2021
Hôn nhân đồng tính dưới cái nhìn Công Giáo [1]
Hôn nhân đồng tính dưới cái nhìn Công Giáo [1]
Những năm gần đây các phòng trào bênh vực những người trong cộng đồng LGBT [2] một ngày càng gia tăng. Các cuộc biểu tình nổi dậy để đòi quyền lợi mà những người LGBT phải được hưởng, trong đó có quyền yêu cầu công nhận hôn nhân đồng tính hợp thức hóa dân sự.
Kết quả mà cộng đồng đạt được tính đến 2017 đã có hơn 25 quốc gia công nhận hôn nhân đồng tính[3]. Đặc biệt đánh dấu lớn nhất khi Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã đưa ra luật liên bang về bình đẳng hôn nhân vào năm 2015. Hôn nhân đồng tính đã được hợp pháp hóa tại 37 trong số 50 tiểu bang Hoa Kỳ, cùng Quận Columbia, trước khi có phán quyết năm 2015.
Tại Việt Nam nếu Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 kết hôn đồng giới là một trong năm trường hợp cấm. Thì nay Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã cởi mở hơn kết hôn đồng giới không còn thuộc trường hợp bị cấm. Thay vào đó, Luật mới chỉ quy định: Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người có cùng giới tính (Điều 8). Đây được xem là một bước tiến khả quan, tín hiệu vui mừng của cộng đồng LGBT tại Việt Nam.
Vậy có nên việc công nhận hôn nhân đồng tính có nên hay không? Chắc có lẽ tùy vào ý thức hệ của mỗi người, tổ chức, quốc gia, tôn giáo mà có những cái nhìn khác nhau. Ta không thể bắt buộc người này phải công nhận, hay bắt người kia không công nhận. Thái độ đối thoại trong việc này rất cần thiết, tránh các thái độ thái hóa đi quá mức ở những trạng thái lên án gây rắc, hay chống đối một cách bạo động.
Thế thì trong giáo hội Công giáo xem những người đồng tính ra sao, họ có giá trị trong giáo hội hay không? Hôn nhân đồng tính được giáo hội công nhận hay không? Hướng đi nào cho người đồng tính khi họ là những người Công giáo
Để trả ba câu hỏi trên, đề tài đưa ra các lý thuyết sau để trả lời. Cụ thể:
- Lý thuyết chức năng luận
Với lý thuyết chức năng cá thểMalinowski cho rằng môi trường càng bất trắc thì những lo lắng tâm lý càng tăng, và người ta lại càng có khuynh hướng dùng đến lễ nghi và ma thuật [17]. Từ lý thuyết này đề tài đưa ra giả thuyết rằng: Khi người đồng tính có xu hướng tính dục khác lạ với những người dị tính. Họ là những thành phần bị xã hội lên án xem là dị ngượm, không được người khác chấp nhận…dẫn tới tình trạng cô lập. Thế nên họ rất cần tổ chức lên tiếng bênh vực họ. Tôn giáo là phương thế họ dùng để lắp đầy nổi khát vọng này.
Giáo hội Công giáo cho rằng con người là hình cảnh của Thiên Chúa, “con người có phẩm giá của một ngôi vị, không phải chỉ là một cái gì đó mà là một ai đó” [5,101], thế nên dù là nam hay nữ hay đồng tính cũng là một con người mà “hình ảnh sống động của Thiên Chúa” [5,99].
Giáo hội Công giáo hoàn toàn không lên án người đồng tính, nhưng xem họ là những đứa con cần yêu thương hơn trong lòng Giáo hội là Mẹ của tín đồ. Sách giáo lý số 2358 đã nói lên tinh thần này: “Đừng quên một số người đã có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Đối với đa số những người này, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả những người này cũng được mời gọi thực hiện ý Chúa trong cuộc sống”
Giáo hội mời gọi con cái mình là những người đồng tính sống đúng ơn gọi của mình, vác thập giá đời mình trong niềm hy vọng. Sách giáo lý số 2359 của Hội thánh Công giáo nói rõ: “Những người đồng tính luyến ái cũng được mời gọi sống khiết tịnh. Họ có thể và phải cương quyết tiến dần đến sự toàn thiện Ki-tô giáo nhờ kinh nguyện và ân sủng bí tích, nhờ biết tự chủ để củng cố tự do nội tâm và nhờ sự nâng đỡ của một tình bạn vô vị lợi”.
Bên cạnh đó Công giáo còn cho rằng mỗi tín đồ đều được mời gọi nên thánh theo bậc sống của mình. Không phải chỉ Giáo hoàng, Giám Mục, Linh mục hay tu sĩ nam nữ mới được mời gọi nên thánh. Mà cả những người lập gia đình dị tính cũng được mời gọi, đặc biệt hơn là những người con đồng tính trong giáo hội càng được mời gọi nên thánh.
Trong Hiến chế tín lý về Giáo hội Lumen Gentium, chương IV Giáo dân đã đề cập đế việc này: “Trong giáo hội không phải tất cả mọi người đều cùng đi theo một con đường như nhau, nhưng tất cả đều được kêu gọi nên thánh, và đã nhận được một đức tin như nhau nhờ sự công chính của Thiên Chúa” [4,130], “Tất cả mọi người trong Hội thánh, hoặc thuộc hàng giáo phẩm cũng như những kẻ được họ coi sóc, cũng đều được kêu gọi nên thánh” [4,142], “Tất cả mọi tín hữu, dù thuộc bất cứ bậc sống hay hoàn cảnh nào, đều được kêu gọi đạt đến sự sung mãn của đời sống Kitô hữu và sự trọn lành của đức ái” [4,143], “tất cả mọi Kitô hữu đều được kêu gọi và thậm chí có nghĩa vụ phải luôn tìm kiếm sự thánh thiện và trọn lành trong bậc sống của mình” [4,151].
Từ những phân tích trên đề tài tiên liệu những người đồng tính thuộc tín đồ Công giáo sẽ có điểm tựa đời mình, gắn bó với tôn giáo của mình. Chấp nhận số chung với số phận một cách hạnh phúc, từ đó cống hiến cho đời. Bên cạnh đó những người dị tính có cái nhìn cảm thông hơn đối với những người đồng tính.
Đối với lý thuyết chức năng xã hội thì Brown cho là tôn giáo gây ra những âu lo cũng nhiều như làm giảm âu lo: thí dụ như vì niềm tin tôn giáo đã ăn sâu vào tâm trí mà người ta âu lo hệ quả khi qua đời vì đã gây ra «tội».
Nếu vừa được phân tích bên trên với chức năng cá thể, Công giáo được xem là mãnh đất màu mỡ cho người đồng tính sinh sống. Thì đến chức năng xã hội thì dường như Công giáo trở thành mãnh đất khô cằn thiếu nước cho người đồng tính, khi họ thực hiện các hành vi quan hệ đồng tính.
Sách giáo lý Công giáo số 2357 dạy rằng: “…..Căn cứ vào Kinh Thánh vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng ( x.St 19,1-29; Rm 1,24-27; 1 Cr 6,10; 1Tm 1,10 ), truyền thống HộiThánh luôn tuyên bố :”Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn” ( x. CDF, décl “persona humana” 8 ). Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên vì loại bỏ chủ đích truyền sinh của hành vi tính dục, cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc thực sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.”
Từ lý thuyết chức năng xã hội đề tài đưa ra giả thuyết như sau: Vì nhu cầu công khai hóa xu hướng tính dục, mà những người đồng tính Công giáo phải từ bỏ nhà thờ, các bí tích, nghi thức sinh hoạt tôn giáo chỉ vì sợ tội, xem đó là trái ngược với tôn giáo và mặc cảm với cộng đoàn nơi sinh hoạt. Đề tài cũng tiên liệu ngày càng mất tín đồ, hay những người đồng tính có hành vi quan hệ đồng tính kín hay công khai hóa sẽ sống trong lo sợ, dấu kín, sống không thật….
- Lý thuyết Tân Mác-Xít và Cấu Trúc Luận
Đối với hai lý thuyết này sẽ giải mã câu hỏi số hai trong câu hỏi nghiên cứu, và đây trọng tâm của tiểu luận.
Ý thức hệ và sự thống trị về ý thức hệ (ideological hegemony) trong luận điểm của Antonio Gramsci. [17]
Hệ thống tổ chức của Công giáo rất chặt chẽ, không chỉ ở tín điều, luân lí, phẩm trật mà ngay cả hệ thống giáo huấn của hội thánh. Từ bộ giáo luật, các công đồng, các thông điệp hay các giáo huấn của bộ trong hệ thống giáo hội.
Cụ thể mỗi tín đồ đều được giáo huấn qua các lớp giáo lí, từ khi biết đọc biết viết tín đồ đã được học giáo lý. Mô hình tổ chức như một trường thực thụ, thi cử để lên lớp qua các học phần khác nhau về giáo lí phù hợp với độ tuổi. Khi trưởng thành sẽ được tham gia các lớp về hôn nhân Công giáo, để học hỏi về quan niệm về hôn nhân dưới cái nhìn của Công giáo. Hay khi lập gia đình, dù người kết hôn với tín đồ có Công giáo hay không, thì vẫn bắt buộc người phối ngẫu đó tìm hiểu mục đích và ý nghĩa hôn nhân Công giáo. Đặc biệt các buổi hành lễ linh mục cũng truyền tải thông điệp qua bài giảng về quan niệm của giáo hội Công giáo về hôn nhân.
Vậy hệ thống luân lý Công giáo về hôn nhân ra sao?
Trong Công đồng Vaticanô II văn kiện đã dành ra một chương khá lớn để nói về phẩm giá cao quý của hôn nhân và gia đình trong Hiến Chế Mục Vụ Gaudium et Spes (“Vui mừng và Hi vọng”). Đặc biệt lưu tâm đến vấn đề truyền sinh, tình yêu, giáo dục.
Bộ giáo luật 1983 ở điều 1053 quy định “giao ước hôn nhân” dành cho “một người nam và một người nữ” mục đích của hôn nhân “sinh sản” và “giáo dục con cái” và “chính Chúa Kitô đã nâng giao ước hôn nhân giữ hai người đã được rửa tội lên hàng bí tích” [3,333]. Đặc tính hôn nhân Công giáo được điều 1504 chỉ rõ mang tính “đơn nhất” và “bất khả phân ly” [3,333]. “Sự đồng thuận của ý chí”, “chấp nhận nhau qua một giao ước bất khả thu hồi” [3,333] được điều 1057 nói đến. Điều 1141 cũng nói đến trường hợp tháo gỡ khi hôn nhân không thành sự theo giáo luật và lí do “tử vong” [3,353]. Điều 1059 nói rõ “Hôn nhân của những người Công giáo bị chi phối không chỉ luật Thiên Chúa mà còn luật của Giáo hội Công giáo nữa” [3,333]. Trong Giáo hội Công giáo có hai loại luật đó là luật Thiên Chúa và luật Hội thánh. Đối với luật Thiên Chúa là luật không bao giờ được thay đổi, còn luật Hội thánh có thể thay đổi.
Về vấn đề mục vụ cho hôn nhân Bộ giáo luật hết sức lưu ý đến việc giáo huấn, điều 1063 quy định rất chi tiết: “…1. Bằng việc rao giảng, huấn luyện giáo lý thích hợp cho vị thành niên, thanh niên và người lớn, kể cả qua việc xử dụng các phương tiện truyền thông xã hội, ngõ hầu các tín hữu được giáo dục về ý nghĩa của hôn nhân Kitô giáo và về nghĩa vụ của vợ chồng và của cha mẹ Công Giáo; 2. Bằng việc chuẩn bị riêng cho những người sắp kết hôn để đôi bạn được sửa soạn để lãnh nhận sự thánh thiện và những bổn phận của bậc sống mới; 3. Bằng việc cử hành phụng vụ hôn phối cách chu đáo, để làm sáng tỏ rằng đôi bạn trở thành dấu chỉ và tham dự vào mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Chúa Kitô và Giáo Hội; 4. Bằng sự giúp đỡ cho đôi bạn sống trung thành với giao ước vợ chồng, đễ mỗi ngày họ thêm thánh thiện và hoàn hảo hơn trong đời sống gia đình.” [3,335]
Bộ giáo luật còn đưa ra những trường hợp ngăn trở tiêu hôn nói riêng và nói chung, nghi thức hôn nhân, hôn nhân hỗn hợp. Còn những điều được nói ở trên nhằm truyền tải một thức hệ về hôn nhân Công giáo một cách ngắn gọn và đầy đủ nhất.
Học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo cho rằng “gia đình là tế bào sống động của xã hội”, “cộng sự với Đấng tạo hóa” [5,163] trong việc truyền sinh. Trong Tông huấn Hậu thượng Hội đồng Christifideles Laici, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II nói Gia đình là “chiếc nôi của sự sống và tình yêu” [5,163]. Gia đình là “thánh điện của sự sống” [5,177], gia đình có vai trò “cổ vũ và xây dựng nền văn hóa sự sống” [5,177]. Bởi thế hôn nhân Công giáo loại bỏ và lên án các hình thức “triệt sản và phá thai” [5,178], cũng như các “phương pháp ngừa thai dưới nhiều hình thức khác nhau” [5,179]. Nói thế không phải mọi hình thức ngừa thai đều không được chấp, giáo hội mời gọi tín đồ cân nhắc, trách nhiệm trước khi truyền sinh, và có thể dựa vào “trật tự nhân học, người ta được phép vận dụng sự tiết dục định kì trong thời gian có thể mang thai của người phụ nữ.” [5,179] Giáo hội lên án sựu can thiệp của “kỹ thuật sinh sản” [5,180] để “tách rời hành vi kết hợp vợ chồng ra khỏi hành vi sinh sản” [5,180], chẳng hạn: “gieo tinh” [5,180], “thụ tinh nhân tạo đồng nguồn” [5,180]. Vì xem kết quả “đứa trẻ đó được sinh ra là kết quả của một hành vi công nghệ hơn là kết quả tự nhên của một hành vi nhân linh” [5,180]
Không chỉ thế học thuyết xã hội Công giáo còn cho rằng “gia đình phải được đặt trên xã hội và quốc gia” [5,166] vì chính là gia đình là điều kiện khởi nguồn sự sống và giúp cho xã hội phát triển các chức năng khác. Việc kết hợp tạo thành gia đình “không phải là kết quả của những thỏa thuận giữa con người với nhau, cũng không phải là kết quả của những quy định pháp lý” [5,167] mà là do “quyết định của Thiên Chúa” [5,167]. Một đằng hôn nhân Công giáo “nhắm tới việc sinh sản và giáo dục con cái” [5,169], nhưng bên cạnh đó “hôn nhân không được lập ra chỉ vì lí dó sinh sản” [5,169], mà nó còn đề cao đến “tính bất khả phân ly của hôn nhân và giá trị hiệp thông của hôn nhân vẫn còn nguyên vẹn” [5,169] vì có những cuộc hôn nhân vì lí do khách quan mà không thể thực hiện thiên chức làm cha làm mẹ. Những trường hợp này giáo hội mời gọi tín đồ “chấp nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi hay bằng cách thực hiện những công tác phục vụ theo nhu cầu cần thiết của người khác” [5,169].
Như đã đề cập ngoài năng truyền sinh, bất khả phân ly của hôn nhân Công giáo, thì nhiệm vụ giáo dục cũng không kém. Thật vậy học thuyết xã hội Công giáo nhấn mạnh gia đình chính là: “cộng đồng yêu thương và liên đới, nơi duy nhất thích hợp để dạy dỗ và truyền đạt các giá trị văn hóa, đạo đức, xã hội, tâm linh và tôn giáo, rất cần cho các thành viên của gia đình và xã hội được phát triển và hạnh phúc” [5,182], “gia đình đóng một vai trò hoàn toàn độc đáo và không thể thay thế được trong việc dạy dỗ con cái” [5,182]. Trách nhiệm của các bậc almf cha làm mẹ phải làm sao đó “cung cấp một sự giáo dục toàn diện” [5,182], “đặc biệt trong việc giáo dục giới tính” [5,182].
Đây là một trong chuỗi ý thức hệ xuyên suốt về hôn nhân trong đời sống giáo hội Công giáo. Như thế thấy được rằng hôn nhân Công giáo chỉ chấp nhận sự kết hợp tự nhiên giữa một người nam và một người nữ. Không chấp nhận các hành vi quan hệ đồng tính hay hôn nhân đồng tính. Vì một số đặc tính chỉ có hôn nhân giữa người nam và người nữ mới đáp ứng được đó là việc truyền sinh, giáo dục đúng nghĩa, để gìn giữ các giá trị gia đình mang lại cho xã hội và giáo hội.
Đó là hệ thống ý thức hệ về hôn nhân của Công giáo, thế thì đằng sau ý thức hệ đó có điều gì diễn ra trái ngược không? James Scott trong sách Domination and the Arts of Resistance chịu ảnh hưởng của Erving Goffman, đặt nghi vấn về sự thống trị của ý thức hệ. James Scott cho rằng ngoài việc xem các diễn ngôn trên sân khấu (diễn ngôn trước công chúng) thì cũng xem diễn ngôn phía sau hậu trường (diễn ngôn kín). [17]
Ngay cả phía sau hậu trường về tính đơn nhất bất khả phân ly, giữa người nam và người nữ hôn nhân Công giáo đã từng xảy ra. Đó là trường hợp ly khai Anh giáo do vua Enricô VIII năm 1533 khởi xướng vì tính đơn nhất bất khả phân ly của Kitô giáo. Thế thì việc cổ võ hôn nhân đồng tính buộc giáo hội Công giáo phải chấp nhận đã diễn ra như thế nào trong giáo hội Công giáo.
Những năm gần đây việc những phe phái ủng hộ hôn nhân đồng tính đòi buộc giáo hội Công giáo phỉa chấp nhận, đã hết sức tâm huyết dùng cả phương tiện truyền thông, để lên tiếng đã kích giáo hội Công giáo về vấn đề này. Điều đáng nói ở đây nó không xãy ra ngoài giáo hội, mà nó còn xuất phát từ bên trong giáo hội.
Cụ thể các giám mục hoa kỳ đã lên tiếng về sự giảng dạy sai lầm của linh mục dòng tên James Martin về các vấn đề quan hệ đồng tính và hôn nhân đồng tính. Được biết Linh mục Martin là tác giả của cuốn “Building a Bridge: How the Catholic Church and the LGBT Community Can Enter into a Relationship of Respect, Compassion, and Sensitivity”, nghĩa là “Xây dựng một nhịp cầu: Làm thế nào Giáo Hội Công Giáo và Cộng đồng LGBT có thể tiến vào một mối quan hệ Tôn trọng, Cảm thông, và Nhạy Cảm”[4].
