2020
Xây dựng chiến lược truyền thông cho Caritas và các tổ chức Công giáo
Mọi người được đánh động bởi những câu chuyện. Những câu chuyện giúp chúng ta cảm nghiệm thế giới. Chúng dẫn đưa chúng ta đến với cuộc sống của những người khác và truyền cảm hứng cho chúng ta hành động. Khi bi kịch xảy ra – bất kể do con người hay do tự nhiên như: bão hay động đất – thì những hình ảnh và câu chuyện về những người bị ảnh hưởng khiến chúng ta cảm động. Trong những hình ảnh và câu chuyện đó, chúng ta thấy có những chủ đề phổ quát như: hành động anh hùng, tình yêu, sự mất mát, tuyệt vọng, hy vọng, sự giải cứu…
Là người truyền thông, nhiệm vụ của chúng ta là tìm ra những câu chuyện và xác định thông điệp để kết nối khán giả của chúng ta với những người và với mục đích mà chúng ta nhắm tới, cũng như truyền cảm hứng cho việc cầu nguyện, hành động và quyên góp. Chìa khóa để có được những câu chuyện phù hợp là hãy tìm hiểu rõ sự thật về các câu chuyện bạn muốn kể. Việc biết bạn là ai và bạn đại diện cho tổ chức nào cũng sẽ giúp bạn tinh chỉnh thông điệp và điểm nhấn của câu chuyện để người khác có thể tham gia vào sứ vụ của bạn.
Tất cả những điều mà tổ chức của bạn làm – từ logo, đến trang Facebook, đến các cuộc trả lời phỏng vấn bạn đưa ra cho các nhà báo, cho đến chương trình bạn làm cho tổ chức của bạn – đều kể câu chuyện về tổ chức của bạn. Chiến lược truyền thông kết hợp các thành phần này lại với nhau để đảm bảo rằng bạn luôn kiên định trong việc kể câu chuyện mà bạn muốn trên các kênh truyền thông. Khi bạn kể câu chuyện của bạn một cách có chiến lược, là bạn đang xây dựng sự nhận diện tên hiệu và nâng cao sự nhận thức về vấn đề bạn nỗ lực kêu gọi. Đồng thời, bạn cũng đang thu hút các nhà tài trợ và những người ủng hộ khác để giúp khuếch đại công việc của bạn.
Dù bạn đang tham gia cho tổ chức Caritas hay cho các tổ chức hoạt động xã hội nào của Giáo hội Công giáo thì công việc đó đều dựa trên bối cảnh xung quanh như: một cơn bão hay hạn hán lan rộng sẽ đưa bạn vào tình trạng ứng phó khẩn cấp; một Thông điệp mới như Laudato Si’ sẽ trở thành một lời kêu gọi liên hồi về môi trường và thúc đẩy bạn nỗ lực vận động mọi người thực hiện; một số tiền tài trợ mà bạn nhận được sẽ luôn đi kèm với sự ủy thác dành cho bạn, để bạn nỗ lực thực hiện điều mà nhà tài trợ muốn. Mỗi kịch bản mới đòi hỏi một cách tiếp cận khác nhau – một chiến lược truyền thông khác nhau.
Chiến lược truyền thông như một bản đồ dẫn đường giúp bạn xác định các mục tiêu bạn muốn đạt được. Tuy nhiên, đó không phải là cách tiếp cận theo kiểu “một mẫu cho tất cả”: bạn cần điều chỉnh chiến lược truyền thông của mình theo nhu cầu và trải nghiệm cụ thể của người tiếp nhận thông tin – ví dụ cách bạn sử dụng các tài liệu và kỹ thuật để dạy mọi người sống trong trại tị nạn biết về tầm quan trọng của việc rửa tay, sẽ khác với cách bạn báo cáo kết quả về chiến dịch truyền thông đó cho các tổ chức tài trợ.
Sau đây là tám bước tạo nên một chiến lược truyền thông hiệu quả:
- Phân tích bối cảnh
- Xác định những mục tiêu của bạn.
- Xác định đối tượng của bạn.
- Xây dựng thông điệp của bạn.
- Chọn các kênh truyền thông hiệu quả nhất của bạn.
- Làm việc với những gì bạn có.
- Thiết lập khung thời gian.
- Đánh giá tác động truyền thông của bạn.
- Phân tích bối cảnh
Bước đầu tiên cho bất kỳ chiến lược truyền thông thành công nào cũng là việc tìm hiểu môi trường, hoàn cảnh công việc của bạn bằng một phương pháp phân tích đơn giản, được gọi là phương pháp phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thử thách (Strengths, Weaknesses, Opportunities, and Threats – Phương pháp SWOT). Phương pháp phân tích SWOT giúp bạn đánh giá vị trí đang đứng hiện tại của tổ chức, đưa ra chỉ dẫn rõ ràng về những gì bạn có thể đẩy mạnh, và hỗ trợ bạn trong việc phác thảo các vấn đề tiềm ẩn mà bạn cần giải quyết.
Bảng thực hiện phương pháp phân tích SWOT: những điểm mạnh (Strengths), những điểm yếu (Weaknesses), những cơ hội (Opportunities) và những thử thách (Threats)
Những điểm mạnh | Những điểm yếu |
Bạn (tổ chức của bạn) có sẵn những nguồn lực nào?
Mọi người biết đến bạn nhờ vào gì?
Bạn khác biệt với đối thủ cạnh tranh về điều gì?
|
Bạn (tổ chức của bạn) có thể cải thiện trong những lĩnh vực?
Bạn đang thiếu nguồn lực ở đâu?
Hiện tại có nhận thức tiêu cực nào về công việc của bạn không?
|
Những cơ hội | Những thử thách |
Hiện tại, bạn có thể tận dụng những sự kiện hoặc xu hướng nào?
Bạn có thể tận dụng những điểm mạnh của mình vào những cơ hội mới bằng cách nào?
|
Những yếu tố bên ngoài nào có thể ảnh hưởng đến công việc của bạn?
Hiện nay, đối thủ cạnh tranh của bạn có chú ý tới công việc của bạn không?
Có những điểm yếu nào tác động đến nhận thức của mọi người về tổ chức của bạn không?
|
- Xác định những mục tiêu của bạn:
Hiện tại, điều gì là điều quan trọng nhất mà tổ chức của bạn hy vọng đạt được thông qua việc truyền thông trong một lĩnh vực cụ thể? Thông qua chiến dịch truyền thông, bạn hy vọng sẽ tạo ra những thay đổi trong thái độ hoặc hành vi nào của cộng đồng? Bạn mong đợi một tác động toàn diện ra sao?
Cố gắng cô đọng những gì bạn muốn đạt được với chiến lược truyền thông thành một đến ba mục tiêu rõ ràng và ngắn gọn. Bắt đầu bằng cách tự hỏi: tôi muốn đạt được điều gì? Sử dụng phương pháp phân tích SWOT để giúp xác định những gì bạn có thể đạt được một cách hợp lý với bất kỳ mối nguy hiểm hoặc điểm yếu hiện tại nào. Ví dụ: nếu bạn không có ngân sách để thuê một đội quay phim chuyên nghiệp, thì đừng bao gồm việc tạo video trong các mục đích của bạn.
Càng cụ thể càng tốt và chắt lọc từng mục tiêu thành một tuyên bố ngắn gọn như:
- Chúng tôi muốn tạo ra 1 triệu USD để tài trợ cho tình hình khẩn cấp đang xảy ra.
- Mục tiêu của chúng tôi là nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự ủng hộ cho những người tị nạn đến cộng đồng của chúng tôi.
- Khi kết thúc chiến dịch quảng bá cách sống vệ sinh sẽ có 65% các gia đình sống trong các trại tị nạn sẽ áp dụng các biện pháp rửa tay như một phần của thói quen hàng ngày.
Hãy chắc chắn rằng bạn đã đề ra các mục tiêu có thể đo lường được, có thể đạt được và kịp thời. Cần định lượng được khoảng thời gian bạn cần để đưa chiến lược truyền thông của bạn vào hành động và lên kế hoạch phù hợp.
Chiến lược truyền thông là một bản đồ giúp bạn dẫn dắt đối tượng của bạn. Xác định được mục tiêu cách rõ ràng là điều cần thiết trong việc hướng dẫn bạn triển khai một kế hoạch truyền thông hiệu quả.
Để giúp bạn xác định được mục tiêu, hãy đặt những câu hỏi sau đây:
- Điều chính yếu mà tổ chức của tôi muốn thực hiện là gì?
- Tổ chức của tôi muốn có được những thay đổi nào về thái độ hoặc nhận thức của cộng đồng?
- Tổ chức của tôi mong đợi một tác động toàn diện nào?
Các bạn hãy hình dung một kết quả thành công và tự hỏi: tổ chức sẽ biết kết quả thành công đó bằng cách nào, với số liệu nào, tiêu chuẩn nào?
Hãy xác định ba mục tiêu chính cho chiến lược truyền thông của bạn:
Mục tiêu 1:
|
Mục tiêu 2:
|
Mục tiêu 3:
|
- Xác định đối tượng truyền thông của bạn:
Dành một chút thời gian để suy nghĩ về loại thông tin và ngôn ngữ nào sẽ có tác dụng tốt nhất cho các đối tượng sau:
- Một công ty muốn tham gia với một tổ chức phi chính phủ như một phần trong chiến dịch Trách nhiệm Xã hội của họ
- Một người làm công tác mục vụ giới trẻ công giáo đang tìm cách thu hút họ vào các vấn đề công bằng xã hội
- Một người tị nạn muốn biết nơi trú ẩn và các dịch vụ cứu trợ khác
- Một thành viên của tổ chức truyền thông
Một người truyền thông giỏi là người biết mình tiếp cận với ai và làm thế nào để nói ngôn ngữ của họ. Giống như một nhà báo sẽ cần đến thông tin về một chiến dịch biến đổi khí hậu hơn là một người tham gia vào chiến dịch đó; một quan chức chính phủ sẽ cần đến những điều khác với điều mà các tình nguyện viên sức khỏe cộng đồng cần.
