2020
Bộ Giáo dục Công giáo gửi thư cho các trường Công giáo
Bộ Giáo dục Công giáo gửi thư cho các trường Công giáo
Bộ Giáo dục Công giáo gửi thư cho các trường Công giáo
Thứ Tư 09/9, Bộ Giáo dục Công giáo đã gửi thư cho các trường học Công giáo, mời gọi những người có trách nhiệm trong lĩnh vực này, khi giáo dục cần tập trung vào mối tương quan với con người cụ thể và thực tế.
Trong thư, trước hết, Bộ Giáo dục Công Giáo nói đến việc các hệ thống giáo dục trên khắp thế giới đã bị ảnh hưởng như thế nào bởi đại dịch, cũng như những nỗ lực của các trường trong việc mau chóng thích ứng dạy học từ xa. Tuy nhiên, với cách học này đã làm cho nhiều học sinh không thể tiếp tục học do không có các phương tiện theo học từ xa. Hơn nữa, theo Thánh Bộ, trong lĩnh vực giáo dục, học sinh cần một môi trường, vì môi trường giáo dục không chỉ đơn giản là một bối cảnh phụ cho hoạt động giáo dục, nhưng là chính bản chất của mối tương quan trao đổi và đối thoại, điều không thể thiếu cho việc hình thành con người và cho sự hiểu biết thực tế.
Tiếp đến, Bộ Giáo dục Công giáo hướng đến việc đào tạo các nhà giáo dục. Về điểm này, Thánh Bộ nhận định rằng, đại dịch đã gây bất an trong ngành giáo dục. Vì thế, các nhà giáo dục cần được hỗ trợ qua một sự đào tạo vững chắc, biết cách đáp ứng các nhu cầu của thời đại, không làm mất đi sự tổng hợp giữa đức tin, văn hóa và đời sống, là nền tảng đặc biệt cho sứ vụ giáo dục trong các trường Công giáo.
Điều quan trọng trong giáo dục là phải đặt con người ở trung tâm trong các hoạt động giáo dục. Con người cụ thể và thực tế là linh hồn của các giai đoạn giáo dục, cũng như là nguồn sống vô tận, do bản chất tương quan cộng đoàn luôn hướng đến việc mở ra hiệp thông với Thiên Chúa và với người khác.
Liên quan đến mục đích của giáo dục, Thánh Bộ nhắc các trường Công giáo phải hướng các học sinh đến sự phục vụ. Bởi vì, tình hình hiện nay đã cho thấy rõ nhu cầu mạnh mẽ về một nền giáo dục mang tính cộng đồng và chia sẻ. Các nhà giáo dục sẽ tìm được điều này từ Tin Mừng và các giáo huấn của Giáo hội Công giáo.
Điểm cuối cùng được Bộ Giáo dục Công giáo nói đến đó là cần phải có sự liên kết với nhau trong các hoạt động giáo dục, nhờ đó mọi người có thể tìm ra hướng đi chung trong khủng hoảng. (CSR_6494_2020) Ngọc Yến
2020
Một chia sẻ về đồng hành thiêng liêng với giới trẻ
- TRÊN ĐƯỜNG VỀ EMMAUS (Lc 24,13-35)
Con đường từ Giêrusalem về Emmaus dài khoảng 11 cây số. Hai môn đệ của Chúa Giêsu đang trên đường về nhà của họ. Vì cái chết đau đớn và nhục nhã của Thầy trên thập giá, họ mất niềm tin, mất hy vọng, trái tim họ trở nên nguội lạnh. Qua trình thuật của Luca, chúng ta có thể học nơi Đức Giêsu cách đến với tha nhân, đồng hành với họ, để loan báo Tin Mừng cho họ.
- Chúa Giêsu đến đúng lúc và trở thành bạn đồng hành (c. 15)
Ngài đến đúng lúc, không sớm hơn, không muộn hơn. Đến đúng lúc họ đang bỏ cuộc, quay quắt, ray rứt về chuyện đã qua. Đến đúng lúc là điều quan trọng, vì sớm quá thì chưa chín, muộn quá thì chuyện đã hỏng. Ngài “tiến đến gần và cùng đi với họ.” Để nâng đỡ một người, cần khiêm tốn đi chung với họ, trở nên bạn của họ. Đến gần và đi chung để gây thiện cảm, để không làm họ sợ. Để đồng hành, cần điều chỉnh tốc độ: đi nhanh với người đi nhanh, đi chậm với người đi chậm.
- Chúa Giêsu gợi chuyện (cc. 17-19)
Ngài không cắt đứt, nhưng muốn tham dự vào câu chuyện dở dang của hai người: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Đức Giêsu giả vờ không biết khi Ngài hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (c. 17). Ngài là người đi bước trước, mở lời trước. Nỗi buồn có thể làm người ta khép lại, vậy đừng chờ họ đến với mình. Đức Giêsu nhận được một câu trả lời lạnh nhạt, có chút mỉa mai: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay.” Nhưng Ngài không vội nản lòng, và khiêm tốn tiếp tục gợi chuyện: “Chuyện gì vậy?” (c.19). Ngài làm như không biết để hai ông có cơ hội bày tỏ nỗi đau của mình.
- Chúa Giêsu lắng nghe (cc. 19-24)
Ngài lắng nghe nỗi đau của hai ông. Thầy Giêsu của họ là một ngôn sứ đầy uy quyền của Thiên Chúa, vậy mà Thầy lại bị đóng đinh như một người bị Thiên Chúa nguyền rủa. Đây là điều các ông không thể nào hiểu nổi, khiến các ông rơi vào thất vọng: “Trước đây chúng tôi vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng cứu chuộc Ítraen”(c. 21). Hai ông còn kể chuyện các phụ nữ trong nhóm của họ ra thăm mộ. Nhưng xem ra họ không tin vào những điều các bà này nói (cc. 22- 23). Mất hy vọng vào Thiên Chúa, mất niềm tin vào con người. Hai môn đệ đã bày tỏ nỗi lòng cho một người ngoài cuộc, một người lạ tình cờ gặp trên đường.
Thầy Giêsu không ngắt lời họ. Ngài thinh lặng lắng nghe để họ cởi mở nói cho hết. Cởi mở là bước cần thiết để họ lấy lại niềm tin và hy vọng.
- Chúa Giêsu giải thích, soi sáng bằng Kinh Thánh (cc. 25-27)
Sau khi đã lắng nghe, “bấy giờ” Đức Giêsu mới vén mở cho hai ông thấy ý nghĩa của mầu nhiệm đau khổ mà Thầy các ông phải chịu. Nhờ lắng nghe hai ông tâm sự, Đức Giêsu biết được đâu là mấu chốt của vấn đề, đâu là nút thắt cần phải gỡ. Và Ngài đã trả lời vào chính vấn đề hiện nay của họ. Họ bị sốc trước cuộc Thương Khó của Thầy mình, nên Ngài cho họ thấy đau khổ là nhịp cầu Đức Kitô phải đi qua để vào vinh quang (c. 28). Đây không phải là một tai họa do con người hay do Thiên Chúa chúc dữ. Đức Giêsu đã dùng Kinh Thánh để giúp các ông hiểu rằng con đường Thầy các ông đi nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Sau này, các ông nhớ lại giây phút ấy: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và cắt nghĩa Kinh Thánh cho chúng ta, trái tim chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (c. 32). Như thế, Đức Giêsu chẳng những soi sáng cho trí tuệ để hiểu, Ngài còn làm ấm lại trái tim đã ra nguội lạnh của hai người. Tình yêu đã trở lại.
- Chúa Giêsu đồng bàn với hai môn đệ (cc. 28-31)
Đức Giêsu giả vờ muốn đi xa hơn để họ có tự do mời Ngài. Thật vậy, họ đã bắt đầu thấy thích người khách lạ này nên nài ép Ngài ở lại với họ, và mời Ngài dùng bữa. Chính lúc Ngài bẻ bánh, thì mắt họ nhận ra Ngài. Kinh nghiệm của hai môn đệ Emmaus cũng là kinh nghiệm của chúng ta. Lúc ta tưởng Ngài vắng mặt, thì thật ra Ngài đang ở bên. Lúc ta nhận ra Ngài ở bên, thì Ngài lại biến mất. Nhưng chính lúc Ngài biến mất, ta lại thấy Ngài ở gần bên. Ngài đến lúc ta không ngờ. Ngài đi mà ta không giữ lại được. Ngài ở lại với ta, ngay cả khi ta không thấy Ngài nữa. Cuối cùng, hai môn đệ đã lấy lại được niềm tin, yêu, và hy vọng đã mất.
Khi suy niệm đoạn Tin Mừng nổi tiếng trên đây, chúng ta đã thấy đôi nét của công việc Đồng Hành Thiêng Liêng, đặc biệt với giới trẻ. Chúa Giêsu phục sinh đã đồng hành, cùng đi với hai môn đệ theo nghĩa đen, trên con đường từ Giêrusalem về Emmaus. Đây đúng là một đồng hành thiêng liêng, vì vấn đề được trao đổi có tính thiêng liêng. Hầu chắc hai môn đệ cũng là người trẻ. Chúa Giêsu là mẫu mực cho những nhà đồng hành. Các vị đồng hành có thể học tập được nhiều điều nơi Ngài. Tập đến với tha nhân và cùng đi với họ như một người bạn, tập gợi chuyện cho họ nói, tập lắng nghe, tập soi sáng vấn đề bằng Lời Chúa, và cùng chia sẻ bữa ăn với họ.
Hôm nay vẫn có nhiều bạn trẻ đang lê gót về Emmaus. Họ đang buồn và đang cần những người đồng hành.
- ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG LÀ GÌ?
Đồng hành thiêng liêng (spiritual accompaniment) là một lối nói mới thay cho lối nói được dùng trước đây: linh hướng (spiritual direction). Lối nói mới này cũng phản ánh một cái nhìn mới. Khi nói đến linh hướng, người ta dễ nghĩ đến chuyện một vị linh hướng hướng dẫn một người thụ hướng trong đàng thiêng liêng. Khi linh hướng, vị linh hướng thường được coi là người “thay mặt Thiên Chúa dẫn dắt một tập thể hay cá nhân ngang qua sự chỉ đạo một chiều, mà ít để ý đến tác động của Thánh Thần nơi tâm hồn người thụ hướng hay khả năng của người ấy trực tiếp mở ra với Thánh Thần”[1] Còn trong đồng hành thiêng liêng, vị đồng hành cũng giúp đỡ một người khác, nhưng là giúp người đó nhận ra hoạt động của Thiên Chúa trong đời người ấy. Như thế có thể nói, vai trò của vị đồng hành thu hẹp hơn vì có nhân vật thứ ba hiện diện, đó là Chúa Thánh Thần. Đây mới là nhân vật chính. Đây mới là “Thầy dạy đích thực và tối thượng” mà cả vị đồng hành lẫn người được đồng hành đều phải lắng nghe và vâng phục trên con đường cùng nhau tìm kiếm Ý Thiên Chúa[2]. Đời con người là một cuộc hành trình dài, Thiên Chúa vẫn ngỏ lời với từng người cách riêng tư kín đáo trong mọi thời điểm và biến cố. Người đồng hành giúp tôi nhận ra và đáp lại tiếng Chúa nói riêng với lòng tôi, cũng như giúp tôi thực thi những đòi hỏi của Chúa.
III. HÌNH ẢNH CỦA NGƯỜI ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG
Trong Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng (2013), Đức Thánh Cha Phanxicô viết về đồng hành như sau: “Trong thế giới chúng ta, các mục tử có chức thánh và các nhà hoạt động mục vụ khác có thể làm cho hương thơm của một Đức Kitô gần gũi và cái nhìn thân mật của Ngài trở nên hiện thực. Hội Thánh sẽ phải khai tâm mọi người – linh mục, tu sĩ và giáo dân – trong “nghệ thuật đồng hành” này. Nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác” (169).
Như thế theo Đức Thánh Cha, vị đồng hành thiêng liêng là những mục tử có chức thánh và những người làm công tác mục vụ, các tu sĩ và giáo dân. Theo ngài, nét đầu tiên và quan trọng của vị đồng hành thiêng liêng là sự gần gũi của người đó với Đức Kitô. Vì nếu không gần gũi với Đức Kitô thì vị đồng hành cũng không thể làm người khác gần gũi với Đức Kitô được. Vị ấy phải gần đến mức hương thơm của Đức Kitô thấm vào mình và hồn nhiên tỏa hương thơm ấy đến nỗi người được đồng hành cũng cảm được. Vị đồng hành phải có kinh nghiệm bắt gặp được cái nhìn thân mật của Đức Kitô trong cầu nguyện, rồi được ghi dấu sâu đậm và được biến đổi bởi cái nhìn ấy, để rồi qua cái nhìn của vị đồng hành, người khác bắt gặp được cái nhìn thân mật của chính Đức Kitô.
Tuy nhiên, có một đời sống thân thiết và thiết thân với Đức Kitô cũng chưa đủ. Đức Thánh Cha còn coi đồng hành là một nghệ thuật cần được trau dồi, tập luyện, “nghệ thuật đồng hành.” Vị đồng hành cần có hiểu biết về tâm lý đầy đủ để nắm được tiến trình phát triển và trưởng thành của người trẻ. Lắm khi vị đồng hành cũng phải nhìn nhận giới hạn của mình trước một trường hợp khá nghiêm trọng, để giới thiệu người bạn trẻ đó cho một vị khác có chuyên môn hơn về tâm lý trị liệu. Ngay cả vị đồng hành cũng cần được đồng hành và được linh hướng. Vị đồng hành nào mà không ý thức được Thánh Thần đang làm việc trong đời mình, thì cũng chẳng có khả năng giúp các bạn trẻ nhận ra hoạt động của Thánh Thần trong đời họ. “Không phải cứ linh mục hay tu sĩ là có thể đồng hành hay linh hướng một cách phù hợp được. Ai muốn làm đồng hành hay linh hướng, cần được huấn luyện chuyên nghiệp và đào luyện liên tục.”[3] Vị đồng hành cần biết mình, biết khả năng và giới hạn của mình, nhờ đó dễ giúp bạn trẻ tiến bước trên hành trình đức tin của họ.
- ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG KHI NÀO?
Khi nghĩ đến linh hướng, người ta thường nghĩ đến chuyện vị linh hướng ngồi với người thụ hướng, trong một chiếc phòng ấm cúng, đôi khi có một ngọn nến cháy lung linh trên bàn. Đồng hành thiêng liêng với người trẻ không nhất thiết phải theo hình thức đó. Đức Giêsu đã đồng hành trong thực tế với hai môn đệ Emmaus, khi đi chung với họ mấy cây số. Thánh Luca nhấn mạnh chuyện Ngài gặp họ “dọc đường” (Lc 24,32.35). Trong hình thức đơn sơ nhất, đồng hành có thể diễn ra bất cứ nơi nào, lúc nào thuận tiện, khi nào có cuộc gặp gỡ bề sâu giữa vị đồng hành và người bạn trẻ. Có khi chỉ qua ít phút trao đổi cũng đủ làm cho vấn đề được soi sáng. Dĩ nhiên một cuộc gặp gỡ có thể kéo dài lâu giờ, và đôi khi cần có nhiều lần gặp gỡ mới mong thấy được ý Chúa. Thường cuộc gặp gỡ diễn ra giữa hai người, vị đồng hành và người bạn trẻ. Nhưng cũng có khi vị đồng hành phải giúp đỡ cho cả một nhóm, có cùng mối quan tâm thiêng liêng, có cùng mục tiêu phụng sự Chúa và Giáo Hội. Đồng hành cho một nhóm bạn trẻ là giúp nhóm ấy có tương quan thân thiết với Chúa Giêsu, trưởng thành trong ba nhân đức tin cậy mến, và trở nên những người có khả năng làm chứng cho Chúa trong môi trường mình đang sống.