Vào tháng 03 năm 2019 giáo hội Công giáo tại Đức, Hồng y Reinhard Marx Tổng Giám Mục của Munich và Freising, và là chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức đã tuyên bố rằng Giáo Hội Công Giáo ở Đức đang bắt đầu một “tiến trình công nghị với hiệu lực ràng buộc” để bàn thảo lại các vấn đề luật độc thân linh mục, vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ, giáo lý về đạo đức tình dục, , chủ nghĩa giáo sĩ trị và các kết hiệp đồng tính, trong đó có hôn nhân đồng tính. Sau khi công bố Giáo hoàng Phanxico đã gửi thư cảnh báo tiến trình công nghị này, Giáo hoàng nói: “chỉ tập trung vào việc xem xét các cấu trúc chứ không được linh hoạt bởi sứ mệnh thiết yếu của Giáo Hội là truyền bá đức tin.” “chủ nghĩa tân Pelagiô” [dựa vào sức riêng của mình] khi “tìm cách điều chỉnh cuộc sống của Giáo Hội theo luận lý hiện tại.” Hệ quả là chúng ta có thể có “một cấu trúc giáo hội gọn gàng và thậm chí là được ‘hiện đại hóa’, nhưng không có linh hồn và hấp lực truyền giáo”.[5] Cũng xin nói thêm Hồng y Reinhard Marx là một trong chín cố vấn cho Giáo hoàng, và với tiến trình công nghị với hiệu lực ràng buộc có nghĩa là không cần tòa thánh phê chuẩn. Thế nên việc này xảy ra có thể một cuộc ly khai sẽ xãy ra, được gọi Đức giáo, khi các điều khoản trong công nghị trái ngược với giáo huấn với giáo hội hoàn vũ.[6]
Lý thuyết tân Mác-xít cho ta thấy chính ý thức hệ mà Công giáo không chấp nhận hôn nhân đồng tính, dù có những cuộc nổi dậy một cách ngấm ngầm phía sau hậu trường (James Scott), hay trước sân khấu. Hay nói khách khác có những tiếng nói đi ngược lại giáo huấn về hôn nhân, từ bên trong giáo hội Công giáo. Đã gây tiếng vang khác mạnh, để giáo hội Công giáo một lần nữa nhìn lại giáo huấn này.
Việc tiếng nói đi ngược lại giáo huấn của giáo huấn Công giáo về hôn nhân không mới xãy ra trong thời kì hiện nay, mà đó đã có từ lâu. Thế nên từ những năm 1986 Bộ giáo lí đức tin đã gửi thư cho các giám mục tại giáo hội địa phương về mục vụ người đồng tính[7]. Mà tiền thân của thư này đã được đề cập tới trong “Tuyên ngôn về một số vấn đề liên quan đến đạo đức tính dục” của Thánh Bộ ban hành ngày 29 tháng 12 năm 1975.[8]
Trãi qua biết nhiêu thăng trầm từ bên ngoài đến bên trong phía giáo hội, nhưng giáo hội Công giáo vẫn trung tín trong giáo huấn của mình, tại sao giáo hội Công giáo không thay đổi, lí do nào. Đừng vội kết án Công giáo là cổ hũ hay lạc hậu, hay nặng hơn cố chấp trong giáo huấn. Việc tìm hiểu lí do là việc cần làm trước khi quy kết các điều trên.
Lý thuyết cấu trúc luận cho rằng trước khi đánh giá một vấn đề nào đó, cần tìm hiểu cái người ta nghĩ, cái ý nghĩa bên trong. Việc tìm hiểu này phải đặt trong quan hệ đối ngẫu (opposition) với những hiện tượng hay biểu tượng khác trong hệ thống [17]. Từ lý thuyết này ta có thể đưa ra các cặp đối ngẫu giữa hôn nhân dị tính với hôn nhân đồng tính dưới cái nhìn Công giáo như sau:
Như đã đề cập bên trên hôn nhân Công giáo là hôn nhân kết hợp giữa một người nam và một người nữ, sự kết hợp này không nằm ở sự thỏa thuận của đương sự, hay chứng nhận pháp lý mà do sự quyết định của Thiên Chúa. Thế nên hôn nhân Công giáo không chỉ là hôn nhân tự nhiên nữa, mà nó vươn tới siêu nhiên, vì nó là một bí tích của Công giáo. Từ đó ta thấy được rằng hôn nhân là cộng sự viên đắc lực của thượng đế để truyền sinh một cách tự nhiên và giáo dục con cái theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa thông qua quyền bính của giáo hội.
Hôn nhân đồng tính không bao giờ có đặc tính này. Có những ý kiến đưa ra là những cặp hôn nhân đồng tính có thể xin con nuôi, hoặc sinh sản nhân tạo, mang thai hộ… nói chung làm mọi cách để có con. Nhưng họ bỏ quên một yếu rất quan trọng, con cái được sinh ra phải là kết quả của sự yêu thương, chứ không phải là một món hàng của giới y khoa, vì con người là một nhân vị chứ không phải là cái gì đó. Vì thế “sự thụ tinh ngoài thân thể vợ chồng luôn thiếu các ý nghĩa và giá trị được biểu lộ trong ngôn ngữ thể xác và sự kết hợp giữa nhân vị” [9,61]. Cũng xin nói thêm ngay cả những cặp hôn nhân dị tính cũng không được áp dựng các hình thức này, khi họ là những cặp vợ chồng son sẻ. Tính nhân quyền trong ý thức hệ của Công giáo rất cao, không ai có thể can thiệp vào công trình của Đấng tạo hóa, và hoàn toàn tôn trọng nhân phẩm của con người dù đó là một sinh linh nhỏ bé.
Trường hợp xin con nuôi là trường hợp được những cặp hôn nhân đồng tính chọn lựa để xây dựng và duy trì đời sống gia đình. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây liệu đứa trẻ được nuôi dạy trong môi trường có hưởng đủ quyền mà một con người được hưởng hay không. Liệu đứa trẻ đó có chấp nhận được trong gia đình mình có hai người đàn ông là cha mình, hay hai người nữ là mẹ mình. Hay tồi tệ hơn khi gọi người nam là mẹ mình, người nữ là cha mình. Giá trị văn hóa, định nghĩa về gia đình có cần tái định nghĩa lại hay không? Quả thật là một sự khó khăn dành cho tất cả mọi người, ngay cả những người đồng tính đắn đo muốn xây dựng một gia đình.
Từ lý thuyết Tân Mác-Xít và Cấu trúc luận, đề tài đưa ra giả thuyết Công giáo sẽ không bao giờ chấp nhận hôn nhân đồng tính, vì các đặc tính truyền sinh, yêu thương, giáo dục mà hôn nhân Công giáo mang lại. Bên cạnh đó sẽ còn nhiều cuộc nổi dậy từ bên ngoài đến bên trong giáo hội, sự đấu tranh giữa các phe cấp tiến và bảo thủ để chống đối quyết định này. Tiên liêu sẽ các cặp hôn nhân đồng tính là những tín đồ Công giáo sẽ từ bỏ nhà thờ, chết trong sự rời xa giáo hội. Các chương trình mục vụ cho người đồng tính từ bên trong giáo hội sẽ diễn ra. Để nhằm giữ lại và giáo huấn cho người đồng tính hiểu được giá trị của họ, mà sống đúng với ơn gọi của họ. Ngoài ra gìn giữ hôn nhân của Công giáo trước thế tục hóa.
- Lý thuyết lựa chọn duy lí
Nếu các tín đồ Công giáo có thể thấm nhuần các giáo huấn của Công giáo về đồng tính thì chắc chắn sẽ không bao giờ xãy ra các sự việc được đề cập bên trên. Một số tín đồ hay tổ chức trong và ngoài giáo hội không chấp nhận, có hướng chọn cách sống khác, nặng hơn là trái ngược với giáo huấn của Giáo hội về quan hệ đồng tính và hôn nhân đồng tính. Bên cạnh đó cũng có những tín đồ sống kép kín, giả dối, che dấu xu hướng tính dục để được vị thế trong xã hội và giáo hội.
Fredrik Barth (1928 – 2016) nhà nhân học đương đại cho rằng: “Mô hình sản sinh này dựa trên khái niệm quan hệ xã hội là những giao dịch (transaction), trong đó những đối tác có những lựa chọn chiến lược chứ không chỉ thể hiện vai trò hay vị thế theo quy ước đạo đức”[17]. Áp dụng lý thuyết này về các trường hợp những người đồng tính không muốn công khai xu hướng tính dục, nên đã chấp nhận các cuộc hôn nhân dị tính, để che đậy thân phận, bị áp lực từ gia đình, xã hội hay giữ vững vị thế trong hệ thống xã hội.
Việc này còn nguy hại hơn khi nó xâm nhập vào môi trường chủng viện nơi đào tạo các chủng sinh trở thành các linh mục, giám mục tương lai. Đây là những trường hợp mà đương sự không thể sống được đời sống vợ chồng, mà chấp nhận sống môi trường tu trì để che đậy xu hướng tính dục. Dẫn tới các cuộc quan hệ hôn nhân đồng tính trong môi trường chủng viện, hay các cuộc tình đồng giới ngoài chủng viện. Chẳng hạn: “Hồng y McCarrick đã lạm dụng với trẻ giúp lễ, với các chủng sinh và linh mục trẻ dưới quyền.”[7,33]. “Giáo hoàng Biển Đức XVI đã sa thải gần 800 linh mục vì xâm phạm tình dục trẻ em.” [7,39]… Từ đó có những thế lực chống đối giáo hội Công giáo lợi dụng công kích truyền thông về việc bỏ luật độc thân của linh mục và cổ vũ hôn nhân đồng tính. Tạo ra những bằng chứng giả để tố cáo các vị đứng đầu trong việc chống lại hôn nhân đồng tính, trong đó có Hồng y George Pell là một những việc điển hình.
Hồng y George Pell là người đứng đầu trong chiến dịch chống lại hôn nhân đồng tính, Hồng y bị cáo buộc đã lạm dụng tình dục trẻ em, Hồng y phải ngồi tù 400 ngày bắt đầu tháng 2 năm 2019. Mới đây Hồng y George Pell đã được các thẩm phán của Toà án Tối cao của Úc thông báo quyết định đảo ngược phán quyết kết tội Đức Hồng y George Pell về tội lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên của tòa cấp dưới, tuyên bố ngài vô tội và được trả tự do ngay lập tức.[9]
Thế nên Công giáo ngày càng kỹ lưỡng chọn lựa các ứng sinh trưởng thành về tính dục. Bộ giáo luật 1983 giáo hội Công giáo số 1024 quy định: “Chỉ người nam đã chịu phép Rửa Tội mới được lãnh nhận bí tích truyền chức cách hữu hiệu.” [3, 323]. Các ứng viên phải phân định rõ ràng trước khi nhận thiên chứ này, không nên cố chấp che đậy, sớm muộn đương sự cũng phải tự mình tỏa hiện ra xu hướng tính dục của mình.
Năm 2013 linh mục Krzysztof Charamsa đã bị sa thải khỏi Bộ giáo lí đức tin, vì linh mục đã thừa nhận mình là người đồng tính và đã có người yêu với tờ báo Ý Corriere della Sera và báo chí Ba Lan. Sau khi bị bãi chức linh mục Krzysztof Charamsa trực thuộc giáo phận Pelplin, Ba Lan.[10]
Ngày nay không ít các cặp hôn nhân Công giáo đã đổ vỡ vì một trong hai người đồng tính, hay các cặp hôn nhân mới vì áp lực xã hội và giáo hội đã nhắm mắt che đậy đầy duy lí về xu hướng tính dục đồng tính. Hay nó nặng hơn khi hai đương sự là người đồng tính thuộc tín đồ Công giáo thỏa thuận thực hiện nghi thức hôn nhân Công giáo để phủ lắp dư luận. Hệ quả mang lại là phá vỡ sự thiêng liêng của hôn nhân Công giáo, dẫn đến xúc phạm bí tích, hôn nhân không thành sự.
Vậy hướng đi nào cho người đồng tính. Lập gia đình với người khác giới thì không sống được, cùng giới thì không được công nhận, dấn thân vào con đường tu trì thì không được đón nhân. Chỉ còn một phương thế là chấp nhận đời sống độc thân, sống đứng với ơn gọi đặc biệt dành riêng cho mình.
Từ lý thuyết duy lí đề tài đưa ra giả thuyết, nếu người tín đồ sống trong môi trường nhiều áp lực về ý thức hệ và không thể chống cự lại thì người tín đồ Công giáo tiếp tục các hành vi che đầy sự thật tính dục đồng tính, mà sống và hành động như những người dị tính. Kế tiếp các cuộc hôn nhân Công giáo của những người đồng tính vô hình chung vô hiệu, và các chủng viện ngày càng gia tăng các ứng sinh là những người đồng tính, nếu không có phương án tuyển chọn phù hợp.
Tiên liệu giáo hội Công giáo ngày càng sẽ để ý hơn với những người đồng tính, mà có hướng mục vụ cụ thể để hướng dẫn. Để tạo ra môi trường các tín đồ phân định trước những quyết định của mình, hỗ trợ các tín đồ sống đúng ơn gọi theo giáo huấn của giáo hội.
Cao Dương Cảnh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Equipes Notre (Nguyễn Anh Tuấn dịch) (2008), Tình yêu và hôn nhân, Phương đông.
- Gioan Phaolo II (Nguyễn Anh Tuấn) (2018), Thần học về thân xác, Tôn giáo
- Hội đồng Giám mục Việt nam (2007), Bộ giáo luật, Tôn giáo.
- Hội đồng Giám mục Việt Nam (2012), Công đồng Vaticanô II, Tôn giáo
- Hội đồng Giám mục Việt nam (2007), Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội Công Giáo, Tôn giáo
- Richard Parker và Peter Aggleton (biên tập) (2013), Văn hóa, xã hội và tình dục , Văn hóa – Thông tin.
- Trần Minh Huy (2019), Linh mục và tu sĩ sống trưởng thành tình cảm và tình dục trong bối cảnh Giáo hội và xã hội hôm nay, Hồng đức
- Trần Ngọc Ánh (2015), Nhân học Kitô giáo (2 tập), Phương đông
- Trần Quốc Dũng (2017), Đạo đức sinh học (tập 2), Phương đông
Các tài liệu trang web
- conggiao.info
- vaticannews.va
- conggiao.info
- youtube.com
- simonhoadalat.com
- tgpsaigon.net
- tgpsaigon.net
Tài liệu powerpoint
- “Lý thuyết Nhân học” của Lương Văn Hy, Đại học Toronto
[1] Đây là một phần của tiểu luận cuối môn Lý thuyết Nhân học, đề tài nghiên cứu hôn nhân đồng tính với luân lí Công giáo. Bài viết mang tính chất cá nhân, thế nên chắc chắn bài còn nhiều thiếu xót, cũng có thể sai lầm. Xin quý đọc giả rộng lòng bỏ qua va xin góp ý về mail [email protected]
[2] “LGBT” là tên viết tắt của “đồng tính nữ (Lesbian), đồng tính nam (Gay), song tính (Bisexual) và chuyển giới (Transgender)”
[3] Xem thêm: dantri.com.vn
[4] Xem thêm: conggiao.info
[5] Xem thêm: vaticannews.val
[6] Xem thêm: conggiao.info. Và youtube.com
[7] Xem thêm: simonhoadalat.com
[8] Xem thêm: tgpsaigon.net
[9] Xem thêm: vaticannews.va
[10] Xem thêm: gplongxuyen.org
2021
Đồng tính và hôn nhân đồng tính
Đồng tính và hôn nhân đồng tính
Từ nhiều thập kỷ nay, trong những nước có ít nhiều tự do, thấy rộ lên trào lưu luyến ái đồng tính (homosexuel). Ở một góc phố tối nào đó của một đô thị phồn hoa, người ta có thể bắt gặp một cô đĩ đực đứng chờ khách.
Táo bạo hơn, nhiều cặp đồng tính quyết định sống chung như vợ chồng thực thụ, bất chấp dư luận, lại còn đòi pháp luật phải chính thức công nhận Hôn nhân đồng tính của họ nữa. Ngày nay trên thế giới, không những chỉ những nước Âu Mỹ, mà một số nước đang phát triển cũng đã công nhận hôn nhân đồng tính, thậm chí công nhận “giới tính thứ ba”, tức giới tính của người chuyển giới.
Hôn nhân đồng tính và giao hợp đồng tính đặt ra cho Giáo hội nhiều vấn đề gai góc, cả về mặt luân lý lẫn mục vụ. Hôn nhân đồng tính có phản tự nhiên hay không? Nếu chứng minh được đồng tính có nền tảng ở cấu trúc cơ thể, thì tự nhiên sẽ được quan niệm thế nào đây? Bằng như nếu coi đây là rối loạn giới tính hay bệnh tâm thần, thì thay vì khinh rẻ, chúng ta lại phải cảm thông và tỏ lòng thương xót nữa.
Hôn nhân đồng tính tự nó mở vào Gia đình đồng tính. Và hẳn là người ta muốn có con. Nếu đây là con nuôi, thì bố mẹ đồng tính có đáng là tấm gương cho con cái soi vào, khiến chúng nên người hay không ? Bằng như vợ chồng đồng tính muốn sinh con một cách tự nhiên, thì họ lại phải chuyển giới đến độ thay đổi hẳn thân xác, thành như một thân xác khác, thì thủ biến (manipulation) đến mức ấy có động chạm đến nhân phẩm không nữa ?
Để có giải đáp cho biết bao câu hỏi như thế, bắt đầu chúng ta nên tìm hiểu tiến trình của sự hình thành giới tính trong thiên nhiên và ý nghĩa của nó, kế đến xem do đâu mà có việc ứng xử đồng tính ngược chiều với hướng nhắm của sự phân giới tính ấy.
Tiến trình hình thành giới tính và mục đích của nó
Ai cũng biết sự phân tính đực-cái, nam-nữ nhắm mục đích bào tồn giống nòi. Cứ nhìn vào sự tiến hóa trong sinh sản, bắt đầu từ loại đơn bào đến con người, một tiến hóa kéo dài cả triệu triệu năm, chúng ta sẽ thấy đúng như vậy.
Loại đơn bào như giun chỉ việc tự xẻ làm hai là đủ cho một thành hai con rồi. Có điều cứ lâu lâu lại phải diễn ra cái gọi là tiếp hợp (conjugaison) giữa những con đơn bào ấy để duy trì khả năng sinh sản bằng phân đôi nói trên. Phải chăng tiếp hợp đã có gì như cọ sát âm dương bằng hình thức tối giản đơn ? Chỉ biết rằng khi cơ thể sinh vật đã phức tạp và hoàn thiện đủ, thì tiếp hợp sẽ nhường chỗ cho thụ tinh : cái trứng hợp tử phải do hai giao tử đực cái kết lại mà thành, như nhụy đực và nhụy cái của bông hoa chẳng hạn.
Khi mà cơ thể đã phức tạp nhiều và hoàn thiện hẳn, cũng là khi cá thể tính của sinh vật (động vật) đã xác định hoàn toàn, thì đực sẽ là cả con chó, con heo này, và cái sẽ là toàn con chó kia, con heo kia, rất rõ. Khi ấy, thì thụ tinh sẽ là qua giao hợp của một con đực và một con cái. Cũng khi ấy, chức năng sinh sản đã phân cách hẳn với các chức năng sinh lý khác.
Vâng, đúng là sự phân tính nhắm mục đích bảo tồn nòi giống nơi những sinh vật thượng đẳng.
Có điều nơi con người, tuy phân tính vẫn nhắm sinh sản, nhưng không chỉ sinh sản.