Mặc dù bạn có thể sẽ có nhiều đối tượng cùng lúc cho bất kỳ một chương trình hoặc chiến dịch truyền thông cụ thể nào, nhưng điều quan trọng là bạn cần xác định đối tượng chính của bạn và điều chỉnh các nỗ lực truyền thông của bạn cho hợp với đối tượng mục tiêu đó. Xem xét các yếu tố như: Điều gì thúc đẩy đối tượng của bạn hành động? Họ có được lôi kéo bởi sự kết nối về cảm xúc không? Họ có cần sự thật và số liệu cứng trước khi họ quyên góp không? Họ sử dụng phong cách ngôn ngữ nào để truyền đạt ý tưởng của họ trong kỹ thuật, pháp lý, và kể chuyện? Họ biết gì về tổ chức của bạn?
Hãy tự hỏi mình:
- Ai là đối tượng cần tiếp cận của bạn?
- Thông tin nhân khẩu của họ là gì? (gồm các đặc điểm về dân cư: chủng tộc, độ tuổi, thu nhập, trình độ giáo dục, tình trạng sở hữu nhà, tình trạng công việc,…)
- Họ muốn loại thông tin nào?
- Họ sử dụng ngôn ngữ nào?
- Họ có kiến thức gì về vấn đề này và về tổ chức của bạn?
- Rào cản tiếp cận đối tượng của bạn là gì?
- Làm thế nào thu hút đối tượng để có lợi cho tổ chức của bạn?
Bảng xác định đối tượng truyền thông:
Câu hỏi | Đối tượng mục tiêu | Đối tượng phụ |
Đối tượng của bạn là ai?
|
||
Thông tin nhân khẩu của họ là gì? (gồm các đặc điểm về dân cư: chủng tộc, độ tuổi, thu nhập, trình độ giáo dục, tình trạng sở hữu nhà, tình trạng công việc,…)
|
||
Họ muốn loại thông tin nào?
|
||
Họ sử dụng loại ngôn ngữ nào? (kỹ thuật, đàm thoại, hình ảnh…)
|
||
Bạn có nên dùng thuật ngữ chuyên biệt hoặc từ thông dụng trong giao tiếp không?
|
||
Đối tượng của bạn có kiến thức gì về vấn đề và tổ chức của bạn?
|
||
Rào cản tiếp cận đối tượng của bạn là gì?
|
||
Làm thế nào thu hút đối tượng để có lợi cho tổ chức của bạn?
|
- Xây dựng thông điệp của bạn
Mỗi ngày chúng ta bị “dội bom” thông tin từ đủ mọi nguồn: các bảng hiệu, các quảng cáo trên Tivi, trên mạng, các bài học ở trường, các chương trình radio, v.v… Mọi người sẽ lọc thông tin họ nhận được và chỉ nhớ một vài điểm chính. Vượt qua những tiếng ồn trên, làm cho thông điệp của bạn trở nên đáng nhớ là một thách thức cho công việc của bạn.
Sau khi bạn đã xác định mục tiêu chính bạn muốn đạt được qua chiến dịch truyền thông (mục 2), thì hãy xác định ba điểm bạn muốn nói với đối tượng chính của bạn. Với việc xác định thông điệp, tốt nhất là hãy tuân thủ tâm lý tối giản. Cũng như việc xác định mục tiêu, việc xác định thông điệp của bạn cũng phải rõ ràng và súc tích. Hãy tránh các thuật ngữ chuyên ngành, trừ trường hợp bạn đang làm việc với một tập thể tài trợ hoặc với nhà tài trợ chính.
Hãy điều chỉnh thông điệp cho hợp với đối tượng của bạn và cố gắng bao gồm trong đó: một kế hoạch tổng thể của bạn; những gì bạn cần; và những gì bạn mong đợi từ đối tượng đó. Khi bạn tiếp cận với đối tượng, hãy bám vào những điểm chính đó. Sử dụng sự lặp đi lặp lại để giúp họ nhớ tổ chức của bạn và những gì bạn hy vọng sẽ đạt được. Hãy dựa vào sức mạnh của chuyện kể và hãy tạo sự kết nối bằng cách đưa ra các ví dụ liên quan trực tiếp đến kinh nghiệm của đối tượng. Thay vì đưa ra những con số ngẫu nhiên, như “125.000 người bị mất nhà ở”, bạn hãy cá nhân hóa thông điệp đó để nó trở nên đáng nhớ hơn như: “ (thảm họa) làm 125.000 người bị mất nhà ở, tương đương với dân số của… (tên một thị trấn địa phương mà đối tượng quen biết, và có số dân với tương đương với con số đó)”.
Bảng xây dựng thông điệp:
Thông điệp chính của bạn cần thể hiện bạn (hoặc tổ chức của bạn) là ai và những gì bạn muốn thực hiện với các mục tiêu của mình.
Khi phát triển thông điệp của bạn, hãy ghi nhớ những câu hỏi sau:
- Đối tượng chính của bạn sử dụng loại ngôn ngữ nào để liên lạc? Kỹ thuật? Đàm thoại? Hình ảnh?
- Bạn muốn cài vào thông điệp của bạn tinh thần hoặc tâm trạng nào? Bạn có muốn truyền đạt tính cấp bách hoặc một nghĩa vụ đạo đức nào không?
- Bạn đang cố gắng đạt được điều gì với thông điệp của bạn? Vận động chính sách hay kêu gọi hành động?
- Điều gì đánh động đối tượng của bạn?
- Thông điệp có tạo ra sự liên kết về cảm xúc hoặc về tinh thần giữa đối tượng của bạn với cộng đồng và với mục đích bạn theo đuổi không?
Hãy làm cho thông điệp của bạn rõ ràng, súc tích và phù hợp với đối tượng của bạn.
Thông điệp 1:
|
Thông điệp 3:
|
Thông điệp 3:
|
- Chọn các kênh truyền thông hiệu quả nhất của bạn
Mọi người nhận thông tin dựa trên sở thích của họ và các nền tảng sẵn có khác nhau. Các chương trình của Caritas sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để củng cố khả năng tiếp nhận của các nhà tài trợ. Ví dụ, các thông điệp quan trọng về dinh dưỡng in trên áo của các nhân viên y tế cộng đồng sẽ nhắc nhở cho mọi người về những gì họ đã được học khi nhân viên y tế cộng đồng đi ngang qua. Một bức tường trong trại tị nạn được vẽ bởi một nghệ sĩ địa phương sẽ giúp quảng bá những thông điệp quan trọng về vệ sinh. Điện thoại có thể gửi lời nhắc hoặc danh sách kiểm tra cho người nông dân về giá cả thị trường và điều kiện thời tiết địa phương. Trong mỗi trường hợp, người làm chương trình cần chọn các kênh truyền thông hiệu quả nhất để tiếp cận đối tượng chính của họ.
Bốn kênh truyền thông chính mà bạn có thể sử dụng là:
- Liên hệ trực tiếp:Tiếp cận trực tiếp với các cá nhân hoặc nhóm. Chẳng hạn, bạn có thể trình bày chương trình của mình cho một nhóm giới trẻ Công giáo, thăm viếng thực tế một dự án, hoặc tổ chức một cuộc họp báo.
- Ấn phẩm:Bạn có thể gửi các tài liệu, các ấn phẩm qua đường bưu điện hoặc phát chúng tại các sự kiện để gia tăng hiệu quả loan truyền thông điệp của bạn tới những đối tượng mà bạn không thể tiếp cận trực tiếp. Ví dụ, những tài liệu ấn phẩm bao gồm: tờ chia sẻ bài học kinh nghiệm, báo cáo, tờ hướng dẫn cách áp dụng vào thực tiễn, tài liệu giới thiệu, tờ rơi, áp phích, hình ảnh, lịch, bưu thiếp…
- Các phương tiện truyền thông đại chúng:Sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng như: đài phát thanh, bài báo, bài xã luận và truyền hình để loan truyền thông điệp và giúp bạn tiếp cận đối tượng mới.
- Internet:Được truy cập trên toàn cầu, Internet: email, trang web, blog và mạng xã hội… cho phép bạn truyền tải thông điệp đến những người ủng hộ bạn và nhiều người khác…
Bảng danh sách kiểm tra kênh truyền thông
Hãy suy nghĩ về đối tượng của bạn và cách họ muốn nhận thông tin. Sử dụng điều đó để xác định các kênh truyền thông tốt nhất để tiếp cận họ một cách hiệu quả nhất.