- LẮNG NGHE TRONG ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG
Như ta thấy trong trình thuật Emmaus, trước khi Đức Giêsu gỡ rối cho hai môn đệ, Ngài đã chăm chú lắng nghe họ, không ngắt lời. Lắng nghe là phần không thể thiếu trong đồng hành thiêng liêng.
Đức Thánh Cha đã trình bày về lắng nghe như sau: “Chúng ta cần phát triển nghệ thuật lắng nghe, chứ không chỉ là nghe suông. Khi giao tiếp, lắng nghe là mở lòng để có được sự gần gũi mà thiếu nó thì không thể có sự gặp gỡ thiêng liêng. Lắng nghe giúp chúng ta tìm ra cử chỉ và lời nói thích hợp để chứng tỏ chúng ta không chỉ là những khách qua đường. Chỉ khi có thái độ lắng nghe với lòng tôn trọng và cảm thông, chúng ta mới có thể bước vào con đường tăng trưởng đích thực và đánh thức một khát vọng về lý tưởng Kitô giáo: ước muốn đáp lại trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa và làm cho những gì Ngài đã gieo trong cuộc đời chúng ta sinh hoa kết quả.” (Niềm Vui Tin Mừng, 171). Như thế Đức Thánh Cha đã coi lắng nghe là một nghệ thuật. Để nắm được nghệ thuật này, ngài đòi vị đồng hành phải mở lòng, chứ không chỉ mở tai. Mở lòng để có thể nghe được những điều mà tai không nghe được, những điều nằm phía sau hay phía dưới điều người kia nói. Ngài còn cho thấy hai thái độ cần có khi lắng nghe, đó là lòng tôn trọng và cảm thông. Tôn trọng vì biết những gì mình đang nghe là những điều thánh thiêng, thấy Thiên Chúa đang chạm vào chỗ sâu thẳm của lòng người, chờ mong người ấy mở ra và đáp lại. Đức Thánh Cha đã diễn tả thái độ tôn trọng như sau: “chúng ta cần biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh thiêng của người khác” (Niềm Vui Tin Mừng 169). Thông cảm vì biết con người có những giới hạn về nhiều mặt, mỗi người có những giới hạn riêng, nên không vội vã xét đoán hay kết án. Vì hoàn cảnh mỗi người mỗi khác, vị đồng hành phải đặt mình vào trong hoàn cảnh của người đối diện, để thực sự hiểu hết được câu chuyện đời người ấy. Bây giờ người ta dùng lối nói “lắng nghe thấu cảm” (empathetic listening) để diễn tả lối lắng nghe này.
Có người chia ra ba loại lắng nghe.
- LOẠI LẮNG NGHE THỨ NHẤT là chú tâm vào những gì giới trẻ nói để tìm ra những vấn đề của họ, những nhu cầu của họ, những mối bận tâm của họ.Có những bạn trẻ mất đức tin vì không ai gỡ cho mình một khúc mắc đã có từ lâu. Đức tin vẫn cần sự ưng thuận của trí khôn nữa.
Lắng nghe là cách thức để khám phá những câu hỏi của người trẻ, mà chúng ta có thể trả lời với giáo huấn của Giáo Hội. Theo tôi, loại lắng nghe thứ nhất này không phải là không quan trọng, thậm chí đây là điều thường xảy ra. Nhiều người trẻ đến với vị đồng hành mà họ tin tưởng vì họ đang gặp vấn đề mà tự họ không giải quyết được. Có những vấn đề về đức tin, thí dụ về cách cầu nguyện, về bùa ngải, về một người bị quỷ ám, về làm sao biết được ý Chúa, đặc biệt trong việc chọn lựa ơn gọi. Có những vấn đề về luân lý, thí dụ như vấn đề quan hệ trước hôn nhân, thủ dâm, đồng tính… Cũng có cả những vấn đề có vẻ đời thường, thí dụ như chọn người bạn đời, chọn việc làm, giải quyết vấn đề trong gia đình… Người đồng hành được nghe những điều làm người trẻ nặng lòng. Có thể là một vấn đề rất khó giải quyết, những cũng có thể là một vấn đề quá đơn sơ và dễ dàng. Trong loại lắng nghe thứ nhất này, người bạn trẻ có vẻ thụ động để lắng nghe lời giải đáp từ người đồng hành. Họ sẽ sung sướng khi thấy vấn đề của mình được giải quyết ổn thỏa, nhận được ánh sáng để hiểu rõ hơn, hay thấy lương tâm thanh thản hơn trước chuyện đã qua. Cũng phải cho thấy giáo huấn của Chúa Giêsu hay của Giáo hội không phải là một áp đặt vô lý trên tự do con người, nhưng nhằm bảo vệ cho con người khỏi những trói buộc của tội lỗi.
Để có thể trả lời những vấn đề làm người trẻ bận tâm, những vấn đề thuộc đủ mọi lãnh vực, có tính thiêng liêng nhiều hay ít, vị đồng hành phải là người có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt: về thần học, Kinh Thánh, về truyền thống linh đạo trong Giáo Hội, về tâm lý… Đức tin của bạn trẻ có thể bị rơi vào khủng hoảng chỉ vì không thấy Thiên Chúa là đấng toàn năng trước sự dữ đang xảy ra. Thiên Chúa cũng bị coi là Thiên Chúa vô cảm, không biết yêu thương, khi người trẻ hay gia đình của họ gặp nhiều thử thách quá sức chịu đựng. Như thế người đồng hành phải cho họ thấy khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, một Thiên Chúa tôn trọng tự do con người, một Thiên Chúa chấp nhận cỏ lùng mọc chung với lúa tốt, một Thiên Chúa cho phép Xatan ảnh hưởng trên con người (SGLCG 760). Thập giá của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là sự dữ lớn nhất mà Thiên Chúa cho phép xảy ra, để trao ban ơn cứu độ của Ngài qua cái chết thảm khốc của người Con Một. Nơi đây, tưởng như Thiên Chúa chịu thua lòng độc ác của loài người tội lỗi, tưởng như tử thần có khả năng nuốt chửng Đấng ban sự sống, Đấng là Sự Sống. Nơi đây tưởng như Thiên Chúa vắng mặt, thinh lặng hay khoanh tay. Nhưng chính qua thập giá Chúa Giêsu, Thiên Chúa cho thấy một Tình Yêu lớn lao (Ga 3,16), tình yêu mạnh hơn cái chết, khi cho Đức Giêsu được phục sinh. Mầu nhiệm thập giá giải quyết được nhiều khúc mắc trong đời sống đức tin của người trẻ. Hiểu biết về Kinh Thánh cũng cần cho vị đồng hành, vì thi thoảng có những câu lời Chúa đặt vấn đề cho bạn trẻ khiến họ bối rối. Vị đồng hành không cần phải có chuyên môn Kinh Thánh, nhưng phải có đủ khả năng để cho thấy câu lời Chúa đó nằm trong bối cảnh nào, được viết theo thể văn nào, nên thực sự nó mang ý nghĩa gì và phải áp dụng ra sao. Thí dụ như lời khuyên đưa má ra sau khi bị tát, hay phải yêu kẻ thù…
Hơn nữa, vị đồng hành còn phải thông thạo những vấn đề mà giới trẻ ngày nay đang đối diện, những điều làm họ say mê, và những điều bị họ coi là không hợp thời, những cám dỗ đang lôi kéo họ, và những lý do khiến họ rời xa Chúa và Giáo Hội. Những hiểu biết rành rẽ về người trẻ của vị đồng hành sẽ giúp cho cuộc đối thoại dễ dàng hơn. Không thể đồng hành với người trẻ nếu không biết khá rõ về vấn đề đồng tính, ngừa thai, phá thai, thủ dâm, phim sex, oral sex hay quan hệ trước hôn nhân; về hậu quả của chúng và về lý do tại sao Giáo Hội cấm đoán chúng.
- LOẠI LẮNG NGHE THỨ HAI là nghe xem người trẻ nghĩ gì về Giáo Hội để biết Giáo Hội phải thay đổi như thế nào.
Có những người trẻ muốn được đồng hành để giải quyết những vấn đề của mình, nhưng cũng có một số ít người trẻ thao thức về sứ mạng của Giáo Hội. Họ thấy Giáo Hội có những bất toàn hay bất cập, chậm chạp trong việc đối diện và giải quyết những vấn đề cấp bách. Họ biết Giáo Hội có những vị lãnh đạo bất xứng, những lạm dụng về tiền bạc hay thân xác, những chia rẽ và bè phái, những quan liêu trong cách phục vụ, những chạy đua về tiếng tăm, vật chất, hưởng thụ… Không nên coi những người này là thành phần nổi loạn, chống đối Giáo Hội. Trái lại, vị đồng hành có thể nhận ra họ là những người mang nặng mối ưu tư về Giáo hội và nóng lòng muốn đóng góp phần của mình. Chấp nhận đối thoại thẳng thắn và tích cực lắng nghe, vị đồng hành có thể tìm thấy một người trẻ tích cực cộng tác với mình trên con đường canh tân bộ mặt Giáo Hội hay giúp Giáo Hội ứng phó với một tình huống khó khăn chưa từng thấy. Khiêm tốn lắng nghe một bạn trẻ, dù ý kiến người đó còn non nớt, nông cạn hay phiến diện, vị đồng hành cho thấy thái độ của Giáo Hội: đón nhận đóng góp của bất cứ ai có thiện chí với lòng biết ơn. Tinh thần sáng tạo của người trẻ, nhất là người trẻ trí thức, sẽ giúp cho Giáo Hội giữ được vẻ tươi mới, hợp thời, và khiến Giáo Hội hấp dẫn những người trẻ khác.
- LOẠI LẮNG NGHE THỨ BAmà Thầy Alois, tu viện trưởng cộng đoàn Taizé ở Pháp đang thực hành, rất gần với điều chúng ta đã nói đến trên đây về đồng hành thiêng liêng.
Tu viện Taizé ở Burgundy nổi tiếng vì thu hút những người trẻ, kể cả những người không bao giờ đi nhà thờ. Thầy Alois giải thích rằng những người làm việc ở Taizé là những người biết lắng nghe người trẻ để khám phá ra nơi Thánh Linh đang hoạt động trong cuộc đời họ, ngay cả trong cuộc đời những người không coi mình là tín hữu. Công việc của những người lắng nghe này là không áp đặt ý tưởng của họ lên giới trẻ, mà là giúp các bạn trẻ thấy sự hiện diện của Thánh Thần trong cuộc đời họ. Thầy Alois xác tín rằng nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì nơi nào có tình yêu và lòng trắc ẩn, nơi nào có khát khao công lý và sự hòa giải, thì Thiên Chúa hiện diện ở đó, ngay cả trong những người chưa được rửa tội. Alois tin rằng những người trẻ đã tràn đầy Thánh Thần rồi. Họ chỉ cần chúng ta giúp đỡ để nhận ra điều đó thôi.
Lối đồng hành trên đây của Taizé nhấn mạnh đến việc vị đồng hành không hướng dẫn người trẻ đi tìm ý Chúa ở ngoài cuộc đời của họ, nhưng hướng dẫn họ tìm ý Chúa trong cuộc đời của họ. Không quay ra, nhưng quay vào trong lòng mình. Điều này giả thiết là Thánh Thần đã hiện diện và hoạt động trong cuộc đời mỗi bạn trẻ, bất chấp họ là ai, họ có phải là kitô hữu không, hay có phải là kitô hữu ngoan đạo hay không. Đồng hành là giúp họ nhận ra sự hiện diện và hoạt động ấy, dù còn mờ nhạt và kín đáo. Khi người trẻ khám phá ra điều đó, họ sẽ ngỡ ngàng và reo vui, vì bấy lâu họ tưởng đời họ là mảnh đất bỏ hoang, cằn cỗi, không người canh tác. Họ ngây ngất khi vị đồng hành cho thấy Thánh Thần hay Thiên Chúa đã có mặt cả trong lúc họ cô độc hay tự cô lập mình, đã tế nhị nâng đỡ họ cả trong lúc họ tưởng mình phải một mình chèo chống. Giúp bạn trẻ nhìn lại đời mình, thấy đời mình dưới một ánh sáng mới, thấy Thánh Thần luôn đồng hành với mình: đó là việc của người đồng hành. Để làm được việc đó, vị đồng hành cần có nhiều kinh nghiệm thiêng liêng, có khi là kinh nghiệm của chính cuộc đời mình. Như Simôn và người môn đệ Chúa yêu ra thăm mộ, dù ngôi mộ tối tăm u ám, họ vẫn nhìn thấy tấm khăn che đầu được xếp gọn gàng và được để sang một bên. Chỉ cần một chi tiết nhỏ trong cuộc đời đầy vấp ngã của người bạn trẻ, cũng đủ làm sáng lên tất cả những gì tưởng như là đổ vỡ hoàn toàn. Vị đồng hành phải là người nhận ra cái biến cố tưởng như vô nghĩa đó, cái may mắn tình cờ đó, cái cố gắng nhỏ nhoi đó của tình yêu khi lòng đã muốn buông xuôi, đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa, từ đó giúp bạn trẻ thấy chẳng có gì phải thất vọng hay tuyệt vọng. Cơ hội để làm lại vẫn còn. Niềm tin không bị mất…
Nhà văn Antoine de Saint-Exupéry có viết: “Đừng đi trước tôi, tôi không đi theo đâu. Đừng đi sau tôi, tôi không dẫn đường đâu. Hãy đi bên tôi và là bạn của tôi.” Vị đồng hành thật là một người bạn, bạn đường của người bạn trẻ, dù vẫn là người thầy.
- MỤC ĐÍCH CỦA ĐỒNG HÀNH THIÊNG LIÊNG
Nếu vị đồng hành chấp nhận dành thì giờ để đồng hành với bạn trẻ, và nếu người bạn trẻ cũng có ý muốn gặp gỡ vị đồng hành, hẳn cả hai đều hướng đến một mục tiêu nào đó. Dù cuộc gặp gỡ như thế nào đi nữa, mục tiêu vẫn là làm sao khám phá ra ý Chúa cho cuộc đời người bạn trẻ và giúp họ hạnh phúc sống theo ý Chúa. Mỗi bạn trẻ có một hoàn cảnh riêng, một ơn gọi riêng từ Thiên Chúa. Chỉ khi chọn đúng điều Chúa muốn, người đó mới được hạnh phúc thật sự. Nếu tôi phải đồng hành với một bạn trẻ đồng tính, làm sao tôi giúp bạn ấy đón nhận khuynh hướng tính dục của mình? Làm sao tôi giúp bạn ấy cắt đứt với những tương quan không phù hợp trước đây? Và hơn nữa, làm sao tôi cho thấy bạn ấy hoàn toàn có khả năng là một người Công giáo tốt lành, hạnh phúc và triển nở ngay khi bạn ấy vẫn là người đồng tính.