Lần theo tiến trình văn minh hóa nơi loài người, ai nấy đều thấy rõ : nữ và nam không hoàn toàn bị cuốn theo cơn lốc bảo tồn nòi giống như động vật nữa. Tình cảm rồi sẽ chi phối họ mạnh hơn xác thịt. Vâng, con ngườii văn minh đến với nhau bằng tình cảm trước tiên. Do sự tương ái nam nữ ấy, hai bên bị hút vào nhau để muốn sống chung trọn đời với nhau. Và đây là gia đình, nó ngày càng hướng về sự trường tồn vĩnh viễn : không chỉ sự khăng khít giữa hai vợ chồng, mà sự khăng khít ấy nối dài sang những đứa con, đứa cháu dễ thương, chúng không chỉ được đùm bọc, nuôi dưỡng, che chở, mà còn được giáo dục nên người. Và tình gia đình thâm sâu ấy biểu hiện nơi con cháu bằng đức Hiếu, vươn rộng đến thân thích thành họ hàng, vươn cao đến ông bà trong tục Thờ gia tiên.
Quả vậy, sư phân tính nơi con người, nhất là với đạo làm người, không chỉ nhắm mục đích sinh sản, mà còn vì một cái gì thiêng liêng hơn, nó đi đôi với phẩm giá người. Vâng, nếu chỉ để duy trì nòi giống thôi, thì gặp gỡ qua đường cũng xong, như giữa hai con heo, con mèo ấy, chứ đâu cần đến thủy chung, hẹn non thề biển, đâu cần đến chữ Hiếu và những bổn phận giữa vợ chồng với nhau, giữa con cái với mẹ cha, giữa cháu chắt với ông bà, v.v…
Thế nhưng cái gia đình lý tưởng mà sự phân tính nhắm nơi con người ấy sẽ gặp rắc rối với hôn nhân đồng tính, khi mà sống chung thì có, nhưng tông tộc trường tồn thì không, bởi không còn con cháu nối dõi tông đường nữa.
Do đâu mà có hiện tượng đồng tính nghịch thường như thế ?
Nguồn gốc Đồng tính nơi Lưỡng tính ?
Theo sử gia tôn giáo danh tiếng Mircea Eliade, rất nhiều dân tộc như Ấn Độ, Ba Tư, Ai Cập, Bắc Âu có huyền thoại ngàn xưa về Con người lưỡng tính (Androgyne). Phải chăng từ muôn xưa, người ta nghĩ rằng sự Toàn vẹn thần thánh của Con người là ở chỗ nó chưa phân chia thành hai, nam riêng nữ riêng ? Chỉ vì Con người toàn vẹn ấy bị xẻ làm hai, nên hai nửa mới khốn khổ tìm nhau, cũng là tìm lại sự toàn vẹn nguyên sơ của mình. Câu truyện Sáng thế thư chương II có lẽ cũng là sao chép huyền thoại ấy từ vùng Lưỡng hà (Ba tư) : Thiên Chúa lấy bụi đất làm nên Con người (số ít) (c.7). Rồi để con người khỏi cô độc và có trợ tá phù hợp, Thiên Chúa đã lấy xương sườn của con người mà làm nên một phụ nữ (c.18,22).
Sự lưỡng tính ấy mới là của thân xác, nhà phân tâm học Carl Gustav Jung rồi sẽ đưa nó vào cả tâm hồn nữa. Theo ông, thì người nam cũng có hồn nữ là Anima (giống cái), người nữ cũng có hồn nam là Animus (giống đực). Nghĩa là từ sâu thẳm của tâm hệ (psyché), ai nấy đều có cả Animus lẫn Anima.
Bây giờ, với khoa học phát triển, chúng ta thử xem sự lưỡng tính ấy có thật ở nền tảng là cơ thể hay không.
Trước tiên, trong cơ thể của bất cứ ai cũng có đủ cả hocmon nam testosterone lẫn hocmon nữ oestradiol. Có điều nam giầu testosterone hơn, và nữ giầu oestradiol hơn, thế thôi. Thế mà, như chúng ta thấy, hai hocmon ấy thiết yếu bậc nhất cho chức năng sinh dục. Chúng lại còn tác động vào vùng não nó điều khiển ứng xử giới tính (comportements sexuels) nữa. Nói tóm lại không ai là nữ hay nam tuyệt đối, và điều này đi đúng với quy định của nguyên lý Âm-dương : « dương trung hữu âm, âm trung hữu dương » xét về cả hai mặt Khí và Lý.
Giới tính cũng được quyết định ở ADN nữa. Vâng, một nam nhân bình thường thì mang cặp nhiễm sắc thể XY, trong khi nữ nhân bình thường có cặp nhiễm sắc thể XX. Vâng, bình thường là như vậy. Còn bất bình thường là khi một phụ nữ thay vì XX lại có XY, một đàn ông thay vì XY lại có XX. Mà không phải hiếm lắm đâu. Thật vậy, cứ 20.000 nam thì có một XX (nên vô sản) ; cứ 100.000 nữ thì có một XY (cũng vô sản luôn) ; thêm vào đấy, cứ 30.000 người thì có một lưỡng tính (hermaphrodite), nghĩa là có cả hai cơ quan sinh dục đực cái khác nhau[1], do đó có xáo trộn giới tính tự nhiên.
Như thế, xem ra thứ ứng xử giới tính của người đồng tính, thứ ứng xử ấy có nguồn gốc ở sự lưỡng tính của con người, và nó có thể phát sinh hoặc do tỷ lệ hocmon đực cái biến đổi, hoặc do xáo trộn nhiễm sắc thể XX-XY, hoặc do rối loạn ở não, tại Vùng dưới đồi (Hypothalamus). Riêng về tỷ lệ hocmon đực-cái, để thí nghiệm, người ta đã bơm thêm testosterone vô một con chuột cái, và nó có thể đi nhảy một cô chuột cái khác.
Nói tóm lại, đồng tính có nguồn gốc thứ nhất ở sự lưỡng tính của cơ thể con người, và nguồn gốc thứ hai do trục trặc chức năng của Hypothalamus, tức não giữa. Quả thế, có ba lớp não : lớp ngoài, lớp trong cùng, và lớp đứng giữa hai lớp ấy. Hypothalamus hay Vùng dưới đồi thuộc não giữa. Nó có nhiều nhân hay noyau, trong đó có noyau ventromedian và aire préoptique médiale chúng điều khiển ứng xử giới tính, cái trước thúc ứng xử nữ và cản ứng xử nam, cái sau kích ứng xử nam và ngăn ứng xử nữ… Nói rõ hơn, sự luyến ái đồng tính có nguồn gốc ở cơ thể, xét cả về mặt giải phẫu học (anatomique) lẫn hình thái học (morphologique). Dĩ nhiên, môi trường (xã hội, giáo dục, tâm lý) cũng góp phần không nhỏ vào việc kìm hãm hay phát triển sự đồng tính ấy.
*
Người ta có thể đặt vấn đề : Do đâu mà ngày xưa không thấy nói đến đồng tính, mà ngày nay nó lại rộ lên như một phong trào vậy ?
Ngày xưa hay ngày nay ở chốn thôn dã, mấy ai đủ dũng khí để sống ngược với dư luận đây ? Xã hội nhìn ai là nam hay nữ, thì người ấy bị đóng cứng vào đấy, không thể thoát ra được. Để rồi khi đã tuổi cập kê, cha mẹ dựng vợ gả chồng cho xong, thì dù ngược lại với xu hướng riêng, người đồng tính cũng đành chịu vậy, và họ cứ sinh con đẻ cái như người bình thường, để rồi cái xu hướng luyến ái đồng tính tư riêng sẽ bị chôn vùi qua năm tháng. Chỉ thỉnh thoảng trong các khu nội trú nam sinh khép kín, mới thấy đôi ba luyến ái đồng tính, nhưng có lẽ chỉ vì lâu không gặp nữ, nên một nam sinh mới bị hấp dẫn bởi một nam sinh có dáng dấp nữ nhi đôi chút, thế thôi.
Thật ra, thì xưa kia tại Mỹ châu, nhất là Phi châu, cũng thấy có nói đến đồng tính, nhưng không nhiều, và người ta thường coi đó như một thứ bệnh, một rối loại tâm thần chẳng hạn. Lại xem ra sách Levi (18.22 ; 20.13) và thư Roma (1.27) cũng nhắc tới giao hoan đồng tính, nhưng có lẽ đây chỉ là loạn dâm suông.
Ngày nay, do bầu khí tự do, người ta không cần che dấu nữa, nên luyến ái đồng tính mới rộ lên, và do đó mới thấy số người đồng tính rất đông, ngoài trí tưởng tượng. Cứ nhìn vào một nước như Ấn Độ, với dân số hơn một tỷ, nay đã có tới 2 triệu người chuyển giới[2]. Chuyển giới trong một nước đang phát triển như Ấn, phải tốn tới mấy ngàn đô la Mỹ, thì mười người họa may mới có một đủ điều kiện thôi. Nên số người đồng tính phải tới hơn chục triệu là ít. Việt Nam cũng là một nước đang phát triển, thế mà nay cũng có cả ngàn người có điều kiện ra chuyển giới ở nước ngoài rồi.[3]
Chuyển giới như trên mới chỉ là tạo dáng bên ngoài, như giải phẫu ngực và hạ bộ, thế thôi, chứ chưa phải để sinh con một cách bình thường. Liệu y khoa trong tương lai có thể làm như vậy được không ?
Những khả năng hôm nay và mai ngày của việc Chuyển giới
Tạo dáng bên ngoài, cho nam có dáng nữ, bằng cách bơm ngực và thay đổi cơ quan sinh dục, thì nay người ta làm được không mấy khó khăn. Chỉ cần chịu tốn : mấy ngàn đô bên các nước nghèo, mấy chục ngàn đô bên các nước phát triển ! Chứ thay đổi bên trong, như ghép tử cung và buồng trứng là điều khác hẳn.
Việc cấy ghép tử cung và làm cho tử cung ấy sống và hoạt động được, y khoa đã nghĩ đến từ lâu, nhưng chỉ nay mới thành công bước đầu. Tạp chí Science et Vie số tháng hai năm 2015 cho biết, đây là thành công sau nhiều lấn thất bại (tr.78vt.) : thất bại do ghép được mà không mang thai nổi, hay do mang thai nổi nhưng không kết tận được ở việc sinh con !
Thật ra, ca thành công nói trên chưa phải là ghép tử cung cho một nam nhân, mà cho một nữ nhân sinh ra không tử cung và âm hộ. Có điều ghép thành công rồi, người ta được khích lệ để nghĩ đến việc nghiên cứu lấy tử cung phụ nữ đưa vô bụng một nam nhân đồng tính để người này có hạnh phúc được sinh con. Trước hết, phải tìm chỗ đủ rộng trong khoang bụng cho tử cung ghép, vì khi đã có thai, thai nhi sẽ lớn rất mau khiến tử cung trương phình lên, chèn lấn sang các cơ quan khác. Thế rồi khi thai nhi đủ lớn, lại phải có lực đẩy xuống để nó được sinh ra với nhau bọc ngoài. Ngoài ra, không chỉ cho tử cung nối với hệ mạch máu để nó sống và được nuôi dưỡng, mà còn nối với hệ thần kinh để khi thai nhi cựa quậy, người mẹ có thể sung sướng cảm nhận được.
Cho đến nay, chưa ai dám nghĩ đến việc sinh đẻ bình thường cho người vợ (đực), mà chỉ cho giao tử kết hợp ngoại môi (in vitro), rồi giải phẫu đưa vô tử cung vay mượn ấy, và khi thai nhi lớn đủ, lại phải giải phẫu để lấy nó ra, thế thôi. Nói chi đến việc ghép buồng trứng và làm sao để tới kỳ thì trứng rụng. Nói chi đến việc nối kết các cơ quan sinh sản với cơ quan sinh dục, và phối hợp nhịp nhàng hoạt động của tất cả.
Những kết luận luân lý
Như trên kia đã trình bày, sự phân tính nơi con người không chỉ nhằm mục đích sinh sản, mà vấn đề tình cảm cũng được đặt ra. Để xứng đáng với con người, quan hệ nam nữ không thể là chuyện qua đường, mà hai bên phải có ý nguyện sống chung trọn đời trong yêu thương, cũng là để chung lo cho con cái được nuôi dưỡng và giáo dục nên người.
Nếu nhìn quan hệ vợ chồng như thế, thì hẳn không có gì đáng trách khi hai người đồng tính kết thành đôi lứa để sống trọn đời với nhau, phải không ? Vâng, nếu sự tương ái được biểu lộ qua cử chỉ ôm hôn, thì không có vấn đề luân lý đặt ra, dù điều ấy xem chướng mắt người đời. Vấn đề luân lý chỉ thực sự đặt ra khi ngoài ôm hôn còn có giao hợp nữa. Bởi lẽ mục đích của giao hợp là bảo tồn nòi giống, trong khi giao hợp đồng tính chỉ là để hưởng lạc thôi.
Các bạn đồng tính có thể chất vấn :
-Thế thì tại sao luân lý lại chấp nhận giao hợp như một phương thế để làm tươi mát lại tình cảm phu thê, nhất là sau một cuộc cãi vã ?[4]
Xin thưa :
-Dẫu sao thì trong hành vi nói trên, người ta không tránh né việc sinh con !
-Không né tránh việc sinh con ư ? Thế sao trong kế hoạch hóa gia đình, Hội thánh lại chấp nhận phương pháp Billings : tránh né giao hợp trong ngày trứng rụng ? Đúng là khi áp dụng phương pháp Billings, có gì như người ta không thẳng thắn lắm, nhưng không đến nỗi nào trong hoàn cảnh phu thê bình thường và chính thức, phải không ?
*
Bây giờ đến phiên những nhà mô phạm có thể đặt ngược lại câu hỏi cho anh chị em đồng tính :
_ Sao không chữa chính sự đồng tính ấy, có phải đơn giản hơn chăng ? Hay là vì quá gắn bó với nó, người ta không muốn trị tại căn vậy ?
Đồng tính thực ra là ứng xử giới tính ngược chiều với hướng đi của giới tính cơ thể, và đây là do trục trặc về hoạt động của Vùng dưới đồi (Hypothalamus). Các nhà hảo tâm nên tài trợ cho các chương trình nghiên cứu bộ phận thần kinh giữa này, hầu biết rõ then máy của nó và tìm ra phương cách chỉnh sửa.
Bằng như ứng xử đồng tính có nguồn gốc xa hơn nơi hocmon hay nhiễm sắc thể, thì chỉ việc thay đổi nhiễm sắc thể giới tính hay bơm thêm hocmon đực hay cái, y như bơm insuline cho người bị tiểu đường vậy.
Nếu người đồng tính không muốn chữa khỏi sự ứng xử đồng tính, đành thuận theo họ để thay đổi giới tính cơ thể của họ, nhất là chuyển nam sang nữ, với việc cấy ghép tử cung và buồng trứng. Đây là công việc vô cùng khó khăn, nguy hiểm, khiến giảm thọ tới hằng chục năm, lại không biết khi thủ biến lớn đến thế, có động chạm đến phẩm giá con người hay không ?
Theo bác sỹ A. Hesnard, sự phân tính « thấm nhập toàn cơ thể sinh vật, từ tổ hợp hóa học và cơ cấu thâm sâu của mỗi tổ chức (tissu) cho đến mọi hình thái tinh tế nhất của các xu hướng thuộc bản năng và hoạt động. Chẳng những có một khoa hình thái học (morphologie) về phân tính, mà về phân tính còn có cả một khoa hóa học, một khoa hóa học tổ chức, một khoa phôi sinh học… »[5]. Vì sự phân tính ăn sâu và rộng đến thế, nên thay đổi hẳn có phải là thủ biến quá đáng, coi con người như phương tiện, chứ không phải mục đích nữa ?
Như đã nói trên, thay đổi cách ứng xử là tiện gọn nhất. Lại tránh được những rắc rối trong việc tìm người phối ngẫu luôn. Quả thế, nam đồng tính thì ai nấy đều muốn làm vợ cả, nên không dễ gì tìm được một ông chồng đồng tính thực sự. Hay là nam đồng tính lấy một nam không đồng tính ? Nhưng thử hỏi có nam nhi bình thường nào chịu lấy một người vợ đực hay không ? Hay là đành phải đi tìm một ông chồng cái, tức một người nữ đồng tính[6] muốn trở thành chồng ?
Trong khi chờ đợi chữa khỏi xu hướng đồng tính, các bạn đồng tính có thể họp thành những hiệp hội đồng tính như bên Âu Mỹ[7] để nương tựa vào nhau và giúp nhau sống khiết tịnh trong yêu thương theo đúng luân thường đạo lý.
Hoành Sơn S.J.
Bài này được viết theo gợi ý của một Đức cha đáng kính
(dongten.net 21.07.2015)
[1] Xx. Science et Vie, Avril 1997, tr.72-75.
[2] Xx. Kiến thức ngày nay, số ra ngày 10/3/2015, tr.69.
[3] Xx. nhật báo TUỔI TRẺ, số ra ngày 21-4-2015, tr.14.
[4] Xx. Hoành sơn, Thần học thiêng liêng, tập 2 tái bản, 1997, tr.432…
[5] La sexologie, Payot, 1967, tr.35, trưng dẫn trong Hoành sơn, Tính dục nhìn theo Phương Đông, Nhà xuất bản Trẻ tái bản, 2006, tr.13.
[6] Số nữ đồng tính ít hơn nam đồng tính nhiều.
[7] Như phong trào « Đavit và Jonathan »
2021
Có thể chứng minh Thiên Chúa tồn tại không?
Có thể chứng minh Thiên Chúa tồn tại không?
Tôi viết luận án tiến sĩ của tôi về giá trị của các tranh luận triết học khác nhau cố chứng minh sự tồn tại của Thiên Chúa. Liệu có thể có bằng chứng không? Các triết gia lỗi lạc, từ Anselm, đến Tôma Aquinô, Descartes, hay các triết gia đương thời như Charles Hartshorne, cho rằng có thể chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa qua lập luận lý tính. Trừ việc, phần nhiều dựa vào việc chúng ta định nghĩa “chứng minh” là gì. Chúng ta chứng minh gì đó bằng cách nào?
Có một giai thoại về thánh Christopher thích hợp để làm minh họa ở đây. Christopher là người đầy thiên tư mọi mặt, trừ đức tin. Ngài mạnh mẽ về thể chất, uy lực, nhân hậu, nhẹ nhàng và được yêu mến. Ngài cũng quảng đại, dùng sức mạnh cơ bắp của mình để giúp người, nhưng dù muốn, ngài vẫn thấy khó mà tin vào Thiên Chúa. Với ngài, cái thể lý vật chất mới là thật, còn mọi thứ khác đều không thực. Do đó, ngài sống cuộc đời theo chủ nghĩa bất khả tri, không thể thật sự tin vào bất kỳ điều gì vượt ngoài những gì ngài có thể thấy, cảm nhận và sờ vào một cách thể lý.
