán tăng động giảm chú ý để chỉ ra tác động của giáo dục gia đình, đặc biệt vai trò của cha và mẹ trong việc kìm hãm, điều chỉnh những rối nhiễu ở trẻ hay làm tăng thêm rối nhiễu nếu cha mẹ không có cách giáo dục phù hợp. Đoàn Việt (2005) nghiên cứu các biện pháp giáo dục con của cha mẹ vùng nông thôn huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy cha mẹ vẫn quan niệm đánh, mắng con là những biện pháp, công cụ để giáo dục con; một số cha mẹ đã có thay đổi trong nhận thức về việc sử dụng các biện pháp bạo lực trong giáo dục con nhưng trong thực tế họ vẫn thỉnh thoảng sử dụng biện pháp bạo lực như giải pháp tức thời trong tình huống con phạm lỗi, điều này cho thấy sự lúng túng của cha mẹ trong việc đổi mới nhận thức và phương pháp giáo dục con.
– Tác giả Lưu Song Hà (2008) tìm hiểu đánh giá của chính cha mẹ về bản thân và so sánh với cảm nhận của con cái về cha mẹ ở học sinh trung học cơ sở. Kết quả cho thấy có những khác biệt về mức độ hiểu con giữa đánh giá của người cha về bản thân và cảm nhận của con về cha mình. Đối với người mẹ, sự khác biệt thể hiện ở tiêu chí tin tưởng và bình đẳng.
– Nghiên cứu về phong cách giáo dục của cha mẹ cho thấy cha mẹ có xu hướng giữ gìn các mối dây liên hệ cho sự hoà hợp gia đình mà vẫn ủng hộ độc lập của cá nhân (Hoàng M.K., 2005). Các cha mẹ Việt đều có chỉ số khuyến khích tự chủ-tự lập và chỉ số tình cảm cao hơn chỉ số kiểm soát độc đoán.
– Các nghiên cứu khác cũng cho thấy cha mẹ tỏ ra quan tâm nhiều đến con cái của mình ở những độ tuổi khác nhau (Lưu Song Hà, 2007; Lã Thị Thanh Thủy, 2009; Nguyễn Thị Anh Thư và Bùi Minh Đức, 2012). Đặc biệt, tác giả Lưu Song Hà trong nghiên cứu của mình đã nhận thấy rằng, các em học sinh ở độ tuổi trung học cơ sở dù biết rằng cha mẹ quan tâm nhiều đến mình, nhưng các em vẫn mong muốn được cha mẹ quan tâm hơn nữa, và đối xử với mình bớt nghiêm khắc hơn. Đây cũng chính là hai điều mà các em học sinh muốn cha mẹ mình thay đổi nhất. Theo lập luận của tác giả Lưu Song Hà thì nguyên nhân của mong muốn này xuất phát từ việc cha mẹ của các em rất bận rộn với công việc và không nhiều thời gian dành cho con – một thực tế chung cho phần lớn các gia đình hiện nay. Theo kết quả Điều tra Gia đình Việt Nam 2006, vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ cha mẹ không dành chút thời gian nào để chăm sóc con cái dưới 15 tuổi: 6,8% người mẹ và 21,5% người cha.
– Sự thiếu hụt kiến thức của các bậc cha mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn vị thành niên và không nắm được các phương pháp giáo dục con một cách hiệu quả là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái (Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 11 (96)).
2.2 Tương quan giữa cha mẹ và con tuổi vị thành niên
Trẻ vị thành niên được nuôi dưỡng tốt nhất khi những mối quan hệ trong gia đình của trẻ tìm được sự cân bằng giữa sự tự chủ – tự lập và gắn bó với cha mẹ. Nghiên cứu của Allen và cộng sự (1994) về sự cần thiết của cha mẹ trong việc tạo ra cân bằng giữa phát triển tự chủ-tự lập và gắn bó với cha mẹ. Theo đó, có 2 loại hành vi đặc thù liên quan đến sự tự chủ-tự lập của trẻ vị thành niên: hành vi cho phép và hành vi kìm hãm. Những phụ huynh có hành vi cho phép được đánh giá cao thì thường chấp nhận con cái của họ, đồng thời giúp trẻ phát triển và đưa ra ý kiến riêng của mình thông qua những câu hỏi, sự giải thích, và sự bao dung về sự khác biệt quan điểm. Ngược lại, cha mẹ nào sử dụng nhiều hành vi kìm hãm thì sẽ khó chấp nhận cá tính của con em mình, đồng thời phản ứng lại với sự thể hiện suy nghĩ của trẻ bằng những lời nhận xét là thiếu tập trung, phán xét hoặc ít có giá trị. Trẻ vị thành niên có cha mẹ sử dụng nhiều hành vi cho phép lẫn một chút sự kìm hãm thì có khả năng thể hiện cá tính nhiều hơn và có nhiều tiến triển trong sự phát triển bản ngã cũng như năng lực tâm lý xã hội.