Các kênh bạn có thể nhấn bao gồm các mục sau:
Liên hệ trực tiếp tại:
□ Quán cà phê, quán ăn… □ Buổi thuyết trình trong nhà thờ □ Hội nghị, cuộc họp □ Sự kiện □ Hội chợ việc làm □ Họp báo □ Nhà riêng □ Nhóm người trẻ □ Khác ______ □ Khác ______ □ Khác ______ |
Các phương tiện truyền thông đại chúng:
□ Bài quảng cáo… □ Thư cho các biên tập viên báo, đài □ Bài tham vấn báo chí □ Bài báo □ Bài phản hồi xã luận (Op-ed) □ Thông cáo báo chí □ Chương trình Radio □ Bài phỏng vấn trên TV □ Khác ______ □ Khác ______ □ Khác ______ |
Tài liệu, Ấn phẩm:
□ Băng rôn □ Tờ quảng cáo □ Lịch □ Thiệp Giáng sinh □ Bản tin nhà thờ □ Thư quyên góp □ Thư mời □ Tờ rơi □ Bài học kinh nghiệm □ Hình ảnh □ Bưu thiếp □ Áp phích □ Bài học thành công □ Báo cáo □ Ấn phẩm nghiên cứu □ Bài báo học thuật □ Card cảm ơn □ Ấn phẩm thương mại □ Tờ rơi ngắn (2 mặt giấy) □ Khác: □ Khác: □ Khác: |
Internet:
□ Biểu ngữ quảng cáo □ Blog □ Mạng xã hội Facebook □ Google chat □ Thư viện ảnh □ Webinar □ Trang web □ YouTube □ Khác: □ Khác: □ Khác: |
- Làm với những gì bạn có
Không giống như các tập đoàn lớn có ngân sách để chi cho các chiến dịch quảng cáo lớn, các tổ chức Caritas hay tổ chức công giáo địa phương thường dựa vào một đội ngũ nhân viên tối thiểu và nguồn lực hạn chế. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể đạt được thành công lớn với ngân sách eo hẹp. Bí quyết là tối đa hóa những điểm mạnh bạn có và sử dụng chúng để chiếm lợi thế.
Có thể bạn không có tiền để tạo video, nhưng nhân viên của bạn đã tích cực chụp ảnh về các dự án của bạn và bạn có nhiều lựa chọn để sử dụng những hình ảnh đó. Có thể một thành viên trong đội ngũ nhân viên của bạn có mối quan hệ tốt với những người dẫn chương trình tại một đài phát thanh Công giáo địa phương và họ có thể giới thiệu bạn tham gia ở vị trí khách mời trong một vài chương trình radio nổi tiếng. Bạn có lẽ đã tích cực hoạt động trên mạng xã hội: Twitter và Facebook; bạn có thể dựa vào những người theo dõi bạn để giúp truyền tải thông điệp của bạn.
Tạo một danh sách để kiểm tra các nguồn lực và tài liệu có sẵn của bạn và sử dụng nó để xác định bạn nên đầu tư ngân sách hiện tại của bạn vào đâu. Ví dụ: nếu bạn đang nhắm mục tiêu vào các phương tiện truyền thông, bạn có thể đề nghị để cung cấp các bức ảnh đi kèm với các câu chuyện mà các phóng viên có thể viết; hoặc sử dụng ngân sách của bạn để trả chi phí đi lại khi làm chương trình.
Bảng danh sách kiểm tra ngân sách và nguồn lực hiện có:
Ngân sách: ________________________
Thời gian dành cho dự án: ____________
Trưởng dự án: ______________________
Kỹ năng:
□ Viết □ Nhiếp ảnh □ Video □ Nói trước công chúng □ Thiết kế □ Chỉnh sửa Nhiệm vụ: _____ Thành viên của đội: ____ |
Kỹ năng:
□ Chỉnh sửa □ Thiết kế □ Nhiếp ảnh □ Nói trước công chúng □ Video □ Viết Nhiệm vụ: ____ Thành viên của đội: ____ |
Kỹ năng:
□ Chỉnh sửa □ Thiết kế □ Nhiếp ảnh □ Nói trước công chúng □ Video □ Viết Nhiệm vụ: _____ Thành viên của đội: ____
Kỹ năng: □ Chỉnh sửa □ Thiết kế □ Nhiếp ảnh □ Nói trước công chúng □ Video □ Viết Nhiệm vụ: _____ Thành viên của đội: ____
|
Nguồn lực hiện có:
□ Bài viết □ Biểu ngữ □ Tài liệu quảng cáo □ Bản tin □ Những bài học kinh nghiệm □ Thư tin điện tử □ Ảnh □ Tài liệu thuyết trình PowerPoint □ Áp phích □ Ấn phẩm □ Những câu chuyện thành công □ Video □ Trang web □ YouTube |
- Thiết lập khung thời gian
Lập kế hoạch trước và nhận biết thời gian giới hạn là rất quan trọng đối với một kế hoạch truyền thông thành công. Phải mất thời gian để tạo ra các tài liệu, ấn phẩm, sản phẩm truyền thông, đặc biệt là khi phải dựa vào các nhà cung ứng bên ngoài như nhà thiết kế hoặc nhà in.
Hãy chủ động trong kế hoạch của bạn: tận dụng những ngày có ý nghĩa quan trọng đối với sứ vụ của bạn như Ngày Nước Thế Giới hoặc Mùa Chay, khi mọi người đang thảo luận về các lĩnh vực mà bạn đang dấn thân. Với các sự kiện quan trọng hàng năm này, bạn có thể bắt đầu chuẩn bị trước để đảm bảo bạn phổ biến liền mạch các tài liệu của bạn.
Đối với các dự án lớn hơn như hội nghị hoặc chiến dịch lớn, bạn hãy lên lịch chi tiết các việc cần hoàn thành theo từng mùa, từng tháng, từng tuần và thậm chí từng ngày. Tính thời gian bạn sẽ cần để tạo tài liệu, tạo ra sản phẩm và đưa chúng đến đối tượng của bạn.
Bảng tính khung thời gian
Hãy bắt đầu làm việc với dự án của bạn càng sớm càng tốt, nhờ đó bạn có thời gian dự phòng cho những điều bất ngờ. Tùy thuộc vào tầm mức công việc của bạn, hãy tạo các kế hoạch làm việc hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng cho các nhiệm vụ bạn muốn hoàn thành.
Hãy xác định những ngày mà nhóm của bạn phải đạt được các mốc quan trọng, sau đó xác định mục tiêu cho hàng ngày, hàng tuần và hàng tháng.
Những mục tiêu Tháng | Những kết quả bàn giao |
Ngày bàn giao:
|
|
Những mục tiêu Tuần | Những kết quả bàn giao |
Ngày bàn giao:
|
|
Những mục tiêu Ngày | Những kết quả bàn giao |
Ngày bàn giao:
|
- Đánh giá tác động truyền thông của bạn
Dành thời gian để đánh giá tác động truyền thông có thể giúp bạn rút ra những bài học quý giá và hữu ích cho các chiến lược khác trong tương lai. Hãy đo lường mức độ thành công của bạn trong việc tiếp cận đối tượng chính và mức độ đạt được mục tiêu đề ra của bạn. Đối với các chiến dịch truyền thông xã hội, hãy sử dụng các công cụ như Tweet Reach hoặc Facebook Insights để xem bạn đã phổ biến thông điệp của mình hiệu quả ra sao. Đối với phương tiện truyền thông đại chúng, hãy ghi lại số lần các bài báo trích dẫn lời của bạn hoặc số lần bạn xuất hiện trong các cuộc phỏng vấn trên các đài phát thanh. Số tiền quyên góp vượt trội trong trường hợp khẩn cấp cũng cho thấy hiệu quả truyền thông của bạn trong việc tiếp cận đối tượng.
Hãy sử dụng các mục tiêu chính mà bạn đã đề ra để đánh giá công việc của bạn. Nếu bạn đặt mục đích có 10.000 chữ ký của giới trẻ để kiến nghị cho việc thực hiện chính sách biến đổi khí hậu, thì hãy thu thập những con số đó và đánh giá hiệu quả của bạn. Nếu bạn ở dưới mục tiêu, hãy phân tích lý do và thực hiện các điều chỉnh cần thiết. Nếu bạn vượt quá mong đợi, hãy phân tích những gì bạn đã làm đúng, lưu giữ lại chúng để áp dụng cho các chiến dịch khác.
Caritas Internationalis
Văn Việt dịch từ Communication Manual
2020
Người trẻ trưởng thành toàn diện
Các Kitô hữu trẻ luôn là mối quan tâm đặc biệt của toàn thể Giáo Hội. Vì thế, Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XV họp tại Rôma vào tháng 10 năm 2018 đã bàn về chủ đề: “Giới trẻ, đức tin và việc phân định ơn gọi”. Ngay sau khi kết thúc Thượng Hội đồng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông huấn Chúa Kitô đang sống – Christus vivit (Cv), gửi người trẻ và cộng đoàn dân Chúa. Trong đó ngài mời gọi các bạn trẻ chiêm ngắm tuổi trẻ của Đức Giêsu để lớn lên và trưởng thành cách toàn diện theo gương của Người: Trong thời gian sống tại Nadarét, Đức Giêsu vâng lời cha mẹ, ‘lớn lên, thêm khôn ngoan và đầy ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta’ (Lc 2,52) (x. Cv, số 26-27).
Cùng chung những thao thức ấy, Hội đồng Giám mục Việt Nam quyết định chọn chủ đề Mục vụ Giới trẻ cho Giáo Hội Việt Nam trong ba năm tới (2020-2022): Năm 2020: Đồng hành với người trẻ hướng tới sự trưởng thành toàn diện; năm 2021: Đồng hành với người trẻ trong đời sống gia đình; năm 2022: Đồng hành với người trẻ trong đời sống Giáo Hội và xã hội[1]. Như vậy, chủ đề năm 2020 là đồng hành với người trẻ trong tiến trình hướng tới sự trưởng thành toàn diện. Vậy một câu hỏi đặt ra cho chúng ta là: Như thế nào được gọi là trưởng thành toàn diện?