Tuy nhiên, điều này không ngăn cản ngài dùng những thiên tư của mình, nhất là sức mạnh thể lý, để phục vụ tha nhân. Đây chính là điểm tựa, lòng quảng đại và phục vụ của ngài. Ngài dành cả đời để giúp người dân trong vùng vượt qua con sông nguy hiểm. Một đêm nọ, trong cơn bão, con thuyền bị lật úp và Christopher đã lao xuống vùng nước tối tăm để cứu một đứa trẻ. Khi đưa đứa trẻ đó lên bờ, ngài nhìn vào mặt đứa trẻ và thấy đó là khuôn mặt Chúa Kitô. Sau đó, ngài đã tin vì đã thấy dung nhan Chúa Kitô.
Giai thoại này là bài học sâu sắc cho chúng ta. Nó thay đổi quan điểm của chúng ta về vấn đề làm cách nào để cố “chứng minh” sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nỗ lực của chúng ta để chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa phải thực tế, hiện sinh và hiện thể hơn là chỉ thuần trí tuệ. Làm sao chúng ta chuyển từ chỉ tin vào những cái vật chất, chỉ tin vào hiện thực chúng ta có thể thấy, cảm nhận, sờ, nếm và ngửi, sang tin vào sự hiện hữu của những hiện thực tâm linh, thâm sâu hơn?
Trong câu chuyện của thánh Christopher có một bài học. Sống một cách chính trực và đáng trọng hết sức có thể và dùng thiên tư của mình để giúp người khác. Thì Thiên Chúa sẽ xuất hiện. Thiên Chúa không có ở kết luận của một tam đoạn luận triết học, nhưng có ở một lối sống nhào đó. Hơn nữa, đức tin không phải là câu hỏi về cảm giác cho bằng là việc phục vụ quên mình.
Trong đoạn Kinh Thánh về thánh tông đồ Tôma và những hoài nghi của ngài về việc Chúa sống lại còn có một bài học sâu xa hơn nữa. Thánh Tôma nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Hãy nhớ Chúa Giêsu không phản đối hay khiển trách gì trước sự hoài nghi của Tôma. Thay vào đó, Ngài dùng lại chính lời của Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Thầy đây, có phải ma đâu”.
Đấy là thách thức cho tất cả chúng ta. “Hãy tự xem đi, Chúa có thật, đâu phải là ma!” Tuy nhiên, thách thức đó không thiên về trí tuệ cho bằng tinh thần, một thách thức rằng chúng ta phải thành thật và quảng đại.
Chủ nghĩa hoài nghi và chủ nghĩa bất khả tri, thậm chí là chủ nghĩa vô thần, không phải là vấn đề, miễn họ thành thực, không biện luận, không dối trá, sẵn sàng chấp nhận hiện thực, và quảng đại trao cả cuộc đời mình để phục vụ. Nếu có những điều kiện đó, thì Thiên Chúa, Đấng tạo thành và là nguồn của mọi hiện thực, cuối cùng sẽ trở nên đủ thật, kể cả với những người cần có bằng chứng thể lý. Câu chuyện về thánh Christopher và thánh tông đồ Tôma dạy chúng ta như thế và bảo đảm với chúng ta rằng Thiên Chúa không nổi giận cũng không bị đe dọa bởi một người theo thuyết bất khả tri thành thực.
Đức tin không bao giờ là điều chắc chắn. Và đức tin cũng không phải cảm giác chắc chắn rằng Thiên Chúa hiện hữu. Ngược lại, không có đức tin đâu phải là thấy hoang mang khi không có cảm giác chắc chắn rằng Thiên Chúa tồn tại. Với tất cả mọi người, sẽ có những đêm tăm tối tâm hồn, những lúc cảm thấy Thiên Chúa thinh lặng, những lúc cô đơn, hoài nghi, những lúc không thể dùng ý thức mà nắm bắt hay nhận ra hiện thực của Thiên Chúa. Lịch sử đức tin, như chúng ta đã thấy trong cuộc đời Chúa Giêsu và cuộc đời các thánh, cho thấy Thiên Chúa thường có vẻ đã chết, và những lúc như thế, hiện thực của thế giới theo chủ nghĩa kinh nghiệm có thể chiếm lấy chúng ta và không gì có thật ngoài những gì chúng ta có thể thấy, cảm nhận ngay lúc đó, kể cả nỗi đau của chính chúng ta.
Bất kỳ lúc nào chúng ta gặp những chuyện như thế, thì như thánh Tôma và thánh Christopher, chúng ta cần trở nên những người bất khả tri thành thật dùng sự tốt lành và sức mạnh mà Chúa ban để đưa những người khác vượt qua dòng sông khó khăn cuộc đời. Thiên Chúa không yêu cầu chúng ta có một đức tin chắc chắn, nhưng yêu cầu chúng ta phục vụ quảng đại và lâu dài. Chúng ta có sự bảo đảm, nếu chúng ta trung thành giúp nâng đỡ người khác, thì đến một ngày chúng ta sẽ thấy mình đứng trước hiện thực của Thiên Chúa đang ở với chúng ta, rằng, “Hãy tự xem đi, Ta có thật, có phải là ma đâu”.
Chúng ta có thể chứng minh Thiên Chúa tồn tại không? Trong lý thuyết thì không, nhưng trong cuộc sống thì có.
J.B. Thái Hòa dịch
2021
Đức Kitô tự đồng hóa mình với người nghèo theo Tin Mừng Luca
Khi nhắc đến nhân vật Giêsu, chúng ta nghĩ ngay đến một Đức Giêsu đầy quyền năng, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhưng một Đức Giêsu xuất thân từ ngôi làng Nadarét nghèo lại không được để ý. Vì lẽ, chúng ta quá chú trọng đến thần tính mà quên đi nhân tính nơi con người Giêsu. Với nhãn quan về Đức Giêsu như một con người đích thực, chúng ta thấy Ngài cùng sống, ăn uống và làm việc như chúng ta. Nhưng điều đặc biệt chúng ta thấy được qua con người Giêsu là sự nghèo khó. Điều này được thể hiện rõ qua việc xuất thân và đời sống nghèo khó của Đức Giêsu. Đó là cách Ngài đã chọn, để cảm nghiệm được kiếp sống nghèo của con người.
Và để hiểu rõ hơn về một Đức Giêsu khó nghèo, chúng ta cần một câu trả lời mang tính học thuật dựa trên nền tảng Kinh Thánh và Giáo Huấn của Giáo Hội, từ đó đưa ra một kết luận có tính thuyết phục. Và cũng để cho độc giả hiểu được phần nào về sự đồng tự hạ của Đức Giêsu, Đấng không nhất thiết phải sống trong cảnh nghèo khó. Những vấn đề chúng ta vừa đề cập trên tuy không có gì đặc biệt, nhưng những vấn liên hệ đến Đức Giêsu thành Nazaret luôn là một chủ đề mang tính thời sự. Chính vì thế, tôi xin trình bày chủ đề: “Đức Giêsu Tự Đồng Hóa Mình Với Người Nghèo Theo Tin Mừng Luca”.
Chủ đề đã cho thấy tài liệu chính trong bài viết của tôi dựa trên Tin Mừng Luca, vì vậy Tin Mừng này là cơ sở để tôi trích dẫn và phân tích xuyên suốt trong bài tiểu luận. Thêm vào đó, tôi cũng sử dụng các nguồn tài liệu có liên quan khác: các sách chú giải Tin Mừng Luca, các sách Kitô học. Đối với Luca, ngài muốn khắc họa chân dung với một Đức Giêsu của lịch sử. Bởi vậy, Tin mừng Luca trình bày các biến cố trong cuộc đời của Đức Giêsu luôn gắn kết với dòng lịch sử Do Thái. Nói chung người ta đồng ý Đức Giêsu sinh ra trong khoảng giữa năm 6 đến năm 4 TCN và Ngài sống tại Nazarét như một người Do Thái bình thường và sùng đạo[1].
Mặt khác khi đọc Tin Mừng Luca, chúng ta sẽ nhận ra Đức Giêsu không chỉ mang trọn vẹn thân phận con người, nhưng Ngài còn muốn đi xa hơn qua việc đồng hóa mình với người nghèo cách đặc biệt. Bởi lẽ, Tin Mừng Luca được mệnh danh là Tin Mừng cho người nghèo (x. Lc 4,18; 6,20; 7,22). Thật vậy, một Đức Giêsu có sự gắn kết với dòng chảy lịch sử sẽ giúp chúng ta hiểu được chân dung đích thật nơi con người Đức Giêsu, vì Ngài thật sự xuất hiện trong dòng lịch sử nhân loại[2].
Tuy nhiên, chủ đề này cũng là một chủ đề lớn của môn Kitô học. Vì thế, tôi chỉ giới hạn đề tài của mình trong Tin Mừng Luca, nhằm trình bày một Đức Giêsu nghèo khó cụ thể về mặt nhân tính của Ngài.
Bằng phương pháp chứng minh và phân tích, tôi sẽ cố gắng để làm nổi bật lên sự đồng hóa của Đức Giêsu với người nghèo qua các phương thế khác nhau. Đồng thời, yếu tố lịch sử cũng sẽ được tôi chú trọng, vì đây là yếu tố dẫn đưa chúng ta đến với con người lịch sử của Đức Giêsu. Việc nghiên cứu này khởi đi từ biến cố Giáng Sinh cho đến cuộc tử nạn. Song song đó, chúng ta cũng sẽ đối chiếu đến các đoạn Kinh Thánh có liên quan đến sự nghèo khó của Đức Giêsu: các hình ảnh tiên trưng, đối trưng có trong Kinh Thánh. Và mục đích của việc đối chiếu này, giúp chúng ta củng cố các luận cứ thêm chắc chắn. Vì vậy, bài viết của tôi bao gồm bốn phần chính như sau: Phần đầu thứ nhất, chúng ta cũng khảo sát về cuộc đời ẩn dật của Đức Giêsu: từ lúc sinh ra nơi hang bò lừa nghèo hèn đến việc được dâng vào trong Đền Thánh. Phần tiếp theo, chúng ta cùng phân tích đời sống của Đức Giêsu và việc rao giảng như một người nghèo sống với những người nghèo. Tiếp đến, chúng ta tìm hiểu cách thức phục vụ của Đức Giêsu trong tư cách là người phục vụ các Tông đồ và những người khác. Sau cùng, chúng ta ngắm nhìn Đức Giêsu chịu xử án và chết như một người nghèo.
Qua bài viết này, tôi hy vọng có thể giúp cho người đọc hiểu được sự khó nghèo của Đức Giêsu qua nhãn quan Tin Mừng Luca. Đồng thời cũng giúp mọi người chúng ta nhận ra một Đức Giêsu khác nơi những con người bé nhỏ nghèo hèn. Bài viết này là một cố gắng nghiên cứu cách xác thực về Đức Giêsu nghèo khó dựa trên Tin Mừng Luca. Qua đó tôi mong rằng chủ đề về Đức Giêsu nghèo khó sẽ tiếp tục được nhiều người khai triển thêm. Bên cạnh đó, bài viết này cũng giúp chúng ta có cách nhìn đổi mới hơn về con người Đức Giêsu.
I. ĐỨC GIÊSU SINH RA NHƯ MỘT NGƯỜI NGHÈO
Khi khảo sát về cuộc đời của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy có hai giai đoạn: giai đoạn sống ẩn dật đến việc công khai đi rao giảng. Trong phần này, chúng ta bắt đầu khảo sát về đời sống ẩn dật của Đức Giêsu với biến cố giáng sinh.
Khi sinh vào trần gian, Đức Giêsu đã hòa mình với dòng chảy của lịch sử nhân loại để trở nên một con người bình thường. Không chỉ dừng lại nơi con người bình thường, Ngài càng muốn đi xa hơn nữa bằng việc đồng hóa mình với những người nghèo khó. Để được như thế, Ngài đã chọn cho mình những phương thế phù hợp với lối sống của một người nghèo.
1. Xuất thân từ gia đình nghèo
Theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu được sinh ra tại Bêlem (x. Lc 2,7) từ làng Nazarét (x. Lc 2,51), có cha là ông Giuse thuộc dòng họ Đavít (x. Lc 3,23; 4,22b). Như thế, Đức Giêsu đã chọn cho mình một gia cảnh nghèo, để tự đồng hóa mình với thân phận người nghèo. Theo trình thuật Tin Mừng Luca, hai ông bà sinh sống tại Nazarét (x. Lc 2,39; 2,51) và Đức Giêsu cũng lớn lên từ nơi này. Đây là dữ kiện đầu tiên xác định rõ Đức Giêsu đi vào lịch sử nhân loại với một gia đình và người cha người mẹ cụ thể[3], đồng thời cùng nói lên quê hương của Ngài không có gì nổi bật, không đáng bận tâm, thậm chí bị xem thường (x. Ga 1,46).
Đối với thánh Giuse, ngài là một bác thợ mộc sống tại làng Nazarét (x. Mt 13,55). Một số học giả cho rằng, thánh Giuse không hẳn chỉ làm thợ mộc, “hạn từ Tekton thường được dịch là thợ mộc, nhưng nghĩa rộng hơn (tek là nguồn gốc các từ technical, technology chỉ kĩ thuật, công nghệ) có thể bao gồm những người chế tạo vật dụng từ nhiều vật liệu khác nhau không chỉ là gỗ, thậm chí có thể chỉ cả thợ xây”[4]. Theo cách diễn giải trên, thánh Giuse là một người thợ lành nghề. Mặt khác, một số tác giả cho rằng thánh Giuse cũng không đến nỗi túng quẫn so với một số người Israel đương thời, nhưng Ngài đã chọn những phương tiện với tư cách là người nghèo để phù hợp với cách thế của Đức Giêsu[5]. Như chúng ta thấy biến cố giáng sinh và biến cố dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ phần nào minh chứng sự nghèo khó của gia đình Thánh gia (x. Lc 2,22). Vấn đề này sẽ được trình bày rõ hơn ở phần sau.
1.1. Thân mẫu của Ngài là người nghèo
Đức Maria, cũng là một thiếu nữ Do Thái bình thường, xuất thân từ thành Nazarét miền Galilê (x. Lc 1,26). Trình thuật Tin Mừng Luca không minh nhiên xác định Đức Maria là người nghèo khó. Tuy nhiên, trong bài ca Magnificat, Đức Maria đã nhận mình là “Phận nữ tỳ hèn mọn, người đoái thương nhìn tới” (Lc 1,48) và trong câu “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,53). Đức Maria nhận mình là kẻ nghèo hèn được Chúa thương nhìn đến. Bởi đó, “Đức Maria là mẫu gương điển hình của Thiên Chúa, những kẻ đã tìm kiếm duy nhất nơi mọi phúc lành, ân huệ. Tình trạng nghèo khó trong tâm hồn của ngài đã được ân thưởng bằng thứ hoa quả mang trong cung lòng mình”[6].
Thật vậy, Đức Maria cũng là một người mẹ nghèo để phần nào phù hợp với lối sống của Đức Giêsu: Vì nghèo, Mẹ đã không có đủ tiền thuê quán trọ, do đó mới sinh con trong hang bò lừa (x.Lc 2,7). Vì nghèo nên chỉ có thể mua được một cặp bồ câu tơ để làm lễ chuộc con (x.Lc 2,24). Bởi đó, Đức Maria là người phụ nữ đặc biệt, là hình ảnh thu nhỏ của tình trạng những người nghèo trong Cựu Ước sẽ được Chúa ân thưởng[7].
Theo Cha Phạm Xuân Uyển, “Thiên Chúa có cánh tay hùng mạnh (x. Lc 1,51) đã tạo nên một cuộc xuất hành mới và đã tỏ ra sự ưa thích hơn cho kẻ bị chà đạp, một sự ưa thích sẽ được biểu lộ trong Đức Giêsu. Vì thế, nghèo là điều kiện để tiếp nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa, điều này nói đến tính chất tuyệt đối của ơn cứu độ. Từ ý tưởng này, hoàn cảnh của những người nghèo hèn, như Đức Maria sẽ được đảo ngược.”[8] Vì nghèo khó và Nước Thiên Chúa có liên hệ với nhau[9].
Thêm vào đó, Tin Mừng Luca cũng cho chúng ta thấy có một số phụ nữ đã rộng tay giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ (x. Lc 8,2-3) nhưng không thấy nói đến sự trợ giúp của Đức Maria về vật chất.
Hơn nữa, sự nghèo khó nơi Đức Maria còn được thể hiện trong việc an táng Đức Giêsu. Trong Tin Mừng Lc 23,50-56, trình thuật lại việc an táng cho Đức Giêsu. Ở đây, chúng ta nhận thấy mọi sự đều do ông Giôxếp thành viên của Thượng Hội Đồng đảm nhận công việc này, từ vải gai đến ngay cả ngôi mộ. Các bản văn Nhất Lãm chỉ nói đến các bà, không nói đến thân mẫu của Chúa Giêsu (x. Lc 24,10; Mt 27,57-61; Mc 15,42-47). Vì thế, thánh Ephrem Syria diễn tả tuyệt vời về viễn ảnh Đức Maria như sau: “Người có phúc là ai, hỡi Maria, con gái của người nghèo, người là Mẹ sinh ra Chúa của các vua”[10]. Và mẹ không chỉ nghèo về vật chất, mà cả tinh thần của Mẹ cũng thể hiện trọn vẹn[11].
1.2. Không có tiền nên không tìm được nhà trọ
Tác giả Tin Mừng Luca trình thuật lại như sau: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được nhà trọ” (Lc 2,6-7). Theo Cha Vũ Phan Long, nếu dịch sát: “không có chỗ cho ông bà trong nhà trọ. Hẳn là Maria và Giuse đã đi tìm chỗ trú qua đêm nơi một cái lán, chung quanh có vách và chỉ có một lối ra vào”[12]. Vì nghèo nên không tìm được nơi nào để trọ, nói đúng hơn là các ngài không đủ tiền trả cho những ngày có nhiều người cũng về để khai tên tuổi vào sổ. Thực tế, khi họ tiếp rước những người giàu, chủ quán sẽ có nhiều tiền hơn những người nghèo.
Giải thích thêm, theo William Barclay: “Quán trọ bên Đông phương thời bấy giờ giống như từng dãy chuồng ngựa có cửa ra một cái sân chung, với những tiện nghi cho khách trọ rất sơ sài”. Nếu thiếu phòng trọ, chắc chắn người ta sẽ tăng giá. Thêm vào đó, “Có đông người quá nên không còn chỗ cho Giuse và Đức Maria, thế nên con trai của Maria đã sinh ra nơi khoảng sân chung đó”[13]. Trong bối cảnh không đủ tiền và không có phòng trọ qua đêm, cả hai không tìm được nơi nào khác ngoài đồng không mông quạnh. Và sau cùng chuồng bò lừa là nơi được cả hai lựa chọn.
1.3. Dâng Con trong Đền Thánh chỉ với đôi chim gáy
Theo truyền thống của người Do Thái: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Thiên Chúa” (Lc 2,23; Xh 13,2). Trong ý nghĩa này, chúng ta hiểu được câu: “sinh ra dưới lề luật” (Gl 4,4). Vì mặc lấy thân phận con người, Đức Giêsu cũng phải thuận theo những qui luật nhân sinh. Vì vậy, thánh Giuse và Mẹ Maria mới dâng Ngài vào trong Đền Thờ theo luật đã định.