Thanh thiếu niên dần dần có được quyền tự chủ – tự lập từ cha mẹ. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, khái niệm tự chủ tự lập được định nghĩa theo các khuynh hướng khác nhau. Tự chủ cảm xúc đề cập đến sự độc lập, tách rời, liên quan đến sự thay đổi trong tương quan giữa cha mẹ và trẻ. Tự chủ cảm xúc dường như đem lại những ảnh hưởng rất khác biệt đến trẻ vị thành niên, phụ thuộc vào mức độ của sự hòa hợp trong mối quan hệ giữa cha mẹ – trẻ. Những trẻ trở nên tự chủ về cảm xúc nhưng đồng thời có cảm giác xa cách, tách biệt với cha mẹ thì sẽ có biểu hiện kém trong mức độ đo lường về điều chỉnh tâm lý cá nhân, còn những trẻ khác, thể hiện cùng mức độ tự chủ cảm xúc nhưng vẫn đi kèm cảm giác gần gũi, gắn bó với cha mẹ thì có đời sống tinh thần khỏe mạnh hơn bạn bè cùng lứa.
Tự chủ về hành vi đề cập đến khả năng quyết định và thực hiện độc lập. Nỗ lực ban đầu của thanh thiếu niên để thiết lập hành vi tự chủ trong gia đình thường là nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa cha mẹ và thanh thiếu niên. Giữa thời kỳ niên thiếu, trẻ vị thành niên hành động và được đối xử giống người lớn hơn. Trẻ có nhiều ảnh hưởng đến các quyết định gia đình, và do vậy, không cần khẳng định ý kiến của mình bằng các hành vi chưa trưởng thành (Grotevant, 1998). Trẻ cũng được phép dành nhiều thời gian riêng tư mà không phải chịu sự giám sát trực tiếp của cha mẹ.
Nhìn chung, thanh thiếu niên tự chủ- tự lập cho thấy họ khá thân với cha mẹ, thích có các hoạt động chung với gia đình, tuy có một ít xung đột với cha mẹ nhưng thanh thiếu niên vẫn cảm thấy thoải mái khi cha mẹ tư vấn, chia sẻ, và nói rằng họ muốn được như cha mẹ (Kandel và Lesser, 1972). Các mối quan hệ gia đình căng thẳng xuất hiện có liên quan đến thiếu tự chủ trong tuổi niên thiếu, chứ không phải với sự hiện diện tất yếu của thời kỳ vị thành niên.
Có những thay đổi trong sự hài hoà trong gia đình khi trẻ bước vào tuổi vị thành niên. Mặc dù có ít nghiên cứu tìm hiểu về tình cảm giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ, nhưng một số ít minh chứng từ kết quả nghiên cứu cho thấy quan hệ giữa cha mẹ và con ít gần gũi hơn khi trẻ bước vào tuổi vị thành niên, được nhận thấy qua việc trẻ ít tham gia vào các hoạt động chung trong gia đình và cha mẹ và trẻ ít thể hiện tình cảm. Thực ra, mối quan hệ ít gần gũi giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên chỉ là thể hiện mong muốn gia tăng sự độc lập và riêng tư của trẻ và vì trẻ đã lớn, cha mẹ ít thể hiện tình cảm qua cử chỉ, lời nói, đó không phải là không còn tình yêu và tôn trọng giữa cha mẹ và con cái (Montemayor, 1983, 1986). Nghiên cứu cho thấy các mối quan hệ có thể trở nên ít mâu thuẫn và thân mật hơn trong giai đoạn cuối tuổi vị thành niên (Thornton, Orbuch, và Axinn, 1995; Larson et al., 1996).Trong các gia đình có sự gắn bó tốt giữa cha mẹ và con ở tuổi đầu vị thành niên vẫn giữ được tương quan gần gũi trong giai đoạn vị thành niên mặc dù tần suất trao đổi, tương tác và các hoạt động chung giữa cha mẹ và con có thể giảm. Mặc dù một số trẻ vị thành niên và cha mẹ có những vấn đề mâu thuẫn, nhưng nhìn chung trong các gia đình, trẻ vị thành niên vẫn có mối quan hệ tốt với cha mẹ, tôn trọng cha mẹ và cảm nhận được tình yêu thương, quan tâm, chăm sóc cha mẹ dành cho mình (Steinberg, 2001).
