2020
Đức Giêsu Kitô – Đường thánh thiện
Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (8)
Đức Giê-su Ki-tô
ĐƯỜNG THÁNH THIỆN
(Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 8 năm 2020)
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng Bảy vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Mục Tử Nhân Lành. Tháng Tám này, cùng nhau chúng ta suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Thánh Thiện. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Nguồn mọi sự thánh thiện. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, đã đi Đường Thánh Thiện để đến với gia đình nhân loại. Đường đó tiếp tục sống động trong Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, và được diễn tả cách cụ thể nơi đời sống của các Ki-tô hữu qua mọi thời đại.
Thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng của thực thể (người hoặc sự vật) được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa. Còn theo thánh Tô-ma A-qui-nô, thánh thiện là đức hạnh mà con người diễn tả chính mình cũng như hành động phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Người thánh thiện là người ‘gần với căn tính’ của mình nhất. Kinh nghiệm của các thánh trong dòng lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết như vậy. Đặc biệt, đây cũng là kinh nghiệm của thánh Au-gút-ti-nô và Tô-ma Mơ-tần (Thomas Merton, tu sĩ Dòng Trappist). Nói cách khác, con người càng thánh thiện bao nhiêu, thì càng gần gũi với căn tính của mình bấy nhiêu.
Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu và là Đấng Thánh. ‘Tên’ của Thiên Chúa là ‘Thánh’ (Ed 36,22-24; Lc 1,49). Trong tiếng Do-thái, hạn từ ‘thánh’ là ‘qadosh’ và được dịch sang tiếng Hy Lạp là ‘hagios’. Hạn từ này có nghĩa nguyên thủy là cắt, tách biệt. Thiên Chúa tách ra khỏi những gì phàm tục. Người siêu việt muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Thiên Chúa được tung hô: ‘thánh, thánh, thánh’ (Thiên Chúa ba lần thánh) nhằm diễn tả sự siêu việt với ‘sức mạnh vô song’ và ‘thánh thiện tuyệt đối’ của Người. Cách tung hô này được đề cập hai lần trong bộ Kinh Thánh, một lần trong Cựu Ước và một lần trong Tân Ước (Is 6,3; Kh 4,8). Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi bánh và rượu được thánh hiến, cộng đoàn Thánh Thể tung hô ‘thánh, thánh, thánh’. Sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa là đặc tính căn bản nhất, các đặc tính khác liên kết hoặc diễn tả đặc tính thánh thiện của Người.
Thiên Chúa thông truyền sự thánh thiện của Người cho muôn vật muôn loài. Người thông truyền qua việc thánh hiến, tách biệt con người và vật ra khỏi thế giới phàm tục theo ý định của Người. Chẳng hạn, Thiên Chúa đã tách biệt Dân Do-thái khỏi các dân khác và trao ban sứ mệnh cộng tác vào chương trình cứu độ của Người. Trong sách Lê-vi, Thiên Chúa phán: “Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta” (Lv 20,26). Ngay trong Dân Do-thái, chi tộc Lê-vi được dành riêng để ‘chuyên lo việc Nhà Chúa’. Một số đồ vật cũng được thánh hiến hay dành riêng cho việc tế tự.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ qua vinh quang của Người. Vinh quang chiếu giãi vào đời sống con người và biến đổi con người thành không gian thánh thiện, nhờ đó, con người diễn tả sự thánh thiện và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người không chỉ thụ động đón nhận phẩm chất thánh thiện Thiên Chúa trao ban, mà còn được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân, thánh hóa người khác và cùng nhau làm lành lánh dữ. Sự thánh thiện song hành với thực thi đời sống luân lý tốt đẹp là hệ quả tất yếu của tương quan giữa Thiên Chúa là Đấng Thánh và con người được mời gọi nên thánh.
Trong phụng vụ của Giáo Hội, theo Kinh nguyện Thánh Thể II: Thiên Chúa là ‘nguồn mạch mọi sự thánh thiện’. Điều này có nghĩa rằng sự thánh thiện của Thiên Chúa là sự thánh thiện Gốc, sự thánh thiện Nguồn. Các hình thức thánh thiện trong môi trường thế giới thụ tạo phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đặc biệt, sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ cách trọn vẹn nơi sự thánh thiện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế.
Là Thiên Chúa trong thân phận con người, sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả qua hai hình thức phân biệt nhau: ‘Sự thánh thiện từ trên xuống’ và ‘sự thánh thiện từ dưới lên’. ‘Sự thánh thiện từ trên xuống’ có nghĩa rằng Đức Giê-su diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa đối với con người, bởi vì Người là Thiên Chúa thật. ‘Sự thánh thiện từ dưới lên’ có nghĩa rằng Đức Giê-su diễn tả sự thánh thiện của con người, bởi vì Đức Giê-su là con người thật. Nhân danh toàn thể nhân loại, Đức Giê-su đã vâng phục đáp lại chương trình của Thiên Chúa và trở nên mẫu gương hoàn hảo cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Chúng ta có thể nói rằng hai hình thức thánh thiện này trở nên một nơi Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Như vậy, Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện hai chiều, từ Thiên Chúa đến con người và từ con người đến Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, sách Sáng Thế cho chúng ta biết sau khi Nguyên Tổ phạm tội, Thiên Chúa đã ban Lời Hứa về chiến thắng của sự thánh thiện trên sự dữ (St 3,15). Khoảng 700 năm trước Biến Cố Giáng Sinh, ngôn sứ I-sai-a loan báo về Đức Giê-su, Đấng gánh tội nhân loại để muôn người được trở nên thánh thiện (Is 53,11). Trong Tân Ước, khi sứ thần Gáp-ri-en truyền tin cho Đức Ma-ri-a rằng ‘bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su’, thì Đức Ma-ri-a rất bối rối. Sứ thần đã trấn an Đức Ma-ri-a rằng người con mà bà cưu mang là bởi Chúa Thánh Thần và quyền năng Đấng Tối Cao. Người con đó là ‘Đấng Thánh’ và là Con Thiên Chúa (Lc 1,30-35).
Sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả cách đặc biệt trong hành trình rao giảng của Người. Trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Chứng kiến sự thánh thiện và quyền năng của Đức Giê-su trước mẻ cá lạ, thánh Phê-rô nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Với những người Pha-ri-sêu, Đức Giê-su nói: “Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội?” (Ga 8,46). Trong cuộc khổ nạn, sau khi Đức Giê-su trả lời câu hỏi của thượng tế Cai-pha, một tên trong nhóm thuộc hạ của thượng tế đánh Đức Giê-su, thì Người nói: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Trong thư thứ nhất, thánh Gio-an viết: “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết” (1 Ga 2,20). Cũng trong thư này, thánh nhân viết: “Đức Giê-su đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi” (1 Ga 3,5). Như thế, Kinh Thánh cho chúng ta bức tranh khá đầy đủ về sự thánh thiện của Đức Giê-su.
Không chỉ các môn đệ hay những ai lắng nghe và tin tưởng vào Đức Giê-su mới nhận ra sự thánh thiện của Người, các thế lực chống đối Người hay ma quỉ cũng nhận ra điều đó. Chẳng hạn, khi Đức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um, ngày sa-bát, Người vào hội đường, có kẻ bị thần ô uế nhập la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24). Chứng kiến cái chết của Đức Giê-su và những sự kiện lạ lùng, viên đại đội trưởng và những người canh giữ Đức Giê-su thốt lên: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54). Như vậy, sự thánh thiện của Đức Giê-su là sự thánh thiện siêu việt và biểu lộ trong mọi hoàn cảnh. Muôn vật hữu hình và vô hình đều nhận biết, kính sợ và thành khẩn tuyên xưng.
Sự thánh thiện của Đức Giê-su là sự thánh thiện trổi vượt trên tất cả các hình thức thánh thiện trong thế giới thụ tạo. Đồng thời, Đức Giê-su chia sẻ sự thánh thiện của Người cho tất cả mọi người để mọi người được ơn cứu độ. Do đó, khi chúng ta nói rằng Đức Giê-su là Đấng cứu độ mọi người cũng tương tự như nói rằng Người là Đấng làm cho mọi người trở nên thánh thiện.
Chúng ta đề cập đến sự thánh thiện của Đức Giê-su trong sự liên kết với Chúa Thánh Thần, vì ‘bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ Maria đã thụ thai và sinh hạ Đức Giê-su’. Chính Chúa Thánh Thần đồng hành cùng Đức Giê-su trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả nói về Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người [Đức Giê-su], Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Sau khi Đức Giê-su lãnh nhận Phép Rửa tại sông Gio-đan và chịu cám dỗ trong sa mạc, Người về Na-da-rét. Ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường, người ta trao cho Người sách ngôn sứ I-sai-a, mở sách ra Người gặp đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Đặc biệt, Đức Giê-su mặc khải cho chúng ta Ngôi Vị Chúa Thánh Thần (Ga 14,16.26). Sau khi sống lại và trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su tiếp tục hiện diện và hoạt động trong môi trường nhân loại để thực thi chương trình của Thiên Chúa qua việc thánh hóa nhân loại.
Ý định của Thiên Chúa là tất cả mọi người trở nên thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1,4). Thánh Phao-lô mời gọi các Ki-tô hữu sống đời thánh thiện bằng cách thực thi những việc tốt lành và lánh xa những điều nguy hại, gây tổn thương hoặc đánh mất sự thánh thiện (Ep 5,1-14). Còn thánh Phê-rô khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15-16). Như vậy, trong nhãn quan của thánh Phê-rô và Phao-lô, hiểu biết về sự thánh thiện và thực thi đời sống thánh thiện đi đôi với nhau trong ơn gọi của các Ki-tô hữu.
Đời sống thánh thiện không dành riêng cho cá nhân hay cho cộng đoàn đặc biệt nào trong Giáo Hội. Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II (1962-1965) dành một chương về chủ đề thánh thiện (LG 39-42). Công Đồng nhấn mạnh đến sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa được Đức Giê-su diễn tả và Người trở nên mẫu gương cho con người trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Công Đồng nhấn mạnh tầm quan trọng của thánh thiện theo ‘đấng bậc mình’ và minh định: “Mọi Ki-tô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (LG 11). Tất cả mọi người được mời gọi không ngừng hoán cải để ngày càng trở nên thánh thiện hơn.
Quả thật, sự thánh thiện của con người là ‘sự thánh thiện hoán cải’. Điều này có nghĩa là con người không ngừng trở về với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là đặc điểm chung nhất của các thánh trong lịch sử Giáo Hội. Các ngài không phải là những người ‘sinh ra là thánh thiện’, nhưng là những người không ngừng hoán cải để nhận diện căn tính của mình cách rõ ràng hơn và luôn qui hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất. Con người trở nên thánh thiện nhờ đời sống hòa hợp giữa ‘tâm hồn không ngừng hoán cải’ và ‘ân sủng nhưng không’ của Thiên Chúa. Nói cách khác, con người trở nên thánh thiện khi chân thành đáp lại ân sủng của Thiên Chúa bằng trái tim không ngừng hoán cải của mình.
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Người” (Dt 12,10). Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết người thánh thiện không phải là người không bao giờ bị cám dỗ, người không có tội hay người không bao giờ phạm tội. Người thánh thiện là người luôn ý thức rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh và mình không thể tự làm cho mình trở nên thánh thiện được. Người thánh thiện là người nhận thức rằng mình không ngừng trở về, tìm hiểu, trả lời, thay đổi và tiến tới trong tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Người thánh thiện chính là người hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa và để Người sử dụng mình như khí cụ thuận tay Người.
Sự thánh thiện được thể hiện trong các tương quan của đời sống cá nhân, đời sống cộng đoàn, cũng như tương quan với Thiên Chúa và toàn thể thế giới thụ tạo. Các thánh trong lịch sử Giáo Hội khi đang sống trên trần gian không ai nghĩ rằng mình là ‘một vị thánh’. Các ngài không ‘soi gương ngắm sự thánh thiện của mình’, nhưng luôn hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh với tinh thần đơn sơ, phó thác. Các ngài luôn nhận thấy bản thân mình bất xứng, khiếm khuyết và nhiều khi ‘đêm tối bao phủ tâm hồn’. Thánh Tê-rê-xa A-vi-la, Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, Tê-rê-xa Can-cút-ta là những vị thánh điển hình. Các ngài luôn cảm thấy đời sống mình ‘bất tương hợp’ với danh hiệu và ơn gọi Ki-tô hữu, đặc biệt, ‘bất tương hợp’ với sự thánh thiện và tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng có kinh nghiệm tương tự như vậy. Khi được hỏi: “Ngài là ai?” Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã trả lời: “Tôi là người tội lỗi.”
Với một số người, sự thánh thiện nên ‘dành riêng cho địa hạt tôn giáo’. Tuy nhiên, trong thực tế, sự thánh thiện cần được sống và diễn tả trong bất cứ môi trường nào của thực thể có tên gọi là ‘con người’. Chẳng hạn, để góp phần xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống mà Giáo Hội hằng khuyến khích, cổ vũ, tất cả mọi người được mời gọi ý thức hơn về đời sống thánh thiện của mình. Tương tự như vậy, trong bối cảnh hôm nay, ‘phát triển con người toàn diện’ trở thành khẩu hiệu chung của gia đình nhân loại. Chúng ta có thể khẳng định rằng bao lâu con người chưa ý thức được tầm quan trọng của đời sống thánh thiện, bấy lâu con người còn xa vời mục tiêu đó. Dưới nhãn quan của một số người, phát triển con người toàn diện được thực hiện chủ yếu dựa trên nồng độ tri thức, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Lịch sử nhân loại minh chứng rằng tri thức con người và những sản phẩm của nó có thể đem lại những hoa trái nhất định chứ không phải là yếu tố then chốt cho sự phát triển con người toàn diện.