Theo William Barclay, luật quy định mỗi khi dâng con đầu lòng cần có tiền chuộc lại người con là năm shekel (x. Xh 13,13; 34,20), cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ Thiên Chúa.[14] Và để chấm dứt thời kỳ ô uế sau khi sinh, người mẹ phải dâng của lễ. Theo luật, gia đình nào giàu có thì dâng chiên hay bò, còn đối với những gia đình nghèo, luật chỉ buộc dâng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non (x. Lv 5,7-8). Trong trường hợp của thánh Giuse và Mẹ Maria, cả hai không có tiền mua cừu hay chiên, thì phải đổi bằng một đôi chim gáy (x. Lc 2,24), đây là lễ vật của người nghèo. Vì vậy, chúng ta có thể tái khẳng định: Đức Giêsu sinh ra trong một gia đình nghèo. Đức giáo Hoàng Bênêđictô VI nhận định về vấn đề này như sau: “Đức Maria đã dâng lễ vật của người nghèo, thánh Luca viết Phúc Âm đầy dấu ấn thần học về người nghèo và về sự nghèo khó, cũng cho chúng ta biết gia đình Đức Giêsu thuộc vào những người nghèo của Israel; chính ngay giữa những người nghèo này mà Thiên Chúa thực hiện các lời hứa của mình”[15].
2. Sinh ra trong máng cỏ
Cả Đức Maria và Thánh Giuse không thể chọn thời gian cho mình, cũng không thể chờ đợi một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Cũng vì thế, chính Đức Maria phải bọc Hài Nhi trong các tấm tã và đặt con nằm trong máng cỏ (x. Lc 2,7). Đức Giêsu đã khởi sự cuộc hành trình trần thế trong một cái máng cỏ. Mẹ Người và chính Người đã không tìm được những con đường được dọn cho bằng phẳng và những nơi trú ngụ được đăng ký trước. Các ngài là những người nghèo, các ngài không có cao vọng gì; các ngài phải đi tìm và tìm ra chỗ dành cho các ngài, cả ba người bằng lòng với sự khó nghèo. Qua chi tiết Đức Giêsu chấp nhận những giới hạn của thực tại càng làm rõ nét sự tự đồng hóa của Ngài với những con người bất hạnh. Ngài đã tự đồng hóa mình với kẻ đói khát, với khách lạ, với những kẻ trần truồng, bệnh hoạn và tù đày, đây là tất cả sự đau khổ của nhân loại[16].
Chúng ta cũng nhận thấy sự đối nghịch giữa hai cuộc hạ sinh: Gioan Tẩy Giả và Hài Nhi Giêsu, “Gioan sinh ra trong cảnh êm ấm và xung quanh có nhiều người chúc mừng, còn Chúa Giêsu lại sinh trong máng cỏ”[17]. Phải chăng đây là sự thách thức, nhưng đồng thời lại là cơ hội cho những người nghèo và những người hèn mọn đến viếng thăm Đức Giêsu. Mặt khác, đây còn là phương cách Đức Giêsu đã chọn, Ngài xuống tới cái sâu nhất của vực thẳm để học được ý nghĩa của kiếp sống nghèo. Đức Giêsu trở nên bé nhỏ để cho chúng ta lớn mạnh, người xuống tới đến sự tận cùng của đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài đã trở nên nghèo để chúng ta giàu có[18].
Đức Giêsu tự đồng hóa mình với những thiếu thốn của con người để Ngài hiểu rõ những đói khổ, bệnh tật của con người. Đồng thời đây lại là nơi thích hợp cho những người nghèo và người hèn mọn như các mục đồng đến gặp Chúa[19]. Qua hình ảnh đơn sơ của chiếc máng cỏ bằng gỗ xù xì, nó như lời tiên báo về thập giá. Từ máng cỏ đến chân thập giá, Đức Giêsu đã cho ta hiểu được ý nghĩa mầu nhiệm sâu thẳm về sự vâng phục trong sự khó nghèo.
Ngoài ra, Đức Giêsu sinh ra trong máng cỏ mang một ý nghĩa lịch sử quan trọng, Ngài đến với nhân loại bằng một con người cụ thể, xuất hiện trong dòng thời gian. Chính trong ý nghĩa này, không ai có thể quan niệm Đức Giêsu sinh ra trong không-thời gian với tính cách huyền thoại. Thật vậy, “Ngài thuộc vào thời gian cụ thể và một không gian địa lý rõ ràng: tính cách phổ quát và cụ thể hòa lẫn hỗ tương lẫn nhau”[20].
3. Được viếng thăm đầu tiên bởi những người nghèo
Theo tác giả William Barclay, những người mục đồng thời bấy giờ bị những người Chính Thống khinh bỉ. Họ không có đủ khả năng để tuân giữ luật lệ và các chi tiết của nghi lễ tôn giáo[21]. Thế nhưng, sự nghèo khó lại là cơ hội để họ được nghe Tin Mừng của Chúa đầu tiên.
Vì vậy, việc những người chăn chiên được Sứ thần báo tin sự ra đời của Đức Giêsu thể hiện một ý định của Thiên Chúa, là muốn làm đảo lộn những suy tính duy thực, duy ích lợi của con người ở mọi thời đại. Những người nghèo thường không ai muốn qua lại với họ vì người ta sợ người nghèo làm phiền, liên lụy đến lợi ích kinh tế. Việc Thiên Chúa ưu tiên cho những người bị gạt ra bên lề của xã hội, điều này như một thông điệp Chúa muốn nói với nhân loại: giàu hay nghèo trước mặt Thiên Chúa vẫn có một giá trị nhất định. Đồng thời minh chứng rằng, những người chăn chiên thuộc về những người nghèo hèn nhưng tấm lòng của họ lại đơn sơ, giàu lòng quản đại đối với người khác, vì vậy họ là những người nghèo được nghe biết Tin Mừng đầu tiên (x. Lc 7,22).
Thế nên, Đức Giêsu tự đồng hóa mình với người nghèo để xóa bỏ những định kiến của con người về sự nghèo khó. Vì vậy những người chăn chiên, “họ đại diện cho những kẻ nghèo hèn của Israel, những người nghèo nói cách chung: những con người nhận được sự ưu ái của tình thương Thiên Chúa”[22]. Bên cạnh đó, “dấu chỉ này không cho thấy một sự khác thường nhưng là thấy một Hài Nhi bình thường, giống như những đứa con của họ, cũng mang thân phận như họ. Khi sinh vào đời Đức Giêsu đã trương cờ hiệu khiêm tốn và khó nghèo”[23].
Đây quả là một chuyện hy hữu, những người đến viếng thăm Đức Giêsu lại là những người bị xã hội đương thời xem là ô uế. Nhưng phải chăng đây lại là sáng kiến của Thiên Chúa! Như trong bài Thánh Ca Tin Mừng có lời: Phận nữ tỳ hẹn mọn người đoái thương nhìn đến” (Lc 1,48). Điều này không chỉ đúng với Đức Maria nhưng còn đúng với cả những người khác và như thế, các mục đồng là những người thuộc trường hợp này. Tác giả Luca có ý khi đưa họ vào trong bối cảnh này, để làm nổi bật sự ưu tiên của những con người bị xã hội đương thời bỏ rơi nhưng lại được Thiên Chúa yêu thương. Quả thật, Đức Giêsu là bạn đích thực của những con người nghèo khó, như lời Ngài khẳng định: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20).
Đây phải chăng là trọng tâm trong Tin Mừng Luca, Tin Mừng cho người nghèo. Đối với Luca, người nghèo có một vị trí đặc biệt, tư tưởng này phần nào đối nghịch với Cựu Ước, vì “Trong Cựu Ước sự nghèo khó bị xem là dấu chỉ sự bất bình của Thiên Chúa, nhưng Luca truyền đạt chắc chắn hai cách tin của mình, đó là nghèo khó có thể làm người ta tự do hơn để tận hưởng phúc lành của Thiên Chúa trong Đức Kitô, vẫn đang xoa dịu thân phận của kẻ nghèo khó”[24].
Vậy, chúng ta có thể nói rằng, Đức Giêsu là một con người nghèo, xuất thân từ một gia đình bình thường, sinh ra trong nơi máng cỏ. Cuộc sống ẩn dật của Ngài cũng không có gì đặc biệt, lớn lên tại một vùng quê nhỏ bé hẻo lánh và sống đời làm thợ[25].
Mặt khác, chúng ta không thấy một lời than phiền nào của Thánh Giuse và Đức Maria[26]. Phải chăng hai người cũng muốn chấp nhận phương cách của Đức Giêsu hay cả hai thấy mình không làm được gì hơn trước sự túng nghèo.
Đây là những bước đầu cho các chuỗi những sự kiện về cuộc đời của Đức Giêsu. Ngài đi vào cuộc đời với một cách thức thấp hèn để nhóm lên niềm hy vọng cho những người nghèo đói, bị đàn áp.[27] Trong phần tiếp theo, chúng ta cùng phân tích sự nghèo khó về đời sống và phương thức rao giảng của Ngài.
II. ĐỨC GIÊSU SINH SỐNG VÀ RAO GIẢNG NHƯ MỘT NGƯỜI NGHÈO
Trong phần này, chúng ta khảo sát về cuộc đời và sứ mạng rao giảng của Đức Giêsu. Ngài sống ẩn dật ba mươi năm tại Nazarét, “khi Ngài bắt đầu rao giảng Ngài trạc ba mươi tuổi” (Lc 3,23). Đức Giêsu không chỉ sinh ra trong cảnh khó nghèo mà Ngài còn thể hiện cái nghèo ấy trong cả cách sống và phương thức rao giảng.
1. Không có chỗ tựa đầu (Lc 9,58)
Trong bối cảnh Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, có một người đến thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo”. Người trả lời: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có chổ tựa đầu” (Lc 9,58). Câu trả lời của Đức Giêsu thể hiện tình trạng thiếu thốn, cụm từ “Không có chỗ tựa đầu” còn thể hiện Đức Giêsu không có một nơi nương náu ở trần gian, dù chỉ một điểm tựa để nghỉ ngơi[28]. Mặt khác, Đức Giêsu không có chỗ tựa đầu, vì Ngài không cậy dựa vào bất cứ một thế lực nào, cả về mặt chính trị và tôn giáo. Vì vậy, chúng ta hiểu được lý do tại sao trong phiên tòa kết án Đức Giêsu, Ngài ở thế cô lập (x. Lc 22,66-71). Thế nhưng, qua việc không cậy nhờ vào bất cứ thế lực nào, Đức Giêsu đã hiểu được sự cô thế cô thân khi đồng hóa mình với thân phận những con người hèn mọn[29].
Bên cạnh đó, Đức Giêsu có cuộc sống bấp bênh, nay đây mai đó, một cuộc sống không có sự ổn định về mọi mặt. Với sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu thường xuyên lên đường, Ngài không thể tạo lập cho mình một ngôi nhà để trú ngụ, như ông bà ta thường nói: “An cư lạc nghiệp”, không nhà cửa làm sao có chỗ để thầy trò nghỉ ngơi ít là nghỉ đêm. Trong ý nghĩa này, Đức Giêsu sống đúng với những gì Ngài đã nói với các Tông đồ: “làm thợ thì đáng được trả công” (Lc 10,7). Vì vậy, Đức Giêsu trông chờ vào sự hiếu khách của một vài người quý mến để trọ lại (x. Lc 10,38-42).
Ngoài ra, câu trả lời của Chúa Giêsu: “Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58) có vẻ thách đố con người ở mọi thời khi phải quyết định đi theo Đức Giêsu. “Trong xã hội Do Thái, người học trò chọn một thầy mình muốn theo học, bỏ gia đình hoặc nhiều năm trú ngụ ở nhà thầy, câu trả lời của Đức Giêsu không giống với những kinh sư khác: cuộc sống của Ngài luôn luôn có sự lưu động”[30]. Chúng ta thấy những người thầy dạy võ thường có võ đường để chiêu sinh và các học viên có nơi tập luyện. Tuy nhiên, Đức Giêsu lại trả lời cho những người muốn theo mình với những lời lẽ không một chút hy vọng cho tương lai. Vì vậy, những ai muốn đi theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, hãy sẵn sàng san sẻ cuộc đời của một kẻ vô gia cư, không chắc có một mái nhà để nghỉ đêm[31]. Theo Jung Young Lee: “Cuộc đời công khai rao giảng của Đức Giêsu có thể coi như là một cảnh sống bên lề: Ngài là người vô gia cư giữa nhóm người quanh Ngài cũng vô gia cư”[32].
Quả thật, nếu Đức Giêsu không có sự trải nghiệm nỗi niềm của kẻ không nhà, Ngài thật khó để nói lên sự đồng cảm với họ (x. Lc 21,37). Thật vậy, Đức Giêsu đã chọn phương thế không nhà, không điểm tựa để có được sự đồng cảm với những nghèo, người vô gia cư. Thêm vào đó, chúng ta đừng quên, gia đình Đức Giêsu đã có thời gian sống lưu vong bên Ai Cập (x. Mt 2,14). Ngài đã nếm trải những âu lo và bất ổn với cuộc sống của những người tỵ nạn.
Vậy có thể nói, Đức Giêsu sống cảnh màn trời chiếu đất, đến nỗi không có chỗ để tựa đầu, trở nên một kẻ vô gia cư. Chúng ta thấy rằng, nơi ăn chốn ở là những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống con người, nhưng Đức Giêsu không có đủ Ngài phải tiếp nhận mọi sự từ người khác. Điều này càng chứng minh Đức Giêsu đã tự hạ mình để trở nên một người nghèo thật sự và sống giữa chúng ta.
2. Thiếu phương tiện di chuyển
Tin Mừng Luca không minh nhiên nói đến Đức Giêsu thiếu phương tiện di chuyển. Tuy nhiên dựa vào các đoạn trích sau, chúng ta phần nào có thể hiểu được cách thức di chuyển của Đức Giêsu:
Thứ nhất, Đức Giêsu thường xuyên đi bộ trên hành trình rao giảng của mình, Ngài rảo qua các thành phố, làng mạc (x. Lc 8,1); Đức Giêsu đi đến một thành kia gọi là Nain (x. Lc 7,11); Đức Giêsu cùng đi đường với nhiều người (x.Lc 14,25); Đức Giêsu đi ngang qua các thành thị và làng mạc (x. Lc 13,22); Đức Giêsu đi lên Giêrusalem (x. Lc 9,51; 17,11). Các đoạn trích trên phần nào cho chúng ta thấy Đức Giêsu thường hay đi bộ để rao giảng Tin Mừng.
Tiếp đến, Ngài vào thành Giêrusalem với tư thế của một vị vua hòa bình, Ngài lại cưỡi một con lừa con vẫn còn theo mẹ: “Các ông dắt lừa về cho Đức Giêsu rồi lấy áo choàng của mình phủ trên lưng lừa và giúp Người cưỡi lên” (Lc 19,35). Trong đoạn trích này, tác giả gợi về hình ảnh tiên trưng trong sách Cựu Ước về Vị Vua Công Chính, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa (x. Dcr 9,9; Gr 13,1-13). Bởi lẽ “việc Đức Giêsu cưỡi lừa vào thành là để ứng nghiệm lời ngôn sứ Dacaria, đây là hình ảnh của một vị vua khiêm nhu”[33]. Đức Giêsu đã chọn lựa phương tiện di chuyển khiêm tốn, bối cảnh được dân chúng tung hô: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa” (Lc 19,39). Thêm vào đó, con lừa Ngài cưỡi cũng không phải là sở hữu của Ngài (x. Lc 19,31). Thế nhưng, Đức Giêsu vẫn kiên vững trên con đường mà Ngài đã chọn để có thể tự đồng hóa mình với người nghèo. Điều này giúp chúng ta ý thức rằng, hãy sống khó nghèo trong những lúc thuật tiện và kể cả không thuận tiện (x. 2Tt 4,1). Đức Giáo Hoàng Bênêđictô VI nhận định như sau: “ Đức Giêsu đi vào thành với con lừa được vay mượn, sau đó, Người đã trả lại cho người chủ”[34]. Qua đó, Đức Giêsu cho chúng ta thấy của cải, vật chất là phương tiện[35]. Chính vì lẽ này, Đức Giêsu đã chọn cho mình một các thức thấp hèn nhất để từ nơi cùng khổ đó, Đức Giêsu đã trở nên kiểu mẫu cho chúng ta về đời sống thanh bần.
Cuối cùng, ngoài việc đi bộ, Đức Giêsu còn sử dụng một loại phương tiện khác để di chuyển qua lại giữa các vùng đó là thuyền, vì nó là một phương tiện thông dụng trong thời điểm này. Tuy nhiên, Đức Giêsu không sở hữu cho mình thứ gì. Chiếc thuyền Ngài sử dụng cũng là thuyền của những người khác: “Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simôn” (Lc 5,3). Nếu cuộc sống hằng ngày của Đức Giêsu trông chờ vào sự rộng lòng của nhiều người (x. Lc 8,1-3), thì việc đi lại của Ngài nhờ vào sự giúp đỡ của những người khác cũng là điều hợp lý.
Qua việc chọn cho mình một cách thế không theo cách suy nghĩ hay dự tính của con người, Đức Giêsu chứng thực cho con người mọi thời thấy được rằng vật chất chỉ là phương tiện để giúp con người đạt đến cứu cánh. Quả thật, Ngài không phải muốn chọn lựa những cách thứ khác thường nhưng Ngài muốn sống cùng với những người dưới đáy xã hội, những người thiếu cả những phương tiện tối thiểu để có thể mưu sinh. Vì vậy, Ngài là con người nghèo thật sự nên có thể rao giảng cho mọi người về lối sống nghèo của chính mình cách hiệu quả[36].
3. Ngài và các môn đệ không có của cải (Lc 8,1)
Hằng ngày Đức Giêsu dùng hoàn toàn thời gian của mình để rao giảng Lời Chúa, các môn đệ cũng theo Thầy Đức Giêsu để rao giảng Tin Mừng(x. Lc 18,28). Cuộc đời của Ngài không chú trọng đến của cải vật chất, do đó Ngài đã bị các Pharisêu cười nhạo về thái độ dửng dưng với tiền bạc (x. Lc 16,14). Vì vậy, Đức Giêsu một lần nữa dạy chúng ta đừng quá bám vào của cải, trong mọi sự, chúng ta hãy hướng tới ơn cứu rỗi. Vì lẽ, Đức Giêsu không nhất thiết phải sống trong cảnh cơ cực, khó nghèo[37], nhưng Ngài đã tự nguyện chọn cách thức nghèo như một phương thế hữu hiệu để đến cư ngụ giữa chúng ta.
Phần khác, Đức Giêsu trở nên vô sản không chỉ để có cuộc sống nghèo nhưng còn là một lối sống triệt để vì Tin Mừng. Đây chính là điều Ngài đã và đang rao giảng. Công cuộc rao giảng Tin Mừng là mệnh lệnh có tính cấp bách (x. Lc 10,4b). Khi ra đi rao giảng, Người truyền cho các ông: “Đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc” (Lc 9,2) và “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giầy dép” (Lc 10,4a). Đây thật sự là tinh thần khó nghèo mà Đức Giêsu mong muốn các môn đệ của Ngài hãy luôn sống tinh thần này.