Mặc dù xung đột là yếu tố đặc trưng trong mối quan hệ giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ, nhưng nghiên cứu cho thấy rõ ràng những xung đột gay gắt, thường xuyên và dẫn đến bạo lực là không bình thường. Những ảnh hưởng tiêu cực của xung đột giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ không nằm ở vấn đề của xung đột mà ở cách thức giải quyết xung đột. Xung đột thường được giải quyết bằng sự phục tùng của trẻ hoặc bằng việc rút lui (bỏ đi chỗ khác), hoặc bằng việc bỏ ngoài tai những lời của cha mẹ (Đỗ Hạnh Nga, 2014). Các cách thức này đều không đem lại hiệu quả cải thiện mối quan hệ cũng như giúp trẻ phát triển năng lực giải quyết vấn đề. Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy các gia đình rất khác nhau trong vấn đề mâu thuẫn và xung đột giữa cha mẹ và con tuổi vị thành niên. Smetana (1996) đưa ra ba nhóm mâu thuẫn gia đình: i) nhóm đông nhất thường xuyên có xung đột, nhưng không mâu thuẫn không gay gắt, lặt vặt và không có bạo lực; ii) một nhóm nhỏ các gia đình được thấy là không hề có xung đột giữa cha mẹ và con vị thành niên; iii) nhóm gia đình thứ ba cũng thường xuyên có xung đột, mâu thuẫn gay gắt và có thể dẫn đến bạo lực. Theo Smetana (1996), nhóm gia đình 1 thuộc loại gia đình với những xáo trộn điển hình trong thời kỳ này, nhóm 2 là một số ít các gia đình đã khéo léo vượt qua được các khó khăn và thành công trong việc điều chỉnh lại các mối quan hệ để phù hợp với đặc điểm phát triển của tuổi vị thành niên, nhóm 3 đại diện cho các gia đình với nguy cơ rối loạn tâm thần và các vấn đề về điều chỉnh hành vi nơi trẻ vị thành niên. Tóm lại, mâu thuẫn và xung đột thường xuyên, gay gắt, bạo lực là điều không bình thường trong thời kỳ vị thành niên; trong khi những tranh cãi về công việc nhà, quần áo, thời gian vào internet, hoặc các quy tắc, quy định là điều bình thường trong các gia đình có con tuổi vị thành niên. Hầu hết những mâu thuẫn này thể hiện sự thay đổi trong quá trình trưởng thành về nhận thức của trẻ, đặc biệt sự nhìn nhận và thể hiện quan điểm cá nhân về quy ước xã hội.
2.3 Phong cách giáo dục của cha mẹ
Nghiên cứu của Hoàng Mai Khanh (2014) về bốn yếu tố thể hiện phong cách giáo dục của cha mẹ tại một trường THCS quận 1, TP. HCM cho thấy cha mẹ tự đánh giá mình thể hiện sự yêu thương, quan tâm đến con cái tương đối khá, đồng thời không đề cao cách giáo dục áp đặt, con cái phải hoàn toàn tuân theo yêu cầu của cha mẹ. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn sử dụng hình phạt với con cái. Cha mẹ vẫn sử dụng hình phạt như một cách thức kỷ luật đối với con: 83,8% cha và mẹ đồng ý và hoàn toàn đồng ý dùng hình phạt khi con hư, nhưng cha mẹ cũng nhận thức rằng hình thức chỉ trích và la mắng không phải là cách giáo dục tốt để con tiến bộ (71% cha mẹ ít đồng ý và không đồng ý với hình thức này).