Người ta kể lại rằng trong đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945), có một viên tướng nói: “Nếu tôi có được mười người như Phan-xi-cô Át-xi-di, tôi có thể chinh phục cả thế giới này”. Chúng ta có thể nhận định: Với quãng đời binh nghiệp truân chuyên, viên tướng đó đã nghiệm ra sự thật rằng sức mạnh lý trí, ý chí và súng đạn không phải là giải pháp tối ưu để ‘bình thiên hạ’. Chỉ có sức mạnh thánh thiện, hy sinh, quên mình của những người như thánh Phan-xi-cô Át-xi-di mới có thể thực hiện được. Câu hỏi đặt ra là ‘vì sao vậy?’ Thưa, vì những người thánh thiện luôn ý thức rằng khi con người chỉ cậy dựa vào mình mà không màng quan tâm đến sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, cũng là khi con người đi đường tăm tối và những hành động của con người không đem lại hạnh phúc thực sự cho mình cũng như anh chị em đồng loại. Các thánh là những người xây dựng đời sống cá nhân, cộng đoàn và gia đình nhân loại bằng những giá trị của Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su đã loan báo và thực thi, chứ không chỉ bằng lý trí, ý chí và những gì thuộc thế gian này.
Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng sự thánh thiện biến đổi con người, biến đổi xã hội, biến đổi thế giới thụ tạo. Đức Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa, đã hiện diện trên trần gian, đã sống trọn thân phận con người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15; 1 Pr 2,22). Theo lẽ thường, đã thánh thiện thì không phải chịu đau khổ (là hậu quả tội lỗi), tuy nhiên, Đức Giê-su, Đấng Thánh của Thiên Chúa đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, của toàn thể gia đình nhân loại để chúng ta được nên thánh. Nhờ Người, vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa thánh thiện và nhân loại tội lỗi được bắc cầu và tất cả mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đi trên Chiếc Cầu này. Trong hành trình dương thế, Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục chương trình của Người.
Là Ki-tô hữu nghĩa là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su. Cuộc đời Ki-tô hữu chính là cuộc đời học hỏi và theo Đường Đức Giê-su, Đường Thánh Thiện. Tuy nhiên, trong khi theo Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su, chúng ta không tránh khỏi những chông gai, cạm bẫy của thế giới bóng đêm và bao hình thức bấp bênh, bất cập khác vì sự yếu đuối của chính mình. Tự bản thân, chúng ta không thể nào vững vàng, kiên định trên Đường Thánh Thiện, nhưng nhờ Chúa Thánh Thần dẫn dắt, chúng ta sẽ vượt qua tất cả những thách đố và chướng ngại. Bao lâu con mắt đức tin của chúng ta còn dõi theo Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su, bấy lâu chúng ta còn có cơ hội đạt tới sự thánh thiện như lòng Người mong muốn.
Hoa trái của sự thánh thiện gia tăng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa. Hoa trái của sự thánh thiện giúp chúng ta sống liên đới với anh chị em chúng ta. Hoa trái của sự thánh thiện tăng thêm sức mạnh để chúng ta có thể đương đầu với muôn thách đố trong cuộc sống. Đặc biệt, hoa trái của sự thánh thiện cho chúng ta sức mạnh để chống lại muôn hình thức cám dỗ của các thế lực sự dữ đang hoành hành trong thế giới thụ tạo. Tắt một lời, hoa trái của sự thánh thiện giúp chúng ta thực thi thánh ý Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói và hành động.
Chúng ta thường xem sự thánh thiện như là một ‘thực tại tĩnh’ hay ‘thực tại thường hằng bất biến’ nơi người nào đó. Thực ra, sự thánh thiện không thể hoàn thành tại một thời điểm nào đó trong đời sống chúng ta, trong lịch sử nhân loại hay trong lịch sử thế giới thụ tạo. Sự thánh thiện luôn là một hướng đi, một lộ trình, một dự án dang dở. Do đó, bao lâu con người còn hiện diện trên dương gian, bấy lâu con người còn phải không ngừng cố gắng sống đời thánh thiện. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng không ai thánh thiện đến mức không cần phải biến đổi, bởi vì, tất cả mọi người đều sống trong môi trường ô nhiễm vì Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này vẫn tiếp diễn cho đến tận thế.
Người thánh thiện có thể trở thành người tội lỗi và ngược lại. Biên giới giữa người thánh thiện và người tội lỗi mỏng manh như làn sương khói vậy. Tên trộm hoán cải trong biến cố Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá là ví dụ điển hình (Lc 23,39-43). Chúng ta có thể noi gương tên trộm về tinh thần hoán cải, chứ không phải là quá khứ trộm cắp. Đời sống của tên trộm không thể được xem là ‘mô hình chuẩn’ cho đời sống chúng ta, bởi vì, tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa là tương quan tình yêu và tình yêu luôn ở thì hiện tại. Không có tình yêu đích thật nào lại vắng bóng sự thánh thiện. Do đó, chúng ta không thể sống trong tình trạng tội lỗi và ăn năn hối cải vào phút chót như tên trộm để được tham dự sự sống, hạnh phúc và bình an vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa mà không phải đau khổ, hy sinh, quên mình trong hành trình trần thế. Thông thường, cây nghiêng bên nào thì ngả bên đó. Đích đến của người sống đời thánh thiện và người sống đời tội lỗi khác nhau (Mt 25,31-46). Hơn nữa, trong Nhà Thiên Chúa có nhiều chỗ ở (Ga 14,2).
Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng ‘khoảng cách’ từ người thánh thiện đến người tội lỗi là ‘khoảng cách gần’, còn từ người tội lỗi đến người thánh thiện là ‘khoảng cách xa’. Bởi vì, sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế dễ bị tổn thương. Để có được sự thánh thiện, con người phải hy sinh, quên mình và cố gắng không ngừng, cho đến khi ‘nhắm mắt xuôi tay’. Chúng ta có thể dùng hình ảnh chiếc cầu để minh họa cho người đang sống thánh thiện có thể trở thành người tội lỗi. Để có chiếc cầu, người ta phải dày công vất vả hàng năm mới có thể hoàn thành được. Tuy nhiên, để phá chiếc cầu, người ta chỉ cần ít thuốc nổ là nó sẽ bị sập tan tành trong giây lát.
Chúng ta là những người tội lỗi, yếu đuối và giới hạn trăm chiều. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân và thánh hóa những người khác nữa. Nếu chúng ta không cộng tác với Thiên Chúa để thánh hóa bản thân hay không ý thức và cố gắng để ngày càng được biến đổi hơn, làm sao chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa để thánh hóa người khác được? Sẽ ngượng ngùng và giả hình biết bao khi chúng ta nói về Thiên Chúa, về Đức Giê-su, về Đường Thánh Thiện của Người mà chúng ta lại đắm chìm trong những tư tưởng, lời nói và hành động không chút âm hưởng hay hơi hướng nào của sự thánh thiện.
Sự thánh thiện không chỉ là chủ đề để chúng ta suy tư, học hỏi mà còn là ‘đường đi’ của chúng ta, là ‘lối sống’ của chúng ta và là ‘hành động’ của chúng ta trong hành trình trần thế này. Đời sống của người thánh thiện không phải là đời sống tách biệt khỏi những gì mà chúng ta gán nhãn ‘trần tục’, ‘sự đời’ hay ‘ngoại lai’ nhưng là đời sống phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của thế giới thụ tạo. Đường thánh thiện luôn là ‘đường hai chiều’. Đời sống của người thánh thiện là đời sống kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện. Đồng thời, đời sống của người thánh thiện là đời sống liên đới với anh chị em mình để không ngừng biến đổi bản thân và môi trường sống sao cho môi trường đó ngày càng được thánh hóa, hầu tất cả mọi người sống xứng hợp hơn với phẩm giá của mình.
Chúng ta trở lại với khái niệm chung ‘thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng của thực thể được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa’ để so sánh với sự thánh thiện theo mặc khải Ki-tô Giáo. Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế cho chúng ta nhận thức rằng thánh thiện cần thiết cho ‘môi trường phàm tục’. Bởi vì, Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện để đến với nhân loại, đến với ‘môi trường phàm tục’. Chúng ta ý thức rằng nơi sự sống sung mãn cũng chính là nơi của sự thánh thiện tuyệt đối và nơi sự chết được hiểu là nơi vắng bóng sự thánh thiện. Thế mà, Đức Giê-su đã tới vực thẳm sự chết. Người đến chia sẻ sự thánh thiện của Người để con người được chung hưởng sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Sống đời Ki-tô hữu không gì khác hơn là sống đời thánh thiện theo khuôn mẫu Đức Giê-su. Chúng ta có thể nhận định rằng ‘người ngoại thánh thiện’ thì hơn ‘Ki-tô hữu tội lỗi’. Đối với các tôn giáo ngoài Ki-tô Giáo, chẳng hạn như Ấn Giáo, Phật Giáo, Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: “Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó” (NA 2). Điều này không có nghĩa rằng các tôn giáo đều như nhau, cũng không có nghĩa rằng các tôn giáo là khác nhau. Sự nhìn nhận những điều tốt lành, thánh thiện nơi các tôn giáo không giảm thiểu sự cần thiết để loan báo Đức Giê-su là Đấng cứu độ duy nhất và Tin Mừng của Người dành cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện đến với gia đình nhân loại và người thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục là dấu chỉ hay khí cụ của Người trong việc thánh hóa muôn dân (LG 1).
Như đã được đề cập ở trên, sự thánh thiện Ki-tô Giáo không chỉ được diễn tả trong các tương quan nội tại của đời sống cá nhân, tương quan với tha nhân, tương quan với Thiên Chúa mà còn được diễn tả trong tương quan với môi trường thế giới thụ tạo. Điều này có nghĩa rằng các tín hữu được mời gọi sống đời thánh thiện trong việc chăm sóc, quản lý và bảo vệ muôn vật muôn loài. Ai yêu mến Thiên Chúa, người đó cũng yêu mến những gì được Thiên Chúa dựng nên. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Người [Thiên Chúa] cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,9-10). Sự thánh thiện Ki-tô Giáo mời gọi các tín hữu ‘mắt hướng về trời, chân tiến bước trên đất’. Điều này có nghĩa là sự thánh thiện không chỉ giới hạn trong việc tôn giáo hay văn hóa, xã hội mà còn lan tỏa đến muôn vật muôn loài. Chúng ta được mời gọi quan tâm và góp phần biến đổi môi trường thế giới thụ tạo bằng chính đời sống của mình.
Đức Giê-su nói: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, tuy nhiên, Người không nói rằng ‘anh em hãy nên hoàn thiện như tôi đây là Đấng hoàn thiện’. Trong hành trình dương thế, Người không bao giờ qui hướng về mình, nhưng luôn qui hướng về Thiên Chúa Cha. Đức Giê-su cho chúng ta biết sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế luôn là sự thánh thiện có hướng, sự thánh thiện tiếp tục trên đường về với Quê Hương Vĩnh Cửu. Là Thiên Chúa trong thân phận con người, Đức Giê-su trở nên Đường Thánh Thiện cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.
Từ những điểm trình bày trên đây, chúng ta có thể khái quát rằng sự thánh thiện thuộc về Thiên Chúa, Người là Đấng Thánh, là Nguồn Gốc và Đích Đến của các hình thức thánh thiện. Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện để đến với thế giới thụ tạo. Người vừa diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa, vừa diễn tả sự thánh thiện của con người. Đặc biệt, sự thánh thiện của Người được diễn tả trong ba năm loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết, sống lại và lên trời, tuy nhiên, trong Chúa Thánh Thần, Người vẫn luôn hiện diện trong gia đình nhân loại. Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục Đường Thánh Thiện của Người bằng việc chia sẻ Lời Chúa, cử hành các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và thực thi bác ái. Tất cả mọi người được mời gọi suy niệm, học hỏi và thực hành Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế của mình.
2020
Giáo lý viên, bạn là ai
Giáo lý viên, bạn là ai
Sáng ngày 26-7-2020 vừa qua, 650 giáo lý viên (GLV) giáo phận Long Xuyên đã hành hương về nhà thờ chính tòa Long Xuyên, trung tâm của giáo phận nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập giáo phận và mừng kính thánh bổn mạng Á thánh An rê Phú Yên tử đạo.
Giáo Lý Viên Gp Long Xuyên hành hương mừng 60 năm thành lập giáo phận 26-7-2020
Dịp này, ĐGM giáo phận đã nhắn nhủ các GLV cần quan tâm một số hoạt động thiết yếu như tích cực tham gia các khóa huấn luyện và thường huấn dành cho GLV; nhiệt tình tham gia, hiệp thông, đồng trách nhiệm với hàng giáo sĩ và tu sĩ để thi hành tác vụ rao giảng của Hội thánh tại địa phương; can đảm dấn thân trong vai trò tông đồ giáo dân, để trở thành muối, men và ánh sáng.
Được biết giáo phận Long Xuyên hiện có 1541 GLV tham gia dạy giáo lý tại 147 giáo xứ, giáo họ. Đây quả thực là một lực lượng đông đảo và hùng hậu. Qua buổi gặp gỡ này ta thấy ưu tư của các đấng bề trên là chất lượng của việc dạy giáo lý. Trong số các anh chị em tham gia dạy giáo lý, bên cạnh nhiều người là giáo viên, sẵn vốn hiểu biết về sư phạm và khả năng truyền đạt tốt, thì vẫn có rất nhiều anh chị em chỉ giảng dạy bằng nhiệt tình. Do đó, trong giai đoạn hiện nay, GLV cần hoàn thiện chính mình, cần học hỏi Kinh Thánh và giáo lý. Chúng ta chỉ có thể cho người khác cái chúng ta có. Cần có hiểu biết về sư phạm giáo lý, tiến tới có kỹ năng truyền đạt, thành thạo vv… [1]
Thiết nghĩ, đây là dịp thuận tiện để chúng ta thoáng suy nghĩ về bản chất, ơn gọi, nhiệm vụ và vai trò của người GLV đang phục vụ trong Hội thánh hiện nay.
1- Giáo lý viên và khái niệm về giáo lý
Trước hết, ta tìm hiểu khái niệm cơ bản về giáo lý là gì.
Theo LM Nguyễn Văn Tuyên, trong cuốn “Sư phạm giáo lý” thì Giáo lý (hay Huấn giáo) là trình bày Lời Thiên Chúa một cách đơn giản, cụ thể, sống động, để giúp tín hữu hiểu và sống đức tin.
Xét về nội dung thì thần học và giáo lý là một. Nhưng xét về phương pháp, thần học và giáo lý khác nhau.
– Thần học trình bày chân lý đức tin theo hệ thống dùng từ ngữ trừu tượng, thiên về ý niệm, và áp dụng phương pháp diễn dịch.
– Giáo lý trình bày Tin Mừng theo nhu cầu và khả năng tâm lý của người nghe, dùng hình ảnh và ngôn ngữ cụ thể, hướng về đời sống, và theo phương pháp qui nạp.