Tiến sĩ tâm lý học Đinh Đoàn cho rằng dưới góc nhìn khoa học, toàn diện, biện chứng ngày nay, có thể nói về ba loại, hay ba khía cạnh trưởng thành của con người: Trưởng thành sinh lý, trưởng thành tâm lý và trưởng thành văn hoá – xã hội.[2]
Trong ba loại trưởng thành nói trên, trưởng thành sinh lý là điều dễ nhận thấy nhất và cũng là điều dễ đạt được nhất nơi mỗi người, bởi nó được đo bằng chiều cao, cân nặng… Người trưởng thành về sinh lý là người có khả năng xây dựng gia đình, lấy vợ hoặc gả chồng và nếu không có bệnh tật gì đặc biệt, thì có thể sinh con. Trên thế giới, tại nhiều quốc gia, người đủ mười tám tuổi được coi là trưởng thành xét theo pháp luật, nghĩa là người đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của mình gây ra[3].
Trưởng thành tâm lý thì ở cấp độ cao hơn, là thứ khó đạt hơn, bởi nó không có sẵn, mà mỗi người tự phấn đấu rèn luyện, thì mới có thể đạt được. Vì thế, không thể đánh giá chính xác tiêu chuẩn trên tuổi tác của con người. Trưởng thành tâm lý được đánh giá bởi sự tự lập, suy nghĩ chín chắn, nhìn trước ngó sau, ứng xử phải đạo, không hấp tấp, vội vàng. Trưởng thành về tâm lý đồng nghĩa với khả năng giải quyết những khủng hoảng, những khó khăn, lấn cấn về mặt tình cảm. Người trưởng thành không để những xô lấn của tình cảm, của những xung đột bên trong và bên ngoài cuộc sống ảnh hưởng đến lề lối suy nghĩ, cung cách và thái độ sống của mình. Ngoài ra, trưởng thành tâm lý cũng giúp phát triển và trưởng thành tâm linh, vì trong tâm lý cũng có sự phát triển về đạo đức và luân lý. Trưởng thành tâm lý cũng gắn với những thứ “có”: Có vợ hoặc chồng, có con cái, có nghề nghiệp, có địa vị xã hội nhất định (là ai đó trong xã hội, chứ không nhất thiết phải là ông nọ, bà kia), có nhà để ở, có tiền để tiêu cho những nhu cầu của bản thân và gia đình.
Loại trưởng thành cuối cùng là trưởng thành về mặt văn hoá – xã hội, cũng là đòi hỏi ở mức cao nhất, không phải ai cũng đạt được. Người trưởng thành về văn hoá – xã hội không chỉ thấu hiểu quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm, mà còn dành nhiều thời gian nghĩ đến người khác, nghĩ đến “đạo lý”, đến “lương tâm”, nghĩ đến phận người, kiếp người. Người trưởng thành về văn hóa – xã hội luôn có xu hướng vị tha hơn vị kỉ, sống hướng đến những người xung quanh nhiều hơn là sống cho bản thân mình. Trong gia đình, họ sống có trách nhiệm và chu toàn bổn phận của mình, là một người con hiếu thảo với cha mẹ, một người chồng trung tín, yêu thương chia sẻ cuộc sống cùng vợ, đồng thời một người cha luôn hết lòng yêu thương chăm sóc và giáo dục con cái. Ngoài xã hội, họ chú trọng và quan tâm đến những thiếu thốn của người khác, và tìm cách giúp đỡ, đồng thời họ sống theo đạo lý, theo tiếng nói của lương tâm, tôn trọng quyền lợi của người khác và không vì danh vọng mà bán rẻ lương tâm.
Đối với các Kitô hữu, những người có niềm tin vào Thiên Chúa, ngoài ba khía cạnh trưởng thành theo các nhà tâm lý học nói đến như sinh lý, tâm lý và văn hoá – xã hội chúng ta vừa đề cập ở trên. Đối với các Kitô hữu hay những người có niềm tin, trưởng thành về đời sống tâm linh cũng là một đòi hỏi cần thiết. Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong Tông huấn Chúa Kitô đang sống rằng: “Nhiều người trẻ quan tâm đến thân thể mình, tìm cách phát triển thể lý hoặc ngoại hình. Những người trẻ khác thì cố gắng phát huy tài năng và kiến thức của mình… Một số người trẻ khác nhắm cao hơn, cố gắng dấn thân hơn và tìm kiếm một sự phát triển tâm linh…” (Cv, số 158).
Quả thật, việc gặp gỡ và củng cố tình bạn với Chúa Kitô, Đấng đang sống, là điều thật quan trọng và cần thiết cho mỗi người Kitô hữu, nhất là những Kitô hữu trẻ. “Bởi lẽ, dù chúng ta có sống và trải nghiệm đến đâu chăng nữa, cũng sẽ không bao giờ chạm đến ý nghĩa sâu xa nhất của tuổi trẻ và không nhận biết được tuổi trẻ đầy đủ nhất, nếu chúng ta không gặp gỡ Người Bạn lớn mỗi ngày, nếu chúng ta không sống trong tình bạn với Đức Giêsu” (x. Cv, số 150). Vì “Đức Giêsu là ‘người trẻ giữa những người trẻ để nên mẫu gương cho người trẻ và thánh hiến họ cho Chúa.” (Cv, số 22). Qua việc gặp gỡ Chúa, người trẻ sẽ được Người hướng dẫn, đồng hành giúp đỡ trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Người trẻ gặp gỡ “Người Bạn lớn” nhờ cầu nguyện với Lời Chúa, tôn thờ Thánh Thể, tham dự phụng vụ cách tích cực và sốt sắng.
Bên cạnh đó, theo Đức Thánh Cha: Dấu hiệu của người trẻ trưởng thành là khi họ đưa ra lựa chọn và đi đến quyết định trong những vấn đề nghề nghiệp, xã hội, chính trị. Ngoài ra, họ còn phải đưa ra những quyết định khác, triệt để hơn, những quyết định mà sẽ định đoạt đến hướng đi dứt khoát cho cuộc đời họ, quyết định liên quan đến tình yêu, việc chọn lựa người bạn đời và việc có những đứa con đầu tiên (x. Cv, số 140). Ngài nói tiếp: Dấu hiệu của người trưởng thành là khi người ta bắt đầu đi làm… Việc làm xác định và ảnh hưởng đến căn tính và ý thức về chính mình của một người trẻ, đồng thời là nơi chủ yếu để phát sinh tình bằng hữu và các mối tương quan khác (x. Cv, số 268). Đối với người trẻ, việc làm cũng là điều cần thiết cho cuộc sống, là con đường để trưởng thành, để phát triển nhân bản và hoàn thiện con người mình hơn (x. Cv, số 269). Hơn nữa, với người trẻ chúng ta, việc làm không đơn thuần chỉ là để kiếm tiền, mà còn là thể hiện phẩm giá con người, một con đường để trưởng thành và hòa nhập xã hội (x. Cv, số 271).
Ngoài ra, người trẻ sống trưởng thành là người biết khôn ngoan phân định điều gì tốt, cần phát huy và điều gì xấu, cần xa tránh. Điều này đòi hỏi người trẻ phải luôn luôn huấn luyện lương tâm ngay thẳng, “việc huấn luyện này bao hàm để cho Chúa Kitô biến đổi mình, đồng thời, đó là một thói quen làm điều thiện, kiểm điểm lại việc thực hành này khi xét mình” (Cv, số 282).
Đức Thánh Cha mong người trẻ biết quý trọng bản thân mình, thật nghiêm túc với chính mình và cố gắng phát triển bản thân về đời sống thiêng liêng. Nhiệt huyết đặc trưng của những người trẻ trưởng thành là việc tìm kiếm “sự công chính, đức tin, đức ái, bình an” (2 Tm 2,22) (x. Cv, số 159). Đồng thời, người trẻ trưởng thành cũng là những người “sẵn sàng đáp lại lời kêu gọi hoạt động thiện nguyện, trở nên công dân tích cực và sống tình liên đới trong xã hội” (Cv, số 170).
Dựa vào hướng dẫn từ chính Tông huấn, Hội đồng Giám mục Việt Nam trong Thư chung gửi cộng đoàn dân Chúa và đặc biệt người trẻ năm 2019, mời gọi các mục tử, những người làm công tác mục vụ giới trẻ, đặc biệt là cha mẹ, hãy đồng hành để giúp các thanh thiếu niên lớn lên và trưởng thành. Cũng như chính mỗi người trẻ chúng ta được mời gọi tự đào luyện về thể lý, tâm lý, tâm linh, để có thể sống hoàn thiện hơn trong mọi phương diện hầu trở nên người có ích cho xã hội và Giáo Hội.
Trước hết về thể lý, người trẻ được mời gọi rèn luyện thân thể khỏe mạnh, giữ kỷ luật đối với chính bản thân, phòng ngừa các đam mê nguy hại như rượu, bia, ma túy, cờ bạc, nghiện game.
Thứ đến về phương diện tâm lý, người trẻ tập luyện các đức tính nhân bản, đặc biệt tính trung thực, ý thức công bằng, lương tâm ngay thẳng, tinh thần trách nhiệm. Người trẻ tập sinh hoạt cộng đồng, nhờ đó hướng mở tới tha nhân, tập sống chung và làm việc chung với tinh thần liên đới, quảng đại, vị tha. Những người đồng hành mở các lớp kỹ năng sống giúp người trẻ nhận diện giá trị bản thân, trưởng thành tâm lý và tính dục, phát triển tương quan hài hòa với mọi người.