Vị đồng hành là người bạn đường có nhiệm vụ đi chung và giúp người bạn trẻ nhận ra những dấu hiệu cho thấy ý Chúa. Vị đồng hành không áp đặt ý của mình lên người bạn trẻ, nhưng tôn trọng những suy nghĩ và tình cảm của người bạn này. Như thế vị đồng hành cần có thái độ “bình tâm” (indifference) như lối nói của thánh I-nha-xi-ô trong Linh Thao. Bình tâm ở đây không phải là bình tĩnh hay lãnh đạm lạnh lùng, mà là thái độ khiêm tốn của người đang tìm kiếm chứ chưa tìm thấy. Chính vì thế bình tâm là tạm thời không nghiêng hơn về chọn lựa nào cả. Một trong những nguy hiểm của vị đồng hành là vội vã cho rằng mình đã thấy hướng đi cho người bạn trẻ rồi, không cần phải tìm kiếm thêm nữa. Như thế vị đồng hành quên rằng mình vẫn đang trong hành trình cùng tìm kiếm với người bạn trẻ này. Đồng hành là lắng nghe những chuyển động âm thầm của Thánh Linh đang tác động nơi tâm hồn người bạn trẻ. Có khi người đồng hành đành phải bỏ đi ý nghĩ của mình sau khi lắng nghe người trẻ, đơn giản là vì, qua cuộc trò chuyện, họ cảm nhận tác động của Thánh Linh lôi cuốn mãnh liệt một người trẻ bước theo con đường rất riêng tư, ít người đi.
Vị đồng hành và người bạn trẻ cùng nhau tìm ý Chúa. Người bạn trẻ kể cho vị đồng hành nghe những biến cố đã và đang xảy ra trong đời mình, cũng như những chuyển động nội tâm của mình, nói theo kiểu của Linh Thao là những “an ủi” hay “sầu khổ”. Vị đồng hành lắng nghe, cảm thông, và cùng với người bạn trẻ “phân định” xem đâu là tác động của Thiên Chúa hay Ác thần. Vị đồng hành phải là người có kinh nghiệm về phân định (discernment), thậm chí nhạy bén trong việc nhận ra cả chuyện quỷ dữ giả dạng thần lành, lôi kéo người ta đi theo con đường của nó, trông có vẻ rộng và tốt, nhưng cuối cùng lại dẫn đến diệt vong (Mt 7,13-14). Để có kinh nghiệm về phân định, vị đồng hành cần nắm vững các nguyên tắc, nhưng cũng cần trải qua những kinh nghiệm thương đau nơi chính bản thân mình. Thánh I-nha-xi-ô chỉ đưa ra những nguyên tắc để phân định xem đâu là tác động của Chúa, đâu là cám dỗ của quỷ, sau khi chính Ngài đã có nhiều kinh nghiệm cá nhân về việc bị ma quỷ đánh lừa, được kể trong sách Tự Thuật.[4]
Đồng hành thiêng liêng là một tiến trình huấn luyện cần thiết giúp người trẻ trưởng thành trong đời sống kitô. Người trẻ bước vào đời, sống đức tin của mình với bao câu hỏi và thắc mắc mà tự mình không sao trả lời được, với bao cám dỗ và vấp ngã thấy khó tự mình đứng lên. Có được một người đồng hành với mình, hiểu mình, gần gũi mình như một người bạn, giỏi hơn mình như một người thầy: đây thật là một ơn phúc. Việc đồng hành trước hết giúp người trẻ giữ vững đức tin giữa những sóng gió của lạc thuyết, sau nữa làm đức tin ấy mạnh mẽ và phát triển đến tột cùng. Nếu vị đồng hành là một người say mê Giêsu và có đời sống gương mẫu, thì chắc chắn người trẻ ấy sẽ trưởng thành trong ơn gọi kitô và có khả năng làm chứng về đức tin của mình trong mọi môi trường sống. Nhờ quen quay vào trong để nhận ra con người nội tâm, quen có kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa một cách cá vị, và nhờ quen với việc phân định để tìm ý Chúa, người bạn trẻ sau này có thể đứng vững và dễ dàng tìm thấy cách thức mình phải sống đức tin trong hoàn cảnh riêng của mình, dù khó khăn đến đâu.
Vị đồng hành là một người bạn gần gũi và hiểu được những sâu kín của lòng người bạn trẻ, nên có thể nảy sinh tình cảm giữa hai người. Không phải ai cũng bắt chước được tình bạn linh hướng giữa thánh Phanxicô và thánh nữ Clara, hay thánh Têrêsa và thánh Gioan Thánh Giá. Chính vì thế vị đồng hành cần giữ khoảng cách và thường xuyên xét mình để nhận ra những thay đổi nơi tình cảm của mình, và có thể cả nơi tình cảm nơi người bạn trẻ. Cha De Guibert, S.J. khuyên: “Nếu vì tình cảm mà vị linh hướng cảm thấy ngại tiếp tục đồng hành, thì hãy tìm cơ hội để chuyển đương sự đến một vị linh hướng khác.” Bầu khí của cuộc gặp gỡ giữa vị đồng hành và người bạn trẻ phải là bầu khí thiêng liêng, đáng tin cậy, và an toàn.
KẾT: Đồng hành với giới trẻ là việc mục vụ quan trọng. Để có một thế hệ kitô hữu trẻ trung, trưởng thành, năng động, không thể nào không có bóng dáng của những vị đồng hành đứng phía sau. Nhu cầu có những vị đồng hành cho giới trẻ là nhu cầu có thực và khẩn trương, nếu không chúng ta sẽ chỉ lôi kéo được một lớp trẻ đông đảo, với những sinh hoạt vui vẻ ồn ào bên ngoài, nhưng lại thiếu sự sâu lắng bên trong để tĩnh lặng mà gặp Đấng Vô Hình. Mặt khác, có được một vị đồng hành tốt lại không phải là chuyện dễ dàng. Đồng hành là một ơn gọi, một “nghệ thuật” như lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói. Cần phải “khai tâm”, phải tốn công huấn luyện các vị đồng hành. Các linh mục, tu sĩ là những người dễ có được nền huấn luyện cần thiết để trở nên một vị đồng hành: đời sống thiêng liêng, nhân bản; kiến thức thần học, Kinh Thánh, tâm lý và cả kinh nghiệm trong việc sống với giới trẻ, biết sử dụng ngôn ngữ của họ. Giáo dân cũng có thể đồng hành với người trẻ, miễn là hội đủ những điều kiện cần thiết. Dù là ai đi nữa, vị đồng hành cũng phải là người kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa, nhạy bén với tác động nhỏ của Thánh Linh, có phán đoán chín chắn và quân bình, có sự khiêm tốn dễ thương để hạ mình tiếp xúc với người trẻ, dám dành thời giờ để lắng nghe chuyện tưởng như không quan trọng.
Làm thế nào để duy trì sức sống của Giáo Hội? Cần thế hệ trẻ. Nếu chúng ta để giới trẻ bơ vơ, nếu họ không thấy ai đáng tin để họ có thể tâm sự và đặt câu hỏi, mong một câu trả lời, nếu họ không thấy ai coi họ là quý và dám dành giờ ngồi bên họ… thì tương lai của Giáo Hội sẽ là những nhà thờ vắng bóng người trẻ, xa lạ với đức tin và lạnh lùng với giáo sĩ. Chỉ mong Giáo Hội Việt Nam, nhờ ơn Chúa nhà thờ và hội đoàn vẫn còn thu hút người trẻ, biết nắm lấy cơ hội đang có, để đồng hành với người trẻ hôm nay.
WHĐ (17.8.2020)
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 118 (tháng 5 & 6 năm 2020)
[1] Trương Thanh Tùng, “Việc Phân Định của Vị Linh Hướng trong Đồng Hành và Trợ Giúp Phân Định,” trong Phân Định Thiêng Liêng, Tạp chí Linh Đạo I-Nhã (nxb Đồng Nai, 2019) 279.
[2] Ibid., 281.
[3] Một tài liệu chưa xuất bản của Julio Giulietti, S.J. “Ai dám dạy dỗ, thì không bao giờ tránh học hỏi” (Quicumque audet docere, numquam desistat discere).
[4] Trong bài này tôi không đi sâu vào vấn đề “phân định”. Muốn nghiên cứu thêm, xin đọc cuốn Phân Định Thiêng Liêng do Tạp Chí Linh Đạo I-Nhã ấn hành, nhà xuất bản Đồng Nai, 2020.
2020
Đời sống thiêng liêng
ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
- ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
- NHÌN VÀO THỰC TẾ CỦA CUỘC SỐNG CON NGƯỜI
Chúng ta thường tất bật lo lắng đủ chuyện, nhưng cuộc sống lại đầy ắp những lo âu buồn chán, không mấy khi được bình an.[1] Lo âu chán nản bởi vì chúng ta bỏ ra nhiều công sức, nhưng cuối cùng chúng ta luôn tự hỏi:
– Liệu có ai để ý đến những gì chúng ta làm không?
– Liệu những việc làm này có ý nghĩa gì không?
1.1. Lo âu chán nản bởi vì chúng ta bỏ ra nhiều công sức, nhưng cuối cùng chúng ta luôn tự hỏi: liệu có ai để ý đến những gì chúng ta làm không?
1.2. Buồn chán có liên hệ mật thiết với đau xót.
Khi chúng ta tự hỏi những gì chúng ta làm thật sự có quan trọng dưới mắt một người nào đó không, thì chúng ta có cảm giác bị điều khiển, bị khai thác, bị bóc lột, là nạn nhân bị sử dụng bởi những người không còn tôn trọng chúng ta như một con người.
Lập tức sự giận dữ nhói lên trong tim và không ngừng dằn vặt chúng ta. Cơn giận nóng dần dần biến thành cơn giận lạnh, chính cơn giận này, là sự đau xót, đã đầu độc chúng ta (trg. 18).
1.3. Nản chí.
Rồi khi chúng ta khám phá ra rằng không những sự hiện diện của chúng ta không quan trọng mà hơn nữa, người ta còn thích sự vắng mặt của chúng ta, thì chúng ta mau chóng đi đến cảm giác kiệt quệ… Chúng ta có cảm giác tội lỗi là mình đã hiện hữu (trg.19).
1.4. Buồn chán, đau xót, nản chí, liên hệ mật thiết đến cảm giác bị cắt đứt. Ba cảm giác này làm chúng ta tin rằng sợi dây nối chúng ta với đời sống đã bị cắt đứt, và đồng thời cũng làm chúng ta tin rằng chúng ta chẳng còn là một thành phần nào nữa.
Trong những liên hệ giao tiếp, nó tạo nên một cảm giác cô đơn kinh khủng, cho dù được bao bọc bởi những người chung quanh, chúng ta tự xem như những cá nhân cô lập, không thuộc vào một cộng đồng nào để được bồi dưỡng và nâng đỡ (trg. 20).
1.5. Cảm giác cắt đứt này là trọng tâm của đau khổ nhân loại.
Chúng ta có thể chịu đựng một số đau đớn thể xác, và ngay cả một số đau đớn tinh thần, nếu chúng ta biết rằng sự đau đớn này làm chúng ta góp phần vào đời sống của nhân loại, nhưng khi chúng ta có cảm giác cắt đứt với đại gia đình nhân loại, thì chúng ta mất can đảm một cách mau chóng.
Cho đến lúc nào chúng ta còn tin sự đau khổ và sự chiến đấu nối liền tình nhân loại với nhau thì chúng ta sẵn sàng chấp nhận làm việc khó nhọc cực khổ. Nhưng khi chúng ta tự xem như người ngoài cuộc, không dự phần vào lịch sử nhân loại, thì lúc đó sự đau khổ không còn là một sự đau khổ để lớn lên, sự chiến đấu không còn là sự chiến đấu để dẫn đến một đời sống mới (trg. 21).
Cuối cùng, một điều phải xảy đến là chúng ta không chấp nhận đau khổ, không chấp nhận thánh giá, nhưng khổ một nỗi là đau khổ và thánh giá cứ tới tấp đến với chúng ta.
- HƠN NỮA CHÚNG TA CÒN LO ÂU CHÁN NẢN, BỞI VÌ CHÚNG TA BỎ RA NHIỀU CÔNG SỨC, NHƯNG CUỐI CÙNG LUÔN TỰ HỎI: LIỆU NHỮNG VIỆC LÀM NÀY CÓ GIÁ TRỊ GÌ KHÔNG?
2.1. Một cuộc sống đầy ứ những việc phải làm.
Một ngày làm việc của chúng ta có không biết bao nhiêu chuyện phải làm, bao nhiêu người phải gặp, bao nhiêu dự án phải thực hiện, bao nhiêu thư phải viết, bao nhiêu cú điện thoại phải trao đổi và bao nhiêu cuộc hẹn phải tôn trọng. Đời sống chúng ta như một chiếc vali chất đầy đồ đạc, chỉ muốn đứt tung đường chỉ (trg. 11).
2.2. Một cuộc sống với những công việc còn dang dở.
Chúng ta luôn bị ám ảnh, bị quấy rầy bởi những việc chưa làm xong, những lời hứa, những đề nghị chưa thực hiện. Khi nào cũng có một cái gì đó phải nhớ, phải làm hay phải nói. Luôn luôn còn công việc bỏ dở chưa làm, còn những người chưa kịp nói, chưa kịp gặp và còn một bổn phận nào đó chưa hoàn thành (trg. 162).
2.3. Một cuộc sống đầy dẫy những ước đoán.
Chúng ta hay nói: ”Nếu tôi bị cảm? Nếu tôi mất việc làm? Nếu người ta tấn công tôi? Nếu có chiến tranh? Nếu sắp tận thế? Nếu…Nếu…? Tất cả những chữ nếu này tràn ngập đầu óc đầy lo âu khắc khoải. Phần lớn những đau khổ của chúng ta là do những ước đoán, những dự liệu không đâu (trg. 13).
2.4. Một cuộc sống dồn dập những tin tức.
Các thông tin của báo chí, truyền thanh, truyền hình, khiến chúng ta phải sống trong một không khí thường xuyên khẩn cấp. Giọng kích thích của người viết, khuynh hướng thích đưa những tin giật gân, những tai nạn khủng khiếp, những tội ác tày trời, những cách ứng xử trước tội lỗi. Nói tóm lại, tất cả những khốn cùng của nhân loại được họ cung cấp từng giờ, từng phút, đã từ từ làm cho chúng ta rơi vào trạng thái nơm nớp lo sợ một tai họa như thể sắp xảy ra ngay sát chúng ta (trg. 15).
2.5. Một cuộc sống tràn ngập những quảng cáo.
Tiếp theo là một loạt những quảng cáo dồn dập được tung ra. Họ nhấn mạnh làm sao để chúng ta luôn nghĩ rằng chúng ta sẽ thiếu một điều quan trọng gì đó, nếu chúng ta không đọc quyển sách này, không dự buổi diễn thuyết nọ, không mua sản phẩm kia. Các điều này lại càng làm cho chúng ta thêm bối rối, thêm lo lắng trước đủ mọi mặt phức tạp của đời sống cộng thêm những lo lắng đã có sẵn muôn đời. Xã hội chúng ta bị lệ thuộc vào những lo lắng giả tạo này (trg. 15).