Khuyến khích tự chủ – tự lập là yếu tố được cha mẹ quan tâm thực hiện trong giáo dục con cái ở độ tuổi THCS. 75% cha mẹ khuyến khích con tự tìm cách giải quyết vấn đề khi gặp khó khăn. Cha mẹ chỉ đóng vai trò hướng dẫn, tư vấn, trẻ được tự do suy nghĩ và chọn lựa. Một kết quả thú vị là cha mẹ rất chú trọng việc phát triển nhận thức, suy nghĩ độc lập cho con qua việc khuyến khích con đặt câu hỏi và suy nghĩ về cuộc sống (91% đồng ý và hoàn toàn đồng ý).
Một kết quả tích cực từ nghiên cứu là các chỉ số thể hiện sự xung khắc giữa cha mẹ và con được đánh giá thấp nhất. Chính trẻ vị thành niên cũng nhận xét ít có mâu thuẫn với cha mẹ. Kết quả này cho thấy xung đột giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên thường là những xung đột nhỏ, lặt vặt, không gay gắt và không có bạo lực. Đây là những xung đột điển hình trong thời kỳ này, cả cha mẹ và trẻ đều đang trải qua một thời kỳ thích nghi với một giai đoạn/chu kỳ mới trong cuộc sống gia đình. Trẻ khám phá chính bản thân mình, khám phá khả năng tiềm ẩn của chính mình, học hỏi và rèn luyện những khả năng đó để định vị mình trong xã hội. Cha mẹ cũng học hỏi và thích nghi với sự trưởng thành của con cái.
Cũng giống như cha mẹ, cảm nhận của con về tình yêu thương quan tâm của cha mẹ có chỉ số cao nhất, tiếp đến là yếu tố khuyến khích tự chủ – tự lập. Trẻ vị thành niên cũng có nhận định cha mẹ mình không kiểm soát độc đoán cao trong giáo dục và ít có xung khắc giữa cha mẹ và con.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cha mẹ và trẻ vị thành niên đều đánh giá cao yếu tố khuyến khích sự tự chủ – tự lập, và có sự tương đồng trong quan điểm, nhìn nhận sự tự chủ – tự lập trên 3 khía cạnh: trách nhiệm, thể hiện bản thân và khả năng chọn lựa. Cha mẹ và thiếu niên định nghĩa tự chủ – tự lập là có tinh thần trách nhiệm, chủ động, tự giác, thể hiện bản thân và khả năng quyết định. Quan điểm này phù hợp với khái niệm cái Tôi tự chủ trong liên đới (autonomous-related Self (Kagitcibasi, 1996)) không trở nên tách biệt, độc lập hoàn toàn với người khác, mà là hài hòa và phù hợp với người khác. Trong quá trình phát triển bản sắc cá nhân và xã hội, gắn bó an toàn và khích lệ của cha mẹ là một trong những điều kiện cần thiết. Trong quá trình đạt đến tự chủ – tự lập, trẻ phát triển bản sắc cá nhân và xã hội trong các mối quan hệ xã hội bình đẳng và hỗ trợ tích cực. Sự gắn bó an toàn và khích lệ của cha mẹ rõ ràng cần thiết và thúc đẩy quá trình phát triển tự chủ – tự lập của thanh thiếu niên. Có thể kết luận trong các gia đình lành mạnh, các thiếu niên thân thiết với cha mẹ, đáp ứng thẩm quyền của cha mẹ và tiếp tục tin tưởng vào sự tư vấn của cha mẹ, trong khi vẫn thể hiện tính tự chủ – tự lập ngày càng cao trong các hoạt động của cuộc sống.
2.4 Bàn luận về giáo dục nhân bản qua các kết quả nghiên cứu về giáo dục gia đình và những thách thức của gia đình
Giáo dục Nhân bản (bản chất của con người) là giáo dục nhằm giúp nhận biết con người thật của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, duy nhất, độc đáo, độc lập, trọn vẹn giá trị. Theo định nghĩa này, bức tranh giáo dục của cha mẹ được trình bày từ các kết quả nghiên cứu có thể đưa đến kết luận như thế nào về giáo dục nhân bản trong gia đình?
Với phong cách giáo dục dân chủ – nghiêm minh, thể hiện tình yêu thương, quan tâm đối với con và khuyến khích sự tự chủ – tự lập, khám phá và phát triển “cái Tôi” duy nhất, độc đáo trong sự liên đới, trách nhiệm với con người, môi trường và xã hội, cha mẹ đã đáp ứng mục tiêu của giáo dục nhân bản.