Ngoài ra, đời sống tâm linh, các bạn trẻ được mời gọi gặp gỡ và củng cố tình bạn với Chúa Kitô, Đấng đang sống, nhờ cầu nguyện với Lời Chúa, tôn thờ Thánh Thể, tham dự phụng vụ cách tích cực. Để thực hiện mục tiêu này, các mục tử và giáo lý viên cần canh tân việc dạy giáo lý cho giới trẻ bằng cách tổ chức các buổi tọa đàm, thảo luận theo chuyên đề, nhất là những vấn đề thiết thân với giới trẻ.
Về văn hóa, “không thể tách rời việc đào tạo tâm linh ra khỏi đào tạo về văn hóa” (Cv, số 223). Đào tạo văn hóa đích thực là phát triển sự khôn ngoan, tức là tri thức nhân văn và phát triển nhân bản, chứ không chỉ tìm lợi ích vật chất và hiệu quả cụ thể tức thời.
Cuối cùng là việc phân định ơn gọi, người trẻ cũng cần được đồng hành và hướng dẫn trong việc phân định tiếng gọi của Thiên Chúa, kêu mời họ bước vào đời sống tu trì hoặc đời sống hôn nhân, để họ có thể đáp lại tiếng gọi của Chúa với tất cả tự do, ý thức đức tin và quảng đại dấn thân.
Như vậy, để là một người trưởng thành, ngoài sự nở nang và sự phát triển về thể xác, mỗi người còn phải được phát triển về tâm lý. Điều này được kiểm chứng bằng sự quân bình trong giao thiệp, nói năng, cư xử và giải quyết những khó khăn, khủng hoảng trong cuộc sống hằng ngày. Ngoài ra, theo tôn giáo, sự trưởng thành thể lý và tâm lý cần thiết để giúp con người phát triển và đi tới sự trưởng thành tâm linh. Thay cho lời kết, xin được nhắc lại lời của một học giả gửi đến cho chúng ta: Trưởng thành không phải là lúc ta làm được những chuyện lớn lao mà là lúc ta hiểu được những điều bé nhỏ. “Hiểu những điều bé nhỏ”, để quan tâm đến người khác và muốn cho họ sống vui. Đó là bí quyết của hạnh phúc.
[1] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư chung gửi cộng đoàn dân Chúa, đặc biệt là các bạn trẻ năm 2019.
[2] Đinh Đoàn, Tâm lý học: Thế nào là người trưởng thành? http://dinhdoan.net/tam-ly-hoc-the-nao-la-nguoi-truong-thanh/, truy cập ngày 09/3/2020.
[3] x. Trần Mỹ Duyệt, Người Kitô hữu trưởng thành, http://tinmung.net/GIADINH/GiaDinhKitoHuu/KitoHuuTruongThanh/NguoiKitoHuuTruongThanh.htm, truy cập ngày 08/3/2020.
Vinc. Thiên Phúc
2020
Giáo dục nhân bản trong gia đình
- Gia đình Việt Nam hiện nay
Gia đình Việt Nam trong những thập kỷ qua có nhiều sự biến đổi dưới tác động của sự thay đổi nhanh chóng của xã hội theo nhiều chiều hướng, cả tích cực lẫn tiêu cực.
Một số dữ liệu thống kê cung cấp bức tranh tạm phác hoạ của gia đình Việt Nam:
– Tuổi kết hôn trung bình là 25 tuổi. Tuổi kết hôn có chiều hướng tăng qua các năm có thể cho thấy người trẻ có sự chín chắn, cẩn trọng hơn trong quyết định hôn nhân.
– Tỷ lệ lao động nữ đã qua đào tạo tăng từ 12,3% (2007) lên 20,9% (sơ bộ 2017). Các số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ nữ giới được học tập và tham gia lao động ngoài xã hội ngày càng tăng. Tuy nhiên, sự tham gia của nam giới vào công việc nội trợ, và cả việc giáo dục con cái không tăng đáng kể và chưa tương xứng với sự gia tăng của phụ nữ tham gia thị trường lao động (Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 11 (96)).
– Tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh trong gia đình Việt liên tục từ năm 2006 đến nay: 109,8 bé trai/100 bé gái (năm 2006) lên 113,8 bé trai/100 bé gái (năm 2013), mất cân bằng cả ở nông thôn và thành thị; người có điều kiện kinh tế, học vấn cao hơn lại lựa chọn giới tính khi sinh nhiều hơn. Theo dự báo đến năm 2050, VN thừa 3-4 triệu đàn ông không lấy được vợ.
– 27,5% gia đình Việt có xung đột: Theo khảo sát trên 1.500 người của Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và Môi trường (iSEE) tiến hành trong tháng 5 và tháng 6/2015, gia đình Việt Nam đang đối mặt với một số vấn đề như xung đột, bất hòa giữa các thành viên trong gia đình (27,5%), ngoại tình (16%), nợ quá khả năng chi trả (9,9%) và các vấn đề khác.
– Theo số liệu của Tổng Cục thống kê, năm 2016 có 24.308 vụ ly hôn đã xét xử; năm 2017 là 27.948. Một số liệu khác lại cho thấy con số lớn hơn nhiều: năm 2000 là 51.361; năm 2005 là 65.929 (điều tra do Bộ VH-TT&DL, phối hợp với Tổng Cục Thống kê, với sự hỗ trợ của UNICEF, trích theo Family).
- Giáo dục gia đình qua một số nghiên cứu
2.1 Giáo dục gia đình và tác động đến con cái
– Nguyễn Thị Anh Thư (2006) phân tích 2 trường hợp trẻ được chẩn đoán tăng động giảm chú ý để chỉ ra tác động của giáo dục gia đình, đặc biệt vai trò của cha và mẹ trong việc kìm hãm, điều chỉnh những rối nhiễu ở trẻ hay làm tăng thêm rối nhiễu nếu cha mẹ không có cách giáo dục phù hợp. Đoàn Việt (2005) nghiên cứu các biện pháp giáo dục con của cha mẹ vùng nông thôn huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy cha mẹ vẫn quan niệm đánh, mắng con là những biện pháp, công cụ để giáo dục con; một số cha mẹ đã có thay đổi trong nhận thức về việc sử dụng các biện pháp bạo lực trong giáo dục con nhưng trong thực tế họ vẫn thỉnh thoảng sử dụng biện pháp bạo lực như giải pháp tức thời trong tình huống con phạm lỗi, điều này cho thấy sự lúng túng của cha mẹ trong việc đổi mới nhận thức và phương pháp giáo dục con.
– Tác giả Lưu Song Hà (2008) tìm hiểu đánh giá của chính cha mẹ về bản thân và so sánh với cảm nhận của con cái về cha mẹ ở học sinh trung học cơ sở. Kết quả cho thấy có những khác biệt về mức độ hiểu con giữa đánh giá của người cha về bản thân và cảm nhận của con về cha mình. Đối với người mẹ, sự khác biệt thể hiện ở tiêu chí tin tưởng và bình đẳng.
– Nghiên cứu về phong cách giáo dục của cha mẹ cho thấy cha mẹ có xu hướng giữ gìn các mối dây liên hệ cho sự hoà hợp gia đình mà vẫn ủng hộ độc lập của cá nhân (Hoàng M.K., 2005). Các cha mẹ Việt đều có chỉ số khuyến khích tự chủ-tự lập và chỉ số tình cảm cao hơn chỉ số kiểm soát độc đoán.
– Các nghiên cứu khác cũng cho thấy cha mẹ tỏ ra quan tâm nhiều đến con cái của mình ở những độ tuổi khác nhau (Lưu Song Hà, 2007; Lã Thị Thanh Thủy, 2009; Nguyễn Thị Anh Thư và Bùi Minh Đức, 2012). Đặc biệt, tác giả Lưu Song Hà trong nghiên cứu của mình đã nhận thấy rằng, các em học sinh ở độ tuổi trung học cơ sở dù biết rằng cha mẹ quan tâm nhiều đến mình, nhưng các em vẫn mong muốn được cha mẹ quan tâm hơn nữa, và đối xử với mình bớt nghiêm khắc hơn. Đây cũng chính là hai điều mà các em học sinh muốn cha mẹ mình thay đổi nhất. Theo lập luận của tác giả Lưu Song Hà thì nguyên nhân của mong muốn này xuất phát từ việc cha mẹ của các em rất bận rộn với công việc và không nhiều thời gian dành cho con – một thực tế chung cho phần lớn các gia đình hiện nay. Theo kết quả Điều tra Gia đình Việt Nam 2006, vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ cha mẹ không dành chút thời gian nào để chăm sóc con cái dưới 15 tuổi: 6,8% người mẹ và 21,5% người cha.
– Sự thiếu hụt kiến thức của các bậc cha mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn vị thành niên và không nắm được các phương pháp giáo dục con một cách hiệu quả là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái (Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 11 (96)).