Trong cuộc đời của mình, Ngài không lo tích trữ cho mình thứ gì (x. Lc 12,22): Ngài thiếu phương tiện (Lc 5,3), không sở hữu tài sản. Tin Mừng Luca trình thuật cho chúng ta rõ điều này: “Khi ấy, Đức Giêsu rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy quỷ, bà Gioanna vợ của Chúa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Người (Lc 8,13). Qua việc cần sự giúp đỡ của nhiều người chứng tỏ Đức Giêsu không phải là người giàu có.
Nếu thánh Mátthêu trình bày lời giảng dạy của Đức Giêsu về sự nghèo khó với tính cách tinh thần “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó vì Nước Trời là của của họ” (Mt 5,3), thì thánh Luca lại hiện thực hóa bằng việc từ bỏ của cải vật chất “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó” (Lc 6,20). Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ chú giải như sau: “Nghèo khó ở đây trước hết là nghèo tiền nghèo của, khác với Tin Mừng Mátthiêu nghèo trong lòng. Đức Giêsu thường tỏ ra lưu tâm đến những người này vì Ngài cũng sinh ra trong điều kiện như họ”[38]. Đức Giêsu sử dụng từ “anh em” là các môn đệ đang ở gần với Ngài, chính các môn đệ được là những người được nghe Lời Thiên Chúa đầu tiên. Bên cạnh đó: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” được Đức Cha Vũ Văn Thiên diễn giải như sau: “Đức Giêsu nghèo khó để đến với người nghèo. Đối tượng quan tâm của Người trước hết là những người nghèo về vật chất như những người ăn xin, những người bệnh tật. Đó cũng là những người nghèo vì nỗi khổ đau đang cắn rứt lương tâm, như các tội nhân, những cô gái điếm và người thu thuế. Họ còn là người nghèo vì đang oằn lưng đau đớn trước gánh nặng cuộc đời, như người mù bẩm sinh hay người đàn bà góa có con trai duy nhất vừa chết. Sau cùng, họ là những người nghèo do đời sống ích kỷ, khô cằn, khép kín lòng từ tâm đối với anh chị em mình như những người biệt phái, luật sĩ. Đức Giêsu gặp gỡ mọi người để nói với họ về triết lý sống nghèo”[39].
4. Sống gần gũi với những người nghèo ( Lc 2,41; 9,10)
Sứ vụ của Đức Giêsu theo Tin Mừng Luca là: loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn… Công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa (Lc 4,18). Đây là bài giảng đầu tiên cho sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Từ đó, chúng ta thấy sứ điệp lời rao giảng của Đức Giêsu chú ý nhiều đến người nghèo và những người bị bỏ rơi và bị loại trừ.[40] Ngài có lối sống khác với những người lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, họ luôn có những khoảng cách với những người nghèo. Trong buổi tiếp kiến sáng thứ tư ngày 19/08/2020, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh: “Đây không phải là một lựa chọn chính trị; cũng không phải là lựa chọn lý tưởng, hay lựa chọn đảng phái. Lựa chọn ưu tiên cho người nghèo nằm ở trung tâm của Tin Mừng. Và người đầu tiên thực hiện lựa chọn này chính là Chúa Giê-su; chúng ta đã nghe về điều này trong đoạn thư gửi các tín hữu Côrintô (x. 2Cr 8,9). Chính ngài, Đấng giàu có, đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu có. Ngài làm vì mỗi người chúng ta và do đó, ở trung tâm của Tin Mừng, ở trung tâm lời rao giảng của Chúa Giê-su, có chọn lựa này”[41]. Quả thật, Đức Giêsu có một lối sống bình dị với hết mọi người: Ngài chưa bao giờ tỏ ra mình hơn người, tỏ thái độ khinh thường những người nghèo khổ (x. Lc 21,1-3) hay những người bị gạt ra ngoài lề xã hội (x. Lc 7,36). Trong công cuộc đi rao giảng Ngài đã tìm mọi dịp gần gũi, trở nên bạn hữu với những người nghèo khổ và những người bị xã hội xem là những kẻ sống ngoài lề [42]. Đã nhiều lần trong các bài giảng, các phép lạ Ngài lên tiếng bênh vực những người thấp cổ bé họng trong xã hội Do Thái (x. Lc 18,14; Lc 5,31-32).
Đồng hóa mình với người khác là trở nên giống như họ và phải bắt đầu bằng việc quên đi chính mình. Thêm vào đó, chúng ta cần có việc xóa bỏ định kiến những người chúng ta đang tiếp xúc là ai và họ sẽ như thế nào. Nhờ có những trải nghiệm về sự nghèo khó, Đức Giêsu đã thành công trong việc xây dựng các mối tương quan với những người nghèo. Ngài kết thân với họ nhất là những người bên lề[43], thông cảm với những nỗi thấp hèn của họ. Chính vì thế, lời rao giảng của Đức Giêsu mang tính cách thực nghiệm hơn là những lời nói từ sự suy lý. Qua đó, Ngài có sự đồng cảm với những khó nhọc nơi thân phận của những người nghèo khổ. Vì vậy, mỗi lần chúng ta thực thi bác ái với những người nghèo khổ, người cần sự giúp đỡ, là chúng ta đang làm cho Đức Kitô (x. Lc 10,37). Thánh Vinh Sơn Phaolô, sau khi đã một đời phục vụ những người nghèo đã nói với các thành viên của Tu Hội Truyền Giáo rằng: “Bằng cách phục vụ người nghèo, chúng ta phục vụ Đức Giêsu Kitô” (SV. IX, 199)[44]. Trong Tin Mừng Mátthêu cũng có đoạn tương tự diễn tả chủ đề này: “Ðể đáp lại, Ðức Chúa sẽ bảo họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”(Mt 25,40).
5. Đức Giêsu suy nghĩ và hành động như người nghèo
Chủ đề về sự nghèo khó luôn được Đức Giêsu nói đến, Ngài xem đó là một mối phúc “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Nghèo khó là yếu tố nền tảng cho những công dân Nước Trời mà Đức Giêsu đã trở thành kiểu mẫu, những công dân Nước Trời là những người nghèo của ân sủng[45]. Vì đã trở nên một con người của sự nghèo khó đích thực, nên những hành động và suy tư của Đức Giêsu mang dáng vẻ của một người nghèo.
5.1. Thường dùng những hình ảnh bình dân khi kể dụ ngôn (Lc 6,43; 8,4; 13,6)
Đức Giêsu là một người có khả năng sư phạm, Ngài hiểu rõ thính giả của mình là những người nghèo, ít học. Chính vì thế, bài giảng của Ngài luôn rất bình dân và luôn có những hình ảnh cụ thể để minh họa cho mọi người dễ hiểu. Chúng ta biết rằng, thính giả của Đức Giêsu phần đông là những nông dân, tầng lớp ít học. Theo cha Nguyễn Quang Thanh: “Thời Đức Giêsu, dân chúng đa số là nông dân, thợ thủ công hay tiểu thương. Có nghề bị coi là ô uế như: nghề thuộc da, nghề thu thuế”[46]. Chính vì vậy, lời giảng dạy của Đức Giêsu cần có sự gần gũi, đồng cảm với những con người thời đó. Chúng ta hãy điểm qua một vài dụ ngôn, để thấy Người đã dùng những hình ảnh rất thực tế, bình dân khi diễn tả một dụ ngôn cho dân chúng.
Khi Ngài nói với dân chúng về những quy luật của cuộc sống, Đức Giêsu đã dùng hình ảnh so sánh rất cụ thể: “Mù mà lại dắt mù được sao, lẽ nào cả hai không sa xuống hố” (Lc 6,39); hay câu khác: “Không có cây nào tốt mà lại sinh quả sâu, cũng chẳng có cây nào sâu mà lại sinh quả tốt” (Lc 6,43).
Còn khi dạy dân chúng đừng xét đoán người khác, Ngài lại nói: “Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt mình thì lại không để ý tới, Sao anh lại có thể nói với người anh em: Này anh hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt anh ra, trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con mắt mình” (Lc 6,41- 42).
Khi giảng dạy cho các môn đệ hiểu về người môn đệ chân thực, Ngài đã nói: “Ai đến với Thầy, và nghe những lời Thầy dạy mà đem ra thực hành, thì Thầy sẽ chỉ cho anh em biết người ấy ví được như ai. Người ấy được ví như một người khi xây nhà, đã cuốc, đã đào sâu và đặt nền móng trên đá. Nước lụt có dâng lên, dòng sông có ùa vào nhà, thì cũng không lay chuyển nổi, vì nhà đã được vững chắc. Còn ai nghe mà không chịu thực hành, thì ví được như người xây nhà ngay trên mặt đất, không nền móng. Nước sông ùa vào, nhà sụp đổ ngay và bị phá hủy tan tành” (Lc 6,47-49). Một dụ ngôn khác, cũng để nói về những người lắng nghe Lời của Chúa: “Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm” (Lc 8,5-8).
Khi Đức Giêsu dạy các môn đệ phải có đời sống gương mẫu Ngài dùng hình ảnh cái đèn: “Không ai thắp đèn rồi lấy hũ che lại, hay đặt dưới gầm giường: nhưng đặt nó trên giá đèn, để những ai đi vào đều thấy ánh sáng. Vì chẳng có gì kín nhiệm mà không bị tỏ ra, và không có gì ẩn giấu mà không bị lộ ra cho người ta biết. Vậy các ngươi hãy ý tứ xem các ngươi nghe thế nào! Vì ai có, sẽ được cho thêm; còn ai không có, cả điều mình tưởng có cũng sẽ bị lấy đi” (Lc 8,16-18).
Khi nâng đỡ những người tội lỗi, Đức Giêsu nói: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” ( Lc 5,31-32).
Qua các dụ ngôn trên, Luca trình bày một chuỗi những lời dạy bảo của Đức Giêsu cho những ai đi theo Ngài. Các lời dạy bảo đều hướng đến những vấn đề thiết thực cho cuộc sống.
Mỗi dụ ngôn Đức Giêsu sử dụng luôn gắn liền với cuộc sống con người và kinh nghiệm thực tế của Ngài đã trải qua. Cha Phó Đức Giang có lời nhận định như sau: “Đức Giêsu là con người bình thường đã từng bước đi trên những ngọn đồi chập chùng, thung lũng quanh co và sa mạc nóng cháy. Ngài đã quá quen thuộc với từng ngọn cây, lá cỏ, chim muông, thú vật đang cấu thành nên quê cha đất tổ của mình. Từ lúc được hạ sinh đến khi lìa thế, Ngài được khuôn đúc bởi hoa trái, khí trời, suối nguồn của quê hương và chúng sẽ xuất hiện trong sứ vụ rao giảng của mình”[47]. Việc rao giảng của Đức Giêsu phản ảnh chân thực về cuộc đời của Ngài với những hình ảnh cụ thể, và bằng phương thế trực quan sinh động dựa trên những hình ảnh của thiên nhiên: như hạt giống, bụi cây, cái xà, cái đèn…Vì vậy, việc Đức Giêsu không sống trong cung điện giàu sang, cho phép Ngài hòa mình với vạn vật để lắng nghe những chuyện động của thiên nhiên vũ trụ, mọi thứ xung quanh đều được Ngài nói đến trong các bài giảng. “Thế giới vạn vật với tất cả vẻ đẹp rực rỡ huy hoàng của chúng xuất hiện cách tự nhiên và quy tụ hài hòa trong lời rao giảng nước trời của Đức Giêsu”[48].
Chỉ khi chọn cho mình một cách sống đơn giản, Đức Giêsu mới có thể hòa mình với thiên nhiên vũ trụ. Qua cách sống nghèo-giản dị, Ngài không chỉ có sự hòa nhịp với đất trời mà còn hòa nhịp với cuộc sống nơi những con người sớm hôm với vườn nho, với đàn gia súc. Cuộc sống của Đức Giêsu luôn có sự khiêm nhường và tâm hồn thanh khiết với những người Ngài tiếp xúc[49].
5.2. Hành xử theo cách thức người nghèo
Trong việc rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu luôn giảng dạy tại những nơi rất bình thường. Khi giảng dạy cho dân chúng nghe về Tám Mối Phúc Ngài đã chọn một nơi đất bằng, “Đức Giêsu đi xuống cùng với các ông, Người dừng lại ở một chổ đất bằng” (Lc 6,17). Ngài có thể giảng ở bất cứ nói đâu mà Ngài cho là thuận tiện với người nghe, Ngài không chủ động để chọn nơi giảng. Từ việc giảng dạy trong hội đường, trên thuyền, trên núi, trên đường đi…, đây là những cách thức khác biệt của Đức Giêsu với các kinh sư. Thời Đức Giêsu, các Rapbi thường đọc Kinh Thánh, giảng dạy trong hội đường[50]. Đối với Đức Giêsu, Ngài chọn lựa mọi phương thế để dễ dàng rao giảng Tin Mừng cho mọi người, để Tin Mừng được phát sinh hiệu quả tốt nhất.
Ngài chọn lựa những người đồng hành với mình là những con người bình thường trong xã hội (Lc 6,12-16). Khi Ngài kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên, họ là những người làm nghề đánh cá (Lc 5,1-11), một nghề bình thường, thậm chí Ngài còn gọi Lê-vi, một người làm nghề thu thuế, một nghề bị xã hội coi thường. Phương cách mà Ngài chọn các môn đệ cho thấy Ngài luôn lựa chọn những con người nghèo. Qua việc kêu gọi các môn đệ để họ sống theo phương thế nghèo, Ngài đã nêu gương trước để chính họ cũng biết từ bỏ của cải[51].
Người nghèo là hệ quả của hệ thống xã hội giai cấp, “vào thời Babylon chiếm Giuđa, có tới chín mươi phần trăm người Giuđa thuộc thành phần nghèo khổ”[52]. Họ là nạn nhân của các hình thức: bị bóc lột về mặt kinh tế, bị áp bức bởi các chủ nghĩa văn hóa hay bị tôn giáo loại bỏ. Chính khi Đức Giêsu tự đồng hóa mình với những con người đó, Ngài cũng bị xã hội đương thời liệt vào những kẻ bị loại trừ, bị mang tiếng xấu[53]. Chung Hyun Kyung còn đi sâu hơn khi ông phác họa bức chân dung của Đức Giêsu được đồng hóa với một tiện dân sống giữa các tiện dân khác[54]. Ngài muốn trải nghiệm cuộc sống của con người, để hiểu rõ những vất vả, vấn nạn của con người. Chính vì thế, Ngài đã trải qua cuộc sống ở thế gian này ba mươi ba năm để sống và rao giảng giữa chúng ta[55].
Khi nhìn tổng quan về đời sống của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng Ngài đã tự đồng hóa chính mình với những người nghèo ngang qua cách sống và cách rao giảng Tin Mừng. Cuộc đời của Đức Giêsu luôn chứng thực những gì Ngài đã rao giảng. Và những người đi theo Đức Giêsu đầu tiên đã hiểu rõ về sự nghèo khó như là điều kiện cần cho cuộc gặp gỡ Thiên Chúa[56].
Đức Giêsu đã chọn lối sống bình dị để có thể đến với những người bần cùng của xã hội. Các mối tương quan thân mật gần gũi của Đức Giêsu thể hiện nơi sự dấn thân của Ngài với những người xung quanh. Các phép lạ Ngài thực hiện, đặc biệt trước những kẻ tội lỗi, người nghèo, người bị gạt ra ngoài lề, người bệnh tật và những người đau khổ. Tất cả đã hình thành một ý hướng mới tích cực cho những người tiếp cận Ngài, một sự thân thiện, cảm thông, hoàn toàn khác biệt so với các vị lãnh đạo tôn giáo thời đó. Với nhãn quan Châu Á, nhà thần học Aloysius Pieris đã nhận định: “Đức Giêsu là một nhà tu hành khó nghèo”[57]. Khi những người đau khổ tiếp xúc với Đức Giêsu, dường như họ cảm nhận được Ngài đang đau với nỗi đau của họ. Đức Giêsu không chỉ ban phép lạ nhưng còn ban cho họ con người của Ngài. Qua sự hòa mình với những nỗi thống khổ đó, chính Ngài cũng học được bài học về sự vâng phục. Đồng thời qua sự đồng hóa mình với người nghèo, Đức Giêsu đã công bố cho nhân loại sự đảo ngược những quan điểm của con người.[58]
III. ĐỨC GIÊSU HẠ MÌNH PHỤC VỤ NHƯ MỘT NGƯỜI NGHÈO
Trong phần trước, chúng ta đã nhìn thấy khuôn mặt nơi Đức Giêsu, một con người tự đồng hóa chính mình bằng lối sống và cách thức rao giảng của người nghèo. Phần này, chúng ta cùng tìm hiểu con người Đức Giêsu qua cách thức hạ mình để phục vụ người khác như một người nghèo. Quả thật, Đức Giêsu không chỉ dừng lại bằng lời nói nhưng còn thể hiện qua hành động cụ thể.
1. Tự nhận mình là người phục vụ ( Lc 22,27)
Trong lúc các môn đệ tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ rằng: “Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,27). Trong xã hội Do Thái những người được gọi là Rapbi có địa vị nhất định, và thường được mọi người xem trọng (x. Lc 18,18; 8,41). Mặt khác “Phúc Âm trình bày Đức Giêsu như là một Rapbbi rất thông thạo Kinh Thánh”[59]. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã từ bỏ những vinh dự đó để đến với những con người bé nhỏ.
Mặt khác, dù được mọi người kính trọng nhưng Đức Giêsu không xem đó là điều cần thiết cho sứ vụ của mình. Đức Giêsu không đến với các môn đệ trong tư cách là người để được phục vụ nhưng đến trong tư thế là người phục vụ kẻ khác (x. Mt 20,26-28). Đức Giêsu đã tự đồng hóa mình với những người phục vụ xuất phát từ sự tự do của Ngài. Qua việc đồng hóa mình như một người tôi tớ, Đức Giêsu không chỉ làm thay đổi quan niệm của người đương thời về tinh thần phục vụ của người làm lớn nhưng đồng thời Ngài cũng muốn nâng địa vị của con người lên một vị thế mới. Vì lẽ đó, việc Đức Giêsu tự đồng hóa mình với người nghèo không phải là một hình thức làm giảm vị thế của một người thầy nhưng Ngài muốn cho mọi người có sự bình đẳng về nhân vị.
Việc Đức Giêsu tự nhận mình là người phục vụ không chỉ để nêu gương nhưng đồng thời đây còn là một quy luật cho cuộc đời phục vụ. William Barclay chú thích như sau: “Chỉ người nào bằng lòng phục vụ nhiều hơn kẻ khác mới thực sự ở chỗ cao trọng. Một quy luật của đời sống là phục vụ dẫn đến vinh quang. Người nào càng lên cao thì càng phải phục vụ nhiều”[60]. Thánh Vinh Sơn Phaolô cũng đã khẳng định: “Không có cách nào tốt hơn to đảm bảo hạnh phúc đời đời của chúng ta hơn là sống và chết trong việc phục vụ người nghèo, trong vòng tay của Chúa quan phòng, và từ bỏ mình thực sự bằng việc bước theo Đức Kitô” (CED III, 392)[61]. Cha Robert P. Maloney nói thêm trong một bài viết của mình rằng: “Chúa Giêsu rạng ngời niềm vui như một tôi tớ. Người nói với chúng ta rằng “cho thì có phúc hơn nhận” (Cv 10,35)[62]. Qua việc Đức Giêsu có được niềm vui trong việc phục vụ, chứng tỏ Ngài đã tự nguyện nhận mình là một tôi tớ (x. Is 42,1-4).