Chúng ta luôn bị kẹt trong mạng nhện của những dự kiến giả tạo và những nhu cầu đặt định: những bận rộn và những lo lắng lấp đầy đời sống bên ngoài cũng như bên trong. Chúng ta thường tất bật lo lắng đủ chuyện, nhưng cuộc sống lại đầy ắp những lo âu buồn chán, không mấy khi được bình an. Lo âu chán nản bởi vì chúng ta bỏ ra nhiều công sức, nhưng cuối cùng chúng ta luôn tự hỏi:
– Liệu có ai để ý đến những gì chúng ta làm không?
– Chúng ta bận tâm lo lắng quá nhiều chuyện và cùng một lúc mang tâm trạng cay đắng, không bằng lòng, nản chí và cô độc, bởi vì chúng ta bỏ ra rất nhiều công sức, nhưng cuối cùng chúng ta luôn tự hỏi: liệu những việc làm này có ý nghĩa gì không? (trg. 17)
– Làm sao đây?
- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
- ĐỀ NGHỊ CỦA ĐỨC GIÊSU
Đứng trước cuộc sống tất bật và đầy lo âu của chúng ta, Đức Giêsu không khuyên chúng ta đừng quá xao xuyến.
Chúa cũng không cho rằng việc chúng ta làm không quan trọng, không có giá trị hay không hữu ích. Chúa cũng không khuyên chúng ta xa rời đời sống để đi theo con đường an bình, yên nghỉ, tránh mọi chiến đấu trần gian tục lụy. Chúa chỉ đề nghị chúng ta đi từ “quá nhiều việc” đến “chỉ có một việc cần thiết” là: “Trước hết hãy tìm Nước Thiên Chúa, mọi sự sẽ đến dồi dào với con sau.” (trg. 28)
Nước Thiên Chúa, tức là Nước của Cha Người.
Mục tiêu chính yếu của Đức Giêsu là đem chúng ta về Nhà Cha Người. Chúa Giêsu đến không chỉ để giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết, nhưng Người còn muốn chúng ta tham dự vào đời sống thần linh của Người.
Được gọi để chia sẻ đời sống với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không có nghĩa là từ bỏ đời sống thế gian. Ngược lại những ai thấm nhập sâu xa đời sống thiêng liêng, họ chính là những người được gởi đến thế gian để tiếp tục và hoàn tất công việc mà Chúa Giêsu đã bắt đầu. Đời sống Thánh Linh không làm chúng ta xa rời đời sống thế gian mà làm chúng ta hòa nhập sâu xa hơn vào đời sống trần thế (trg. 39–40).
Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: “Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian.” (Ga 17,18).
Chúa đã nói một cách chính xác rằng không phải vì các tông đồ không thuộc về thế gian mà họ không thể sống trong thế gian.
Chúa đã sống được thì họ cũng sống được.
“Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con đây không thuộc về thế gian.” (Ga 17,15–16).
Ở trong thế gian nhưng không thuộc thế gian. Lời này tóm tắt những gì Chúa Giêsu muốn nói đến đời sống thiêng liêng, đó là đời sống chúng ta được biến đổi trong Chúa Thánh Thần (trg. 40–41).
- BƯỚC VÀO ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
2.1 Đời sống thiêng liêng là gì?
Đời sống thiêng liêng là đời sống tinh thần. Khi nói đến đời sống tinh thần, người ta thường hiểu đó là sinh hoạt của con người nhằm tới ba đối tượng: Chân, Thiện, Mỹ. Ba đối tượng ấy tương ứng với ba năng khiếu: lý trí, ý chí và óc thẩm mỹ.
Những ai chỉ phát huy ba năng khiếu ấy trong phạm vi thế giới hữu hình, thì chỉ có một đời sống con người khép kín. Còn ai phát huy thêm cả năng khiếu tín ngưỡng hướng về siêu việt, thì đời sống tinh thần trở nên phong phú hơn vì mở rộng hơn.
Đời sống tinh thần siêu nhiên cũng gọi là đời sống thiêng liêng. Đó là đời sống tinh thần của những người nhận được sự mạc khải tối hậu và viên mãn của Thiên Chúa trong Đức Kitô [Dt 1,1–2; Cl 1,19; 2,9;Ep 4,13;Ga 1,16–18].
Nó phát xuất từ nguồn gốc trên cao, vì thế được gọi là nguồn gốc siêu nhiên.
Nói cách khác, đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu không phải chỉ phát xuất từ những năng khiếu tự nhiên qui hướng về Chân–Thiện–Mỹ trong thế giới hữu hình; và cũng không phải chỉ gồm các nỗ lực của năng khiếu tôn giáo đi tìm những thực tại siêu việt trong các kinh nghiệm tín ngưỡng tự nhiên; nhưng còn là gặp gỡ Đấng Siêu Việt là Thiên Chúa của Thánh Kinh: Thiên Chúa đã tự nguyện tỏ lộ khuôn mặt rất thánh của Ngài cho nhân loại trong ân sủng và tình yêu. Khuôn mặt ấy được biểu lộ cách cụ thể nơi Đức Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể Cứu Chuộc [2Cr 4,6].[2]
Gặp gỡ Đấng Siêu Việt như thế nào?
Các giáo phụ Hy Lạp thường diễn tả việc con người gặp gỡ Thiên Chúa qua cuộc hành trình: phát xuất từ Chúa Thánh Thần, qua Chúa Giêsu và tới cùng Chúa Cha. Ngược lại với lộ trình Thiên Chúa đến với con người: Phát xuất từ Chúa Cha (Ga 17,26; Eph 1,3–4), được mạc khải nhờ Chúa Con (Ga 3,16) và được hoàn tất trong Chúa Thánh Thần (Gl 4,6; Rm 5,5).
Vậy đời sống thiêng liêng Kitô hữu là đời sống trong Thần Khí, nghĩa là đời sống do Chúa Thánh Thần làm phát sinh. Đó chính là đời sống mà Chúa Thánh Thần làm cho con người đáp lại tình yêu của Thiên Chúa (trg. 4).
Cho nên lý tưởng của người Kitô hữu sẽ không phải là sự hoàn thiện luân lý đặt cơ sở trên việc tuân giữ một số giới luật. Đó chỉ là một lý tưởng trừu tượng và khô khan.
Điều mà người Kitô hữu quan tâm thực hiện là sống ngay bây giờ sự kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong đức tin, đức cậy và đức mến. Đó là sự sống đời đời mà ta được bắt đầu nếm cảm ngay trên trần gian này: “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô”[Ga 17,3] (trg. 15).
2.2. Bước vào đời sống thiêng liêng
Có một đời sống thiêng liêng
– Không có nghĩa là:
- phải từ bỏ gia đình, việc làm, thay đổi cách làm việc,
- từ bỏ các sinh hoạt xã hội, chính trị,
- mất hết thú vui văn chương, nghệ thuật.
– Cũng không có nghĩa là đời sống khổ tu, trường kỳ cầu nguyện.
– Nhưng là một sự trở lại,
- Một sự trở lại luôn bao gồm một kinh nghiệm nội tại, đồng nhất. Những mâu thuẫn, đau khổ, công việc, hy vọng, gia đình, bạn bè, các sinh hoạt, các dự trù, các cảm hứng, chúng ta không còn xem đó là một chuỗi công việc mệt mỏi không dính vào đâu, ngược lại chúng ta xem đó như những xác nhận và mạc khải của Chúa Thánh Thần trong chúng ta. “Những điều ấy”, mà trước đây chúng ta bận tâm lo lắng, bây giờ đến với chúng ta như ân huệ, như thử thách để làm mạnh và làm sâu đời sống mới vừa được khám phá[3].
- Sự trở lại ở đây không làm giảm bớt đau khổ. Đôi khi sự đau khổ còn nhân lên gấp bội. Nhưng trọng tâm chú ý của chúng ta không còn ở chuyện nhiều hay ít. Quan trọng ở chỗ là chúng ta biết chú ý nghe tiếng Chúa Thánh Thần và ngoan ngoãn đi đến nơi mà Ngài dẫn ta đến, dù nơi đó là nguồn hoan lạc hay đau đớn.
- Sự nghèo khó, sự đau đớn, sự đấu tranh, sự lo lắng, sự hấp hối và ngay cả nội tâm tăm tối, những điều này vẫn tiếp tục là một phần trong đời sống chúng ta.
- Sẽ không còn mệt mỏi, đau xót, nản chí, cô đơn, bởi vì cuối cùng chúng ta hiểu, tất cả chỉ là từng giai đoạn, từng chặng trên con đường về Nhà Cha (trg. 43).
- CHÚA THÁNH THẦN TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
Ở đây, Henri JM. Nouwen đã mô tả đời sống thiêng liêng như sự hiện diện sinh động của Chúa Thánh Thần trong đời sống đầy lo âu của chúng ta. Nó chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta dọn một khoảng không gian nội tâm để thực hiện hai kỷ luật sống một mình trong thinh lặng và sống trong cộng đồng, để Chúa Thánh Thần ở giữa chúng ta.
Chúng ta sống trong một thế giới đầy lo âu, nhiều chuyện làm chúng ta bận tâm, rối trí, chúng ta cảm thấy mệt mỏi, đau xót, chán nản và cô độc. Giữa thế giới này, Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta một đời sống mới, đời sống của Chúa Thánh Thần. Chúng ta ước muốn có được đời sống này, nhưng chúng ta biết rằng nó thật sự khác hẳn đời sống chúng ta đang sống.
Làm sao chúng ta đi từ một đời sống ngắt quãng qua một đời sống đồng nhất, đi từ nhiều chuyện quá độ đến một chuyện cần thiết duy nhất, từ cuộc đời phân tán đến cuộc đời hiệp nhất trong Chúa Thánh Thần?
Chúng ta phải chiến đấu khó khăn để Chúa Thánh Thần làm việc trên chúng ta và tái tạo chúng ta. Nhưng sự chiến đấu này không quá sức chúng ta. Nó đòi chúng ta phải có phương cách đặc biệt và biết tiên liệu. Nó đòi hỏi chúng ta có một vài giây phút một mình với Chúa để lắng nghe Ngài giữa muôn vàn lo lắng thường nhật. Nó đòi hỏi chúng ta ứng xử khác với người khác, và xem người khác như bạn đồng hành, cùng với họ chúng ta tạo một khoảng không gian mới cho Chúa. Cách sắp đặt có hoạch định, có kỷ luật là những cách cụ thể để tìm Nước Chúa. Nó từ từ phá tan quyền lực của lo âu để dẫn chúng ta đến cầu nguyện không ngừng (trg. 70–71).
Bước đầu sống đời sống thiêng liêng thường rất khó, không phải vì sức mạnh làm chúng ta chìm đắm trong lo âu quá lớn mà vì sự hiện diện của Chúa Thánh Thần thật khó minh định. Nhưng nếu chúng ta trung thành với kỷ luật này, thì một cơn khát mới sẽ nắm bắt chúng ta mà chúng ta không biết. Đó là dấu chỉ đầu tiên có sự hiện diện của Chúa. Nếu chúng ta vẫn còn chăm chú với sự hiện diện thần thánh này thì chúng ta luôn được dẫn dắt càng ngày càng đi sâu vào Nước Chúa. Với ngạc nhiên vui mừng, chúng ta sẽ khám phá mọi sự là một tiến trình thường xuyên đổi mới (4).
III. CÁC NẤC THANG CỦA ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
Giovanni Martinetti đưa ra một số gợi ý để giúp chúng ta biết mình đang ở vị trí nào trong đời sống thiêng liêng.
Như mưa đổ xuống, đau khổ không phân biệt một ai cả: thánh nhân, thường dân, người lành hay tội lỗi thì cũng thế. Nó không tha cho một loại người nào cả. Nếu Đấng Tạo Hóa cho phép có đau khổ, thì chính vì nó là một trường học với nhiều lớp, nhiều cấp khác nhau để tiến dần đến Mục Tiêu Chính Yếu[4] mà mục tiêu chính yếu của con người là mọi người đều có thể nhận thấy và cảm nghiệm rằng khả năng và khát vọng lý tưởng tột đỉnh chính là Tình Yêu sâu thẳm, phổ quát và hoàn hảo.
Tức là Tình Yêu trọn vẹn, “với trọn quả tim, linh hồn và sức lực” song phương, nghĩa là đón nhận và trao hiến, đối với Đấng có tất cả mọi giá trị thượng đẳng. Tức là một Tình Yêu, qua Đấng ấy, biết mở lòng ra để yêu thương bạn bè, người thân, toàn thể nhân loại và hết thảy mọi tạo vật một cách thiết thực.
Tức là một Tình Yêu biết vượt lên trên mọi thứ tình cảm để bao giờ cũng thực sự và thiết tha mong muốn điều tốt cho tất cả. Một Tình Yêu không tì vết, không suy giảm, vĩnh viễn sinh động.
Chính vì Tình Yêu này mà chúng ta sinh vào đời. Tất cả mọi điều tốt khác đều chỉ được xem như là phương thế để đạt cho được Tình Yêu ấy. Thiên đàng không phải là một nơi chốn, mà là tình trạng toàn hảo của Tình Yêu ấy. “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi với tất cả con tim, linh hồn và trí lực của ngươi. Đó là giới răn lớn nhất và trên hết trong mọi giới răn. Giới răn thứ hai cũng tương tự như giới răn thứ nhất: Ngươi hãy yêu thương người thân cận như chính mình ngươi” (Mt 22,37–39)(trg. 45).
Theo Giovanni Martinetti, nấc thang của đời sống thiêng liêng được phân chia như sau:
- Đối với những ai không được nhận vào trường Trung Cấp (tức là những ai có lương tâm xấu xa đến một mức độ trầm trọng), thì đau khổ được xem như là hình phạt Thiên Chúa gửi đến (trg. 49).
- Học viên trung cấp
Những học viên trường Trung cấp, lớp thấp hay lớp cao, là đại đa số các tín hữu nguội lạnh, những người bình thường, những người ít nhiều lãnh đạm, những thành phần được người đời coi là “lương thiện” hay “đạo hạnh”, nhưng lại không đặt Mục Tiêu Chính Yếu làm ưu tiên số một. Đại khái, để cho yên lương tâm, họ cố gắng giữ luật luân lý vừa đủ, thường là theo hình thức, bằng cách tránh những lỗi nặng; và họ để cả chú tâm và ước muốn vào nơi những giá trị – phương thế (như gia đình, lợi lộc, sức khoẻ, tình yêu, thành công, văn hóa, bạn bè…), biến chúng trở thành mục đích tối hậu của đời họ.
Họ là những khách hàng của Thiên Chúa, chỉ biết “dùng” Thiên Chúa để chiếm hữu cho được những giá trị trần thế hơn là dùng các giá trị trần thế để đi đến với Thiên Chúa.