2.2 Tương quan giữa cha mẹ và con tuổi vị thành niên
Trẻ vị thành niên được nuôi dưỡng tốt nhất khi những mối quan hệ trong gia đình của trẻ tìm được sự cân bằng giữa sự tự chủ – tự lập và gắn bó với cha mẹ. Nghiên cứu của Allen và cộng sự (1994) về sự cần thiết của cha mẹ trong việc tạo ra cân bằng giữa phát triển tự chủ-tự lập và gắn bó với cha mẹ. Theo đó, có 2 loại hành vi đặc thù liên quan đến sự tự chủ-tự lập của trẻ vị thành niên: hành vi cho phép và hành vi kìm hãm. Những phụ huynh có hành vi cho phép được đánh giá cao thì thường chấp nhận con cái của họ, đồng thời giúp trẻ phát triển và đưa ra ý kiến riêng của mình thông qua những câu hỏi, sự giải thích, và sự bao dung về sự khác biệt quan điểm. Ngược lại, cha mẹ nào sử dụng nhiều hành vi kìm hãm thì sẽ khó chấp nhận cá tính của con em mình, đồng thời phản ứng lại với sự thể hiện suy nghĩ của trẻ bằng những lời nhận xét là thiếu tập trung, phán xét hoặc ít có giá trị. Trẻ vị thành niên có cha mẹ sử dụng nhiều hành vi cho phép lẫn một chút sự kìm hãm thì có khả năng thể hiện cá tính nhiều hơn và có nhiều tiến triển trong sự phát triển bản ngã cũng như năng lực tâm lý xã hội.
Thanh thiếu niên dần dần có được quyền tự chủ – tự lập từ cha mẹ. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, khái niệm tự chủ tự lập được định nghĩa theo các khuynh hướng khác nhau. Tự chủ cảm xúc đề cập đến sự độc lập, tách rời, liên quan đến sự thay đổi trong tương quan giữa cha mẹ và trẻ. Tự chủ cảm xúc dường như đem lại những ảnh hưởng rất khác biệt đến trẻ vị thành niên, phụ thuộc vào mức độ của sự hòa hợp trong mối quan hệ giữa cha mẹ – trẻ. Những trẻ trở nên tự chủ về cảm xúc nhưng đồng thời có cảm giác xa cách, tách biệt với cha mẹ thì sẽ có biểu hiện kém trong mức độ đo lường về điều chỉnh tâm lý cá nhân, còn những trẻ khác, thể hiện cùng mức độ tự chủ cảm xúc nhưng vẫn đi kèm cảm giác gần gũi, gắn bó với cha mẹ thì có đời sống tinh thần khỏe mạnh hơn bạn bè cùng lứa.
Tự chủ về hành vi đề cập đến khả năng quyết định và thực hiện độc lập. Nỗ lực ban đầu của thanh thiếu niên để thiết lập hành vi tự chủ trong gia đình thường là nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa cha mẹ và thanh thiếu niên. Giữa thời kỳ niên thiếu, trẻ vị thành niên hành động và được đối xử giống người lớn hơn. Trẻ có nhiều ảnh hưởng đến các quyết định gia đình, và do vậy, không cần khẳng định ý kiến của mình bằng các hành vi chưa trưởng thành (Grotevant, 1998). Trẻ cũng được phép dành nhiều thời gian riêng tư mà không phải chịu sự giám sát trực tiếp của cha mẹ.
Nhìn chung, thanh thiếu niên tự chủ- tự lập cho thấy họ khá thân với cha mẹ, thích có các hoạt động chung với gia đình, tuy có một ít xung đột với cha mẹ nhưng thanh thiếu niên vẫn cảm thấy thoải mái khi cha mẹ tư vấn, chia sẻ, và nói rằng họ muốn được như cha mẹ (Kandel và Lesser, 1972). Các mối quan hệ gia đình căng thẳng xuất hiện có liên quan đến thiếu tự chủ trong tuổi niên thiếu, chứ không phải với sự hiện diện tất yếu của thời kỳ vị thành niên.
Có những thay đổi trong sự hài hoà trong gia đình khi trẻ bước vào tuổi vị thành niên. Mặc dù có ít nghiên cứu tìm hiểu về tình cảm giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ, nhưng một số ít minh chứng từ kết quả nghiên cứu cho thấy quan hệ giữa cha mẹ và con ít gần gũi hơn khi trẻ bước vào tuổi vị thành niên, được nhận thấy qua việc trẻ ít tham gia vào các hoạt động chung trong gia đình và cha mẹ và trẻ ít thể hiện tình cảm. Thực ra, mối quan hệ ít gần gũi giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên chỉ là thể hiện mong muốn gia tăng sự độc lập và riêng tư của trẻ và vì trẻ đã lớn, cha mẹ ít thể hiện tình cảm qua cử chỉ, lời nói, đó không phải là không còn tình yêu và tôn trọng giữa cha mẹ và con cái (Montemayor, 1983, 1986). Nghiên cứu cho thấy các mối quan hệ có thể trở nên ít mâu thuẫn và thân mật hơn trong giai đoạn cuối tuổi vị thành niên (Thornton, Orbuch, và Axinn, 1995; Larson et al., 1996).Trong các gia đình có sự gắn bó tốt giữa cha mẹ và con ở tuổi đầu vị thành niên vẫn giữ được tương quan gần gũi trong giai đoạn vị thành niên mặc dù tần suất trao đổi, tương tác và các hoạt động chung giữa cha mẹ và con có thể giảm. Mặc dù một số trẻ vị thành niên và cha mẹ có những vấn đề mâu thuẫn, nhưng nhìn chung trong các gia đình, trẻ vị thành niên vẫn có mối quan hệ tốt với cha mẹ, tôn trọng cha mẹ và cảm nhận được tình yêu thương, quan tâm, chăm sóc cha mẹ dành cho mình (Steinberg, 2001).
Mặc dù xung đột là yếu tố đặc trưng trong mối quan hệ giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ, nhưng nghiên cứu cho thấy rõ ràng những xung đột gay gắt, thường xuyên và dẫn đến bạo lực là không bình thường. Những ảnh hưởng tiêu cực của xung đột giữa trẻ vị thành niên và cha mẹ không nằm ở vấn đề của xung đột mà ở cách thức giải quyết xung đột. Xung đột thường được giải quyết bằng sự phục tùng của trẻ hoặc bằng việc rút lui (bỏ đi chỗ khác), hoặc bằng việc bỏ ngoài tai những lời của cha mẹ (Đỗ Hạnh Nga, 2014). Các cách thức này đều không đem lại hiệu quả cải thiện mối quan hệ cũng như giúp trẻ phát triển năng lực giải quyết vấn đề. Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy các gia đình rất khác nhau trong vấn đề mâu thuẫn và xung đột giữa cha mẹ và con tuổi vị thành niên. Smetana (1996) đưa ra ba nhóm mâu thuẫn gia đình: i) nhóm đông nhất thường xuyên có xung đột, nhưng không mâu thuẫn không gay gắt, lặt vặt và không có bạo lực; ii) một nhóm nhỏ các gia đình được thấy là không hề có xung đột giữa cha mẹ và con vị thành niên; iii) nhóm gia đình thứ ba cũng thường xuyên có xung đột, mâu thuẫn gay gắt và có thể dẫn đến bạo lực. Theo Smetana (1996), nhóm gia đình 1 thuộc loại gia đình với những xáo trộn điển hình trong thời kỳ này, nhóm 2 là một số ít các gia đình đã khéo léo vượt qua được các khó khăn và thành công trong việc điều chỉnh lại các mối quan hệ để phù hợp với đặc điểm phát triển của tuổi vị thành niên, nhóm 3 đại diện cho các gia đình với nguy cơ rối loạn tâm thần và các vấn đề về điều chỉnh hành vi nơi trẻ vị thành niên. Tóm lại, mâu thuẫn và xung đột thường xuyên, gay gắt, bạo lực là điều không bình thường trong thời kỳ vị thành niên; trong khi những tranh cãi về công việc nhà, quần áo, thời gian vào internet, hoặc các quy tắc, quy định là điều bình thường trong các gia đình có con tuổi vị thành niên. Hầu hết những mâu thuẫn này thể hiện sự thay đổi trong quá trình trưởng thành về nhận thức của trẻ, đặc biệt sự nhìn nhận và thể hiện quan điểm cá nhân về quy ước xã hội.
2.3 Phong cách giáo dục của cha mẹ
Nghiên cứu của Hoàng Mai Khanh (2014) về bốn yếu tố thể hiện phong cách giáo dục của cha mẹ tại một trường THCS quận 1, TP. HCM cho thấy cha mẹ tự đánh giá mình thể hiện sự yêu thương, quan tâm đến con cái tương đối khá, đồng thời không đề cao cách giáo dục áp đặt, con cái phải hoàn toàn tuân theo yêu cầu của cha mẹ. Tuy nhiên, cha mẹ vẫn sử dụng hình phạt với con cái. Cha mẹ vẫn sử dụng hình phạt như một cách thức kỷ luật đối với con: 83,8% cha và mẹ đồng ý và hoàn toàn đồng ý dùng hình phạt khi con hư, nhưng cha mẹ cũng nhận thức rằng hình thức chỉ trích và la mắng không phải là cách giáo dục tốt để con tiến bộ (71% cha mẹ ít đồng ý và không đồng ý với hình thức này).
Khuyến khích tự chủ – tự lập là yếu tố được cha mẹ quan tâm thực hiện trong giáo dục con cái ở độ tuổi THCS. 75% cha mẹ khuyến khích con tự tìm cách giải quyết vấn đề khi gặp khó khăn. Cha mẹ chỉ đóng vai trò hướng dẫn, tư vấn, trẻ được tự do suy nghĩ và chọn lựa. Một kết quả thú vị là cha mẹ rất chú trọng việc phát triển nhận thức, suy nghĩ độc lập cho con qua việc khuyến khích con đặt câu hỏi và suy nghĩ về cuộc sống (91% đồng ý và hoàn toàn đồng ý).