Qua sự hạ mình như một người nghèo, Đức Giêsu chỉ cho các môn đệ nhận ra con đường đi đến với Thiên Chúa. Quả thực “Tình yêu phục vụ của Đức Giêsu giúp chúng ta bước ra khỏi tính tự kiêu và làm cho chúng ta thanh sạch trước mặt Thiên Chúa”[63]. Đấng không muốn duy trì uy quyền trên người khác nhưng Ngài đã tự nhận mình là người phục vụ. Đấng được nhiều người đương thời xem trọng (x.Lc 8,41; 10, 25) nhưng nay vì muốn nâng những con người thấp cổ bé họng lên địa vị mới nên đã tự hạ mình.
2. Phục vụ các môn đệ (Lc 9,48; 22,24-26)
Trong lúc, các môn đệ con đang tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất. Đức Giêsu biết điều các ông đang suy nghĩ trong lòng, Ngài mang một em nhỏ đặt bên cạnh mình và nói với các ông: “Ai tiếp đón em nhỏ này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, là tiếp đón Đấng đã sai Thầy” (Lc 9,47-48a). Hành trình dương thế của các Tông đồ không tránh khỏi những tranh dành quyền lực. Vì vậy, Đức Giêsu đã nêu gương cho các ông về tinh thần hạ mình để phục vụ người khác. Như chúng ta được biết trẻ nhỏ trong xã hội Do Thái được xem là người có vị thế không đang kể, nhưng Đức Giêsu đã tự đồng hóa mình như một em nhỏ.
Sau lời giáo huấn trên, Đức Giêsu còn nói tiếp: “Thật vậy, ai là người nhỏ nhất trong anh em, thì kẻ ấy là người lớn nhất” (Lc 9, 48b). Khi dạy các môn đệ về tình thần tự hiến trong phục vụ, Đức Giêsu thay đổi cái nhìn nơi các Tông đồ về người thầy trong truyền thống. Đối với quan điểm của Đức Giêsu, quyền bính là phục vụ kẻ khác.
Dường như các môn đệ không hiểu được những gì Đức Giêsu đã nói trước đó về sứ vụ của Ngài. Các ông vẫn còn thích quyền lực, danh dự. Chúng ta thấy rõ nhất qua việc “Các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong nhóm được coi là người lớn nhất. Đức Giê-su bảo các ông: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,24-26). Đức Giêsu tiếp tục làm sáng tỏ sứ vụ của mình cho các môn đệ hiểu: Ngài đến không phải để được phục vụ, nhưng Ngài đến với tư cách người phục vụ mọi người (x. Mc 10,44-45).
Quả thật, Đức Giêsu đã xuống đến nơi sâu nhất của nhân loại để có thể đến với con người. Chính qua cách hành xử của Đức Giêsu giúp chúng ta nhận ra mối tương quan của Đức Giêsu với các Tông đồ, đó cũng chính là mối tương quan cá vị của chính chúng ta với Đức Giêsu.
Đỉnh cao của việc phục vụ là việc Đức Giêsu đã tự hiến chính mình vì chúng ta “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em” (Lc 22,19; 1Cr 11,24), hành động tự hiến đó của Đức Giêsu thể hiện tinh thần phục vụ cho kẻ khác đến cùng.
3. Chữa trị cho các bệnh nhân theo cách người nghèo
Khác với những vị lương y thời bấy giờ, Đức Giêsu chữa bệnh với một cách thức hoàn toàn khác biệt. Chúng ta cũng lượt qua một vài cách thức Đức Giêsu đã sử dụng: “Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến khỏi bà” (Lc 4,39) “Anh giơ tay ra” (Lc 6,10) với suy nghĩ đơn sơ để chữa trị cách thức thật đơn giản, Đức Giêsu không cần phải bắt mạch hay kê toa thuốc, nhưng hiệu quả tức thì. Ngài cũng không cần gặp bệnh nhân (Lc 7,4) hay chỉ cần đụng hay đặt tay trên các bệnh nhân (Lc 7,14; 13,12) một cách thức khác Ngài chỉ dùng lời nói (Lc 17,11).
Trong một xã hội người ta dễ dàng tin có sự liên hệ giữa tội lỗi với bệnh tật nghèo đói. Đức Giêsu chữa cho họ phần nào giải thoát họ khỏi sự giam cầm[64]. Ngài chữa lành cho họ theo cách thức người nghèo, Ngài không đòi hỏi họ điều gì về vật chất, họ không cần phải làm gì. Vì xuất thân từ gia đình nghèo, nên Đức Giêsu có sự đồng cảm với những con người có hoàn cảnh giống như Ngài.
Chúng ta nhận thấy Đức Giêsu chữa bệnh với cách thức của một người nghèo: Ngài không có cơ sở, không có bản hiệu đặc biệt Ngài cũng không có dụng cụ y tế, Ngài chữa bệnh miễn phí. Tuy nhiên, Ngài không chỉ chữa cho những người nghèo khổ mà còn chữa bệnh cho những người giàu có. Chúng ta thấy cuộc sống của “Ngài gần gũi với dân chúng khá hiển nhiên cách đặc biệt trong nhiều câu chuyện chữa lành”[65]. Ngài đã đến với những con người bệnh tật với một sự ân cần.
Chúa Giêsu đã muốn sống sự nghèo khó triệt để, từ đó Ngài chứng thực sự cho mọi người biết thân phận phàm nhân của mình. Đồng thời Ngài đã chọn lựa như thế vì yêu thương và muốn liên đới với đời sống con người. Theo trình thuật trong sách Kinh Thánh thuật, Đức Giêsu không thuộc giai cấp bần cùng nhất của xã hội thời Người, không là người cùng khốn và chưa bao giờ được gọi là một người khốn khổ về phương diện xã hội. Ngài thuộc một gia đình làm nghề thủ công, con của một bác thợ mộc (x. Mt 13,55) có khả năng với nghề nghiệp, bảo đảm nuôi sống gia đình ở mức sống trung bình[66].
Để tóm kết chúng ta tự hỏi, Đức Giêsu có cần phải hạ mình phục vụ như một người nghèo hay không? Quả thực Đức Giêsu không có sự giả vờ để hạ mình phục vụ với tư cách là người nghèo. Khi Đức Giêsu hạ mình để phục vụ, Ngài mong muốn nâng phẩm giá của con người lên. Đặc biệt nơi những người nghèo, những người bị xem thường: những người thu thuế, tội lỗi, những cô gái điếm… Khi đồng bàn với ai là chúng ta ngang hàng với những người đó. Nhưng Đức Giêsu đi xa hơn những gì chúng ta nghĩ, Ngài đã xuống thấp nhất để nâng nhân vị của chúng ta cũng ngang bằng với Ngài. Đây là một cuộc cách mạng, với tư cách là người thầy trong xã hội Do Thái, Đức Giêsu đã hạ mình không chỉ với các môn đệ nhưng còn tỏ ra khiêm hạ với những người khác. Quả thực chính trong sự khác biệt về lới nói và hành động của Đức Giêsu, Ngài chứng thực mình là bạn của những kẻ nghèo để sẵn sàng phục vụ họ.
VI. ĐỨC GIÊSU BỊ KẾT ÁN VÀ CHỊU CHẾT NHƯ MỘT NGƯỜI NGHÈO
Trong phần trước chúng ta đã khảo sát khuôn mặt của Đức Giêsu, Người đã tự nhận mình là người phục vụ kẻ khác theo cách thức nghèo khó. Trong phần cuối này, chúng ta cũng chiêm ngắm Đấng đã tự động hóa mình với những con người nghèo khổ đã bị kết án, bị loại trừ và Ngài chết không khác chi một kẻ nghèo hèn.
1. Không ai đứng ra bênh đỡ
Tin Mừng Luca trình thuật lại việc xét xử Đức Giêsu như sau: “Toàn thể cử tọa đứng lên, điệu Đức Giêsu đến ông Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng: “Chúng tôi đã phát giác ra tên này sách động dân tộc chúng tôi, và ngăn cản dân chúng nộp thuế cho hoàng đế Xêda, lại còn xưng mình là Mêsia, là Vua nữa”. Ông Philatô hỏi Người: “Ông là Vua dân Do Thái sao?” Người trả lời: “Chính Ngài nói đó”. Ông Philatô nói với các thượng tế và đám đông: “Ta xét thấy người này không có tội gì”. Nhưng họ cứ khăng khăng nói: “Hắn đã xúi dân nổi loạn, đi giảng dạy khắp vùng Giuđê, bắt đầu từ Galilê cho đến đây”. Nghe nói thế, ông Philatô liền hỏi xem đương sự có phải là người Galilê không. Và khi biết Người thuôc thẩm quyền vua Hêrôđê, ông liền cho gửi Người đến vua Hêrôđê, lúc ấy đang có mặt tại Giêrusalem” (Lc 23,1-6).
Trong phiên tòa xét xử Đức Giêsu, Ngài bị các thế lực chống đối tứ phía bủa vây, không một ai đứng ra biện hộ cho Ngài trước mặt Philatô (x. Tv 21,17). Dân chúng tố cáo Đức Giêsu với hai tội danh: Thứ nhất, trước mặt thượng hội đồng họ tố cáo Ngài tội phạm thượng (x. Lc 22,70-71); nhưng trước mặt Philatô, Đức Giêsu bị vu cáo tội nổi loạn (x. Lc 23,2). Đây là cuộc xét xử bất công: những lời tố cáo Đức Giêsu không có sự đồng nhất; không nghe lời biện hộ của Đức Giêsu (x. Lc 23,9). Bên cạnh đó, Đức Giêsu không phải con người chống lại Đế Quốc[67], khác với những gì các thủ lãnh tố cáo Ngài trước mặt Philatô. Ngài luôn chấp hành luật của Đế Quốc trong việc đóng thuế (x. Lc 20,20-26).
Về điều này Phaolô đã cảm nghiệm được sự cực hình của Đức Giêsu phải chịu, thánh nhân thấy mình bị đặt vào hàng chót, bị kết án tử và trở thành trò cười cho thế gian, vô gia cư, bị chửi rủa, bị khinh khi (x. 1Cr 4,9-12). Qua kinh nghiệm của mình, ông nhận ra sự khốn cùng nơi Đức Giêusu trước tòa xét xử như một kẻ bị gạt ra bệnh lề, một kẻ cần bị loại trừ (Ga 11,50), bị “ mọi người đều chống lại Đức Giêsu và không ai lên tiếng để bênh vực Người”[68].
Khi đồng hàng với những con người cô độc, Đức Giêsu đã hiểu được sự cô thế cô thân trong thân phận kẻ thấp hèn[69]. Đức Giáo hoàng Bênêđictô VI nhận định vấn đề này như sau: “Những người nhiệt thành với Đức Giêsu không có mặt nơi xử án, vì sợ. Họ vắng mặt, vì không xuất hiện như quần chúng”[70]. Người nghèo luôn là những người bị thế cô lập về mọi phương diện, họ không có sự giúp sức của một ai, đúng hơn không người nào đứng ra bênh đỡ cho quyền lợi của họ. Điều này lại càng chứng minh Ngài không cậy nhờ vào bất cứ thế lực nào ở trần gian này để tôn vinh chính minh hay để củng cố cho Lời giảng dạy của Ngài.
2. Bị bán như một tên nô lệ, bị xem như tên phạm pháp (22,3)
Đức Giêsu biết rõ một người trong nhóm Mười Hai phản bội, Tin Mừng Luca trình thuật“Xa-tan đã nhập vào Giuđa, cũng gọi là Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn đi nói chuyện với các thượng tế và lãnh binh Đền Thờ về cách thức nộp Người cho họ. Họ rất mừng và đồng ý sẽ cho hắn tiền. Hắn ưng thuận và tìm dịp tiện để nộp Đức Giê-su cho họ, lúc không có đám đông” (Lc 22,3-6). Đây là điều đau khổ nhất của Đức Giêsu, đúng như lời vịnh gia “Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con” (Tv 41,10).
Giuđa kẻ phản bội biết rõ nơi ở của Đức Giêsu và các môn đệ vì vậy: “Người còn đang nói, thì một đám đông xuất hiện, và kẻ dẫn đầu tên là Giuđa, một người trong Nhóm Mười Hai. Hắn lại gần Đức Giêsu để hôn Người. Đức Giêsu bảo hắn:“Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22,47-48). Đức Giêsu bị ngay chính người trong nhóm Mười Hai phản bội, một sự thất vọng. Ngài đã đồng hóa mình với một người nô lệ bị người khác trao đổi chỉ với ba mươi đồng bạc (x. Mt 26,15). Theo như chú giải ba mươi đồng bạc là giá của một tên nô lệ theo luật đã định (Xh 21,32). Các thủ lãnh Do Thái khó có thể xác định chính xác nơi chốn của Đức Giêsu, nhưng họ đã thực hiện được âm mưu này nhờ vào sự chỉ điểm của Giuđa (x. Lc 22,47). Tuy nhiên, sự chọn lựa của Đức Giêsu minh chứng tình yêu của Ngài trên những kẻ khốn cùng qua việc Ngài tự hạ chính mình xuống hàng nô lệ.
Không chỉ bị bán như tên nô lệ, Đức Giêsu còn bị liệt vào số những kẻ phạm pháp như lời Kinh Thánh đã chép:“Người bị liệt vào hàng phạm pháp” (Lc 22,37). Đức Giêsu là hình ảnh của Người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa (Is 53,12) bị liệt vào hàng phạm pháp. Đức Giêsu nói với những kẻ đến bắt Ngài: “Tôi là một tên cướp sao mà các ông đem gươm giáo, gậy gộc đến?” (Lc 22,52b). Quả thực Ngài đã bị đối xử như thế: “Ngài bị kết án và bị đóng đinh trên thập giá cùng với hai tên trộm cướp. Ngài bị liệt vào hàng phạm pháp”[71]. Qua việc bị đồng hàng với bọn cướp, Đức Giêsu đã đi xuống đến mức tận cùng thân phận con người phải chịu. Một tên tù nhân, mất hết quyền tự do, quyền lợi phải có nơi một con người được thường hưởng. Nhưng “Bấy giờ Người ở trong tay chúng, Người trở thành trò chơi để chế nhạo, để cho Người thấy sức lực của họ; có thể họ trút lên đầu Người tất cả những cơn giận dữ đối với những người nắm quyền hành”[72].
Vậy khi bị bán như một tên nộ lệ, Đức Giêsu biểu lộ sự khiêm hạ và nghèo hèn nơi chính mình. Vì Ngài đã tự xem mình như một tên nô lệ nên mới bị người khác bán rẻ.
3. Chết trận trụi trên thánh giá
Trình thuật Tin Mừng Luca kể lại sự kiện này như sau:“Khi đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giê-su cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Rồi họ lấy áo của Người chia ra mà bắt thăm” (Lc 23,33-34). Ngài chết để minh chứng cho con người thấy không có tình yêu nào vĩ đại hơn tình yêu chết vì những người mình yêu mến.
Cái chết của Đức Giêsu chứng thực sự đồng hòa của Ngài với thân phận những người nghèo đi đến cái chóp đỉnh của nó. Ngài chết trong thân phận của một người nghèo, không một tấm vải che thân. Mặc khác, cái chết của Đức Giêsu không chỉ chứng minh Ngài là con người thật nhưng đồng thời cũng làm rõ nét sự đồng hóa của chính Ngài với những nỗi khổ đau của kiếp người. Cái chết của như một sự dữ khốn cùng sau hết mà mỗi con người phải trải qua, điều đó nói lên tính nhân loại của Đức Giêsu.
Bênh cạnh đó, cái chết trận trụi trên cây thập giá còn nói lên Đức Giêsu cùng bị đồng hàng với lớp người chịu đóng đinh, vì vậy có thể nói Đức Giêsu. Một số nhà thần học châu Á có nhận định về vấn đề này như sau: “Đức Giêsu là lớp người bị đóng đinh, Giêsu có nghĩa là dân chúng bị đóng đinh. Biết về Đức Giêsu là biết về lớp người bị đóng đinh…Dân chúng tôi muốn nói ở đây là những người nam, người nữ, những trẻ em bị bóc lột về mặt kinh tế, bị áp bức về mặt chính trị, bị xa lánh ghét bỏ về mặt văn hóa và tôn giáo, bị kỳ thị về mặt giới tính, chủng tộc hoặc giai cấp xã hội, trong thời Đức Giêsu cũng như hiện nay và trong tương lai”[73].
Trên thập giá, Đức Giêsu được giới thiệu mình như một người nghèo đúng nghĩa: Người không mảnh vải che thân, người thân kẻ nghĩa xa lánh và chạy trốn. Phêrô, người được đặt làm tông đồ trưởng cũng chối Thầy vì sợ hãi. Người-Nghèo-Giêsu trên thập giá còn mất hết cả danh dự, bị sỉ nhục phỉ báng chê bai, chết như phường trộm cắp. “Người chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn. Dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích” (Is 53,2). Trên cây thập giá, Đức Giêsu đã đọc lời cầu nguyện của người đau khổ được ghi, như Thánh vịnh 21: “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?” Điều này diễn tả tâm trạng của một người bất hạnh, con người cảm thấy ngay cả Thiên Chúa cũng bỏ rơi mình trong lúc cô đơn[74].
Cái chết trần trụi của Ngài thể hiện sự từ bỏ tận cùng và phục vụ kẻ khác quên mình đến hy sinh tính mạng vì bạn hữu. Điều này đã được Phaolô cảm nhận khi nói: “Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta vốn giàu sang phú quý, nhưng đã trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8,9). Quả thật, Đức Giêsu không nhất thiết phải sống và chết theo cách thức như thế nhưng Ngài muốn nên giống chúng ta về mọi phương diện, và “Như thế, Đức Giêsu ngay trong cuộc khổ nạn vẫn là hình ảnh của hy vọng: Thiên Chúa bên những kẻ khổ đau”[75]. Quả thực, Thiên Chúa không bỏ rơi kẻ nghèo hèn, và qua sự đau khổ của Đức Giêsu, những người nghèo có thêm niềm hy vọng về một vị Thiên Chúa không bỏ rơi những người nghèo khó có lòng trông cậy.
Nơi Thập Giá, Đức Giêsu không chỉ bị chết nhục nhã như một tội phạm, bị đồng hàng với bọn thứ dân. Đồng thời trên thập giá Ngài còn chịu sự sỉ nhục đến từ giới lãnh đạo: “Hắn đã cứu người khác, thì hãy cứu lấy mình đi” (Lc 23,35); lính tráng cũng chế giễu: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi” (Lc 23,35). Bên cạnh đó, nơi thập giá Đức Giêsu hoài niệm lại những gì trong vườn cây dầu: “Đức Giêsu cảm nghiệm lần cuối sự cô đơn của mình, sự khổ đau trọn vẹn của con người. Nơi đây, người bị khủng hoảng trước cái chết gần kề. Nơi đây, Người bị kẻ phản bộ hôn trên trên mặt. Nơi đây, Người bị các môn đệ bỏ rơi”[76].