Họ là những người nghĩ rằng có dùng tới lời cầu nguyện, thì đặc biệt là để “giật” cho được từ tay Thiên Chúa ít ra một mớ phúc lộc tối thiểu và một “bảo chứng” miễn trừ cho khỏi phải gặp tai họa để họ sống thoải mái mà hưởng thụ với những thần tượng của họ. Những biến cố bi hài mà Đấng Quan Phòng để xảy đến trong cuộc đời của họ: tức tối khó chịu, họ cho đó là những hình phạt không đáng phải chịu, nhưng một khi bực tức nổi loạn qua đi, họ bình tâm để cho những biến cố ấy tác dụng giúp họ nhận ra qua kinh nghiệm là họ nhầm lẫn lớn vì đã xem như mục tiêu chính yếu những gì chỉ là phương thế tương đối – tức là có thể được dùng thay đổi bù chì cho nhau – để đạt tới mục tiêu đích thực. Sự sụp đổ trị giá chứng khoán của những tài sản phù du cảnh giác họ biết là hãy lo đầu tư vào một dịch vụ có lợi hơn, ổn định và vững chắc hơn. Chẳng thế mà thánh vịnh đã lưu ý “Đả thương rồi, Chúa lại chữa lành”(trg. 49–50).
- Sinh viên đại học
Cuối cùng là những sinh viên đại học đang dọn cao học, tiến sĩ. Họ là một nhóm thiểu số đang học chuyên môn. Đó là những tín hữu có một đức tin sâu sắc. Thấm nhuần các bài học, và nhờ biết tích trữ những kho tàng ơn Chúa, họ có khả năng rút ra từ trong mọi biến cố bất lợi, những cấu tố đắng cay chua xót của đau khổ, để tổng hợp thành những hóa chất mới trong mối hiệp thông liên chủ thể. Đối với họ, tai họa có thể xảy đến song đó là cơ hội để cộng tác với cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô nhằm cứu độ thế gian. Đối với họ, không bao giờ thánh giá là nặng đến độ không vác nổi và làm cho họ mất bình an, vì họ luôn luôn cảm nghiệm có một sức sống mới và một niềm hạnh phúc sinh động của Thiên Chúa đang hoạt động mạnh mẽ để tái tạo toàn bộ tâm hồn của họ. Đó là một phép lạ của Chúa; và hơn nữa, có thể nói đó là một phép lạ lớn nhất. Đó là niềm vui đích thực mà các thánh hằng cảm nhận ngay cả khi phải sống giữa những gian nan cay đắng của cuộc đời.
Chính trong ánh sáng này, chúng ta nhận ra hoạt động của Chúa Quan Phòng. Sách Thánh của các tôn giáo, nhất là Thánh Kinh đều hiểu việc Chúa Quan Phòng như là một hành động, qua đó, Thiên Chúa hướng dẫn những người biết ra sức dùng những vui buồn sướng khổ giữa cuộc đời mà cộng tác với Ngài, để đi đến chỗ hiệp thông trong một tình yêu bền vững và chia sẻ những phúc lợi thiêng liêng với Ngài (trg. 51).
- TIẾN TRÌNH CỦA ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
Pascal M. Foresi muốn phác họa con đường thăng tiến của người Kitô hữu đi đến Thiên Chúa, trong đời sống tông đồ. Phác họa sau đây, dầu chỉ là một phỏng đoán, có thể lợi ích cho tâm hồn chúng ta và giúp chúng ta tiến tới gần Thiên Chúa hơn. Có thể nó có giá trị đặc biệt vì chúng ta đã ý thức được những trở ngại phải vượt qua, và chúng ta có thể thấy được những thử thách do Thiên Chúa gởi đến hay cho phép, có thể giúp chúng ta tiến bộ. Dĩ nhiên, không phải tất cả những điều Pascal M.Foresi nói đây, sẽ là những gì xác thực như được phác họa, và không phải mọi chi tiết sẽ áp dụng cho tất cả mọi người.[5]
- BƯỚC KHỞI ĐẦU
Khi chúng ta hiểu được bản chất Kitô giáo và chấp nhận trở về với Thiên Chúa, khi chúng ta hiểu rõ rằng mọi sự đều là “phù du ảo ảnh”, và dành chỗ nhất cho Thiên Chúa, chúng ta đã làm bước khởi đầu trong việc chọn lựa Thiên Chúa. Đây là sự khởi đầu của một cuộc linh thao, một thanh tẩy thực sự các giác quan. Rõ ràng là lúc bắt đầu đời sống thiêng liêng, Thiên Chúa đặt chúng ta trong những hoàn cảnh, nơi đó chúng ta thanh tẩy chính chúng ta. Tự nhiên, tất cả chúng ta có khuynh hướng tìm kiếm khoái lạc và hưởng thụ, giác quan, nhưng Thiên Chúa, qua ngọn lửa tình yêu bừng cháy trong linh hồn chúng ta, làm cho chúng ta kiềm chế được giác quan chúng ta.
Trong đời sống tông đồ, việc hãm mình, không được tìm kiếm vì chính nó, nhưng đúng hơn là được thi hành vì tình yêu anh em, và dù do hoàn cảnh mang lại. Như thế việc hãm mình thường rất quan trọng trong đời sống thiêng liêng.
Thực sự, tình thương yêu người lân cận, khuyến khích chúng ta giúp đỡ người khác, nâng đỡ họ, và điều này bao hàm sự từ bỏ chính mình.
Ngay cả, khi vì tình yêu thúc đẩy, người ta không còn cảm thấy được sự hy sinh lớn lao của mình, nhưng không vì thế mà sự hãm mình giảm bớt hay không còn là một công đức.
Trái lại, có thể nói, tình yêu càng lớn thì công đức càng cao, ngay cả khi người ta không còn cảm thấy sự hy sinh. Đối với những việc khác, con đường dẫn tới Thiên Chúa chắc chắn hệ tại ở sự hãm mình và thống hối, nhưng thống hối đến từ việc dâng hiến và từ tình yêu người lân cận.
Điều quan trọng trong giai đoạn này, cũng như trong suốt đời sống thiêng liêng, là sống cuộc sống hiện tại với tràn đầy sức sống, và dồn tất cả chú ý và quyết tâm vào công việc đang ở trong tầm tay, quên đi quá khứ.
Trong thời gian này, đời sống thiêng liêng của chúng ta được xác định do nhất quyết yêu Chúa và tha nhân với tất cả linh hồn, lý trí, sức lực, cho đến khi nào chúng ta tự hiến hoàn toàn. Và nếu chúng ta sống được như thế trọn cả ngày, bấy giờ, khi chúng ta một mình với Chúa, chúng ta sẽ thấy gần gũi với Ngài dễ dàng, vì thực sự chúng ta đã sống với Ngài cả ngày, khi tự hiến hoàn toàn cho tha nhân.
Trong giai đoạn này, đối với Pascal M. Foresi, hình như không có thử thách đặc biệt, nhưng dấu hiệu đặc trưng là sự nồng nhiệt và vui vẻ.
Một ít thử thách nhỏ có thể xảy đến, nhưng chúng ta sẽ giải quyết mau lẹ. Và hình như toàn thể quá khứ chúng ta đã hầu như hoàn toàn bị bỏ qua và quên lãng, những cám dỗ trong quá khứ cũng chỉ là một kỷ niệm xa mờ. Hầu như chúng ta cảm thấy đã đạt được một sự bình an vững chắc, vì thường thường ngay cả cám dỗ cũng không thấy xảy đến. Khởi đầu là giác quan chúng ta được Thiên Chúa chiếm hữu và lôi kéo về với Ngài, vì chúng ta đã được sử dụng cho Ngài (trg. 121–122).
- GIAI ĐOẠN HAI
2.1. Một số hiện tượng có thể xảy ra trong giai đoạn này
Sau giai đoạn một, có thể kéo dài rất lâu, tất cả những ơn mà giác quan có thể cảm thấy được, và những ơn mà Thiên Chúa ban cho để trợ giúp chúng ta trở lại, sẽ ít được cảm thấy hơn.
Thiên Chúa không cất ơn Ngài đi, nhưng Ngài mời gọi chúng ta dâng hiến trọn vẹn hơn. Ở điểm này, những thu hút nội tâm mà trước kia có thể điều khiển giác quan chúng ta, không còn mãnh liệt như trước, và do đó không đủ sức gây nên sự nhiệt thành tự hiến của chúng ta. Giờ thì tình yêu Thiên Chúa sâu đậm mà tinh ròng hơn phải hướng dẫn và nâng đỡ sự dâng hiến của chúng ta.
Và chính trong Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi, mà chúng ta có thể hiểu rõ hơn và chúng ta có thể tìm thấy sức lực để thắng vượt những khó khăn khởi đầu.
Thiên Chúa muốn thanh tẩy linh hồn một cách sâu xa hơn. Cho nên Ngài bắt đầu thử thách chúng ta bằng cách gởi đến chúng ta những khó khăn dưới nhiều hình thức đau khổ. Chẳng hạn như chúng ta có thể cảm thấy những bối rối thuộc quá khứ, hay những cám dỗ trong tư tưởng. Hầu hết những cám dỗ này chúng ta không phân biệt được đâu là cám dỗ, đâu là tội. Nghi ngờ về đức tin cũng có thể xảy đến. Những nghi ngờ này hầu như xuất hiện nơi những người có thói quen suy tư lập luận tự lập, mà bây giờ họ cần phải loại bỏ. Thường thường những thử thách này có liên quan đến những tật xấu trong quá khứ. Nó phát sinh do tập quán xấu mà bây giờ chúng ta thấy được, để loại bỏ nó, nhờ đó chúng ta có thể thanh tẩy được chúng ta.
Tôi không muốn nói về sự thanh tẩy trọn vẹn, đây chỉ là sự tẩy rửa ban đầu để tấn tới trong đời sống thiêng liêng. Tuy nhiên, đây là lúc cảm thấy được sự khổ tâm thực sự và sâu xa. Vì chưng, chúng ta không cảm được đời sống thiêng liêng, và không tiến bộ hoàn toàn trong việc kết hợp với Thiên Chúa: Một sự xáo trộn trong linh hồn, và chúng ta cảm tưởng rằng chúng ta đang xuống dốc.
Các tác giả tu đức diễn tả sự khổ tâm này như là hậu quả của tia sáng mới mà Thiên Chúa rọi xuống linh hồn chúng ta, cho chúng ta nhìn thấy chúng ta một cách hoàn toàn khác. Hầu hết những đau khổ này không là gì khác là sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng bắt đầu hành động và đi sâu vào hữu thể chúng ta (trg. 123–124).
2.2. Những nguy hiểm trong giai đoạn này
2.2.1. Nguy hiểm thứ nhất.
Một ít người có thể nghĩ: “Trước kia mình đã toàn thiện, thế mà giờ đây, khi mà mình còn thực sự yêu mến Thiên Chúa với tất cả linh hồn và trí khôn, mình phải gánh chịu những đau khổ này, nghĩa là mình sống không nổi, mình bắt đầu sống tu đức tệ hơn, trước kia mình đỡ hơn nhiều…” Do đó, có nguy hiểm là bị thất vọng, nó có thể mang nhiều tai hại dưới nhiều hình thức.
Trong thực tế, sự ngã lòng đè nặng chúng ta, vì những nguyên nhân nào đó, đưa chúng ta đến một trạng thái hầu như mời mọc phạm tội, không phải một sự quyến rũ đặc biệt nào, nhưng vì thiếu sức mạnh và sức sống thiêng liêng (trg. 124).
2.2.2. Nguy hiểm thứ hai.
Nguy hiểm thứ hai ngược lại với sự ngã lòng: đó là khuynh hướng chạy trốn những khó khăn, để khỏi đương đầu với chúng.
Linh hồn không chấp nhận thánh giá, nhưng né tránh và phí phạm chịu đựng thánh giá. Sánh với một linh hồn bối rối, thì linh hồn này uể oải hơn, và nhìn mọi sự cách quá đơn giản, không phải vì chưa được thanh tẩy, nhưng vì không còn can đảm để đương đầu và chấp nhận sự thanh tẩy đó (trg. 124).
2.3. Bí quyết để giải quyết những khó khăn trong giai đoạn này
Bí quyết để giải quyết khó khăn trong giai đoạn này là yêu mến Chúa Kitô bị đóng đinh và bị bỏ rơi, và trong mọi lúc, yêu mến và hiến thân cho tha nhân. Lúc bắt đầu, tình yêu người lân cận bao hàm sự hãm mình ép xác, tiếp đến, tình yêu người lân cận thắng vượt điều linh hồn chúng ta cảm thấy khó chịu, giúp chúng ta tìm gặp Chúa qua sự tiếp xúc với anh em. Bởi đó thương yêu người lân cận và kết hợp với anh em là những phương tiện giúp chúng ta thắng vượt những thử thách này.
Thiên Chúa gởi đến chúng ta những thử thách vì Ngài muốn chúng ta thắng vượt chính chúng ta, thắng vượt những đau khổ và những thương tâm của chúng ta. Sự thắng vượt mọi sự được hoàn tất không phải do sự chạy trốn (quả thực, chỉ cần mở tâm hồn cho kẻ nào có thể giúp chúng ta), nhưng đúng hơn là do việc hiến thân cho tha nhân, vì nhờ họ mà ta gặp được Chúa Giêsu. Và những kẻ khác cũng cần thiết không ít về những gì xảy đến trong tâm hồn chúng ta.
Khi Thiên Chúa đã đạt được đối tượng rồi, tức là linh hồn, đã một lần nguội lạnh khô khan, trở nên hiểu được chương trình của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa cất đi những thử thách đó, đôi khi qua lời nói của anh em (trg. 125).
- GIAI ĐOẠN BA: LINH HỒN ĐI VÀO MỘT LỊCH TRÌNH MỚI
3.1. Một số hiện tượng có thể xảy ra trong giai đoạn này
Chúng ta tự hỏi làm sao thấy được những thử thách trong quá khứ. Chúng ta không biết chúng xuất hiện lúc nào và ra sao, vì chúng ta hoàn toàn tiến đến một lịch trình mới của đời sống thiêng liêng.
Lịch trình mới này là một giai đoạn mà nơi đây, sau khi đã cảm được Thiên Chúa hơn, chúng ta bắt đầu tự hiến một cách tự do.
Khả năng của chúng ta hầu như vô tận. Chúng ta ảnh hưởng trên những người tiếp xúc với chúng ta, và chúng ta hiến cuộc đời cho hết thảy mọi đoàn thể Kitô hữu; hàng ngàn kết quả thiêng liêng mang lại, làm vinh danh Thiên Chúa.
Nhưng nếu linh hồn chúng ta rày đã tiến bộ và lớn lên trong đàng thiêng liêng, vẫn còn nhiều mầm mống ẩn khuất phát triển những gì có thể cản trở sự hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa và tình thương yêu kẻ lân cận. Do đó, cái cây linh hồn bắt đầu sinh hoa trái, phải được người làm vườn là Chúa Giêsu tỉa xén.
Linh hồn, trong mọi tác động, không phải được Thiên Chúa thúc đẩy hoàn toàn. Mọi năng lực của nó được dùng để ban phát. Nó không thể hành động một cách khác, nó phải bảo tồn trọng lượng tinh thần mới mẻ của nó, tuy nhiên tác động của nó vẫn còn mang tính cách nhân loại (trg. 126).