Tuy nhiên, cũng cần nêu rõ là nghiên cứu thực hiện trên địa bàn quận trung tâm, các gia đình lành mạnh và cha mẹ có trình độ và hiểu biết tốt. Vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ các cha mẹ bận rộn suốt ngày, trẻ con bị giảm thiểu các mối quan hệ giao tiếp và cũng là giảm thiểu những bài tập đầu tiên và cơ bản của giao tiếp xã hội. Ở nông thôn, cha mẹ bỏ ra thành phố kiếm việc dài ngày, con cái phó mặc cho ông bà già. Ở thành thị, trẻ được giao phó cho người giúp việc, trẻ chỉ nhận được tình yêu của cha mẹ qua vài dòng dặn dò ghi trên tấm bảng. Có trẻ tự nhận mình mồ côi ngay khi vẫn còn bố mẹ. Các cha mẹ giáo dục con cái không đúng cách, làm ngơ cho lỗi lầm của con trẻ, đánh đòn con bất kể lý do gì, hay có thái độ bất lực đối với các hành vi mắc lỗi của con cái. Số liệu điều tra Thanh niên và vị thành niên Việt Nam lần 2 (SAVY 2009) cho thấy, có đến 4,1% trẻ vị thành niên tuổi 14 – 17 cho biết đã bị người trong gia đình đánh thương tích, có thể hiểu chủ yếu là cha mẹ đánh. Số liệu Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có 1,4% người làm cha mẹ đã đánh trẻ khi con cái mắc lỗi trong 12 tháng trước khảo sát. Sự thiếu hụt kiến thức của các bậc cha mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn vị thành niên và không nắm được các phương pháp giáo dục con một cách hiệu quả là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái.
Bên cạnh những thách thức như công việc bận rộn, thời gian eo hẹp, cả cha và mẹ đều đi làm. Xung đột giá trị là một trong những thách thức lớn của gia đình. Trong bối cảnh của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhất là dưới sự tác động của toàn cầu hóa, hệ giá trị gia đình ở Việt Nam đang có sự biến đổi rất lớn. Bên cạnh những giá trị cổ truyền như “kính trên, nhường dưới”, “trọng xỉ” (tôn trọng người cao tuổi), thì những giá trị mới như coi trọng “quyền tự do cá nhân”, “bình đẳng giới”, “quyền trẻ em”, “sự tự chủ – tự lập” cũng ngày càng được khẳng định. Các nghiên cứu xã hội học cũng ghi nhận xu hướng tiếp nhận giá trị mới, tiêu biểu nhất là sự bình đẳng giới, bình đẳng giữa các thế hệ trong đời sống gia đình. Tỷ lệ ưu tiên lựa chọn giá trị này ở mức trung bình (51,6%), phản ánh tính chất quá độ trong sự chuyển đổi của gia đình từ truyền thống sang hiện đại. Bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại, hơn nữa, là một giá trị thuộc về chất lượng cuộc sống. Trong thời kỳ hiện đại, nhất là ở các xã hội đang chuyển đổi, người ta không thể không có sự lựa chọn giữa giá trị sinh tồn và giá trị tự biểu hiện, giá trị nâng cao chất lượng cuộc sống.
Sự biến đổi này, trong một chừng mực nhất định, đã làm cho mối quan hệ ông bà – cha mẹ – con cháu không thuận chiều như trước đây và làm tăng những mâu thuẫn và xung đột thế hệ. Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có khoảng 1/10 số ý kiến từ các hộ gia đình có 3 thế hệ chung sống thừa nhận có sự không thống nhất về các vấn đề về lề lối sinh hoạt, cách quản lý tiền và tiêu tiền, cách thức làm ăn và phát triển kinh tế gia đình, cũng như về phương pháp giáo dục con cháu.
Tuy nhiên, từ các lý thuyết và kết quả nghiên cứu về phong cách giáo dục của cha mẹ, có thể thấy các giá trị truyền thống hay các giá trị mới đều không hề xung đột với phong cách giáo dục yêu thương, quan tâm, xây dựng tương quan gắn bó, tin tưởng, chia sẻ, lắng nghe và tôn trọng giữa cha mẹ và con và khuyến khích sự tự chủ – tự lập.
Bên cạnh đó, giáo dục nhân bản và giáo dục đức tin còn thông qua chính cuộc sống, công việc, các tương quan, ứng xử, các quyết định, chọn lựa hằng ngày của cha mẹ. Đó chính là cuốn sách sống động về giáo dục nhân bản và đức tin cho con cái.