Do đó, giáo lý phải theo đường lối riêng, không thể trở thành một thứ thần học giản lược, thâu gọn, cô động. [2]
Xuất phát từ định nghĩa trên, ta tìm hiểu về nguồn mạch của giáo lý là gì.
Giáo lý trình bày lời Thiên Chúa, nhưng phải tìm Lời Thiên Chúa ở đâu? Lời Thiên Chúa được chứa đựng trong 4 nguồn mạch đức tin:
– Thánh Kinh: Cựu ước (46 cuốn) và Tân ước (27 cuốn).
– Thánh Truyền: một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong các giáo huấn của các giáo phụ.
– Phụng vụ: những gì Giáo hội sống trong phụng vụ thì cũng thuộc lãnh vực đức tin.
– Đời sống của Giáo hội: Giáo huấn của Đức Giáo Hoàng, của các Công đồng, của các Giám mục đoàn, lòng tin của toàn thể dân Chúa cũng là một phần trong kho tàng đức tin của Giáo hội.
Đó là những kho tàng chứa đựng Lời Thiên Chúa và là nguồn mạch của đức tin, giáo lý tổng hợp, tóm lược và trình bày nội dung đó. [3]
2- Giáo lý viên nhận thức về chính mình
Từ điển Công giáo đã định nghĩa GLV như sau:
Giáo lý là học thuyết của tôn giáo; Viên là người. Giáo lý viên là người dạy giáo lý. Giáo lý viên là người cộng tác với mục tử trong việc truyền giáo và huấn giáo: phổ thông, dự tòng, hôn nhân vv.
Theo Giáo Luật, giáo lý viên phải được đào tạo và huấn luyện theo từng cấp. Giáo lý viên không những am tường về giáo lý mà còn là nhà giáo dục, gương mẫu trong đời sống nhân bản và đạo đức, để lời nói, việc làm luôn củng cố và phát triển đức tin của mình và của tha nhân (x. GL. 780; 785).
Các thành phần Dân Chúa trong giáo xứ (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân – nhất là giáo lý viên) nếu không ngăn trở chính đáng, thì nên sẵn sàng giúp cha xứ trong việc dạy giáo lý (x. GL 776). [4]
Trong khi đó, tài liệu huấn luyện GLV đã trình bầy như sau: [5]
Giáo lý viên là người thi hành một sứ mệnh chính thức, quan trọng và siêu nhiên, được Chúa Kitô ủy thác qua Giáo Hội. Vì vậy các Giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân đều là những giáo lý viên có trách nhiệm thi hành sứ vụ này.
Giáo lý viên không phải chỉ là người dạy, nhưng trước hết phải là một chứng nhân (DGL 9.66), một chứng nhân tình yêu. GLV không phải chỉ là người truyền đạt những kiến thức về Thiên Chúa, nhưng phải là người truyền thông một kinh nghiệm gặp gỡ với Thiên Chúa. Nói cách khác giáo lý viên là người luôn tìm cách khám phá ra tình yêu Chúa trong cuộc đời mình cũng như khám phá ra điều gì Chúa đang chờ đợi nơi mình, để nhờ đó dễ dàng giúp người khác tìm gặp và yêu mến Chúa.
Trong một xã hội đa tôn giáo và văn hóa, giáo lý viên thường gặp khó khăn là phải đối diện với những tư tưởng, những niềm tin khác biệt, và có cả những chống đối bên trong và ngoài Giáo Hội. Nhưng với cái nhìn đức tin, việc dạy giáo lý mang đến một niềm vui lớn lao : đó là niềm vui được cộng tác với Giáo Hội trong việc đem Chúa đến với các tâm hồn ; niềm vui được góp phần nhỏ bé của mình trong việc đổi mới lòng con người và niềm vui được đổi mới chính bản thân mình trong đức tin.
3- Giáo lý viên và sứ mệnh trong Hội thánh
Trong cuốn “Sư phạm giáo lý”, LM Nguyễn Văn Tuyên cũng đã đề cập đến hai sứ mệnh chính yếu của người GLV. Tác giả viết như sau:
3.1: GLV thi hành một sứ mệnh chính thức trong Giáo hội. Công việc ủy thác cho GLV bên ngoài có vẻ tối tăm, tầm thường, nhưng thực ra là một công cuộc cơ bản, thiết yếu để xây dựng và mở rộng Nước Thiên Chúa. Những việc quan trọng thường được chuẩn bị một cách âm thầm GLV phải tin vào sứ mệnh của mình.
3.2: Đây là một sứ mệnh có tính chất siêu nhiên:
– Siêu nhiên từ nguồn gốc: Là chính sứ mệnh mà Chúa Cha đã trao cho Chúa Giê-su, Chúa Giê-su trao lại cho Giáo hội, và Giáo hội đã ủy thác lại cho GLV qua Giám mục và Cha sở, “Cũng như Chúa Cha sai Ta thế nào, Ta cũng sai các con như vậy” (Ga 20, 21).
– Siêu nhiên trong chủ đích: Sứ mệnh này này nhằm sinh Chúa Giê-su Ki-tô và làm cho Ngài lớn lên trong các tâm hồn. Đó chính là sứ mệnh làm mẹ trong đời sống siêu nhiên của Giáo hội mà GLV được tham dự. [6]
4- Giáo lý viên và những vai trò, phẩm chất cần có
Chúng ta đều biết rằng, căn cứ vai trò, nhiệm vụ quy định trong Hội thánh thì GLV chẳng những là thầy dạy giáo lý, mà còn là nhà giáo dục đức tin, là chứng nhân tình yêu và Tin Mừng Đức Ki-tô, là nhà truyền giáo nữa. Để thực thi những vai trò này một cách hiệu quả thì GLV cần hội đủ những đức tính và phẩm chất căn bản như có đức tin vững mạnh, có lòng mến dồi dào, có lòng đạo đức nhiệt tình, có lòng quảng đại, biết hy sinh, khiêm tốn, hiền hòa, nhạy bén cộng với sự thành thạo những kỹ năng cần thiết như kỹ năng sư phạm, kỹ năng truyền thông, kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng sinh hoạt nhóm vv.
Ở đây, ta chỉ bàn qua một số phẩm chất chính yếu liên quan đến vai trò của GLV, đó là thầy dạy, người giáo dục đức tin, chứng nhân Tin Mừng và nhà truyền giáo.
4.1: GLV là thầy dạy.
Có thể nói, GLV trước hết là người thầy đứng lớp dạy giáo lý cho học viên. Người thầy có thể là linh mục, tu sĩ nam nữ hay tín hữu giáo dân. Người thầy thì phải là nhà mô phạm, là mẫu gương cho học viên.
Vì là người thầy tức là người truyền đạt kiến thức cho học viên, chúng ta không thể không thông hiểu những gì mình dạy. Người ta chỉ có thể cho những gì mình có. Do đó, GLV cần nắm vững được nội dung giáo lý, tức là toàn bộ Tin Mừng, mà trung tâm là mầu nhiệm và công cuộc cứu rỗi của Chúa Ki-tô. Do vậy, GLV cần được đào tạo và bồi dưỡng liên tục về chính nội dung giáo lý. Đây là một cuộc đầu tư và là món nợ mà các linh mục phải trả sóng phẳng với cộng sự viên của mình. [7]
Mặt khác, vì là nhà giáo, chúng ta cũng phải hội đủ những kiến thức về tâm lý và sư phạm nữa. Thực vậy, muốn Lời Thiên Chúa đạt hiệu năng tối đa, ta còn cần chú trọng đến nhu cầu tâm lý, khả năng tiếp nhận, lối cảm nghĩ của người nghe Lời Thiên Chúa. GLV phải hiểu tâm lý người nghe để tìm đường lối cụ thể và thích hợp nhất làm cho Lời Thiên Chúa trở nên linh động, thấm sâu vào lòng người. [8]
Bên cạnh đó, nên lưu ý điều này là dù chúng ta có tài giỏi đến mấy đi nữa nhưng con người và đời sống của chúng ta chưa là gương sáng thì lời dạy của chúng ta không mang lại hiệu quả gì. Người ta thường nói, “Lời nói như gió lung lay, gương bày như tay lôi kéo” (hay “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”).
Chẳng hạn khi chúng ta yêu cầu học viên đúng giờ thì chúng ta cũng phải nghiêm túc trong giờ giấc. Khi chúng ta khuyên học viên ngay thẳng thật thà thì chúng ta không được sống và cư xử giả dối, lươn lẹo. Khi chúng ta muốn các học viên phải đối xử tử tế với nhau thì chúng ta cũng phải tỏ ra có thiện cảm và yêu mến các học viên, không phân biệt đối xử, không thù ghét và gây bất hòa chia rẽ. Khi chúng ta khuyến khích học viên siêng năng học tập, rèn luyện kiến thức, nâng cao kỹ năng học tập, thì chúng ta phải tích cực trau dồi những điều ấy làm sao để hướng dẫn và giúp học viên càng ngày càng tiến bộ hơn.
Thực vậy, GLV là người thầy của các em không chỉ trong việc giáo dục đức tin mà cũng là thầy trong phương diện nhân bản nữa. Khi tập cho các em các đức tính nhân bản như trung thực, dũng cảm, trách nhiệm, cao thượng, nhân hậu, dấn thân… thiết nghĩ, bản thân người GLV nêu gương sống và thực hành các đức tính này ngay trong những buổi lên lớp của mình qua việc chuyên cần, đúng giờ, soạn bài nghiêm túc, chuẩn bị lên lớp cách cẩn thận, có trách nhiệm trong giờ học (giờ dạy). Và quan trọng hơn hết là người GLV bày tỏ cho các em thấy được tâm tình tin kính (với Thiên Chúa) của mình qua cử chỉ, cung cách, sự trang nghiêm khi cầu nguyện, khi đọc Lời Chúa, khi đi đứng trong nhà thờ vv. [9]
4.2: GLV là người giáo dục đức tin.
Chúng biết rằng, GLV không chỉ đóng khung trong vai trò thầy dạy kiến thức mà thôi, nhưng hơn nữa còn là nhà giáo dục đức tin nữa. Đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Muốn truyền đạt đức tin cho học viên thì chính bản thân chúng ta phải là người có đức tin sống động và thiết thực.
Quả vậy, GLV phải có một đức tin sống động. Bởi vì chỉ ai có kinh nghiệm bản thân về Thiên Chúa, mới có thể đưa anh em mình đến với Thiên Chúa. Một kiến thức chuyên môn của viên kỹ sư không nhất thiết phải ăn khớp với hạnh kiểm của ông. Nhưng trái lại, một GLV không thể truyền đạt giáo lý, nếu không sống chính điều mình truyền dạy, bởi vì giáo lý không phải là một kiến thức suông, mà là một SỨC SỐNG. Lời Chúa mà chúng ta truyền dạy không phải là văn tự chết trong sách, nhưng được thấm nhập vào cuộc đời của người giảng, và nhờ ơn thánh, trở nên sống động để đến với người nghe. Trước khi là thầy dạy, GLV phải là chứng nhân đã. Vì thế, chúng ta phải luôn cầu xin Chúa gia tăng đức tin cho mình qua việc cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa, năng lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và nỗ lực sống điều mình tuyên xưng. [10]
4.3: GLV là chứng nhân Tin Mừng.
Như trên đã nói [5], GLV không phải chỉ là người dạy, nhưng trước hết phải là một chứng nhân (DGL 9.66), một chứng nhân tình yêu cứu độ. GLV không phải chỉ là người truyền đạt những kiến thức về Thiên Chúa, nhưng phải là người truyền thông một kinh nghiệm gặp gỡ với Thiên Chúa. Nói cách khác GLV là người luôn tìm cách khám phá ra tình yêu Chúa trong cuộc đời mình cũng như khám phá ra điều gì Chúa đang chờ đợi nơi mình, để nhờ đó dễ dàng giúp người khác tìm gặp và yêu mến Chúa.
Muốn làm chứng nhân cho Tin Mừng Chúa Ki-tô thì chúng ta phải sống Tin Mừng trước đã.
Sống Tin Mừng là đón nhận Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh vào trong đời mình. Như thánh Phao-lô đã xác tín, “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Khi có Chúa trong đời mình, chúng ta an tâm, vui mừng vì đã được ơn tha thứ, được ơn bình an, được hưởng những hoa quả của Thần Khí, được hạnh phúc làm con cái Thiên Chúa. Lúc đó Chúa chính là sự sống của ta, và nhờ đó ta có thể chia sẻ sự sống ấy cho tha nhân.
Sống Tin Mừng là chúng ta hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào tình thương và sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, đó là sự chọn lựa ưu tiên hàng đầu trong đời sống đức tin của mình.
Sống Tin Mừng là chúng ta biết chú tâm lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Đối với người Ki-tô hữu chân chính, thì việc lắng nghe Lời Chúa luôn kèm theo việc thi hành Lời Chúa. Không thực hành Lời Chúa thì tất cả chỉ là ảo tưởng, là xây nhà trên cát. Thậm chí không thể nói là đã hiểu Lời Chúa, vì như thánh Grê-gô-ri-ô Cả đã viết, “Người ta chỉ thực sự hiểu Lời khi bắt đầu đem ra thực hành”. GLV luôn là người quan tâm giúp học viên tích cực đọc, suy niệm và thực thi Lời Chúa.
Sống Tin Mừng là khi chúng ta luôn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn. Đồng thời cũng lan tỏa niềm vui và bình an ấy đến với mọi người. Chúng ta thực sự trở thành tin vui, tin mừng cho tha nhân. Bởi vì sức hút nơi người tông đồ là niềm vui có Chúa. ĐTC Phan-xi-cô nhân ngày Thế giới Truyền giáo, đã thổ lộ tâm tình của mình với các nhà truyền giáo như sau: “Chúng ta đừng để mình bị tước mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng! Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em” (Sứ điệp truyền giáo năm 2014).
Sống Tin Mừng đòi hỏi chúng ta tích cực thi hành lòng mến Ki-tô giáo. Đó là cách chúng ta làm chứng tá Tin Mừng Đức Ki-tô và là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất. Muốn trở nên người tông đồ thực thụ vì chan chứa niềm vui, người được sai đi loan báo Tin Mừng phải gặp gỡ thân tình với Đức Kitô, cảm nghiệm được ơn gọi và sứ vụ cao quý của mình, và phải yêu mến những người mà mình có cơ hội tiếp xúc, dạy dỗ.