3.2. Những hậu quả
3.2.1. Hậu quả một.
Một trong những thử thách này thường gây ra đau khổ, nhất là không thể hiểu được những kẻ cùng chung sống với chúng ta trong đức tin và quảng đại. Chúng ta đau khổ vì chúng ta không hiểu được tại sao, sau khi trao ban tất cả những gì chúng ta có thể cho, những người mà chúng ta nâng đỡ và trợ giúp, không ít thì nhiều lại bắt đầu chỉ trích chúng ta. Điều đó có thể đưa đến một phản ứng thảm thương rất là tai hại. Thay vì nhìn nhận rằng chính những hành động bác ái của chúng ta chưa hoàn toàn vị tha, chúng ta có thể quay lại chỉ trích họ, vì chúng ta cảm thấy bị xúc phạm bởi những phán đoán của họ. Và bị cám dỗ rút lui, làm loạn, qui ẩn, bỏ đi xa, tất cả những sự này ngăn chặn mức tiến bộ thiêng liêng của chúng ta (trg. 126).
3.2.2. Hậu quả hai.
Nhưng Thiên Chúa dùng mọi sự để thánh hóa chúng ta và để giúp chúng ta tiến bộ.
Một thử thách khác phát sinh do không một kết quả thấy được thành tựu, cho dù chúng ta hoàn toàn tự hiến cho anh em. Điều đó có thể xảy đến, vì con đường chuyển đạt sứ mệnh của chúng ta chưa hoàn toàn ăn rễ sâu vào Thiên Chúa mà còn quá nông cạn. Do đó, nó chưa thật sự bén rễ sâu cho nên có nguy hiểm là thất vọng và phiền toái những khó khăn hiện tại do hoàn cảnh bên ngoài mang đến (trg. 127).
3.2.3. Hậu quả ba.
Những thử thách sau cùng của giai đoạn này được đưa đến là khi chúng ta cảm thấy rằng các đấng bề trên không nhìn thấy được những việc thiện mà chúng ta đã và đang thi hành. Sự đau khổ này sinh ra do lòng tự ái gắn liền với việc thiện mà chúng ta hoàn thành (trg. 127).
3.3. Kết luận cho giai đoạn ba
Nói tóm lại, trong mọi trường hợp, chúng ta có thể cắt nghĩa hoàn cảnh theo các hạn từ sau đây: linh hồn đã thực sự ban phát chính mình, và đã làm nhiều việc thiện, tuy nhiên Thiên Chúa muốn nâng linh hồn lên một mức độ cao hơn, và cho nó khám phá ra một thế giới khác theo sự nhận thức của nó. Như thế, cần phải biết đón nhận ơn Chúa, là những ơn rất đỗi lớn lao. Nếu người ta không nhận được nhiều ơn, người ta sẽ không tiến bộ gì hơn qua nhiều năm tháng.
Cần phải biết đón nhận ơn thánh, vì những thử thách vừa nói trên, chỉ đến với kẻ nào sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa. Thiên Chúa không đòi hỏi nhiều đối với kẻ chưa bao giờ phục vụ Ngài.
Giờ thì chúng ta thấy rõ rằng: Nếu chúng ta thắng vượt những thử thách đó, chúng ta thấy được Thiên Chúa mời gọi chúng ta kết hiệp mật thiết với Ngài hơn. Chúng ta hiểu được rằng chúng ta chịu thử thách để thanh tẩy yếu tố nhân loại trong hoạt động tông đồ của chúng ta.
Ở đây, sự thanh tẩy trở nên trọn hảo nhờ kết hiệp với anh em. Lúc đầu chúng ta gặp thấy ngay phải hy sinh vì tình yêu đối với anh em. Kế đến tình yêu anh em cho phép chúng ta thắng được những thử thách tinh thần tiên khởi. Sau cùng, sự thành thật đến từ anh em loại bỏ được nơi chúng ta những khuyết điểm mà chúng ta không nhận thấy được, vì chúng ta tưởng rằng chúng ta không thể có.
Trong giai đoạn của đời sống thiêng liêng này, nó rất là quan trọng đặc biệt với những kẻ mang nhiều tư tưởng, muốn làm sự thiện theo sáng kiến riêng. Con người đó cần phải biết lắng nghe kẻ khác, biết phân biệt tư tưởng của mình với tư tưởng của người khác, đó là sự thanh tẩy tuyệt hảo ý chí, lý trí và con tim.
Nên chi, trong việc kết hiệp với người lân cận, chúng ta thanh tẩy được chính chúng ta mà nếu sống cô lập, chúng ta không thể nào đạt được một cách nhanh chóng. Nếu chúng ta thực sự hiểu rằng chính Chúa Giêsu thanh tẩy chúng ta qua lời nhắc bảo của anh em về lỗi lầm của chúng ta, và nếu chúng ta nhận thấy điều họ nói là đúng, dù nó làm ta đau khổ, thì sự chân thật đó sẽ giải thoát chúng ta, và khuyết điểm dần dần sẽ biến đi.
Cũng cần đạt đến sự hiệp nhất với anh em, ngay khi chúng ta bị chỉ trích và phê bình. Giả sử như nếu người khác nghĩ không đúng về ta, điều đó tự nó sẽ tan biến đi trong tâm trí họ, vì tình thương huynh đệ và sự hiệp nhất chỉ phù hợp với sự chân thật của Chúa Giêsu chân thật và hằng sống.
Ở đây, thấy được con đường chính yếu là sự bác ái huynh đệ. Và nhất là nếu chúng ta cảm thấy bị kẻ khác hiểu lầm, đó là lúc chúng ta phải yêu mến họ, vì họ có thể nhìn thấy nơi chúng ta những khuyết điểm mà chúng ta không thấy được. Thật là vô ích nếu có mặc cảm bị hiểu lầm. Chính trong sự hiệp nhất với người lân cận, với tất cả anh em chúng ta, mà chúng ta trở thành khách quan và đích thực như Thiên Chúa muốn. Đàng khác, chúng ta có thể hiểu mình tự cô lập, tạo nên một thế giới trong đó, chúng ta tìm thấy được một sự kết hợp nơi Thiên Chúa, sự kết hợp bên trong một nhóm người hạn hẹp, nhưng chỉ với những người chịu đựng nổi và hiểu được chúng ta thôi. Tuy nhiên cần phải thận trọng. Những thử thách này có thể xảy đến cho một linh hồn đang tiến bộ trong đàng thiêng liêng, và có thể làm cho nó sa ngã và mất đi đà tiến bộ.
Càng kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa thì càng hợp nhất với người lân cận. Nếu đạt được sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa bằng cách cô lập ta với người lân cận, thì chắc chắn ta chưa có một đời sống thiêng liêng đích thực.
Tôi xin lặp lại, yêu mến người lân cận, có Chúa Giêsu trong lòng, sống giây phút hiện tại, yêu mến thánh giá. Đó là con đường chính yếu phải đi trong cả cuộc đời chúng ta (trg. 128–129).
- TIẾN VÀO CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG HOÀN HẢO
Linh hồn, sau khi đã vượt qua những chặng đường của đời sống thiêng liêng được vắn tắt diễn tả trong chương này, có thể được tinh luyện nhiều hơn, cảm thấy được nhiều hơn những việc làm của Thiên Chúa. Trong đời sống tông đồ, nó mang nhiều kết quả, phát triển mạnh mẽ hoa trái của đời sống siêu nhiên. Đôi khi chỉ một sự hỏi han, một lời nói, đủ để giúp người khác nhận thấy được sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần gian.
Dĩ nhiên, thử thách vẫn còn, nhưng bây giờ linh hồn thật sự đã bắt đầu học biết phai mờ đi, vì nó đã hoàn toàn hoà hợp trong đời sống của Thiên Chúa và trong tình yêu đối với người lân cận.
Sự thanh tẩy trở nên cao vượt hơn lúc được thanh luyện bởi các khuyết điểm, vì bây giờ nó được xây dựng trên ý muốn của Thiên Chúa là giữ linh hồn khỏi bị ràng buộc vào những việc làm của nó.
Nhờ đó mà một kẻ đã trưởng thành trong đường lối này, hiểu được rằng chỉ có một mình Thiên Chúa là quan trọng thực sự, và ngoài ra không còn gì khác, dù bị ngược đãi, dù không có kết quả nào mang lại. Đừng quan trọng hóa vấn đề chúng ta lành mạnh hay đau yếu, dễ chịu hay khó chịu trong khi làm việc, cũng đừng quan tâm đến sự biết ơn hay khinh dể việc chúng ta làm.
Đối với những người này, chỉ có một điều quan trọng là vinh danh Thiên Chúa, họ không lo lắng gì đến việc có thể xảy ra hay không thể xảy ra, với họ chỉ cần tình yêu và vinh danh Thiên Chúa là đủ. Một khi chúng ta tiến bộ được như thế sau nhiều năm chuẩn bị, có thể nói được rằng chúng ta bắt đầu một đời sống thiêng liêng hoàn hảo.
Dù chúng ta không thể nào đạt được một tình yêu hoàn hảo tuyệt đối, nhưng thái độ này của linh hồn có thể có giá trị và trổi vượt hơn mọi tác động khác. Ở đây, mọi sự đều qui hướng và nối liền với tình thương yêu người lân cận, với đời sống kết hợp cùng anh em.
Thực sự, một khi chúng ta tiến bộ trong mối tương quan với Thiên Chúa, dần dần tình yêu và sở thích của chúng ta trong các khó khăn thuộc bản tính nhân loại trở thành rộng lớn và phổ quát hơn. Khó khăn của Giáo Hội trở thành khó khăn của chúng ta, không phải do một cố gắng nào của ý chí, nhưng do thông cảm với sự đau khổ mà Giáo Hội phải chịu, vì biết rằng Giáo Hội không phải là một tổ chức thuần túy bên ngoài, nhưng là một nhân loại tính được tái sinh qua phép thánh tẩy, là một thân thể bao hàm tất cả yếu tính nhân loại của các chi thể mình.
Một sự thăng tiến như thế làm cho nhiều đấng thánh biết kết hợp họ với những khó khăn của thời đại và của tổ quốc họ, và biết tìm ra những giải đáp vừa có bản chất tinh thần vừa có bản chất xã hội. Chính sự kết hợp linh hồn với Chúa Kitô, sau khi đã đạt đến cao độ, đã cho linh hồn tiến bộ không ngừng với tất cả nhân loại tính của nó. Quả thực, Chúa Kitô là khởi điểm (alpha) và là cùng đích (omega) của đời sống thiêng liêng chúng ta (trg. 130–131).
- ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA CHÚA GIÊSU
Điều không chối cãi là Chúa Giêsu có một đời sống lấp đầy: Chúa giảng Tin Mừng cho các tông đồ, cho dân chúng, săn sóc kẻ đau ốm, trừ quỷ, trả lời các câu hỏi của bạn bè, của kẻ thù và đặc biệt không bao giờ ở lâu một chỗ (trg. 132).
“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám đến cho Người, cả thành xúm lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ. Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi vào nơi hoang vắng và cầu nguyện. Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: ‘Mọi người đang tìm Thầy đấy!’. Người bảo các ông: ‘Chúng ta hãy đi đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.’ Rồi Người đi khắp miền Galilê rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (Mc 1,32–39).
Tất cả những gì chúng ta biết về Chúa Giêsu đều nói lên một điều quan trọng là làm theo ý Chúa Cha.
Điểm nổi bật trong Phúc âm là sự vâng lời tuyệt đối này.
Từ những lời đầu tiên Chúa nói trong Đền Thánh: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 4,9), cho đến những lời cuối cùng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Mối lo duy nhất của Chúa Giêsu là hoàn thành ý Chúa Cha.
Người nói: Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm. Công việc của Chúa Giêsu làm là sứ mạng Chúa Cha giao phó để hoàn thành, và những lời Chúa rao giảng là những lời Chúa Cha truyền.
Người đã nói rõ rằng: “Nếu tôi không làm việc của Cha tôi, các ông đừng tin tôi.” (Ga 10,37) “ và lời anh em nghe đây không phải của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 14,24).
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc không chỉ do những gì Người rao giảng hay những gì Người làm cho chúng ta, nhưng còn vì Người đã rao giảng và thi hành đúng theo ý muốn của Chúa Cha.
Mối quan hệ do sự vâng lời Chúa Cha là trọng tâm đời sống của Chúa Giêsu.
Điều này khó hiểu đối với chúng ta, bởi vì ở xã hội chúng ta đang sống, chữ vâng lời có nhiều nghĩa tiêu cực. Vâng lời làm ta nghĩ đến nhà cầm quyền áp đặt ý chí của họ trên ước muốn của chúng ta, nhắc ta nhớ đến những kỷ niệm khó khăn thuở thơ ấu, vâng lời dưới sự đe dọa của hình phạt. Nhưng vâng lời này không tương ứng với vâng lời của Chúa Giêsu.
Vâng lời của Chúa Giêsu là sự lắng nghe hoàn toàn và không hề nghi ngờ vào Người Cha yêu quý. Giữa Người Cha và Người Con chỉ có tình yêu. Tất cả những gì thuộc về Người Cha, Người Cha giao phó cho Người Con, và tất cả những gì Người Con nhận, Người Con dâng lại cho Người Cha. Người Cha giao phó hoàn toàn cho Người Con và đặt mọi sự trong tay Người Con: tất cả sự hiểu biết (Ga 12,50), tất cả vinh quang (Ga 8,54), tất cả quyền lực (Ga 5,19–21). Và Người Con phó thác hoàn toàn cho Người Cha và hoàn lại tất cả trong tay Người Cha. “Thầy từ Cha mà đến và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà đến cùng Chúa Cha.” (Ga 16,28).
Tình yêu không thể cạn giữa Người Cha và Người Con, tình yêu này đã ôm hết tất cả các dạng tình yêu khác và còn làm vượt trội hẳn lên. Tình yêu này bao gồm tình yêu của cha, mẹ, anh, chị, chồng, vợ, người thầy và người bạn. Nó vượt xa tình yêu của con người vốn là một tình yêu có giới hạn. Đây là một tình yêu chăm chú và đòi hỏi, một tình yêu vị nghĩa nhưng nghiêm khắc, một tình yêu êm dịu nhưng mạnh mẽ. Đó là một tình yêu cho sự sống và chấp nhận sự chết. Chính trong tình yêu thần thánh này mà Chúa Giêsu nhập thể làm người và chịu chết trên cây Thánh Giá. Tình yêu này, bao gồm tất cả và thể hiện mối liên hệ giữa Người Cha và Người Con, là một Đấng Thánh, ngang hàng với Người Cha và Người Con. Đấng có một danh hiệu riêng, đó là Chúa Thánh Thần. Người Cha yêu Người Con và tỏa lan trong Người Con. Người Con được Người Cha yêu và trả lại tất cả những gì thuộc về Người Con cho Người Cha. Chúa Thánh Thần chính là tình yêu, bao gồm muôn đời Người Cha và Người Con.
Cộng đồng tình yêu muôn đời này là trọng tâm và cội nguồn đời sống thiêng liêng của Chúa Giêsu, một đời sống chăm chú liên tục vào Người Cha, trong tình yêu của Chúa Thánh Thần. Chính đời sống này đã nuôi dưỡng cuộc đời Chúa Giêsu. Dù lúc ăn, lúc uống, lúc nhịn đói, lúc cầu nguyện hay hành động, lúc di chuyển hay nghỉ ngơi, lúc rao giảng hay dạy bảo, lúc trừ quỷ hay chữa bệnh, Chúa đã làm trong Chúa Thánh Thần của tình yêu. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu toàn diện ý nghĩa chức vụ dồi dào, biến thiên của Chúa Giêsu nếu chúng ta không thấy tất cả mọi sự này bám rễ sâu trong một điều:
Lắng nghe Chúa Cha trong mối liên hệ yêu thương vẹn toàn.