Một kết quả tích cực từ nghiên cứu là các chỉ số thể hiện sự xung khắc giữa cha mẹ và con được đánh giá thấp nhất. Chính trẻ vị thành niên cũng nhận xét ít có mâu thuẫn với cha mẹ. Kết quả này cho thấy xung đột giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên thường là những xung đột nhỏ, lặt vặt, không gay gắt và không có bạo lực. Đây là những xung đột điển hình trong thời kỳ này, cả cha mẹ và trẻ đều đang trải qua một thời kỳ thích nghi với một giai đoạn/chu kỳ mới trong cuộc sống gia đình. Trẻ khám phá chính bản thân mình, khám phá khả năng tiềm ẩn của chính mình, học hỏi và rèn luyện những khả năng đó để định vị mình trong xã hội. Cha mẹ cũng học hỏi và thích nghi với sự trưởng thành của con cái.
Cũng giống như cha mẹ, cảm nhận của con về tình yêu thương quan tâm của cha mẹ có chỉ số cao nhất, tiếp đến là yếu tố khuyến khích tự chủ – tự lập. Trẻ vị thành niên cũng có nhận định cha mẹ mình không kiểm soát độc đoán cao trong giáo dục và ít có xung khắc giữa cha mẹ và con.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cha mẹ và trẻ vị thành niên đều đánh giá cao yếu tố khuyến khích sự tự chủ – tự lập, và có sự tương đồng trong quan điểm, nhìn nhận sự tự chủ – tự lập trên 3 khía cạnh: trách nhiệm, thể hiện bản thân và khả năng chọn lựa. Cha mẹ và thiếu niên định nghĩa tự chủ – tự lập là có tinh thần trách nhiệm, chủ động, tự giác, thể hiện bản thân và khả năng quyết định. Quan điểm này phù hợp với khái niệm cái Tôi tự chủ trong liên đới (autonomous-related Self (Kagitcibasi, 1996)) không trở nên tách biệt, độc lập hoàn toàn với người khác, mà là hài hòa và phù hợp với người khác. Trong quá trình phát triển bản sắc cá nhân và xã hội, gắn bó an toàn và khích lệ của cha mẹ là một trong những điều kiện cần thiết. Trong quá trình đạt đến tự chủ – tự lập, trẻ phát triển bản sắc cá nhân và xã hội trong các mối quan hệ xã hội bình đẳng và hỗ trợ tích cực. Sự gắn bó an toàn và khích lệ của cha mẹ rõ ràng cần thiết và thúc đẩy quá trình phát triển tự chủ – tự lập của thanh thiếu niên. Có thể kết luận trong các gia đình lành mạnh, các thiếu niên thân thiết với cha mẹ, đáp ứng thẩm quyền của cha mẹ và tiếp tục tin tưởng vào sự tư vấn của cha mẹ, trong khi vẫn thể hiện tính tự chủ – tự lập ngày càng cao trong các hoạt động của cuộc sống.
2.4 Bàn luận về giáo dục nhân bản qua các kết quả nghiên cứu về giáo dục gia đình và những thách thức của gia đình
Giáo dục Nhân bản (bản chất của con người) là giáo dục nhằm giúp nhận biết con người thật của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, duy nhất, độc đáo, độc lập, trọn vẹn giá trị. Theo định nghĩa này, bức tranh giáo dục của cha mẹ được trình bày từ các kết quả nghiên cứu có thể đưa đến kết luận như thế nào về giáo dục nhân bản trong gia đình?
Với phong cách giáo dục dân chủ – nghiêm minh, thể hiện tình yêu thương, quan tâm đối với con và khuyến khích sự tự chủ – tự lập, khám phá và phát triển “cái Tôi” duy nhất, độc đáo trong sự liên đới, trách nhiệm với con người, môi trường và xã hội, cha mẹ đã đáp ứng mục tiêu của giáo dục nhân bản.
Tuy nhiên, cũng cần nêu rõ là nghiên cứu thực hiện trên địa bàn quận trung tâm, các gia đình lành mạnh và cha mẹ có trình độ và hiểu biết tốt. Vẫn còn một tỷ lệ không nhỏ các cha mẹ bận rộn suốt ngày, trẻ con bị giảm thiểu các mối quan hệ giao tiếp và cũng là giảm thiểu những bài tập đầu tiên và cơ bản của giao tiếp xã hội. Ở nông thôn, cha mẹ bỏ ra thành phố kiếm việc dài ngày, con cái phó mặc cho ông bà già. Ở thành thị, trẻ được giao phó cho người giúp việc, trẻ chỉ nhận được tình yêu của cha mẹ qua vài dòng dặn dò ghi trên tấm bảng. Có trẻ tự nhận mình mồ côi ngay khi vẫn còn bố mẹ. Các cha mẹ giáo dục con cái không đúng cách, làm ngơ cho lỗi lầm của con trẻ, đánh đòn con bất kể lý do gì, hay có thái độ bất lực đối với các hành vi mắc lỗi của con cái. Số liệu điều tra Thanh niên và vị thành niên Việt Nam lần 2 (SAVY 2009) cho thấy, có đến 4,1% trẻ vị thành niên tuổi 14 – 17 cho biết đã bị người trong gia đình đánh thương tích, có thể hiểu chủ yếu là cha mẹ đánh. Số liệu Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có 1,4% người làm cha mẹ đã đánh trẻ khi con cái mắc lỗi trong 12 tháng trước khảo sát. Sự thiếu hụt kiến thức của các bậc cha mẹ về đặc điểm phát triển nhận thức, sự thay đổi tâm sinh lý của con cái trong giai đoạn vị thành niên và không nắm được các phương pháp giáo dục con một cách hiệu quả là nguyên nhân quan trọng làm tăng nguy cơ xung đột giữa cha mẹ và con cái.
Bên cạnh những thách thức như công việc bận rộn, thời gian eo hẹp, cả cha và mẹ đều đi làm. Xung đột giá trị là một trong những thách thức lớn của gia đình. Trong bối cảnh của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhất là dưới sự tác động của toàn cầu hóa, hệ giá trị gia đình ở Việt Nam đang có sự biến đổi rất lớn. Bên cạnh những giá trị cổ truyền như “kính trên, nhường dưới”, “trọng xỉ” (tôn trọng người cao tuổi), thì những giá trị mới như coi trọng “quyền tự do cá nhân”, “bình đẳng giới”, “quyền trẻ em”, “sự tự chủ – tự lập” cũng ngày càng được khẳng định. Các nghiên cứu xã hội học cũng ghi nhận xu hướng tiếp nhận giá trị mới, tiêu biểu nhất là sự bình đẳng giới, bình đẳng giữa các thế hệ trong đời sống gia đình. Tỷ lệ ưu tiên lựa chọn giá trị này ở mức trung bình (51,6%), phản ánh tính chất quá độ trong sự chuyển đổi của gia đình từ truyền thống sang hiện đại. Bình đẳng là một giá trị của xã hội hiện đại, hơn nữa, là một giá trị thuộc về chất lượng cuộc sống. Trong thời kỳ hiện đại, nhất là ở các xã hội đang chuyển đổi, người ta không thể không có sự lựa chọn giữa giá trị sinh tồn và giá trị tự biểu hiện, giá trị nâng cao chất lượng cuộc sống.
Sự biến đổi này, trong một chừng mực nhất định, đã làm cho mối quan hệ ông bà – cha mẹ – con cháu không thuận chiều như trước đây và làm tăng những mâu thuẫn và xung đột thế hệ. Điều tra Gia đình Việt Nam 2006 cho biết, có khoảng 1/10 số ý kiến từ các hộ gia đình có 3 thế hệ chung sống thừa nhận có sự không thống nhất về các vấn đề về lề lối sinh hoạt, cách quản lý tiền và tiêu tiền, cách thức làm ăn và phát triển kinh tế gia đình, cũng như về phương pháp giáo dục con cháu.
Tuy nhiên, từ các lý thuyết và kết quả nghiên cứu về phong cách giáo dục của cha mẹ, có thể thấy các giá trị truyền thống hay các giá trị mới đều không hề xung đột với phong cách giáo dục yêu thương, quan tâm, xây dựng tương quan gắn bó, tin tưởng, chia sẻ, lắng nghe và tôn trọng giữa cha mẹ và con và khuyến khích sự tự chủ – tự lập.
Bên cạnh đó, giáo dục nhân bản và giáo dục đức tin còn thông qua chính cuộc sống, công việc, các tương quan, ứng xử, các quyết định, chọn lựa hằng ngày của cha mẹ. Đó chính là cuốn sách sống động về giáo dục nhân bản và đức tin cho con cái.
Tóm lại, giáo dục là một ơn gọi, sứ mạng cao cả nhất của cha mẹ được thực hiện qua cuộc sống hằng ngày, qua từng ứng xử, từng lời nói với con cái. Giáo dục của cha mẹ mang tính cách độc đáo – cha mẹ là “người mẫu” (dù muốn hay không muốn). Trẻ thẩm thấu từ cha mẹ cách yêu thương chính mình và yêu thương người khác, các quan niệm và giá trị, các hành động, ứng xử, giải quyết vấn đề và các chọn lựa trong cuộc sống. Tương quan giữa cha mẹ và con cái là một tình yêu đặc biệt, không thể thay thế, cùng với những hiểu biết khoa học về giáo dục, tâm lý sẽ giúp cha mẹ trở thành Người thầy tuyệt vời nhất của con.
Biển Đức Hoàng Mai Khanh
Tài liệu tham khảo
- Allen, J., Hauser, S., Bell, K., and O’Connor, T. (1994). Longitudinal assessment of autonomy and relatedness in adolescent-family interactions as predictors of adolescent ego development and self- esteem. Child Development 64, pp. 179-194.