4.4: GLV là nhà truyền giáo.
Do sứ vụ đặc thù của mình, GLV cũng còn được gọi là nhà truyền giáo nữa. Khi dạy giáo lý, đó là chúng ta đang truyền giáo.
Trong Lời Chủ Chăn với chủ đề “GLV anh chị em là ai?”, thuộc bản tin Liên Lạc GP Phan Thiết, số 7-2011, Đức cố GM Giuse Vũ Duy Thống đã chia sẻ như sau:
Trong Giáo Hội xét như sứ vụ, GLV là nhà truyền giáo.
Theo lịch sử truyền giáo tại Việt Nam, ngày xưa các thừa sai đến đâu thì việc đầu tiên các ngài làm là giảng dạy giáo lý và kêu gọi sám hối rồi cử hành nghi thức rửa tội, khiến từ đó việc truyền giáo cũng đồng nghĩa với việc giảng dạy giáo lý, để hôm nay ta có quyền nói: giảng dạy giáo lý một cách nào đó cũng là hoạt động truyền giáo.
Hoạt động truyền giáo và hoạt động huấn giáo có thể được hình dung như hai bước chân trước sau của cùng một nhịp đi. Có người phân biệt cách chí lý rằng: truyền giáo là nhằm rửa tội những người biết sám hối; còn huấn giáo là nhằm sám hối những người đã rửa tội rồi. Có người khác lại chia sẻ cách đơn giản hơn: truyền giáo ban đầu là dùng giáo lý đem Chúa đến cho người ta; còn tái truyền giáo là dùng giáo lý đem người ta trở về với Chúa. Cả hai cách phát biểu đều hay và đẹp, nhưng điều muốn ghi nhận ở đây là mối tương quan không thể tách rời giữa truyền giáo và huấn giáo.
Truyền giáo thuộc về bản chất của Giáo Hội. Không phải vì có Giáo Hội nên mới có sứ vụ truyền giáo, mà ngược lại, vì đã có sứ vụ truyền giáo nên mới có Giáo Hội để tổ chức thi hành. Vì Giáo Hội là truyền giáo, mà truyền giáo và huấn giáo bước song hành, nên tham gia công tác huấn giáo, giảng dạy giáo lý cũng là cộng tác vào công cuộc truyền giáo tại giáo xứ, cho có thêm người biết Chúa, biết tin nhận Chúa và biết sống đẹp lòng Chúa hơn.
Vâng, trong Giáo Hội sứ vụ, anh chị em GLV là những nhà truyền giáo đấy. Vậy anh chị em hãy luôn ghi nhớ khía cạnh sứ vụ này của Giáo Hội, để công tác huấn giáo của anh chị em được chu đáo và nâng cao, không chỉ bằng giáo án khúc chiết mà còn bằng chứng tá đức tin hằng ngày nữa. Giáo lý không chỉ được giảng dạy bằng lời nhưng còn bằng chính đời sống gương mẫu của GLV. [11]
5- Giáo lý viên và nhu cầu về đào tạo
Việc đào tạo, huấn luyện GLV luôn là mối bận tâm lớn của các đấng bậc trong Hội thánh. Nhiều người nhận định rằng tình trạng GLV hiện nay vừa mỏng về số lượng lại vừa đuối về chất lượng. Đó là một thực tế đáng ta suy nghĩ.
Chúng ta thử nêu vài ý kiến tham khảo sau:
– Thư chung của các Giám Mục năm 2011 viết như sau: “Cùng với việc học hỏi Lời Chúa, việc dạy và học giáo lý là đòi hỏi tối cần thiết trong đời sống Giáo Hội, nhất là trong thời đại ngày nay đầy rẫy những luồng tư tưởng nghịch với Tin Mừng. Đại Hội Dân Chúa mong mỏi sớm có được những nguyên tắc, đường hướng và chương trình chung, cũng như một thủ bản chung về giáo lý, vừa trung thành với Tin Mừng vừa gần gũi với văn hóa Việt Nam. Đồng thời, Lời Chúa phải là nền tảng cho mọi chương trình thường huấn cũng như đào tạo chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên”. [12]
– Tại Đại Hội Dân Chúa VN năm 2010, GLV Tổng Giáo phận Saigon cũng đã có bài tham luận trong đó bày tỏ ước vọng liên hệ tới việc huấn luyện GLV như sau: “Trong thời gian vừa qua, số lượng GLV trẻ gia tăng đáng kể nhưng còn thiếu kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa, thiếu kiến thức và trải nghiệm cuộc sống. Chúng con đề nghị Giáo Hội tích cực quan tâm đến việc đào tạo lực lượng GLV chuyên sâu ở mọi lứa tuổi: người trẻ, người trung niên và cả người lớn tuổi”. Bài Tham luận còn đi xa hơn nữa về vấn đề cơ cấu huấn luyện GLV khi phát biểu: “Cuối cùng, chúng con đề nghị mau chóng có một sự thống nhất về cấu trúc, chương trình và những chuẩn mực của các lớp Giáo Lý nói riêng và các hoạt động mục vụ giáo lý nói chung, để tránh sự khác biệt khi áp dụng giữa các giáo xứ như hiện nay”. [12]
– Trong bài viết có tựa đề “Chân dung giáo lý viên hôm nay” [13], các tác giả đã tổng hợp và đưa ra một số nhận định rất cụ thể và chi tiết, xin được trích dẫn vài đoạn, như sau:
Về tình hình GLV hiện nay: Thiếu giáo lý viên được huấn luyện đúng mức. Trong khi lực lượng tu sĩ tham gia giảng dạy giáo lý – mà đa số là nữ tu – thường được huấn luyện về giáo lý cũng như sư phạm, thì không phải mọi GLV khác đều được huấn luyện đầy đủ để thi hành công tác này.
Điều đáng suy nghĩ là hình như chưa có giáo phận nào ở Việt Nam có được một trường hay trung tâm huấn luyện GLV chính danh. Bù đắp lại có chăng là đây đó có được những khóa huấn luyện mà nội dung chương trình, thời hạn đào tạo cũng rất đa dạng tùy nơi, tùy thời và tùy hoàn cảnh.
Riêng ở Tổng Giáo phận Saigon, từ khoảng năm năm trở lại đây, Tòa TGM đã liên tiếp tổ chức các khóa huấn luyện GLV dành cho các giáo xứ trong TGp, mà ứng viên được chọn trong những người trẻ tình nguyện từ các giáo xứ, với chương trình huấn luyện gồm có ba cấp cơ bản và những khóa chuyên sâu nhằm thỏa mãn nhu cầu dạy giáo lý cho nhiều lọai đối tượng khác nhau. Mỗi khóa có cả ngàn người được huấn luyện. Các Giáo phận khác cũng càng ngày càng có những nỗ lực tương tự. Khi chưa tổ chức được một cách quy mô cho cả Giáo phận, thì cũng có những khóa do từng hạt hay từng liên xứ tổ chức, nhưng không phải nơi nào cũng có điều kiện tổ chức.
Tại một số giáo xứ, đặc biệt tại các giáo xứ lớn có đông giáo dân, cha xứ có thể tự huấn luyện GLV cho nhu cầu mục vụ của giáo xứ mình. Nhưng cũng có nhiều giáo xứ không làm được điều này. Có nhiều khi cha xứ chỉ việc chọn lựa dăm ba giáo dân có uy tín trong giáo xứ, không có một sự chuẩn bị đặc biệt nào khác, để phụ giúp ngài trong việc này khi có nhu cầu. Giáo xứ nào may mắn có được những giáo lý viên vốn là cựu chủng sinh hay cựu tu sĩ có đầy đủ khả năng cho công việc và vẫn còn nhiệt tình tham gia giảng dạy thì trách vụ của mục tử nơi đó được nhẹ bớt rất nhiều. Ngoài ra, cũng có những giáo dân tuy không qua những khóa đào tạo chính quy nào, nhưng đã theo học những lớp Thần học cơ bản, những lớp Kinh Thánh vv… hoặc tự trau dồi bằng những sách giáo lý và tài liệu của Giáo hội, sẵn sàng chia sẻ công việc này với cha xứ khi có yêu cầu.
Bởi lý do nhiều nơi, nhiều lúc, thiếu sự huấn luyện đúng mức, nên không ít GLV chưa làm đúng chức năng của mình, mới chỉ làm công việc truyền thụ kiến thức về đạo Chúa, chuẩn bị một cách máy móc cho thụ nhân chịu các bí tích, hơn là giáo dục đức tin. Việc dạy giáo lý nhiều khi chỉ quen với lối truyền thụ cổ điển, không có chỗ cho phản hồi, trao đổi, đối thọai, không dành thời gian cho học viên nêu câu hỏi hay đưa ra những thắc mắc, vì thế lớp học thiếu sinh động, học viên thiếu tích cực, nếu không muốn nói là hoàn toàn thụ động, không chịu động não, không có sự thấu hiểu, đón nhận cần thiết.
Việc dạy giáo lý thường chỉ thu vào thời gian trong lớp học, không chú ý đến việc thực hành, tức là tập thể hiện trong đời sống những điều đã được truyền đạt. Có khi GLV lại dạy rất tùy hứng, thiếu chuẩn bị, nhiều khi lại còn thiếu quan tâm đến sự khác biệt về tuổi tác, trình độ, não trạng, hoàn cảnh của các đối tượng, việc giảng dạy thiếu chiều sâu, nên không đạt được kết quả mong muốn, không giữ được kết quả lâu dài. Bởi tuy Tin Mừng đã được loan báo, nhưng chưa thực sự cảm nhận, người học chưa có xác tín, nên chưa thực sự biến đổi.
Xét cho cùng, điều quan trọng là cần có sự huấn luyện thích đáng: đó là điều Huấn Quyền luôn đòi buộc, vì “nếu không được đảm nhận bởi những người có đào tạo, mọi họat động tông đồ chắc chắn sẽ thất bại”. Để được như vậy, sự huấn luyện phải có tính “toàn diện”, nghĩa là bao gồm mọi chiều kích của nhân cách GLV, và “chuyên biệt”, nghĩa là phù hợp với các đặc tính của công việc mà mỗi giáo lý viên tùy trường hợp được giao phó. Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II đã khẳng định : “Ưu tiên cho chất lượng, nghĩa là ưu tiên cho việc huấn luyện căn bản thích hợp và việc cập nhật hóa luôn luôn. Để bảo đảm cho sứ vụ của Giáo Hội có nhân sự xứng hợp, cốt thiết phải có chương trình đầy đủ và cơ chế thích hợp để đảm nhận việc huấn luyện giáo lý viên về các mặt: từ huấn luyện nhân bản đến huấn luyện thiêng liêng, tín lý, tông đồ và chuyên môn” ./.
Aug. Trần Cao Khải
_____________
[1] http://giaophanlongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20200728151300
[2] LM Nguyễn Văn Tuyên – Sư phạm giáo lý – UB ĐKCG Tp.HCM bản in ronéo năm 1994 trang 9
[3] LM Nguyễn Văn Tuyên sđd trang 10
[4] Mục từ Giáo lý viên – Từ điển Công Giáo – UB GLĐT/ HĐGM VN – NXB TG 2019 trang 347
[5] http://giaophanvinhlong.net/Tai-Lieu-Huan-Luyen-Giao-Ly-Vien.html
[6] LM Nguyễn Văn Tuyên sđd trang 39
[7] LM Nguyễn Văn Tuyên sđd trang 40
[8] LM Nguyễn Văn Tuyên sđd trang 40
[9] http://www.gplongxuyen.org/NewsDetail.aspx?ID=20180731074106
[10] http://www.giaoly.org/vn/nhung-duc-tinh-can-thiet-cua-giao-ly-vien/
[11] http://bangiaolyphatdiem.com/giao-ly-vien-anh-chi-em-la-ai/
[13] http://www.giaoly.org/vn/chan-dung-giao-ly-vien-hom-nay/
2020
Đức Giêsu Kitô – Đường thánh thiện
Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (8)
Đức Giê-su Ki-tô
ĐƯỜNG THÁNH THIỆN
(Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 8 năm 2020)
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng Bảy vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Mục Tử Nhân Lành. Tháng Tám này, cùng nhau chúng ta suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Thánh Thiện. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Nguồn mọi sự thánh thiện. Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, đã đi Đường Thánh Thiện để đến với gia đình nhân loại. Đường đó tiếp tục sống động trong Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm của Người, và được diễn tả cách cụ thể nơi đời sống của các Ki-tô hữu qua mọi thời đại.
Thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng của thực thể (người hoặc sự vật) được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa. Còn theo thánh Tô-ma A-qui-nô, thánh thiện là đức hạnh mà con người diễn tả chính mình cũng như hành động phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Người thánh thiện là người ‘gần với căn tính’ của mình nhất. Kinh nghiệm của các thánh trong dòng lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết như vậy. Đặc biệt, đây cũng là kinh nghiệm của thánh Au-gút-ti-nô và Tô-ma Mơ-tần (Thomas Merton, tu sĩ Dòng Trappist). Nói cách khác, con người càng thánh thiện bao nhiêu, thì càng gần gũi với căn tính của mình bấy nhiêu.
Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu và là Đấng Thánh. ‘Tên’ của Thiên Chúa là ‘Thánh’ (Ed 36,22-24; Lc 1,49). Trong tiếng Do-thái, hạn từ ‘thánh’ là ‘qadosh’ và được dịch sang tiếng Hy Lạp là ‘hagios’. Hạn từ này có nghĩa nguyên thủy là cắt, tách biệt. Thiên Chúa tách ra khỏi những gì phàm tục. Người siêu việt muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Thiên Chúa được tung hô: ‘thánh, thánh, thánh’ (Thiên Chúa ba lần thánh) nhằm diễn tả sự siêu việt với ‘sức mạnh vô song’ và ‘thánh thiện tuyệt đối’ của Người. Cách tung hô này được đề cập hai lần trong bộ Kinh Thánh, một lần trong Cựu Ước và một lần trong Tân Ước (Is 6,3; Kh 4,8). Trong mỗi Thánh Lễ, trước khi bánh và rượu được thánh hiến, cộng đoàn Thánh Thể tung hô ‘thánh, thánh, thánh’. Sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa là đặc tính căn bản nhất, các đặc tính khác liên kết hoặc diễn tả đặc tính thánh thiện của Người.