Chỉ lúc nào chúng ta hiểu được sự bám rễ này thì lúc đó chúng ta mới hiểu mục đích của Chúa Giêsu là đưa chúng ta vào cộng đồng này, đi vào một cách mật thiết nhất.[6]
Đức Giêsu là câu trả lời cho sự hiện hữu có vẻ tràn đầy nhưng thật thông thoáng, có vẻ tất bật nhưng thật sự cắt đứt với thế giới, sống mọi nơi nhưng không bao giờ ở tại nhà mình.
Chúa muốn dẫn chúng ta vào nơi cư trú thật. Nhưng tiếng gọi của Người kéo chúng ta lại với đời sống thiêng liêng chỉ có thể được thực hiện khi chúng ta sẵn sàng cáo mình, thẳng thắn nhìn nhận chúng ta đã kéo lê một đời sống thật ưu phiền, hoàn toàn mất trọng tâm và nhận biết đời sống này đã cắt vụn đời sống của chúng ta ra từng mảnh (trg. 24).
Chỉ lúc đó ước muốn gặp lại nơi cư trú thật mới có thể phát triển trong chúng ta.
Chính ước muốn này mà Đức Giêsu nói với chúng ta: “Trước hết hãy tìm Nước Thiên Chúa, mọi sự sẽ đến dồi dào với con sau.”
Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
__________
- Henri JM. Nouwen,Making All Things New – An Invitation to the Spiritual Life, trg. 16.
- Norberto,Sống bởi Thánh Khí, trg.3.
- Giovanni Martinetti,Đau Khổ: vấn đề gai góc,trg.3.
- Pascal M.Foresi,Reaching for more (Con đường thăng tiến), trg.120.
- Pascal M.Foresi,Reaching for more (Con đường thăng tiến), trg.120.
- Henri JM. Nouwen,Making All Things New – An Invitation to the Spiritual Life, trg. 30–35.
2020
Tác động của chủ nghĩa tương đối trên giới trẻ
“Sự độc tài của chủ nghĩa tương đối” là cụm từ gắn liền với Đức Bênêđictô XVI, vị giáo hoàng kêu gọi Giáo Hội phải cảnh giác và chống lại chủ nghĩa tương đối vì những tác động tai hại của nó trên mọi lãnh vực của đời sống con người và xã hội. Cùng một nhận định, trong tông huấn Evangelii Gaudium, Đức giáo hoàng Phanxicô viết: “Tiến trình tục hóa đã đẩy đức tin và Giáo Hội vào lãnh vực cá nhân riêng tư và thầm kín. Hơn nữa, với việc phủ nhận tất cả chiều kích siêu việt, nó tạo ra những sai lệch về mặt đạo đức, làm suy yếu ý nghĩa về tội cá nhân và xã hội, âm thầm đẩy mạnh chủ nghĩa tương đối, đưa đến việc mất định hướng nói chung, đặc biệt là trong giai đoạn vị thành niên và tuổi trẻ, là nhóm người rất dễ bị chao đảo trước những thay đổi như thế” (số 64).
Vậy, chủ nghĩa tương đối là gì? Tại sao nó gây tác hại cho đời sống con người, cách riêng là giới trẻ? Giáo Hội có thể làm gì trước những tác hại này? Đây là những câu hỏi mà bài viết này quan tâm nghiên cứu và gợi ý suy nghĩ.
- TỪ NGỮ VÀ LỊCH SỬ
Theo Từ điển Webster, “chủ nghĩa tương đối” có hai nghĩa.
Một là “lý thuyết cho rằng nhận thức có tính tương đối do bản chất giới hạn của tâm trí và do những điều kiện nhận thức”. Hai là quan điểm cho rằng “những chân lý về mặt đạo đức tùy thuộc vào các cá nhân và các nhóm tuân giữ”. Nói cách khác, không có chân lý phổ quát, chỉ có những chân lý khác nhau. Thế nên Simon Blackburn, giáo sư Triết học tại đại học Cambridge, giải thích chủ nghĩa tương đối là “những ý kiến khác nhau, không có quyền bính độc nhất, có bao nhiêu dân tộc, xã hội, văn hóa, thì có bấy nhiêu ‘chân lý’.
Chủ nghĩa tương đối không phải là điều tự nhiên từ trời rơi xuống, nhưng có thể tìm về gốc gác trong triết học Hi Lạp từ thế kỷ V trước Công nguyên. Protagoras (490–420 B.C.) được coi như tiếng nói chính thức đầu tiên về chủ nghĩa tương đối khi ông tuyên bố, “Con người là thước đo mọi sự”. Trước Protagoras còn có Heraclites với chủ trương “mọi sự đều thay đổi”, không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông, do đó chẳng có gì là tuyệt đối.
Đến thời Trung Cổ, William Ockham (thế kỷ 14) đặt nền móng cho chủ thuyết Duy danh (Nomenalism), không nhìn nhận các phổ hữu, chỉ nhìn nhận sự hiện hữu của cái đặc thù, những cá thể sự vật. Sự tương tự giữa các sự vật không còn được coi như đặc tính chung về bản tính, do đó những ý niệm, luật lệ, ý tưởng trừu tượng và phổ quát chỉ là “tên gọi” hoặc những hình ảnh trong tâm trí.
Trong thời đại ngày nay, có thể thấy phản ánh của chủ thuyết duy danh nơi lý thuyết được gọi là Đạo đức hoàn cảnh (Situation Ethics). Người ta cho rằng tình yêu là nguyên lý chính yếu trong mọi quyết định luân lý. Có thể xem đây là một nỗ lực giữ thế trung dung giữa một bên là nền luân lý xây dựng trên những mệnh lệnh tuyệt đối (và bị coi là duy lề luật), còn một bên là lối sống phóng túng, chẳng có lề luật hay nguyên tắc nào hướng dẫn cả. Thế nhưng vấn đề ở đây là “nguyên lý tình yêu” cũng dễ trở thành nguyên lý thực dụng, nghĩa là nhằm đem lại những điều tốt nhất cho nhiều người nhất. Nghe thì rất hay, nhưng liệu có nguy cơ “lấy mục đích để biện minh cho phương tiện” không? Đề cao tình yêu mà không có nội dung đạo đức cụ thể sẽ dẫn đến những chọn lựa luân lý tùy theo sở thích mỗi cá nhân.
- NHỮNG LOẠI HÌNH CỦA CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI
Chủ nghĩa tương đối xuất hiện dưới nhiều hình thức:
- a) Tương đối về thẩm mỹ:Quan điểm triết học cho rằng phán đoán về cái đẹp tùy thuộc vào các cá nhân, nền văn hóa, thời đại, bối cảnh, do đó không có những tiêu chuẩn phổ quát cho cái đẹp. Một tác phẩm nghệ thuật hoặc điêu khắc có thể được người này cho là đẹp nhưng người khác thì không.
- b) Tương đối về nhận thức:Mọi chân lý đều là tương đối. Không có hệ thống chân lý nào vững chắc hơn hệ thống kia, cũng chẳng có những chuẩn mực khách quan về chân lý. Hệ quả là chẳng có Thiên Chúa của chân lý tuyệt đối, cũng không chấp nhận niềm tin cho rằng lý trí có thể khám phá chân lý tuyệt đối.
- c) Tương đối và duy chủ thể (Subjectivism):Mỗi cá nhân hoặc chủ thể (cùng với cảm giác, ý tưởng, thái độ, cảm xúc, niềm tin của họ) chiếm vị thế ưu tiên trong trật tự thế giới cũng như trong nhận thức về thế giới.
Các học giả ngày nay thường nói đến bốn trường phái tư tưởng liên quan đến chủ nghĩa tương đối: tương đối văn hóa, tương đối nhận thức, tương đối về cấu trúc xã hội, và tương đối hậu hiện đại.
- a) Tương đối văn hóa:Các nhóm ngôn ngữ và văn hóa khác nhau có thể có những quan điểm nền tảng khác nhau, dẫn đến vũ trụ quan khác nhau. Không có nền văn hóa nào cao hơn, mọi nền văn hóa đều bình đẳng.
- b) Tương đối nhận thức:Quan điểm về hữu thể luận tùy thuộc vào những khung nhận thức và những phạm trù khác nhau.
- c) Tương đối về cấu trúc xã hội:Những lực khác nhau trong cấu trúc xã hội dẫn đến việc hình thành những từ ngữ và quan điểm khác nhau.
- d) Tương đối hậu hiện đại:Không chấp nhận khách thể tính, khước từ những ý niệm phổ quát cũng như chân lý phổ quát. Có lẽ đây là lãnh vực mà Giáo Hội phải quan tâm nhiều nhất.
- ĐẶT VẤN ĐỀ VỚI CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI
Ngay từ đầu, bài viết này đã nhắc tới cụm từ “sự độc tài của chủ nghĩa tương đối”. Để diễn tả đầy đủ hơn, cần đọc lại nguyên văn bài giảng của Hồng y Joseph Ratzinger trong Thánh Lễ khai mạc Mật nghị bầu giáo hoàng: “Ngày nay, việc có một đức tin rõ ràng dựa trên Kinh Tin Kính của Hội Thánh lại thường bị dán nhãn hiệu là bảo thủ. Đang khi đó, chủ nghĩa tương đối, nghĩa là để mình “bị sóng đánh trôi dạt theo mọi chiều gió đạo lý” (x. Ep 4,14) xem ra lại được coi là thái độ phù hợp nhất với thời đại. Người ta đang xây dựng thứ độc tài của chủ nghĩa tương đối vốn không nhìn nhận bất cứ điều gì là vững vàng, và mục đích tối hậu của nó chỉ là cái tôi và ước muốn ích kỷ của bản thân”.
Trong một dịp khác, khi bàn đến “Nền tảng nhân học của gia đình”, Đức Bênêđictô XVI nói rõ hơn: “Ngày nay, có một lực cản đặc biệt đáng ngại trong việc giáo dục, đó là sự hiện diện rộng khắp của chủ nghĩa tương đối trong xã hội và văn hóa. Chủ nghĩa này không nhìn nhận điều gì là vững vàng, cuối cùng tiêu chuẩn tối thượng duy nhất là cái tôi và những ước muốn của nó. Và ẩn dưới dáng vẻ của tự do, nó lại biến thành ngục thất cho mỗi người vì nó ngăn cách con người với nhau, khóa chặt mỗi người trong cái tôi ích kỷ của mình”.
Như thế, chủ nghĩa tương đối không chỉ là vấn nạn riêng cho Giáo Hội Công giáo nhưng còn là vấn nạn chung cho cả xã hội và văn hóa. Bản chất độc tài của chủ nghĩa tương đối là ở chỗ nó chỉ chấp nhận quan điểm cho rằng mọi chọn lựa chủ quan của mỗi người đều có giá trị như nhau; do đó kẻ nào chủ trương có những chân lý và thiện hảo khách quan… thì bị coi là thiếu khoan dung!
Quan điểm này chắc chắn sẽ gây tác hại khôn lường về mặt đạo đức. Một người chủ trương tương đối về mặt luân lý sẽ định nghĩa luân lý là cái gì mang tính cá nhân, chủ quan, có thể thay đổi. Luân lý mang tính chủ quan và phải tôn trọng tự do của mỗi cá nhân. Do đó, cái được gọi là những chuẩn mực khách quan trong đời sống luân lý sẽ bị coi là sự áp đặt từ trên xuống mỗi cá nhân, gây ra mặc cảm tội lỗi cho người ta… và như thế, đương nhiên là sai và không thể chấp nhận.
Thế nhưng, khẳng định “Mọi chân lý đều là tương đối” có hợp lý không? Nếu khẳng định mọi chân lý đều tương đối, thì ngay cả khẳng định đó “Mọi chân lý đều tương đối” cũng không thể là tuyệt đối, nhưng chỉ có tính tương đối! Nếu cho rằng chúng ta chỉ có thể thấy những khía cạnh khác nhau của cùng một thực tại (chứ không phải chính thực tại), vậy giả như những cái nhìn đó mâu thuẫn nhau thì liệu chúng ta có thể tin vào nhận thức của mình không? Hai tác giả Francis J. Beckwith và Gregory Koukl, trong cuốn Relativism: Feet Firmly Planted in Mid–Air (1998) đưa ra bảy sai lầm lớn của chủ nghĩa tương đối:
- a) ”Người chủ trương tương đối không thể kết tội người khác làm sai”.Vì không có điều được nhìn nhận là chân lý khách quan, nên bạn không thể kết luận người khác làm sai, bởi lẽ không có chuyện làm sai, mỗi người đều làm đúng theo chuẩn mực cá nhân của họ. Phải có một chuẩn mực luân lý chung thì mới có thể nói người này làm sai, người kia làm đúng. Còn nếu chỉ là chân lý chủ quan thì chúng ta không thể nói người khác là sai.
- b) ”Người chủ trương tương đối không thể than phiền về vấn đề sự dữ”.Vì không có chân lý khách quan nên sự dữ cũng không hiện hữu. Tại sao? Trong một thế giới theo chủ nghĩa tương đối, ý niệm về “sai, trái” không hiện hữu, do đó cũng không thể coi sự dữ là “sai, trái”. Người chủ trương tương đối đơn giản là phải chấp nhận sự dữ như là chân lý chủ quan của người khác, chứ không phải là cái gì sai trái.
- c) ”Người chủ trương tương đối không thể nguyền rủa, cũng không thể ca tụng ai”.Vì không có chuẩn mực khách quan cho cái đúng và cái sai, nên cũng không có chuẩn mực để đánh giá tốt hay xấu, ca tụng hay nguyền rủa.
- d) ”Người chủ trương tương đối không thể nói đến bất công hay bất toàn”.Vì không có chuẩn mực cho cái đúng hay sai, nên cũng không có chuyện bất công hay bất toàn. Trong một nền văn hóa chủ trương mọi sự là tương đối, cái gọi là “bất công” đơn giản chỉ là người khác hành động theo chân lý chủ quan của họ. Hành động đó có thể gây ra “bất công” cho người khác, nhưng lại là điều đúng và tốt theo chân lý chủ quan của họ.
- e) ”Người chủ trương tương đối không thể tiến triển về mặt đạo đức”.Vì không có chuẩn mực cho cái đúng và cái sai, tốt và xấu, nên làm sao có sự tiến triển từ cái sai đến cái đúng, từ cái xấu đến cái tốt? Phải có chuẩn mực khách quan để đánh giá thì mới có thăng tiến.
- f) ”Người chủ trương tương đối không thể bàn chuyện luân lý cách nghiêm túc”.Vì cho rằng luân lý tính là chủ quan, tùy vào mỗi cá nhân, nên không thể nào bàn đến chuyện đạo đức vì mỗi người chủ trương khác nhau. Điều được cho là đúng với người này không hẳn đã là đúng với người kia.
- g) ”Người chủ trương tương đối cũng không thể nói đến sự khoan dung”.Không có chuẩn mực cho cái đúng, sai, nên không ai đúng và cũng chẳng sai sai. Như thế, làm gì có cái gọi là khoan dung.
- TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI TRÊN GIỚI TRẺ
Thật khó để đo lường tác động của chủ nghĩa tương đối trên giới trẻ. Không có thống kê hoặc dữ liệu để có thể khẳng định những tác động tiêu cực hoặc tích cực của chủ nghĩa tương đối trên giới trẻ. Chỉ có thể dựa vào những tiếp cận thường ngày và kinh nghiệm mục vụ để nói rằng tác động này rất tinh tế và điều đáng quan tâm hơn cả là tác động của chủ trương tương đối về đạo đức. Một số người nghĩ rằng chủ trương tương đối về mặt đạo đức đem lại ích lợi là giúp phát triển sự đa dạng văn hóa và thực hành đạo đức, đồng thời làm cho người ta thích nghi tốt hơn khi nhận thức và kỹ thuật thay đổi trong xã hội. Dù có một vài mặt tích cực thì trong thực tế, nền văn hóa với chủ trương tương đối đang đặt ra cho Giáo Hội nhiều thách đố đáng quan ngại. Ở đây xin nói đến năm lãnh vực liên quan đến tác động của chủ trương tương đối về mặt đạo đức.
- a) Kiếm tìm sự độc lập
Chủ trương tương đối tác động trên cách nghĩ và cách sống của người trẻ rất tinh tế khiến chính họ cũng không ý thức. Cách tổng quát, có những nghiên cứu cho thấy nền văn hóa trong thời đại chúng ta cho rằng chân lý chỉ có tính tương đối. Ai cũng có lập trường của mình và điều buồn cười là ai cũng cho rằng chỉ có mình là đúng. Đối với người trẻ, tìm kiếm sự độc lập là thành phần trong tiến trình tăng trưởng. Từ tuổi thiếu niên phải sống lệ thuộc bước sang tuổi teen muốn sống độc lập, người trẻ luôn đi tìm căn tính của mình. Sự tìm kiếm này song hành với nhu cầu khẳng định bản thân trong xã hội. Do đó, sự khẳng định tính độc lập này dẫn người trẻ đến chủ trương tương đối. Chẳng hạn một bạn trẻ có thể cảm thấy cách để khẳng định bản thân là nhấn mạnh lập trường của mình. Cho dù lập trường của bạn đó có phần hợp lý, nhưng thái độ này có thể dẫn người trẻ đến chỗ không dễ dàng đón nhận chân lý khách quan.
- b) Sự khoan dung
Một vài tác giả cho rằng “khoan dung” cũng có thể là một trong những nguyên cớ góp phần củng cố chủ nghĩa tương đối. Đôi khi sự khoan dung có thể ảnh hưởng đến tính khách quan của chân lý. Chúng ta dạy người trẻ phải tôn trọng, đón nhận, không đối đầu…là đúng, nhưng điều này cũng có thể làm giảm nhẹ tính khách quan và những đòi hỏi của chân lý. Những người chủ trương tương đối thường bảo vệ lập trường của họ bằng cách khẳng định rằng họ khoan dung hơn những người khác, bởi lẽ đối với họ, mọi sự là tương đối và không có niềm tin nào là duy nhất tốt lành và đúng đắn. Trong bối cảnh thời đại đa văn hóa, đa chủng tộc, dĩ nhiên khoan dung là một đức tính cần trân trọng, tuy nhiên nó cũng có thể mang lại hậu quả tiêu cực do ảnh hưởng của chủ nghĩa tương đối.
- c) Tục hóa
Không thể phủ nhận rằng làn sóng tục hóa đang lan rộng khắp thế giới, len lỏi vào mọi lãnh vực của đời sống. Giữa tục hóa và chủ nghĩa tương đối có mối liên hệ mật thiết đến nỗi có người cho rằng tục hóa là một trong những hệ quả của chủ nghĩa tương đối. Người chủ trương tương đối không chấp nhận chân lý tuyệt đối, do đó một trong những điều phải vứt bỏ ngay là các tôn giáo với hệ thống tín điều và cơ cấu tổ chức. Đây chính là dấu hiệu cụ thể của tục hóa như Charles Taylor nói, “Tục hóa hệ tại ở việc rời bỏ niềm tin và thực hành tôn giáo, và việc người ta xa rời Thiên Chúa, không đến nhà thờ nữa”.
Sự khước từ tôn giáo dẫn đến một xã hội tục hóa, ở đó mỗi cá nhân tự quyền quyết định tốt, xấu. Không ai có quyền đưa ra lề luật hoặc quy tắc ứng xử vì mỗi người đều cho mình là đúng nhất. Hơn ai hết, người trẻ ngày nay chịu ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ này. Không có lề luật luân lý khách quan nào cả, mỗi người thoải mái làm những gì mình cho là đúng. Thực tế của châu Á cho thấy đang gia tăng số người trẻ rời bỏ Giáo Hội, cụ thể là tại Hàn quốc, nơi vẫn được đánh giá cao về đời sống đức tin và nhiệt tình truyền giáo.
- d) Toàn cầu hóa
Người trẻ thường chịu ảnh hưởng của các nhóm bạn. Trong thời đại toàn cầu hóa, nhóm bạn không chỉ là những người mà họ gặp gỡ trực tiếp nhưng còn là số đông họ gặp trong thế giới ảo (mà tác động lại rất thật): Facebook, Twitter, những mạng xã hội khác. Khi chủ nghĩa tương đối thấm vào văn hóa hiện đại thì qua những phương tiện truyền thông này, nó tác động rất nhanh trên người trẻ. Hãy thử đọc những comments của người trẻ về nhiều vấn đề cuộc sống, hãy thử theo dõi những chương trình truyền hình thực tế, sẽ thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa tương đối lớn ra sao. Câu nói quen thuộc của người trẻ ngày nay là: Nếu người khác làm được, tại sao tôi lại không được? Và cứ thế, những giá trị đạo đức khách quan dần dần bị xói mòn.
Thêm vào đó, lượng thông tin khổng lồ qua các phương tiện truyền thông làm cho con người nói chung, người trẻ nói riêng, bị chìm ngập, không còn giờ để suy nghĩ về ý nghĩa và mục đích sâu xa hơn của đời sống, chỉ mong tìm những gì thỏa mãn thị hiếu và khao khát nhất thời.
- e) Mất căn tính văn hóa
So với những thế hệ trước, người trẻ ngày nay có quá nhiều phương tiện để tiếp cận thông tin và các nền văn hóa trên thế giới: internet, du lịch, di dân… Sự tiếp cận này dẫn đến những so sánh và loại trừ những giá trị đạo đức truyền thống vì bị coi là cổ hủ. Chẳng hạn tại châu Á, hôn nhân thử và quan hệ tình dục trước hôn nhân đang trở thành một trào lưu được cho là tự nhiên và hợp lý. Với nhiều người trẻ, đức khiết tịnh chỉ còn là món đồ xa xỉ. Mỗi người có quyền chọn và sống theo những gì mình cho là đúng, có như thế cuộc sống mới đúng nghĩa tự do và hạnh phúc. Rõ ràng là chủ nghĩa tương đối đã thấm vào cách nghĩ và cách sống của họ.
Có thể tóm lại bằng nhận định của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ: “Giáo Hội nhấn mạnh các nguyên tắc luân lý khách quan, có giá trị đối với tất cả mọi người, nhưng có nhiều người lại cho rằng các giáo huấn này thật bất công, nghịch với những quyền căn bản của con người. Các lý luận này cách chung phát xuất từ một hình thức của chủ nghĩa tương đối về luân lý, nối kết với sự tin tưởng vào quyền tuyệt đối của mỗi cá nhân. Dựa theo đó, người ta cho rằng Giáo Hội xem ra đã có thiên kiến và can thiệp vào sự tự do của các cá nhân…Do đó phải có sự giáo dục giúp suy nghĩ chín chắn và đưa ra một đường hướng trưởng thành về các giá trị” (Persons with a Homosexual Inclination: Guidelines for Pastoral Care).
- ĐỒNG HÀNH MỤC VỤ
Dưới tác động của chủ nghĩa tương đối về luân lý, xem ra chúng ta đang tuột dốc rất nhanh và không biết phải làm gì để thắng lại. Đức Bênêđictô XVI mô tả chủ nghĩa tương đối như mối đe dọa lớn nhất cho đức tin Kitô giáo ngày nay. Đây không chỉ là một vấn đề đòi hỏi phải có suy tư ở chiều sâu, nhưng còn là vấn đề mục vụ, nghĩa là làm sao để tìm ra cách thế đồng hành với các tín hữu, để họ đứng vững trước sự đe dọa của chủ nghĩa tương đối và không đánh mất cảm thức về Thiên Chúa là chính Chân Lư.
Đòi hỏi này càng khẩn thiết hơn với mục vụ giới trẻ. Một đàng, Giáo Hội đánh giá cao về giới trẻ: “Nhiều vấn đề phức tạp mà giới trẻ phải đối diện ngày nay trong thế giới đang thay đổi tại châu Á thúc đẩy Giáo Hội nhắc nhớ người trẻ về trách nhiệm của họ với xã hội và Giáo Hội, đồng thời nâng đỡ, khuyến khích họ sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm này” (Ecclesia in Asia, số 47). Đàng khác, chúng ta lại đối diện với thực tế phũ phàng là nhiều người trẻ đang rời bỏ Giáo Hội như linh mục người Hàn quốc John JunYang Park nhận định: “Gần đây tại châu Á, chúng ta chứng kiến hiện tượng nhiều người trẻ rời bỏ Giáo Hội, và điều này được coi như tín hiệu thật sự nguy hiểm trong một vài quốc gia, đặc biệt những nước Đông Á như Hàn quốc”. Thực tế đó đặt ra cho Giáo Hội những câu hỏi cụ thể phải suy tư: Tại sao người trẻ rời bỏ Giáo Hội? Đâu là những nguyên nhân chính? Có thể làm gì trước tình hình này?
Trong Gioan 18,38, Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là chi?” Đây cũng là câu hỏi then chốt mà chủ nghĩa tương đối đặt ra. Theo thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp Veritatis Spendor, “Sự thật soi sáng trí khôn và định hình tự do của con người, dẫn họ đến chỗ nhận biết và yêu mến Chúa”. Sự thật là đối tượng chính yếu nhất của lý trí, cũng là mục đích tối hậu của hiện hữu nhân sinh, xét như là những hữu thể có lý tính. Sự thật được thể hiện trọn vẹn, sống động và cụ thể nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng là Đường, Sự Thật, Sự Sống. Vấn đề là làm sao giúp người trẻ chạm đến Sự Thật đó và để họ thấy tầm quan trọng của sự thật trong cuộc đời họ. Đây chính là thách đố mục vụ rất lớn mà mỗi thừa tác viên trong Giáo Hội, trong bối cảnh xã hội cụ thể mình đang sống, phải suy nghĩ và tìm ra phương thế thích hợp.
Cách tổng quát, mục vụ giới trẻ và việc dạy giáo lý cần phải “đem đức tin vào đời sống và đem đời sống vào đức tin”.
- a) Đem đức tin vào đời sống
Tại châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, số người trẻ Công giáo đi lễ Chúa nhật vẫn còn khá đông, mặc dù đã giảm sút. Sau Thánh Lễ, họ kéo nhau đi uống café hay đi chơi, nói với nhau nhiều chuyện nhưng hầu chắc là không nói gì đến tôn giáo! Liệu đức tin có ý nghĩa gì trong đời sống và những chọn lựa của các bạn trẻ không? Có lẽ các bạn vẫn tin vào Chúa và những điều Giáo Hội dạy nhưng không cảm thấy Chúa có liên hệ gì đến đời sống thường ngày của mình. Về mặt thần học, tác giả Clarence Devadass cho rằng “Chủ nghĩa tương đối cũng thách đố Giáo Hội nhìn lại chính mình, nhìn lại những ý niệm và thực hành đã giữ từ nhiều thế kỷ. Lời than phiền thường xuyên nghe từ giới trẻ ngày nay là giáo huấn của Giáo Hội đã lỗi thời rồi. Tại nhiều nơi ở châu Á, người dân, cách riêng giới trẻ, không thấy được sự liên hệ của đức tin với đời sống thường ngày của họ. Sự tách ly giữa đức tin cử hành với kinh nghiệm sống cụ thể xem ra ngày càng gia tăng”. Trong tình hình đó, mục vụ giới trẻ nên quan tâm đến những sinh hoạt ngoài Thánh Lễ, ví dụ những nhóm nhỏ cùng cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, ở đó các bạn biết nhau cách thân tình hơn và cùng nhau tạo nên gạch nối giữa đức tin và những vấn đề thực tiễn mà họ đang đối diện trong cuộc sống. Chắc chắn những sinh hoạt này không mang tính đại chúng như việc dự lễ, nhưng chỉ với những nhóm nhỏ. Tuy nhiên chính những nhóm nhỏ này, nếu được thấm nhuần Lời Chúa và kinh nghiệm sống đức tin, lại là hạt mầm và nòng cốt cho sứ vụ Phúc–Âm–hóa. Chính người trẻ là tông đồ cho người trẻ.
- b) Đem cuộc sống vào đức tin
Ở đây trách nhiệm của các linh mục được quan tâm đặc biệt, nhất là trong việc giảng Lời Chúa, dạy giáo lý và đồng hành thiêng liêng. Hơn ai hết, Đức giáo hoàng Phanxicô thấy rơ điều này nên trong tông huấn Evangelii Gaudium, ngài đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho các linh mục:
– Lắng nghe: “Vị giảng thuyết phải chú tâm lắng nghe dân chúng để khám phá điều gì họ cần được nghe. Vị giảng thuyết vừa là người chiêm niệm Lời Chúa, vừa chăm chú vào giáo dân”. Nhờ đó, vị giảng thuyết mới có thể “nối kết sứ điệp của bản văn Kinh Thánh với hoàn cảnh cụ thể của con người, với những gì họ sống, với kinh nghiệm họ cần đến ánh sáng của Lời Chúa” (số 154).
– Đơn sơ và rõ ràng: Đức Phanxicô nhận xét, “Điều thường xảy ra là các vị giảng thuyết dùng những ngôn từ trong thời học hành và ở những môi trường học thuật, nhưng lại không phải là ngôn từ thông dụng của người nghe. Đó là những thuật ngữ đặc thù thần học hay giáo lý, nhưng phần đông tín hữu không hiểu được”. Vì thế, ngài khuyên các linh mục phải sử dụng thứ ngôn ngữ đơn sơ và rõ ràng, đơn sơ trong ngôn từ và rõ ràng trong cách trình bày (số 159).
– Tích cực: “Đừng nói nhiều về những điều không nên làm, nhưng hãy đề nghị điều người ta có thể làm tốt hơn”. Như thế, bài giảng định hướng tương lai hơn là than trách và lên án quá khứ, bài giảng mang đến hy vọng hơn là gieo rắc sợ hãi: “Thật đáng mừng nếu người ta không nhìn chúng ta như những nhà chuyên môn dự báo thảm họa hay những thẩm phán đen tối, nhưng như các sứ giả hân hoan đề nghị những giải pháp cao cả, những người trân trọng điều thiện hảo và vẻ đẹp chiếu tỏa trong một cuộc sống trung tín với Tin Mừng” (số 168).
Thiên Triệu
Tổng hợp từ các bài viết trong FABC Papers no. 135:
– Fr. Clarence Devadass, STD., Relativism: A Deeper Understanding and Its Impact on the Youth in Asia.
– Dominic Veliath, SDB., Fundamentalism and Relativism.
– Fr. John JunYang Park, Fundamentalism and Relativism: Why Young People Are Leaving the Church?