Tóm lại, giáo dục là một ơn gọi, sứ mạng cao cả nhất của cha mẹ được thực hiện qua cuộc sống hằng ngày, qua từng ứng xử, từng lời nói với con cái. Giáo dục của cha mẹ mang tính cách độc đáo – cha mẹ là “người mẫu” (dù muốn hay không muốn). Trẻ thẩm thấu từ cha mẹ cách yêu thương chính mình và yêu thương người khác, các quan niệm và giá trị, các hành động, ứng xử, giải quyết vấn đề và các chọn lựa trong cuộc sống. Tương quan giữa cha mẹ và con cái là một tình yêu đặc biệt, không thể thay thế, cùng với những hiểu biết khoa học về giáo dục, tâm lý sẽ giúp cha mẹ trở thành Người thầy tuyệt vời nhất của con.
Biển Đức Hoàng Mai Khanh
Tài liệu tham khảo
- Allen, J., Hauser, S., Bell, K., and O’Connor, T. (1994). Longitudinal assessment of autonomy and relatedness in adolescent-family interactions as predictors of adolescent ego development and self- esteem. Child Development 64, pp. 179-194.
- Đỗ Hạnh Nga (2014), Xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở về nhu cầu độc lập. TP. HCM: NXB ĐHQG-HCM.
- Grotevant, H. (1998). Adolescent development in family contexts. In W. Damon (Series Ed.) and N. Eisenberg (Vol. Ed.), Handbook of child psychology: Vol. 3. Social, emotional, and personality development. (5th ed., pp. 1097-1150). New York: Wiley.
- Hoàng Mai Khanh. (2005). Pratiques éducatives parentales et l’autonomie de l’enfant. Comparaison France-Viet Nam. Thèse de doctorat en Sciences de l’Éducation. Université de Paris X – Nanterre, France.
- Hoàng Mai Khanh. (2014). Phong cách giáo dục của cha mẹ: tự đánh giá của cha mẹ và nhận định từ con cái lứa tuổi học sinh THCS. Đề tài NCKH trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM.
- Kagitcibasi, C. (1996). Family and human development across cultures: A view from the other side. Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
- Kandel, D., and Lesser, G. (1972). Youth in two worlds. San Francisco: Jossey-Bass.
- Lã Thị Thanh Thủy. 2009 Mức độ kỳ vọng của cha mẹ đối với con cái lứa tuổi tiểu học. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế “Nhu cầu, định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam”, Hà Nội, 08/2009, 232-237.
- Lưu Song Hà (2007), Tự đánh giá của cha mẹ và những khác biệt giữa nó với cảm nhận của con về cha mẹ trong quan hệ cha mẹ – con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, Tạp chí Tâm lý học, số 2-2007, tr.24-29.
- Lưu Song Hà. (2008). Tác động của giáo dục gia đình đến động cơ thành đạt của thanh niên. Tạp chí Tâm lý học, 8, 16-21.
- Montemayor, R. (1983). Parents and adolescents in conflict: All families some of the time and some families most of the time. Journal of Early Adolescence, 3, 83-103
- Montemayor, R. (1986). Family variation in parent-adolescent storm and stress. Journal of Adolescent Research, 1, 15-31.
- Montemayor, R., and Brownlee, J. (1987). Fathers, mothers, and adolescents: Gender-based differences in parental roles during adolescence. Journal of Youth and Adolescence, 16, 281-292.
- Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 11 (96).
- Nguyễn Thị Anh Thư, (2006), Ảnh hưởng của giáo dục gia đình đến tăng động giảm chú ý ở trẻ em, Tạp chí Tâm lý học, số 11 (92), tr.34-39.
- Nguyễn Thị Anh Thư và Bùi Minh Đức. (2012). Mối quan hệ giữa ứng xử trong gia đình và kết quả học tập của học sinh trung học cơ sở. Tạp chí Tâm lý học, 8, 68-79.
- Smetana, J. G. (1996). Adolescent-parent conflict: Implications for adaptive and maladaptive development. Rochester, NY: University of Rochester Press.
- Steinberg, L., & Morris, A. S. (2001). Adolescent development. Annual Review Psychology, 52, 83-110.
- Thornton, A., Orbuch, T. L., and Axinn, W.G. (1995). Parent-child relationships during the transition to adulthood. Journal of Family Issues, 16, 538-564.