Thiên Chúa thông truyền sự thánh thiện của Người cho muôn vật muôn loài. Người thông truyền qua việc thánh hiến, tách biệt con người và vật ra khỏi thế giới phàm tục theo ý định của Người. Chẳng hạn, Thiên Chúa đã tách biệt Dân Do-thái khỏi các dân khác và trao ban sứ mệnh cộng tác vào chương trình cứu độ của Người. Trong sách Lê-vi, Thiên Chúa phán: “Các ngươi phải thuộc về Ta, phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Ta là Đấng Thánh, và Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân để các ngươi thuộc về Ta” (Lv 20,26). Ngay trong Dân Do-thái, chi tộc Lê-vi được dành riêng để ‘chuyên lo việc Nhà Chúa’. Một số đồ vật cũng được thánh hiến hay dành riêng cho việc tế tự.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ qua vinh quang của Người. Vinh quang chiếu giãi vào đời sống con người và biến đổi con người thành không gian thánh thiện, nhờ đó, con người diễn tả sự thánh thiện và lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là con người không chỉ thụ động đón nhận phẩm chất thánh thiện Thiên Chúa trao ban, mà còn được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân, thánh hóa người khác và cùng nhau làm lành lánh dữ. Sự thánh thiện song hành với thực thi đời sống luân lý tốt đẹp là hệ quả tất yếu của tương quan giữa Thiên Chúa là Đấng Thánh và con người được mời gọi nên thánh.
Trong phụng vụ của Giáo Hội, theo Kinh nguyện Thánh Thể II: Thiên Chúa là ‘nguồn mạch mọi sự thánh thiện’. Điều này có nghĩa rằng sự thánh thiện của Thiên Chúa là sự thánh thiện Gốc, sự thánh thiện Nguồn. Các hình thức thánh thiện trong môi trường thế giới thụ tạo phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Đặc biệt, sự thánh thiện của Thiên Chúa được biểu lộ cách trọn vẹn nơi sự thánh thiện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế.
Là Thiên Chúa trong thân phận con người, sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả qua hai hình thức phân biệt nhau: ‘Sự thánh thiện từ trên xuống’ và ‘sự thánh thiện từ dưới lên’. ‘Sự thánh thiện từ trên xuống’ có nghĩa rằng Đức Giê-su diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa đối với con người, bởi vì Người là Thiên Chúa thật. ‘Sự thánh thiện từ dưới lên’ có nghĩa rằng Đức Giê-su diễn tả sự thánh thiện của con người, bởi vì Đức Giê-su là con người thật. Nhân danh toàn thể nhân loại, Đức Giê-su đã vâng phục đáp lại chương trình của Thiên Chúa và trở nên mẫu gương hoàn hảo cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Chúng ta có thể nói rằng hai hình thức thánh thiện này trở nên một nơi Đức Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Như vậy, Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện hai chiều, từ Thiên Chúa đến con người và từ con người đến Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, sách Sáng Thế cho chúng ta biết sau khi Nguyên Tổ phạm tội, Thiên Chúa đã ban Lời Hứa về chiến thắng của sự thánh thiện trên sự dữ (St 3,15). Khoảng 700 năm trước Biến Cố Giáng Sinh, ngôn sứ I-sai-a loan báo về Đức Giê-su, Đấng gánh tội nhân loại để muôn người được trở nên thánh thiện (Is 53,11). Trong Tân Ước, khi sứ thần Gáp-ri-en truyền tin cho Đức Ma-ri-a rằng ‘bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su’, thì Đức Ma-ri-a rất bối rối. Sứ thần đã trấn an Đức Ma-ri-a rằng người con mà bà cưu mang là bởi Chúa Thánh Thần và quyền năng Đấng Tối Cao. Người con đó là ‘Đấng Thánh’ và là Con Thiên Chúa (Lc 1,30-35).
Sự thánh thiện của Đức Giê-su được diễn tả cách đặc biệt trong hành trình rao giảng của Người. Trong Diễn Từ Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67). Nhân danh các môn đệ, thánh Phê-rô đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69). Chứng kiến sự thánh thiện và quyền năng của Đức Giê-su trước mẻ cá lạ, thánh Phê-rô nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Với những người Pha-ri-sêu, Đức Giê-su nói: “Ai trong các ông chứng minh được là tôi có tội?” (Ga 8,46). Trong cuộc khổ nạn, sau khi Đức Giê-su trả lời câu hỏi của thượng tế Cai-pha, một tên trong nhóm thuộc hạ của thượng tế đánh Đức Giê-su, thì Người nói: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18,23). Trong thư thứ nhất, thánh Gio-an viết: “Phần anh em, anh em nhận được dầu, do tự Đấng Thánh, và tất cả anh em đều được ơn hiểu biết” (1 Ga 2,20). Cũng trong thư này, thánh nhân viết: “Đức Giê-su đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi” (1 Ga 3,5). Như thế, Kinh Thánh cho chúng ta bức tranh khá đầy đủ về sự thánh thiện của Đức Giê-su.
Không chỉ các môn đệ hay những ai lắng nghe và tin tưởng vào Đức Giê-su mới nhận ra sự thánh thiện của Người, các thế lực chống đối Người hay ma quỉ cũng nhận ra điều đó. Chẳng hạn, khi Đức Giê-su giảng dạy tại Ca-phác-na-um, ngày sa-bát, Người vào hội đường, có kẻ bị thần ô uế nhập la lên: “Ông Giê-su Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1,24). Chứng kiến cái chết của Đức Giê-su và những sự kiện lạ lùng, viên đại đội trưởng và những người canh giữ Đức Giê-su thốt lên: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27,54). Như vậy, sự thánh thiện của Đức Giê-su là sự thánh thiện siêu việt và biểu lộ trong mọi hoàn cảnh. Muôn vật hữu hình và vô hình đều nhận biết, kính sợ và thành khẩn tuyên xưng.
Sự thánh thiện của Đức Giê-su là sự thánh thiện trổi vượt trên tất cả các hình thức thánh thiện trong thế giới thụ tạo. Đồng thời, Đức Giê-su chia sẻ sự thánh thiện của Người cho tất cả mọi người để mọi người được ơn cứu độ. Do đó, khi chúng ta nói rằng Đức Giê-su là Đấng cứu độ mọi người cũng tương tự như nói rằng Người là Đấng làm cho mọi người trở nên thánh thiện.
Chúng ta đề cập đến sự thánh thiện của Đức Giê-su trong sự liên kết với Chúa Thánh Thần, vì ‘bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Đức Trinh Nữ Maria đã thụ thai và sinh hạ Đức Giê-su’. Chính Chúa Thánh Thần đồng hành cùng Đức Giê-su trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả nói về Phép Rửa trong Chúa Thánh Thần: “Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người [Đức Giê-su], Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” (Mc 1,8). Sau khi Đức Giê-su lãnh nhận Phép Rửa tại sông Gio-đan và chịu cám dỗ trong sa mạc, Người về Na-da-rét. Ngày sa-bát, Đức Giê-su vào hội đường, người ta trao cho Người sách ngôn sứ I-sai-a, mở sách ra Người gặp đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Đặc biệt, Đức Giê-su mặc khải cho chúng ta Ngôi Vị Chúa Thánh Thần (Ga 14,16.26). Sau khi sống lại và trong Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su tiếp tục hiện diện và hoạt động trong môi trường nhân loại để thực thi chương trình của Thiên Chúa qua việc thánh hóa nhân loại.
Ý định của Thiên Chúa là tất cả mọi người trở nên thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Trong Đức Ki-tô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người, ta trở nên tinh tuyền thánh thiện, nhờ tình thương của Người” (Ep 1,4). Thánh Phao-lô mời gọi các Ki-tô hữu sống đời thánh thiện bằng cách thực thi những việc tốt lành và lánh xa những điều nguy hại, gây tổn thương hoặc đánh mất sự thánh thiện (Ep 5,1-14). Còn thánh Phê-rô khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để nên giống Đấng Thánh đã kêu gọi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: Hãy sống thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15-16). Như vậy, trong nhãn quan của thánh Phê-rô và Phao-lô, hiểu biết về sự thánh thiện và thực thi đời sống thánh thiện đi đôi với nhau trong ơn gọi của các Ki-tô hữu.
Đời sống thánh thiện không dành riêng cho cá nhân hay cho cộng đoàn đặc biệt nào trong Giáo Hội. Hiến Chế Tín Lý Về Giáo Hội Lumen Gentium của Công Đồng Vatican II (1962-1965) dành một chương về chủ đề thánh thiện (LG 39-42). Công Đồng nhấn mạnh đến sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa được Đức Giê-su diễn tả và Người trở nên mẫu gương cho con người trên bình diện cá nhân cũng như cộng đoàn. Công Đồng nhấn mạnh tầm quan trọng của thánh thiện theo ‘đấng bậc mình’ và minh định: “Mọi Ki-tô hữu, dù ở địa vị nào, bậc sống nào, đều được Chúa kêu gọi đạt tới sự trọn lành thánh thiện như Chúa Cha trọn lành, tùy theo con đường của mỗi người” (LG 11). Tất cả mọi người được mời gọi không ngừng hoán cải để ngày càng trở nên thánh thiện hơn.
Quả thật, sự thánh thiện của con người là ‘sự thánh thiện hoán cải’. Điều này có nghĩa là con người không ngừng trở về với chính mình và với Thiên Chúa. Đây là đặc điểm chung nhất của các thánh trong lịch sử Giáo Hội. Các ngài không phải là những người ‘sinh ra là thánh thiện’, nhưng là những người không ngừng hoán cải để nhận diện căn tính của mình cách rõ ràng hơn và luôn qui hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh duy nhất. Con người trở nên thánh thiện nhờ đời sống hòa hợp giữa ‘tâm hồn không ngừng hoán cải’ và ‘ân sủng nhưng không’ của Thiên Chúa. Nói cách khác, con người trở nên thánh thiện khi chân thành đáp lại ân sủng của Thiên Chúa bằng trái tim không ngừng hoán cải của mình.
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta, để chúng ta được thông phần vào sự thánh thiện của Người” (Dt 12,10). Lịch sử Giáo Hội cho chúng ta biết người thánh thiện không phải là người không bao giờ bị cám dỗ, người không có tội hay người không bao giờ phạm tội. Người thánh thiện là người luôn ý thức rằng chỉ có Thiên Chúa là Đấng Thánh và mình không thể tự làm cho mình trở nên thánh thiện được. Người thánh thiện là người nhận thức rằng mình không ngừng trở về, tìm hiểu, trả lời, thay đổi và tiến tới trong tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Người thánh thiện chính là người hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa và để Người sử dụng mình như khí cụ thuận tay Người.
Sự thánh thiện được thể hiện trong các tương quan của đời sống cá nhân, đời sống cộng đoàn, cũng như tương quan với Thiên Chúa và toàn thể thế giới thụ tạo. Các thánh trong lịch sử Giáo Hội khi đang sống trên trần gian không ai nghĩ rằng mình là ‘một vị thánh’. Các ngài không ‘soi gương ngắm sự thánh thiện của mình’, nhưng luôn hướng về Thiên Chúa là Đấng Thánh với tinh thần đơn sơ, phó thác. Các ngài luôn nhận thấy bản thân mình bất xứng, khiếm khuyết và nhiều khi ‘đêm tối bao phủ tâm hồn’. Thánh Tê-rê-xa A-vi-la, Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, Tê-rê-xa Can-cút-ta là những vị thánh điển hình. Các ngài luôn cảm thấy đời sống mình ‘bất tương hợp’ với danh hiệu và ơn gọi Ki-tô hữu, đặc biệt, ‘bất tương hợp’ với sự thánh thiện và tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng có kinh nghiệm tương tự như vậy. Khi được hỏi: “Ngài là ai?” Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã trả lời: “Tôi là người tội lỗi.”
Với một số người, sự thánh thiện nên ‘dành riêng cho địa hạt tôn giáo’. Tuy nhiên, trong thực tế, sự thánh thiện cần được sống và diễn tả trong bất cứ môi trường nào của thực thể có tên gọi là ‘con người’. Chẳng hạn, để góp phần xây dựng nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống mà Giáo Hội hằng khuyến khích, cổ vũ, tất cả mọi người được mời gọi ý thức hơn về đời sống thánh thiện của mình. Tương tự như vậy, trong bối cảnh hôm nay, ‘phát triển con người toàn diện’ trở thành khẩu hiệu chung của gia đình nhân loại. Chúng ta có thể khẳng định rằng bao lâu con người chưa ý thức được tầm quan trọng của đời sống thánh thiện, bấy lâu con người còn xa vời mục tiêu đó. Dưới nhãn quan của một số người, phát triển con người toàn diện được thực hiện chủ yếu dựa trên nồng độ tri thức, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Lịch sử nhân loại minh chứng rằng tri thức con người và những sản phẩm của nó có thể đem lại những hoa trái nhất định chứ không phải là yếu tố then chốt cho sự phát triển con người toàn diện.
Người ta kể lại rằng trong đại chiến thế giới lần thứ hai (1939-1945), có một viên tướng nói: “Nếu tôi có được mười người như Phan-xi-cô Át-xi-di, tôi có thể chinh phục cả thế giới này”. Chúng ta có thể nhận định: Với quãng đời binh nghiệp truân chuyên, viên tướng đó đã nghiệm ra sự thật rằng sức mạnh lý trí, ý chí và súng đạn không phải là giải pháp tối ưu để ‘bình thiên hạ’. Chỉ có sức mạnh thánh thiện, hy sinh, quên mình của những người như thánh Phan-xi-cô Át-xi-di mới có thể thực hiện được. Câu hỏi đặt ra là ‘vì sao vậy?’ Thưa, vì những người thánh thiện luôn ý thức rằng khi con người chỉ cậy dựa vào mình mà không màng quan tâm đến sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa, cũng là khi con người đi đường tăm tối và những hành động của con người không đem lại hạnh phúc thực sự cho mình cũng như anh chị em đồng loại. Các thánh là những người xây dựng đời sống cá nhân, cộng đoàn và gia đình nhân loại bằng những giá trị của Nước Thiên Chúa mà Đức Giê-su đã loan báo và thực thi, chứ không chỉ bằng lý trí, ý chí và những gì thuộc thế gian này.
Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng sự thánh thiện biến đổi con người, biến đổi xã hội, biến đổi thế giới thụ tạo. Đức Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa, đã hiện diện trên trần gian, đã sống trọn thân phận con người, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi (Dt 4,15; 1 Pr 2,22). Theo lẽ thường, đã thánh thiện thì không phải chịu đau khổ (là hậu quả tội lỗi), tuy nhiên, Đức Giê-su, Đấng Thánh của Thiên Chúa đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, của toàn thể gia đình nhân loại để chúng ta được nên thánh. Nhờ Người, vực thẳm ngăn cách giữa Thiên Chúa thánh thiện và nhân loại tội lỗi được bắc cầu và tất cả mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đi trên Chiếc Cầu này. Trong hành trình dương thế, Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục chương trình của Người.
Là Ki-tô hữu nghĩa là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su. Cuộc đời Ki-tô hữu chính là cuộc đời học hỏi và theo Đường Đức Giê-su, Đường Thánh Thiện. Tuy nhiên, trong khi theo Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su, chúng ta không tránh khỏi những chông gai, cạm bẫy của thế giới bóng đêm và bao hình thức bấp bênh, bất cập khác vì sự yếu đuối của chính mình. Tự bản thân, chúng ta không thể nào vững vàng, kiên định trên Đường Thánh Thiện, nhưng nhờ Chúa Thánh Thần dẫn dắt, chúng ta sẽ vượt qua tất cả những thách đố và chướng ngại. Bao lâu con mắt đức tin của chúng ta còn dõi theo Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su, bấy lâu chúng ta còn có cơ hội đạt tới sự thánh thiện như lòng Người mong muốn.
Hoa trái của sự thánh thiện gia tăng niềm tin, tình yêu và niềm hy vọng của chúng ta vào Thiên Chúa. Hoa trái của sự thánh thiện giúp chúng ta sống liên đới với anh chị em chúng ta. Hoa trái của sự thánh thiện tăng thêm sức mạnh để chúng ta có thể đương đầu với muôn thách đố trong cuộc sống. Đặc biệt, hoa trái của sự thánh thiện cho chúng ta sức mạnh để chống lại muôn hình thức cám dỗ của các thế lực sự dữ đang hoành hành trong thế giới thụ tạo. Tắt một lời, hoa trái của sự thánh thiện giúp chúng ta thực thi thánh ý Thiên Chúa trong tư tưởng, lời nói và hành động.
Chúng ta thường xem sự thánh thiện như là một ‘thực tại tĩnh’ hay ‘thực tại thường hằng bất biến’ nơi người nào đó. Thực ra, sự thánh thiện không thể hoàn thành tại một thời điểm nào đó trong đời sống chúng ta, trong lịch sử nhân loại hay trong lịch sử thế giới thụ tạo. Sự thánh thiện luôn là một hướng đi, một lộ trình, một dự án dang dở. Do đó, bao lâu con người còn hiện diện trên dương gian, bấy lâu con người còn phải không ngừng cố gắng sống đời thánh thiện. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng không ai thánh thiện đến mức không cần phải biến đổi, bởi vì, tất cả mọi người đều sống trong môi trường ô nhiễm vì Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này vẫn tiếp diễn cho đến tận thế.
Người thánh thiện có thể trở thành người tội lỗi và ngược lại. Biên giới giữa người thánh thiện và người tội lỗi mỏng manh như làn sương khói vậy. Tên trộm hoán cải trong biến cố Đức Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá là ví dụ điển hình (Lc 23,39-43). Chúng ta có thể noi gương tên trộm về tinh thần hoán cải, chứ không phải là quá khứ trộm cắp. Đời sống của tên trộm không thể được xem là ‘mô hình chuẩn’ cho đời sống chúng ta, bởi vì, tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa là tương quan tình yêu và tình yêu luôn ở thì hiện tại. Không có tình yêu đích thật nào lại vắng bóng sự thánh thiện. Do đó, chúng ta không thể sống trong tình trạng tội lỗi và ăn năn hối cải vào phút chót như tên trộm để được tham dự sự sống, hạnh phúc và bình an vĩnh cửu của Nước Thiên Chúa mà không phải đau khổ, hy sinh, quên mình trong hành trình trần thế. Thông thường, cây nghiêng bên nào thì ngả bên đó. Đích đến của người sống đời thánh thiện và người sống đời tội lỗi khác nhau (Mt 25,31-46). Hơn nữa, trong Nhà Thiên Chúa có nhiều chỗ ở (Ga 14,2).
Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta nhận thức rằng ‘khoảng cách’ từ người thánh thiện đến người tội lỗi là ‘khoảng cách gần’, còn từ người tội lỗi đến người thánh thiện là ‘khoảng cách xa’. Bởi vì, sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế dễ bị tổn thương. Để có được sự thánh thiện, con người phải hy sinh, quên mình và cố gắng không ngừng, cho đến khi ‘nhắm mắt xuôi tay’. Chúng ta có thể dùng hình ảnh chiếc cầu để minh họa cho người đang sống thánh thiện có thể trở thành người tội lỗi. Để có chiếc cầu, người ta phải dày công vất vả hàng năm mới có thể hoàn thành được. Tuy nhiên, để phá chiếc cầu, người ta chỉ cần ít thuốc nổ là nó sẽ bị sập tan tành trong giây lát.
Chúng ta là những người tội lỗi, yếu đuối và giới hạn trăm chiều. Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc thánh hóa bản thân và thánh hóa những người khác nữa. Nếu chúng ta không cộng tác với Thiên Chúa để thánh hóa bản thân hay không ý thức và cố gắng để ngày càng được biến đổi hơn, làm sao chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa để thánh hóa người khác được? Sẽ ngượng ngùng và giả hình biết bao khi chúng ta nói về Thiên Chúa, về Đức Giê-su, về Đường Thánh Thiện của Người mà chúng ta lại đắm chìm trong những tư tưởng, lời nói và hành động không chút âm hưởng hay hơi hướng nào của sự thánh thiện.
Sự thánh thiện không chỉ là chủ đề để chúng ta suy tư, học hỏi mà còn là ‘đường đi’ của chúng ta, là ‘lối sống’ của chúng ta và là ‘hành động’ của chúng ta trong hành trình trần thế này. Đời sống của người thánh thiện không phải là đời sống tách biệt khỏi những gì mà chúng ta gán nhãn ‘trần tục’, ‘sự đời’ hay ‘ngoại lai’ nhưng là đời sống phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của thế giới thụ tạo. Đường thánh thiện luôn là ‘đường hai chiều’. Đời sống của người thánh thiện là đời sống kết hiệp mật thiết với Đức Giê-su là Đường Thánh Thiện. Đồng thời, đời sống của người thánh thiện là đời sống liên đới với anh chị em mình để không ngừng biến đổi bản thân và môi trường sống sao cho môi trường đó ngày càng được thánh hóa, hầu tất cả mọi người sống xứng hợp hơn với phẩm giá của mình.
Chúng ta trở lại với khái niệm chung ‘thông thường, thánh thiện được hiểu như là tình trạng của thực thể được dành riêng cho mục đích tôn giáo hoặc tiến dâng cho Thiên Chúa’ để so sánh với sự thánh thiện theo mặc khải Ki-tô Giáo. Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế cho chúng ta nhận thức rằng thánh thiện cần thiết cho ‘môi trường phàm tục’. Bởi vì, Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện để đến với nhân loại, đến với ‘môi trường phàm tục’. Chúng ta ý thức rằng nơi sự sống sung mãn cũng chính là nơi của sự thánh thiện tuyệt đối và nơi sự chết được hiểu là nơi vắng bóng sự thánh thiện. Thế mà, Đức Giê-su đã tới vực thẳm sự chết. Người đến chia sẻ sự thánh thiện của Người để con người được chung hưởng sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.
Sống đời Ki-tô hữu không gì khác hơn là sống đời thánh thiện theo khuôn mẫu Đức Giê-su. Chúng ta có thể nhận định rằng ‘người ngoại thánh thiện’ thì hơn ‘Ki-tô hữu tội lỗi’. Đối với các tôn giáo ngoài Ki-tô Giáo, chẳng hạn như Ấn Giáo, Phật Giáo, Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: “Giáo Hội Công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó” (NA 2). Điều này không có nghĩa rằng các tôn giáo đều như nhau, cũng không có nghĩa rằng các tôn giáo là khác nhau. Sự nhìn nhận những điều tốt lành, thánh thiện nơi các tôn giáo không giảm thiểu sự cần thiết để loan báo Đức Giê-su là Đấng cứu độ duy nhất và Tin Mừng của Người dành cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện đến với gia đình nhân loại và người thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục là dấu chỉ hay khí cụ của Người trong việc thánh hóa muôn dân (LG 1).
Như đã được đề cập ở trên, sự thánh thiện Ki-tô Giáo không chỉ được diễn tả trong các tương quan nội tại của đời sống cá nhân, tương quan với tha nhân, tương quan với Thiên Chúa mà còn được diễn tả trong tương quan với môi trường thế giới thụ tạo. Điều này có nghĩa rằng các tín hữu được mời gọi sống đời thánh thiện trong việc chăm sóc, quản lý và bảo vệ muôn vật muôn loài. Ai yêu mến Thiên Chúa, người đó cũng yêu mến những gì được Thiên Chúa dựng nên. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Người [Thiên Chúa] cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: Thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Ki-tô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô” (Ep 1,9-10). Sự thánh thiện Ki-tô Giáo mời gọi các tín hữu ‘mắt hướng về trời, chân tiến bước trên đất’. Điều này có nghĩa là sự thánh thiện không chỉ giới hạn trong việc tôn giáo hay văn hóa, xã hội mà còn lan tỏa đến muôn vật muôn loài. Chúng ta được mời gọi quan tâm và góp phần biến đổi môi trường thế giới thụ tạo bằng chính đời sống của mình.
Đức Giê-su nói: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48). Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Đấng Thánh, tuy nhiên, Người không nói rằng ‘anh em hãy nên hoàn thiện như tôi đây là Đấng hoàn thiện’. Trong hành trình dương thế, Người không bao giờ qui hướng về mình, nhưng luôn qui hướng về Thiên Chúa Cha. Đức Giê-su cho chúng ta biết sự thánh thiện của con người trong hành trình trần thế luôn là sự thánh thiện có hướng, sự thánh thiện tiếp tục trên đường về với Quê Hương Vĩnh Cửu. Là Thiên Chúa trong thân phận con người, Đức Giê-su trở nên Đường Thánh Thiện cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại.
Từ những điểm trình bày trên đây, chúng ta có thể khái quát rằng sự thánh thiện thuộc về Thiên Chúa, Người là Đấng Thánh, là Nguồn Gốc và Đích Đến của các hình thức thánh thiện. Đức Giê-su đã đi Đường Thánh Thiện để đến với thế giới thụ tạo. Người vừa diễn tả sự thánh thiện của Thiên Chúa, vừa diễn tả sự thánh thiện của con người. Đặc biệt, sự thánh thiện của Người được diễn tả trong ba năm loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Người đã chịu nhiều đau khổ, chịu chết, sống lại và lên trời, tuy nhiên, trong Chúa Thánh Thần, Người vẫn luôn hiện diện trong gia đình nhân loại. Người đã thiết lập Giáo Hội để Giáo Hội tiếp tục Đường Thánh Thiện của Người bằng việc chia sẻ Lời Chúa, cử hành các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh Thể và thực thi bác ái. Tất cả mọi người được mời gọi suy niệm, học hỏi và thực hành Đường Thánh Thiện của Đức Giê-su trong hành trình trần thế của mình.
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
2020
Bản Tổng kết Khoá Thường huấn các nhà đào tạo ứng sinh
– Bài tham luận của giáo sư Gilles Berceville về khái niệm tục hóa và những vấn đề liên quan tới khái niệm này đã soi sáng rất nhiều cho chúng ta. Theo đó, chúng ta đã thấy rằng khái niệm này gồm bốn thành phần: một thực tại (A) chịu ảnh hưởng bởi một tiến trình trong đó điều thiêng thánh hay thuộc về Thiên Chúa (D), là những yếu tố trước đây vốn liên kết đặc biệt với nhau (L), giờ đây bị phân rã (B). Thậm chí đôi khi mối liên kết này có xu hướng biến mất hoàn toàn. Quan điểm của Gilles Berceville chứng tỏ rõ ràng rằng khái niệm này trước hết được áp dụng vào lãnh vực pháp luật, nhưng rồi được mở rộng ra để trở thành thích hợp cả với các lĩnh vực lịch sử, xã hội học, triết học. Khái niệm này thậm chí còn được đưa vào trong lãnh vực thần học. Chúng ta cũng phải nhớ rằng kể từ các thế kỉ Ánh Sáng, đặc biệt là trong suốt nửa đầu thế kỉ XX, những cuộc tranh luận quan trọng vẫn diễn ra trong Hội Thánh Công giáo về việc có nên sử dụng các phương pháp thế tục đối với đối tượng là chính Kinh Thánh hay không, nói cách khác, cuộc tranh luận nhắm đến một kiểu tục hóa nào đó đối với việc nghiên cứu và giảng dạy Kinh Thánh.
Những cuộc tranh luận này hầu như đã được vãn hồi nhờ vào các tài liệu của huấn quyền, là những tài liệu dành một khoảng tự do nào đó cho việc nghiên cứu mang tính khoa học đối với Kinh Thánh, đặc biệt là nhờ thông điệp Divino Afflente Spiritu và nhờ Hiến chế tín lý của Công đồng Vaticanô II về mặc khải của Thiên Chúa Dei Verbum.
Vấn đề nằm ở quyền tự trị đúng đắn của các khoa học và lý trí con người trong việc nghiên cứu các đối tượng của chúng, cụ thể ở đây là sách Kinh Thánh. Như giáo sư Gilles Berceville đã chỉ rõ, tại Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh Công giáo đã phân biệt giữa quan niệm chấp nhận được với quan niệm không chấp nhận được về quyền tự trị của các thực tại trần thế. Hiến chế mục vụ về Hội Thánh trong thế giới ngày nay, Gaudium et Spes, phát biểu một cách đặc biệt về vấn nạn này ở số 36: “Nếu như, do sự tự trị của các thực tại trần thế, nghĩa là những thụ tạo và các xã hội tự chúng có những luật và những giá trị riêng, mà con người phải khám phá dần dần, sử dụng và tổ chức, thì việc đòi hỏi quyền tự trị như thế là hoàn toàn chính đáng: đó là điều không những con người thời nay đòi hỏi, mà còn phù hợp với ý muốn của Đấng Tạo Hóa. Chính vì là thụ tạo mà mọi vật đều được thiết lập theo sự vững chắc, chân thực và ưu việt riêng của chúng, cùng với trật tự và những luật đặc thù của chúng.”