- Đỗ Hạnh Nga (2014), Xung đột tâm lý giữa cha mẹ và con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở về nhu cầu độc lập. TP. HCM: NXB ĐHQG-HCM.
- Grotevant, H. (1998). Adolescent development in family contexts. In W. Damon (Series Ed.) and N. Eisenberg (Vol. Ed.), Handbook of child psychology: Vol. 3. Social, emotional, and personality development. (5th ed., pp. 1097-1150). New York: Wiley.
- Hoàng Mai Khanh. (2005). Pratiques éducatives parentales et l’autonomie de l’enfant. Comparaison France-Viet Nam. Thèse de doctorat en Sciences de l’Éducation. Université de Paris X – Nanterre, France.
- Hoàng Mai Khanh. (2014). Phong cách giáo dục của cha mẹ: tự đánh giá của cha mẹ và nhận định từ con cái lứa tuổi học sinh THCS. Đề tài NCKH trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM.
- Kagitcibasi, C. (1996). Family and human development across cultures: A view from the other side. Hillsdale, NJ: Lawrence Erlbaum.
- Kandel, D., and Lesser, G. (1972). Youth in two worlds. San Francisco: Jossey-Bass.
- Lã Thị Thanh Thủy. 2009 Mức độ kỳ vọng của cha mẹ đối với con cái lứa tuổi tiểu học. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế “Nhu cầu, định hướng và đào tạo tâm lý học đường tại Việt Nam”, Hà Nội, 08/2009, 232-237.
- Lưu Song Hà (2007), Tự đánh giá của cha mẹ và những khác biệt giữa nó với cảm nhận của con về cha mẹ trong quan hệ cha mẹ – con lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, Tạp chí Tâm lý học, số 2-2007, tr.24-29.
- Lưu Song Hà. (2008). Tác động của giáo dục gia đình đến động cơ thành đạt của thanh niên. Tạp chí Tâm lý học, 8, 16-21.
- Montemayor, R. (1983). Parents and adolescents in conflict: All families some of the time and some families most of the time. Journal of Early Adolescence, 3, 83-103
- Montemayor, R. (1986). Family variation in parent-adolescent storm and stress. Journal of Adolescent Research, 1, 15-31.
- Montemayor, R., and Brownlee, J. (1987). Fathers, mothers, and adolescents: Gender-based differences in parental roles during adolescence. Journal of Youth and Adolescence, 16, 281-292.
- Nguyễn Hữu Minh. (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm Đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 11 (96).
- Nguyễn Thị Anh Thư, (2006), Ảnh hưởng của giáo dục gia đình đến tăng động giảm chú ý ở trẻ em, Tạp chí Tâm lý học, số 11 (92), tr.34-39.
- Nguyễn Thị Anh Thư và Bùi Minh Đức. (2012). Mối quan hệ giữa ứng xử trong gia đình và kết quả học tập của học sinh trung học cơ sở. Tạp chí Tâm lý học, 8, 68-79.
- Smetana, J. G. (1996). Adolescent-parent conflict: Implications for adaptive and maladaptive development. Rochester, NY: University of Rochester Press.
- Steinberg, L., & Morris, A. S. (2001). Adolescent development. Annual Review Psychology, 52, 83-110.
- Thornton, A., Orbuch, T. L., and Axinn, W.G. (1995). Parent-child relationships during the transition to adulthood. Journal of Family Issues, 16, 538-564.
2020
Lãnh đạo như Giêsu – dẫn nhập
LÃNH ĐẠO NHƯ GIÊ-SU
Dẫn nhập
Nếu bạn quan sát những gì đang diễn ra khắp nơi trên thế giới và ngay chính nơi mình sống và làm việc, thì bạn nhận ra rằng thế giới đang đối diện với sự khủng hoảng về lãnh đạo và thế giới đang rất cần một mẫu gương lãnh đạo khác, một mẫu gương chuẩn mực đúng đắn về vai trò lãnh đạo toàn diện và chính trực.
Có một người đã thi hành và dạy bảo hoàn hảo về nghệ thuật lãnh đạo hiệu quả. Con người đó là Đức Giê-su Nazareth, Ngài đại diện cho một tấm lòng và những phương pháp của một nhà lãnh đạo phục vụ vô cùng tận tụy và tài năng.
Trong vòng ba năm đi rao giảng Tin Mừng, Ngài đã chỉ ra một hình thức lãnh đạo phục vụ mới mẻ, tạo nên những kết quả phi thường cho những người vốn rất tầm thường, qua đó làm thay đổi cả dòng lịch sử. Việc học lãnh đạo như Chúa Giêsu sẽ giúp bạn giải quyết vấn đề cốt lõi trong lãnh đạo là Cái Tôi khởi đi từ Con Tim, đến Tư Duy và Hành Động. Làm thế nào để có được Con Tim như Chúa Giêsu, có được lối suy nghĩ và hành động của Chúa để có thể lãnh đạo như Ngài? Trong ý hướng này, Lãnh Đạo Như Giêsu không đơn thuần là một khóa huấn luyện nhưng là một hành trình biến đổi bắt đầu bằng lãnh đạo bản thân rồi mới đến lãnh đạo người khác.
Mong rằng chúng ta hãy giúp nhau phát huy vai trò lãnh đạo phục vụ như một đáp trả tự nhiên, tự phát của mình đối với bất cứ vai trò nào mà bạn được giao – để cho dù bạn là ngườI đang tự đưa ra quyết định cho mình hoặc đang thực hiện quyết định của người khác, dù bạn đang đề ra các chỉ thị hoặc đang tuân thủ các chỉ thị của người khác, dù bạn là người đầu tiên đề ra một cách nhìn mới hoặc ủng hộ cách nhìn của người khác, bạn đều làm như thế để mà phục vụ…và trong khi làm như thế, bạn sẽ tạo nên những thành quả tốt đẹp qua việc bộc lộ những gì tốt đẹp nhất nơi chính bạn và nơi người khác. Cầu chúc bạn thành công trong nỗ lực này.
***
Tôi có phải là một nhà lãnh đạo?
Lãnh đạo là một quá trình ảnh hưởng. Bất cứ khi nào bạn mưu cầu ảnh hưởng đến suy nghĩ, hành vi hay sự phát triển của người khác thì bạn đang đảm nhận vai trò lãnh đạo.
Lãnh đạo có thể được hiểu một cách thân mật là sự dìu dắt, khích lệ đối với người mình yêu mến, hoặc có thể được hiểu một cách hình thức là sự chỉ đạo được truyền đạt rộng khắp trong một tổ chức.
Khi bạn nghĩ đến hình ảnh mà bạn ảnh hưởng đến hành vi của người khác bằng cách này hay cách khác, bạn có thể thấy rằng dù bạn đi đâu thì bạn vẫn là nhà lãnh đạo, chứ không chỉ nói đến vai trò lãnh đạo nơi công sở. Dù bạn là phụ huynh, vợ chồng, thành viên gia đình, bạn bè hay công dân – hoặc bạn có một chức danh và vị trí lãnh đạo như chủ tịch, linh mục, huấn luyện viên, nhà giáo, nhà quản lý – bạn là một nhà lãnh đạo.
Hầu hết những gương lãnh đạo định vị cuộc sống của chúng ta không phải là những nhà lãnh đạo có chức vị trong một tổ chức, mà là những nhà lãnh đạo trong tương quan cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Hãy đọc Thư thứ nhất gởi ông Ti-mô-thê (3:1-7):
Ðây là lời đáng tin cậy: ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao đẹp. Vậy giám quản phải là người không ai chê trách được, chỉ có một đời vợ, tiết độ, chừng mực, nhã nhặn, hiếu khách, có khả năng giảng dạy; người ấy không được nghiện rượu, không được hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, không hay gây sự, không ham tiền, biết điều khiển tốt gia đình mình, biết dạy con cái phục tùng cách rất nghiêm chỉnh, vì ai không biết điều khiển gia đình mình, thì làm sao có thể lo cho Hội Thánh của Thiên Chúa được? Người ấy không được là tân tòng, kẻo lên mặt kiêu căng mà bị kết án như ma quỷ. Người ấy còn phải được người ngoài chứng nhận là tốt, kẻo bị sỉ nhục và sa vào cạm bẫy ma quỷ.
Một người đã minh họa tấm gương lãnh đạo trong cuộc đời Chúa Giê-su là mẹ Người, Đức Maria. Trong vai trò người mẹ của mình, Mẹ Maria được mời gọi để có sự ảnh hưởng trên cuộc sống và tinh thần của người con của mình. Tình mẫu tử – giữa một tâm hồn đã được kiểm chứng và tinh thần xin vâng với một con người cần được nuôi dưỡng, giữa một giáo viên tinh thần với một học viên – là một phần trong kế hoạch của Chúa để chuẩn bị cho thời kỳ lãnh đạo của Chúa Giê-su.
Suy ngẫm:
Hãy dành ít thời gian thinh lặng, nghĩ về những người có ảnh hưởng lớn đến suy nghĩ, hành vi và đời sống của bạn. Khi bạn nhớ đến tên, gương mặt của những người đó, bạn sẽ nhận ra rằng sự lãnh đạo, chức danh, vị trí, thẩm quyền chỉ là một phần trong phạm trù lãnh đạo.
Bây giờ hãy nghĩ đến những mối tương quan mà nơi đó bạn có cơ hội ảnh hưởng đến suy nghĩ, hành vi của những người khác, và nhớ lại những tình huống mà bạn thường phải đối diện với sự lựa chọn: “Tôi đến để phục vụ hay để được phục vụ?”
***