Khái niệm về cuộc tạo dựng trong phần trích dẫn trên đây trong Gaudium et Spes đóng vai trò là khái niệm thần học vừa đặt nền móng, vừa tạo ra khuôn khổ cho cuộc tìm kiếm của con người. Một đàng, thụ tạo có quyền tự trị riêng và đàng khác, cũng thụ tạo ấy chiếm hữu một Tác giả là Đấng đã ký thác chính mình để con người săn sóc.
Trong cuốn sách The Secular City: Secularization and Urbanization in Theological Perspective (1965), Harvey Cox đã coi cuộc tạo dựng như được trình bày trong St 1 là nguồn đầu tiên trong ba nguồn Thánh Kinh về tục hóa. Theo ông, quan niệm Thánh Kinh về cuộc tạo dựng dẫn tới việc giải thần thoại đối với thế giới. Cox cũng miêu tả hai tiến trình tục hóa khác mà ông khẳng định rằng chúng có cội rễ trong Thánh Kinh: việc giải thiêng quyền bính mà ông nhận thấy được khai mào trong sách Xuất hành và việc giải thánh những giá trị mà theo ông cuộc chiến chống lại các ngẫu tượng khích lệ (Thập Điều; Sách Isaia Đệ Nhị).
Trong các bài tham luận và phiên làm việc theo nhóm, chúng ta sẽ thảo luận về ba nguồn Thánh Kinh về tục hóa được Harvey Cox miêu tả. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc chú tâm tới quan niệm Thánh Kinh về cuộc tạo dựng và điều mà khái niệm thần học này dẫn đưa tới. Sau đó, phiên làm việc theo nhóm sẽ bàn tới Ítraen và mối tương quan của Ítraen với quyền bính quân chủ: chúng ta có thực sự nghiêng về việc giải thiêng quyền bính được Cox khẳng định hay không? Sau cùng, chúng ta sẽ chú tâm vào cuộc chiến chống lại việc thờ ngẫu tượng. Công cuộc tục hóa có bắt nguồn từ trong Cựu Ước như Harvey Cox khẳng định hay không?
- LUẬN ĐỀ CỦA COX
Theo Cox, cần phải tìm trong Cựu Ước, đặc biệt là trong St1 văn bản xác lập và khai mào tiến trình giải thần thoại đối với thiên nhiên. Khái niệm “giải thần thoại đối với thiên nhiên” là khái niệm vay mượn của Max Weber. Trước trình thuật tạo dựng (và ngay cả trong nhiều xã hội truyền thống hiện nay), con người sống trong một vũ trụ hân hoan và thần diệu tràn đầy những năng lực khác nhau, những thần linh, những quyền lực thiên giới hay hạ giới. Trong những xã hội về căn bản là những xã hội nông thôn truyền thống, linh vật giáo thống trị và con người phải xem sao, chọn ngày tốt cho các công việc của mình, xoa dịu các thần linh và các thần đất thần sông. Ở miền Cận Đông cổ đại, trong thời kì St1 được viết ra, quan niệm thần diệu như thế về vũ trụ vẫn thống trị cả trong những tôn giáo tinh túy nhất, ví dụ như ở miền Lưỡng Hà hay ở Aicập. Trong các thần thoại Babilon và Aicập, mặt trời và mặt trăng là những vị thần hay những vị bán-thần. Thiên nhiên thường được thần hóa. Tôn giáo của miền Canaan đưa gương mặt Baal nổi trội hơn, thường được giới thiệu bằng con bò và đó chính là vị thần ban phát cho người ta lúa mì, rượu nho, dầu vì chính vị thần này ban phát sương mai hay mưa móc, đáp lại hiến vật của các tín hữu.
Theo Cox, sự mới mẻ nơi St1 là trao giới tự nhiên cho con người và con người trở nên người chịu trách nhiệm đối với giới tự nhiên. Thiên Chúa trong St1 không có hình ảnh, nhất là trong các tinh tú hay trong các sức mạnh thiên nhiên. Nói cách khác, vị Thiên Chúa này không có gốc gác thuộc về vũ trụ, Ngài riêng biệt và tách hẳn khỏi công trình tạo dựng của Ngài. Tóm lại, vị Thiên Chúa này là một vị Thiên Chúa khai mở và đồng hành với một lịch sử hơn là thánh hiến một thế giới khác. Nền nhân học nổi bật trong bài thơ ở St1 miêu tả con người như là kẻ ban phát tên gọi và được kêu gọi thống trị thiên nhiên. Con người đầu tiên này một cách nào đó cũng là một loại thuốc giải đối với vật tổ giáo của các xã hội truyền thống, tức là một loại thuốc giải cho mối tương quan đặc quyền và tạo cảm giác an toàn là mối tương quan có thể gìn giữ các thành viên của một bộ tộc với một ông tổ cùng tên nhờ trung gian của các vật thể thánh thiêng.
Tóm lại, theo Cox, St1 khai mở tư tưởng về sự không liên tục giữa con người và thiên nhiên. Chính nét mới mẻ này về mặt tư tưởng do niềm tin Thánh Kinh cho phép kiểu “technopolis”, thành phố kĩ nghệ hiện đại và sự xuất hiện của các khoa học tự nhiên. Theo ông, đó cũng chính là điều kiện dự kiến căn bản đối với việc đô thị hóa hiện đại và sự xuất hiện của các khoa học, vì kể từ thời điểm con người có thể đối mặt với thế giới tự nhiên mà không sợ hãi nhưng tự đặt mình đối diện với thế giới tự nhiên mà các khoa học có thể xuất hiện. Bao lâu con người vẫn coi thiên nhiên như là một kiểu mở rộng của chính mình hay của nhóm mình, hoặc như là vỏ bọc của thần linh, khoa học chưa thể nào xuất hiện được.
- SÁNG THẾ 1
Khoa chú giải hiện đại về Sáng thế 1 có xác minh luận đề của Cox hay không? Trước khi trả lời câu hỏi này, trước tiên, chúng tôi muốn chú tâm vào bản văn này. Chúng ta cũng không cần phải cùng đọc đoạn văn này vì chúng ta đều biết đoạn văn này rồi. Tuy nhiên, ở những dòng sau đây, tôi muốn đưa ra một số những đặc tính nổi bật.
Nét độc đáo của St1 chỉ có thể hiện ra khi đem so sánh với những huyền thoại sáng tạo khác của miền Cận Đông cổ đại và với trình thuật sáng tạo thứ hai trong Thánh Kinh: St 2. Nghiên cứu của ngành chú giải hiện nay đã đi tới một sự đồng thuận về sự kiện rằng trong hai trình thuật Thánh Kinh về cuộc tạo dựng, trình thuật mới hơn chắc hẳn là St1, là trình thuật được coi như sản phẩm thuộc truyền thống tư tế và có niên đại khoảng cuối thế kỉ thứ 6 trước CN, nghĩa là trong những thập niên kế tiếp cuộc hồi hương sau lưu đày.
Nội dung của bản văn này chúng ta đã biết rồi. Chúng tôi chỉ nêu ra một số điểm mà theo chúng tôi là quan trọng. Ở đây, chúng ta có một bài thơ trong đó Thiên Chúa tạo dựng nhờ lời Ngài khi ngài phân chia và phân biệt các yếu tố. Bài thơ này có cấu trúc chặt chẽ dựa vào các con số-then chốt và các công thức lặp đi lặp lại. Con số bảy xuất hiện nhiều lần: bảy ngày; bảy lần công thức “và Thiên Chúa thấy rằng … tốt”; bảy từ ở St1,1 được dùng làm tiêu đề trong trình thuật. Con số mười xuất hiện trong mười lời của Thiên Chúa tạo ra nhịp điệu cho trình thuật. Cần phải so sánh bài thơ này với các công thức luật pháp của mười giới luật trong Thập Điều hay trong Xh 34. Điệp khúc “qua một buổi chiều và một buổi sáng: đó là ngày thứ x” vạch ranh giới sáu ngày đầu tiên. Công thức “Thiên Chúa phán”, nối kết sự liên tiếp của các sự kiện với hành động phát ngôn của Thiên Chúa, lặp lại mười lần nhằm sắp đặt vũ trụ. Công thức gồm mệnh lệnh – thi hành “Phải có x + chủ thể thay đổi… liền có như vậy” lặp lại 5 lần và công thức đánh giá “Thiên Chúa thấy rằng… tốt đẹp” xuất hiện vào các ngày 1, 3, 4, 5, và 6.
Trật tự của công trình tạo dựng trong St1 đảo ngược so với trật tự trong St 2, bởi vì trong bản văn đầu tiên, cuộc tạo dựng bắt đầu bằng các loại cây cối (1,1-13), rồi đến các giống vật (1,20-25), rồi cuối cùng là con người (người nam và người nữ cùng với nhau: 1,26-27). Tất cả công trình tạo dựng diễn ra theo kế hoạch tiến triển từng bước, trong đó ta có thể đọc được sự đối xứng liên quan đến các ngày trong cuộc tạo dựng: ba ngày đầu được đặt song song với ba ngày liền sau đó[1]. Vũ trụ được miêu tả là tốt đẹp và hài hòa. Con người và các giống vật được tạo dựng để ăn rau, mặc dù các loài phải được phân biệt nhờ bản chất thức ăn của chúng.
So sánh với các thần thoại về cuộc tạo dựng của miền Cận Đông cổ đại
Ý kiến của Cox rằng Sáng thế 1 giải thần thoại thiên nhiên đến từ đâu? Nếu khái niệm giải thần thoại thế giới được vay mượn của Max Weber, thì ý niệm rằng Sáng thế 1 là một phiên bản giải huyền thoại của áng thơ vĩ đại Babilon về cuộc tạo dựng có tên Enuma Elish phải được tính là thuộc về nhà chú giải người Đức Hermann Gunkel[2]. Gunkel đã là người đầu tiên đề nghị xem nơi St1 là một “phiên bản” của các huyền thoại thuộc miền Cận Đông cổ đại: tehôm (vực thẳm, câu 2) hẳn là giới thiệu kiểu giải huyền thoại của tên gọi vị nữ thần biển cả thủa hồng hoang trong Enuma Elish. Tình trạng hỗn mang hẳn là trạng thái thế giới trước khi có vũ trụ. Cuộc tạo dựng hẳn là kết quả của trật tự xuất phát từ tình trạng hỗn mang.
Khi đặt St1 trong viễn ảnh của Enuma Elish và các trình thuật khác về cuộc tạo dựng thuộc miền Cận Đông, Gunkel hiểu rằng cuộc tạo dựng nơi St1 là một hành động bình định của Thiên Chúa, khá xa với Chaoskampf mà ta tìm thấy trong Enuma Elish. Trong thiên thi ca này, nguồn gốc của thế giới được miêu tả như là kết quả của cuộc chiến ban đầu giữa Tiamat (vị nữ thủy thần thuở hồng hoang) và vị thần Marduk. Sau chiến thắng của Marduk, việc chia cắt và phân tách các yếu tố thuộc xác chết của Tiamat làm sinh ra các yếu tố trong vũ trụ. Ngược lại, trong sách Sáng thế, không có chiến trận và các yếu tố của vũ trụ không còn phát xuất từ thân thể của vị nữ thần, và như vậy không còn là các thần minh nữa.
Những ghi nhận này của Gunkel đã mở đường cho suy tư của nhiều nhà nghiên cứu và những người giảng dạy. Ý niệm rằng Sáng thế 1 giải thiêng thiên nhiên (hay giải thần thoại thiên nhiên) là một trong những hoa trái của điều này.
- SÁNG THẾ 1 NHƯ LÀ VŨ TRỤ LUẬN[3] VỀ THÁNH ĐIỆN
Theo Gunkel, mẫu hình của Chaoskampf (cuộc chiến chống lại hỗn mang) mà ta thấy trong Enuma Elish là kiểu mẫu của cuộc tạo dựng mà chúng ta có thể tìm thấy trong lương tâm đại chúng của các dân tộc thuộc miền Cận Đông cổ đại. Như vậy, Gunkel đã tìm lại được mẫu hình này trong một số thánh vịnh và một số đoạn văn ngôn sứ, trong đó cuộc chiến với các sức mạnh hỗn mang (con rồng hay biển cả) thật rõ ràng.
Một thế kỉ sau, các công trình của Gunkel tiếp tục được nhìn nhận là quan trọng, nhưng các trình thuật về cuộc tạo dựng cũng như những ví dụ bổ sung của Chaoskampf đã xuất lộ ngày càng nhiều ở vùng Cận Đông cổ đại. Bởi thế, mẫu hình về cuộc chiến chống lại hỗn mang cần được thường xuyên lượng định lại. Một vài trong số những lượng định lại (Smith[4], Nihan[5]) đã dẫn tới việc đưa mẫu hình này vào trong một lược đồ lớn hơn, là lược đồ của huyền thoại tạo dựng xây dựng bắt đầu từ St1 tới Xh 40. Quả vậy, công việc nghiên cứu gần đây về Sáng thế 1 luôn xem các huyền thoại về tạo dựng thuộc miền Cận Đông cổ đại và đặc biệt là Enuma Elish như là một hậu cảnh mà Sáng thế 1 đã sửa đổi. Nhưng không chỉ để thấy trong chương này một kiểu giải huyền thoại đối với các yếu tố thần linh, mà còn để thấy được nơi đây một miêu tả về vũ trụ như là thánh điện.
Đâu là những nền tảng thuộc khoa chú giải đối với việc hiểu Sáng thế 1 như là vũ trụ luận về thánh điện? Trước tiên, ta thấy ý niệm này trong những câu như Thánh vịnh 78,69 (“Chúa xây thánh điện Người như trời xanh cao thẳm, và cũng như trái đất Người đặt vững muôn đời”; cũng phải ghi nhận rằng nếu như Thiên Chúa xây thánh điện Người như trời xanh, thì điều trái ngược lại cũng đúng và vũ trụ được xây dựng như một thánh điện) hay G 38,4-11 là đoạn văn sử dụng các hình ảnh của việc xây dựng thánh điện để nói về cuộc tạo dựng: “nền móng… kích thước… đế… đá góc… cửa đóng then cài”.
Giữa St 1 và những chỉ dẫn về việc xây dựng Lều Hội Ngộ trong Xh 25-31 cũng có nhiều điểm song song: Đức Chúa (Yhwh) ra lệnh cho Môsê về việc dựng nơi cư ngụ bằng bảy diễn từ (Xh 25,1-30,10; 30,11-16; 30 17-21; 30,22- 33; 30,34-38; 31,1-11; 31,12-17). Nội dung của bảy diễn từ đưa ra những điểm song song với bảy ngày của cuộc tạo dựng. Ví dụ, Thiên Chúa tập trung các nguồn nước dưới dạng biển cả vào ngày thứ ba. Điều này có thể được đặt song song với chỉ dẫn thứ ba đối với Môsê, trong đó ông phải tạo một vạc đồng dùng vào việc tẩy rửa. Cũng vậy, trình thuật về ngày thứ bảy trong cuộc tạo dựng được nêu ra trong diễn từ thứ bảy là diễn từ chứa đựng một lời nhắc nhở về cách thức mà Thiên Chúa đã nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Chúng ta còn có thể kể ra những điểm song song khác, như sự kiện Thiên Chúa chúc phúc và thánh hóa ngày Sabát, cũng như Môsê chúc lành lều Nhà Tạm khi hoàn tất việc dựng Nhà Tạm (St 2,3; Xh 39,43; 40,9). Cuối cùng, Thiên Chúa ngự trên Nhà Tạm giống như ruah của Ngài bay lượn trên mặt nước (St1,2; Xh 40,34).
Chúng ta cũng có thể đưa ra những điểm song song với việc xây dựng thánh điện của vua Salômôn như được 1 V 6-8 miêu tả lại. Vua Salômôn xây cất thánh điện trong bảy năm, tổ chức một lễ hội bảy ngày và thánh hiến thánh điện vào ngày thứ bảy, tháng thứ bảy và đọc bảy lời chuyển cầu. Vua Salômôn trang trí thánh điện với các hình ảnh gợi lại vườn Êđen (x. 1 V 6-7).
Chúng ta còn có thể đi xa hơn khi giờ đây xem xét trình thuật tạo dựng thứ hai, St 2-3. Chúng ta thấy được những điểm tương đồng giữa vườn Êđen và nơi Cực Thánh, là hai nơi mà các cherubim hiện diện (St 3,24; Ed 28,14), các vị này được định vị ở phía đông (St 3,24; Ed 40,6). Trụ đèn là một kiểu cây sự sống (Xh 25,31-36; Flavius Josephus, Antiquities 3.145). Khu vườn có những yếu tố chung với thánh điện (1 V 6-7) như nguồn nước (St 2,10; Ed 47,1-12 [Kh 21,1-2]) hay sự kiện thánh điện được định vị trên một ngọn núi (Ed 28,14.16; 40,2; 43,12). Thiên Chúa cư ngụ nơi đó [bước đi: hithallek] (St 3,8; Lv 26,11-12; Đnl 23,15; 2Sm 7,6-7).
Cũng còn có những điểm tiếp xúc về mặt văn chương theo đó Ađam được xem như một tư tế: ông phải phục vụ [‘abad] và trông giữ [shamar] vườn (St 2,15). Ds 3,7-8 ghi rằng: “Các thầy Lêvi phải đảm nhiệm [shamar] công việc của nó, cũng như công việc của toàn thể cộng đồng trước Lều Hội Ngộ, để lo [‘abad] phục dịch [‘abodah] Nhà Tạm. Chúng sẽ trông coi [shamar] tất cả các vật dụng trong Lều Hội Ngộ, đồng thời đảm nhiệm công việc của con cái Ítraen để lo [‘abad] phục dịch [‘abodah] Nhà Tạm (xem thêm Ds 8,26; 18,5-6; và Ds 17,12-18,6).
Ađam cũng được mặc cho những y phục mà Thiên Chúa sẽ ban cho Aharon làm áo mặc. Ở St 3,21: “Thiên Chúa làm [‘asah] cho con người và vợ con người những chiếc áo [kathoneth] bằng da và mặc [labash] cho họ …”. Xh 28,39- 41 ghi rằng: “Ngươi sẽ dệt một áo dài [labash] bằng sợi gai mịn, và làm [‘asah] một mũ tế bằng sợi gai mịn. Ngươi sẽ làm [‘asah] một đai lưng: đó là công trình của thợ thêu. Ngươi sẽ may áo dài [kathoneth] cho các con ông Aharon và làm [‘asah] đai lưng cho họ. Ngươi cũng sẽ làm [‘asah] cho họ những chiếc mũ để họ được vẻ uy nghi rực rỡ. Ngươi sẽ cho Aharon anh ngươi, và các con ông mặc [labash] các phẩm phục ấy…”. Các tư tế phải che phủ sự trần trụi của họ trước mặt Thiên Chúa (x. St 3,10; Xh 20,26; 28,42).
Để quay trở lại với ngày Sabát, chúng ta thấy ngày này là đỉnh điểm của cuộc tạo dựng và ngày này minh chứng rằng mục đích của công cuộc tạo dựng là việc thờ phượng Đức Chúa. Vậy trong bản văn St1, việc tạo dựng không chỉ đơn thuần là một cái khung cho sự sống, mà còn chính là nơi dành cho sự hiệp thông với Thiên Chúa. Không có gì ngạc nhiên khi ta tìm thấy trong bản văn này những yếu tố hầu như mang tính phụng vụ, chẳng hạn các điệp khúc (hay các công thức) được lặp lại thường xuyên trong suốt bản văn.
- Nihan[6] đi một bước bổ sung và kết nối St1 với Xh 25- 40. Theo ông, việc thiết lập Lều Hội Ngộ trong trình thuật tư tế lấy lại một mẫu hình truyền thống thuộc miền Cận Đông cổ đại: mẫu hình của lễ đăng quang của thần minh sau chiến thắng của thần minh trên tình trạng hỗn mang nguyên thủy. Trình thuật tư tế về cuộc tạo dựng thế giới kể lại chiến thắng trên vực thẳm nguyên thủy nhưng trong khuôn khổ của một độc thần giáo là tôn giáo dành ít chỗ cho các thần minh khác, các quái vật thần thoại và các hữu thể siêu nhiên thuộc đủ loại. Việc xây dựng thánh điện (nơi thánh) được thay thế bằng việc thiết định ngày sabát (thời gian được thánh hiến, tách riêng khỏi phần còn lại của tuần đúng như thánh điện được tách riêng ra khỏi thế giới phàm tục). Theo ông, nét tiến triển này phản ảnh rõ ràng kinh nghiệm của thời lưu đày và của việc phá hủy đền thờ Giêrusalem[7].
Ông cũng ghi nhận rằng việc xây dựng thánh điện Đức Chúa trong Xuất hành 25-40 diễn ra ít lâu sau một cuộc xung đột chống lại các khối nước nguyên thủy, lần này bối cảnh là cuộc vượt qua biển. Bối cảnh ấy đưa ra mẫu hình của việc phân chia nước là yếu tố đặc biệt quan trọng đối với Văn phẩm tư tế ở Xh 14, mang âm hưởng của việc phân chia các khối nước phía dưới và phía trên và của việc ấn định một khu vực trung gian là đất cạn ở St1,6-10.
Vậy ông cho rằng việc xây dựng thánh điện của Đức Chúa trong sách Xuất hành nhằm cung cấp cho Đức chúa một nơi mà vinh quang Ngài ngự trị giống như trong Enuma Elish, việc xây dựng thánh điện dùng để mừng chiến thắng của Marduk đối với Tiamat. Việc xây dựng một thánh điện trong sách Xuất hành là một cống vật đáp trả lại vinh quang (kabod) mà Thiên Chúa đã biểu lộ trước mặt con cái Ítraen khi vượt qua biển, đúng y như việc xây dựng đền thờ Marduk là lòng tôn kính mà các Anunnakis (nhóm các thần minh) dành cho Marduk.
Như vậy, đối với Nihan, việc xây dựng thánh điện trong Văn phẩm tư tế phản ảnh một dạng kết hợp giữa đền thờ và cuộc cử hành của thần minh chiến thắng trên những kẻ thù huyền thoại trong cuộc tạo dựng thế giới. Tất cả phần phân tích này gợi ý rằng trình thuật tư tế của các sách Sáng thế – Xuất hành phải được coi như là một huyền thoại rất tinh túy về nguồn gốc, nơi đó Đức Chúa (chứ không còn là Marduk) là Đấng sáng tạo thế giới và nơi đó mục đích của cuộc tạo dựng là sự cư ngụ của Đức Chúa giữa lòng dân Ngài chứ mục đích đó không còn phải là đặt nền đền thờ “Esangelia” tại Babilon.
- KẾT LUẬN
Bây giờ chúng ta có thể trở lại với câu hỏi xuất phát: Sáng thế 1 có nhắm tới việc giải thần thoại đối với thiên nhiên như H. Cox khẳng định hay không? Câu trả lời của chúng ta sẽ là lấp lửng: có và không.
Có, vì St1 sửa đổi chất liệu huyền thoại thuộc miền Cận Đông cổ đại, trong đó cuộc tạo dựng vũ trụ là kết quả cuộc chiến của thần minh chống lại tình trạng hỗn mang. Ở chỗ mở đầu của sách Sáng thế, độc giả có thể ngóng chờ cuộc xung đột giữa gió (hay thần khí) của Thiên Chúa với các khối nước trong vũ trụ. Nhưng việc nhắc tới các khối nước trong vũ trụ như là kẻ thù của Thiên Chúa bị giảm nhẹ. Việc nhắc tới thủy quái khổng lồ tanninim ở St1,21 cho thấy rằng quyền lực của Thiên Chúa là vô song, vượt mọi quyền lực khác, không thể có bất cứ sự đối lập nào. Các quái vật trong vũ trụ không còn là các lực lượng nguyên thủy chống đối vị Thiên Chúa của Ítraen nữa. Chúng là những thụ tạo như tất cả các thụ tạo trong bản văn này. Điều đó cũng đúng cả với mặt trời và mặt trăng, những thứ được gọi một cách đơn giản là “vầng sáng lớn” và “vầng sáng nhỏ hơn” (1,16). St1 không còn miêu tả các tinh tú bằng dáng vẻ thần minh. Trong St1, Thiên Chúa nói và làm, chứ không còn là cuộc xung đột của các thần minh. Các yếu tố ngoan ngoãn khép mình vào trật tự do lời mà không có xung đột. Theo nghĩa này, St1 giải huyền thoại giới tự nhiên[8].
Tuy nhiên, cũng phải lưu ý rằng St1 không tục hóa hoàn toàn vũ trụ, bởi vì bản văn này được xem là thánh điện của Đức Chúa và vì việc thờ phượng là mục đích của cuộc tạo dựng … Cuối cùng chính sự thay đổi hệ quy chiếu triết học gần đây đã dẫn tới việc xem St1 như là một bản văn tục hóa giới tự nhiên, nhưng điều đó chỉ đúng nếu như người ta đọc bản văn này bằng con mắt hiện đại chứ không bằng con mắt của người Ítraen cổ xưa. Như J. Walton gần đây đã tranh luận về điều này[9], bài thơ trong St1 và khoa học hiện nay không thuộc về cùng một hệ quy chiếu triết học căn bản vì khái niệm về hữu thể học[10] đã dần dần thay đổi. Từ một khái niệm hữu thể học thiết dụng trong đó một vật chỉ tồn tại khi chúng có vai trò trong một hệ thống trật tự[11], chúng ta chuyển qua một khái niệm hữu thể học vật chất trong đó một vật tồn tại dựa vào những đặc tính vật lý của nó.
Tóm lại, nếu như phần lớn St1 giải huyền thoại giới tự nhiên, không phải vì thế mà bản văn này tục hóa giới tự nhiên.
Vincent Sénécha
__________
[1] Ngày đầu tiên, ánh sáng được tạo dựng và ngày thứ tư, các vầng sáng; ngày thứ hai, các khối nước được phân chia nhờ cái vòm (ở dưới = nước; bầu trời = vòm) và ngày thứ năm, các loài chim được tạo dựng và bay trên vòm trời, các loài cá để bơi trong nước (ở dưới = nước = cá; bầu trời = vòm = chim); ngày thứ ba, mặt đất và các loài cỏ cây được tạo dựng và ngày thứ sáu, các giống vật và loài người đi trên mặt đất và ăn rau cỏ được tạo dựng.
[2] Gunkel, Hermann, Schõpfung und Chaos in Urzeit and Endzeit, Gốttingen: Vandenhoeck und Ruprecht, 1895.
[3] Từ mới này nhằm dịch cách diễn tả “Temple Cosmology” trong tiếng Anh.
[4] Smith, Mark, The Origins of Biblical Monotheism. Israel’s Polytheistic Background and the Ugaritic Texts, New York: Oxford University Press, 2001, p. 167-170.
[5] NihaN, Christophe, From Priestly Torah to Pentateuch: A Study in the Composition of the Book of Leviticus, Tubingen: Mohr Siebeck, 2007, p. 60-61.
[6] NihaN, Priestly Torah.
[7] Cf. BaukS , Michaela, “Le Shabbat: un temple dans le temps”, in
Etudes Théologiques et Religieuses 77 (2002), p.473-490.
[8] Có lẽ phải thêm rằng ở St 1,26-28, có lẽ chúng ta có một cuộc luận chiến mặc nhiên chống lại việc tạo ra những hình tượng bởi vì chính nhân loại đã trở nên hình ảnh của Thiên Chúa Ítraen (Smith, Origins, p. 170).
[9] WaltoN, JohN, “ Creation in Genesis 1:1-2:3 and the Ancient Near East: Order out of Disorder after Chaoskampf ”, in Calvin Theological Journal 43 (2008), p. 48-63.
[10] Hữu thể học có thể được định nghĩa như là ngôn ngữ về “điều tồn tại”, hay như là triết học về hữu thể.
[11] Nói cách khác, sự tồn tại không liên quan gì với tình trạng vật chất trong kiểu hệ thống này. Trong một nền hữu thể học như thế, làm cho một vật gì đi tới hiện hữu (tức là tạo ra vật gì) có nghĩa là cho vật đó một chức năng và một vai trò, chứ không phải là cho vật đó những đặc tính vật lý.