Một nghịch lý xảy đến là: hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu được đồng hóa với Người. Luca trình thuật lại như sau: “Có hai tên gian phi cũng bị điệu đi hành quyết cùng với Đức Giêsu” (Lc 23,32). Chúng ta nhận thấy, Đức Giêsu đã bị coi là kẻ bị loại trừ, bị kinh khi. “Họ cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu, bởi vì họ bị xem là tội phạm: chống lại quyền lực La Mã”[77]. Điều này chứng tỏ, Đức Giêsu đồng liệt vào hàng bị loại trừ và những người bị kết án chúng với Ngài cũng bị đồng hóa là kẻ bị loại trừ. Thật ngạc nhiên, Đấng đã từng làm nhiều điều hữu ích cho dân chúng nhưng lại bị trở nên mẫu số chung cho những kẻ đáng bị khinh dễ, bị nhạo cười.
Thế nhưng “chính trong sự cười nhạo mà mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô xuất hiện trong sự thật của mình”[78], Đức Giêsu không muốn một cuộc đời đau khổ cho nhân loại, bởi lẽ Ngài hiểu rõ sự nghèo khổ bị khinh dễ là như thế nào? Nhưng con người vẫn muốn loại trừ muốn bỏ đi những kẻ không thuộc về mình, những kẻ không thế lực ủng hộ.
Vậy, qua cái chết trên thập giá, Đức Giêsu đi đến tận cùng sự đau khổ của thân phận nơi những con người bần cùng bị xã hội loại bỏ. Qua đó, Ngài đã chứng thực sự đồng hóa của chính mình với người nghèo một cách tuyệt đối. Ngài sinh ra lớn lên như một kẻ nhập cư đi và cảm nghiệm bi hất hủi và ruồng bỏ, hạ nhục.[79] Ngài rao giảng chữa bệnh như người nghèo, phục vụ như một người nghèo. Hôm nay, Ngài đã chết trên cây thập giá như một kẻ nghèo thực sự. Vì vậy, thần học gia Jung Young Lee đã nói về Đức Giêsu như sau: “Cảnh sống bên lề của Đức Giêsu đã lộ hiện đến tột bậc khi Ngài chịu chết trên thập giá, bởi thập giá là khổ hình phải chịu trong thân phận bị ruồng bỏ, nhục nhã và cô đơn”[80].
Tuy nhiên, từ việc đảm nhận mọi sự nơi thân phận con người, “Đức Giêsu bẻ gãy xiềng xích của hết mọi thành kiến văn hóa, chủng tộc, tôn giáo, giới tính, kinh tế, xã hội hay địa phương, đã từng hất hủi Ngài ra bên lề và rốt cuộc đã xô Ngài vào thập giá”[81], một cuộc biến đổi đảo ngược của Đức Giêsu đối với con người ở mọi thời đại.
4. Không có ngôi mộ cho chính mình
Theo trình thật Tin Mừng Luca, Đức Giêsu “Khi ấy có một người tên là Giô-xếp, thành viên của Thượng Hội Đồng, một người lương thiện, công chính. Ông đã không tán thành quyết định và hành động của Thượng Hội Đồng. Ông là người thành A-ri-ma-thê, một thành của người Do-thái, và cũng là người vẫn mong chờ Nước Thiên Chúa. Ông đến gặp tổng trấn Phi-la-tô để xin thi hài Đức Giê-su. Ông hạ xác Người xuống, lấy tấm vải gai mà liệm, rồi đặt Người vào ngôi mộ đục sẵn trong núi đá, nơi chưa chôn cất ai bao giờ. Hôm ấy là áp lễ, và ngày sa-bát bắt đầu ló rạng” (Lc 24,50-54). Dựa theo trình thuật trên, Đức Giêsu không có ngôi mộ cho chính mình. Đức Giêsu được Giuse A-ri-ma-thê thành viên của thượng hồi đồng tặng cho Ngài ngôi mộ[82]. Đức Giêsu quả là một con người nghèo đích thực, Ngài không chỉ sinh ra một cách nghèo khó nhưng ngai đến cái chết của Ngài cũng thể hiện Ngài là con người sống triệt để cho sự khó nghèo.
Qua sự kiện, Đức Giêsu không có ngôi mộ cho chính mình, càng chứng minh sự khó nghèo của Ngài đã đi đến cái cùng tận. Khi tự đồng hóa mình với thân phận người nghèo, Đức Giêsu luôn đảm nhận mọi sự nơi thân phận người nghèo. Chính vì muốn không ngừng liên kết với thân phận nghèo khó của con người, Đức Giêsu không khước từ điều gì ? Không chỉ sinh ra lớn lên trong phương cách nghèo nhưng còn kết thúc cuộc đời mình bằng phương cách nghèo. Cuộc sống hằng ngày, Ngài đã sống nhờ vào sự quảng đại của nhiều người, giờ đây trong những giấy phút cuối đời, thân xác của Ngài cũng được nhờ vào lòng quảng đại của mọi người như thế (Lc 24, 50-55).
Mặt khác, việc Đức Giêsu không có được ngôi mộ cho chính mình, đã minh chứng cho nhân loại nhận ra Ngài sống sự nghèo khó triệt để. Khi vào trần gian, Ngài đã không sở hữu điều gì cho riêng mình và giờ đây, đến kết thúc cuộc đời, Ngài lại khẳng định sự khó nghèo của mình như thế.
Để tóm kết phần này chúng ta có thể nhận định rằng: sự chết là điều hiên nhiên đối với cuộc sống trần gian. Thế nhưng phải chết trong sự đau khổ, bị sỉ nhục, mọi sự trở nên quá nặng nề cho một thân phận con người của Đức Giêsu, Đấng có thể trốn chạy sự kiện này. Tuy nhiên, bằng việc muốn đi đến cùng đích của kiếp sống nghèo, Đức Giêsu vẫn lựa chọn con đường tự hạ. Qua việc tự hạ này Đức Giêsu kéo những con người thấp hèn lên tầm cao mới. Qua thập giá sẽ dẫn đến vinh quang.
KẾT LUẬN
Chúng ta đã cùng tìm hiểu về một Đức Giêsu Nazarét, một Đức Giêsu lịch sử. Qua cuộc sống của Ngài, chúng ta nhận ra sự một Đức Giêsu tự đồng hóa mình với người nghèo. Sự nghèo khó của Ngài được diễn tả bằng mọi góc cạnh cuộc sống của Đức Giêsu. Để bắt đầu một cách thức sống nghèo, Ngài sinh ra trong một gia đình bình thường trong xã hội. Vì gia đình nghèo, Ngài phải chấp nhận những hoàn cảnh khó khăn, phải sinh ra trong hang bò lừa. Không chỉ vậy, Ngài con chấp nhập kiếp sống bấp bênh như một người vô gia cư. Đời sống giảng dạy của Ngài cũng có sự khác biệt với các thầy dạy thời bấy giờ, Ngài luôn tìm một phương cách thích hợp và ngôn ngữ giàu hình ảnh trong việc giảng dạy. Bên cạnh đó, Ngài còn cứu chữa nhiều bệnh nhân bằng những cách thức đơn sơ phù hợp với người nghèo.
Qua việc tận tâm vì cuộc sống của người nghèo, Đức Giêsu đã hạ mình phục vụ cho lợi ích của những người khác, đồng thời Ngài tự nhận mình là người phục vụ. Tuy nhiên, cả cuộc đời của Ngài đã thi ân giáng phúc cho nhiều người, nhưng lại không một ai đứng ra bênh đỡ trong lúc Ngài bị xử án bất công. Cuối cùng, Ngài đã chết và được mai táng như là một người nghèo đích thực: Phải chết trần trên thập giá và không có ngôi mộ cho chính mình.
Cả cuộc đời của Đức Giêsu luôn gắn kết với đời sống khó nghèo. Như đã nói ở những phần trước, Đức Giêsu không nhất thiết phải chọn phương cách nghèo. Thế nhưng, bằng việc sống nghèo, Ngài đã cho nhân loại thấy rằng nghèo cũng là phương thế, đồng thời qua cách sống nghèo, Ngài đã nâng địa vị những người nghèo lên tầm cao mới.
Chúng ta nhận thấy rằng, nghèo khó không phải là cứu cánh nhưng nó là phương thế để Đức Giêsu có thể đến với con người và đồng hành với họ. Khi chung chia với nhân loại cuộc sống dương thế, Đức Giêsu đã trải nghiệm được cuộc sống dưới thế với những khó khăn và thử thách. Cuộc sống của Người ở giữa những người bệnh tật, người nghèo và những người bị loại trừ, Ngài chứng tỏ tình yêu thương xót của Thiên Chúa[83]. Vậy chúng ta có thể nói cả cuộc đời Ngài “như một người nghèo, Chúa Giêsu đón tiếp những người bạn nghèo, đơn sơ, bệnh tật, và Người chết như một người nghèo không ai bảo vệ: cả bằng cách đó Người đã tỏ cho chúng ta biết Thiên Chúa”[84]. Quan trọng hơn, Đức Giêsu bằng sự khó nghèo của mình đã thắp lên niềm hy vọng cho những người nghèo khổ một khát vọng vươn lên.
Thêm vào đó, khi trình bày về một Đức Giêsu gắn liền với dòng chảy của lịch sử, thánh Luca muốn khẳng định bản tính nhân loại nơi Đức Giêsu. Tuy nhiên, Luca không chỉ trình bày về một con người Giêsu với các yếu tố nhân loại nhưng Luca con đi xa hơn thế, ông trình bày một Đức Giêsu tự đồng hóa mình với những nỗi thấp hèn của nhân loại. Quả thật, như đã nói ở phần dẫn nhập trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu là người đứng về phía người nghèo[85]. Đồng thời, Luca xác nhận sứ vụ của Đức Giêsu cho những người nghèo, người bị áp bức, bị bỏ rơi (x. Lc 4,18; 6,20-21; 10,29-37; 17,11-19).
Mặc khác, khi nói tổng quan về Đức Giêsu, người ta luôn đặt ra những vấn đề liên quan đến tính xác thực về sự hiện hữu đích thực của Ngài trên trần gian: Ngài sinh ra ở đâu? Ngài hiện diện vào thời gian nào? Đối với một vài tác giả ngoài Kitô giáo, Đức Giêsu đích thực là một con người sống trong thời gian. Sử gia ngoại giáo Cornelius Tacius nói đến tên Đức Giêsu như sau: “Các Kitô hữu đón nhận tên của mình từ Kitô kẻ bị hành hình bởi sự kết án của tổng trấn Phongxiô Philatô dưới thời của Tiberius”[86]. Bên cạnh đó, khi nói về Đức Giêsu, các nhà thần học phân biệt giữa Đức Giêsu của lịch sử và Đức Giêsu của niềm tin, cả hai chiều kích này không thể tách biệt nhau. Bởi lẽ, một Kitô học toàn diện cần phải liên kết tính cách cá biệt con người lịch sử của Đức Giêsu với mầu nhiệm Đấng Kitô[87].
Tuy nhiên, đôi lúc chúng ta thường quan niệm về một Đức Giêsu với phẩm tính Con Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại quên rằng Ngài cũng là một con người như chúng ta (x. Lc 3,23; 4,16; Mt 1,1). Dưới góc độ lịch sử Đức Giêsu cũng bị chi phối bởi các yêu tố vật lý, Ngài cũng bị giới hạn trong không thời gian. Flavius Josephus[88] một sử gia đã viết về Đức Giêsu khoảng năm 93-94 như sau: “Giêsu, một con người khôn ngoan, sống trong khoảng thời gian này; không biết có được phép gọi ông là một con người, vì ông làm được nhiều phép lạ. Một thầy dạy của những kẻ đón nhận sự thật với lòng vui sướng”[89]. Ngài không chỉ cảm thông với những người nghèo khổ, nhưng Ngài con trở nên giống như họ, để qua những đau khổ đó, Ngài có sự đồng cảm trước nỗi đau của nhân loại. Sự nghèo khó không là cứu cánh nhưng đó là phương thế Đức Giêsu đã chọn để có thể đến được với mọi lớp người trong xã hội.
Với những gì đã trình bày, tôi đã làm rõ phần nào về một Đức Giêsu nghèo khó về mặt nhân tính. Một Giêsu Nazaret mang trọn vẹn yếu tính con người. Chúng ta chỉ dừng lại nơi Đức Giêsu lịch sử chọn lựa cách sống khó nghèo. Tuy nhiên, một Đức Giêsu nghèo khó về mặt thần tính của Ngài là một vấn đề chúng ta cần phải nghiên cứu. Phải chăng một Ngôi Vị Thiên Chúa nghèo khó tự bản chất thật không dễ được chấp nhận hơn là một Ngôi Vị Thiên Chúa mang lấy sự nghèo khó của con người. Vì từ bản chất Thiên Chúa không nghèo khó. Đây chính là vấn đề chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu về một Đức Giêsu nghèo khó về mặt thần tính. Qua việc tiếp tục mở rộng chủ đề này sẽ giúp chúng ta càng hiểu hơn về một Đức Giêsu Nazaret.
Nguồn: vinhson.net
[1] Cha Phạm Hữu Quang, PSS. Dẫn Nhập Kinh Thánh. Nxb Tôn Giáo, 2018. 786.
[2] X. Fudolf Schnackenburg, Đức Giêsu trong các Tin Mừng Kitô học Kinh Thánh. Phaolô Nguyễn Luật Khoa, OFM dịch. 150.
[3] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập III. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 92.
[4] https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1nh_Giuse, truy cập ngày 13/11/2020.
[5] Jean Galot, S.J. Thần học Thánh Giuse. Thiên Hựu và Kim Ngân, dịch. Tp HCM, Nxb Phương Đông, 2016. 136.
[6] Patrick J. Bearsley. “Đức Maria Môn Đệ Hoàn Hảo” trích trong Tuyển Tập Thần Học số 46 năm 2009, Nxb Tôn Giáo. 104.
[7]x. Patrick J. Bearsley. “Đức Maria Môn Đệ Hoàn Hảo” trích trong Tuyển Tập Thần Học số 46 năm 2009, Nxb Tôn Giáo. 106.
[8] Cha Đaminh Phạm Xuân Uyên, SDB. Tin Mừng Theo Luca. Học Viện Thần Học Philip Rinaldi Donbosco Xuân Hiệp. 46.
[9] x. Hợp Tuyển Thần Học, số 27 và 28, Nxb Tôn Giáo. 279.
[10] x. https://daminhtamhiep.net/2016/07/tu-nguyen-song-ngheo/, truy cập ngày 17/12/2020.
[11] Jean Galot, SJ. Thần học Thánh Giuse. Thiên Hựu và Kim Ngân dịch. Tp. HCM, Nxb Phương Đông, 2016. 136.
[12] https://catechesis.net/lc-21-20-mang-co-va-vinh-quang-thien-quoc/, truy cập ngày 17/12/2020.
[13] William Barclay. Tin Mừng Theo Thánh Luca. dòng Phaolô Thiện Bản, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2008. 20.
[14] William Barclay. Tin Mừng Theo Thánh Luca. Dòng Phaolô Thiện Bản, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2008. 22.
[15] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập III. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 116.
[16] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập I, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 434.
[17] Giáo Phận Cần Thơ Ban Kinh Thánh. Tin Mừng Luca. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2015. 41.
[18] X. Cha Phạm Xuân Uyên, SDB. Tin Mừng Luca. Học Viện Thần Học Philip Rinaldi Donbosco Xuân Hiệp. 56.
[19] Giáo Phận Cần Thơ Ban Kinh Thánh. Tin Mừng Luca. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2015. 41.
[20] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập III. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 93.
[21] William Barclay. Tin Mừng Theo Thánh Luca. Dòng Phaolô Thiện Bản, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2008. 21.
[22] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập III, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 103
[23] Nguyễn Công Đoan, SJ. Phúc Âm Hóa Người Rao Giảng Phúc Âm. Antôn và Đuốc Sáng, 2016. 74.
[24] Gerard. H. Luttenberger, CM. Dẫn vào Kitô học trong các Tin Mừng và Hội Thánh tiên khởi. Cha Đaminh Nguyễn Đức Thông C.Ss.R, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2011. 69-70.
[25] x. Hợp Tuyển Thần Học số 27 và 28 năm 2000. 279.
[26] Jean Galot, SJ. Thần học Thánh Giuse. Thiên Hưu và Kim Ngân, dịch. Tp HCM, Nxb Phương Đông, 2016. 136.
[27] x. Cha Phạm Xuân Uyên, SDB. Tin Mừng Luca. Học Viện Thần Học Philip Rinaldi Donbosco Xuân Hiệp. 118.
[28] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập I. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 115.
[29] x. Hợp Tuyển Thần Học số 27 và 28 năm 2000. 282.
[30] Hugues Cousin, Tin mừng Luca, tài liệu nội bộ. 235.
[31] Hugues Cousin, Tin mừng Luca, tài liệu nội bộ. 236.
[32] Jung Young Lee, “Đức Kitô con người bên lề tiêu biểu nhất” trong Hợp Tuyển Thần Học số 23, năm 2000. 41.
[33] Giáo Phận Cần Thơ, ban Kinh Thánh. Tin Mừng Luca. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2015. 360.
[34] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập II. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 14.
[35] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập I. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 120.
[36] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập I. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 115.
[37] X. Hợp Tuyển Thần Học số 27 và 28 năm 2000. 278.
[38] NPDCKPV, Kinh Thánh Trọn Bộ, ấn bản 2011 Hà Nội, Nxb Tôn Giáo. 2280.
[39] Gm Vũ Văn Thiên. http://conggiao.info/nguoi-ngheo-tren-thap-gia-d-6476. Truy cập ngày 21/01/2021.
[40] x. Hợp Tuyển Thần Học số 27 và 28 năm 2000. 278 – 279.
[41] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-08/tiep-kien-chung-dai-dich-chon-lua-uu-tien-vi-nguoi-ngheo-duc-ai.html. Cập nhật 6/1/2021.
[42] x. Hợp Tuyển Thần Học số 27 và 28 năm 2000. 279.
[43] x. Jung Young Lee, “Đức Kitô con người bên lề tiêu biểu nhất” trong Hợp Tuyển Thần Học số 23, năm 2000. 41.
[44] Trích từ tuyển tập các bút tích của Thánh Vinh Sơn, tài liệu nội bộ.
[45] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập I. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 116.
[46] Cha Nguyễn Quang Thanh, CM. Kinh Thánh Nhập Môn. Học Viện Vinh Sơn. 14.
[47]Cha Phó Đức Giang, OFM. Môi Sinh Giữa Lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Học Viện Phanxicô. 41-42.
[48]Cha Phó Đức Giang, OFM. Môi Sinh Giữa Lòng Thiên Chúa Ba Ngôi. Học Viện Phanxicô. 47.
[49] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập I. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 117.
[50] x.Cha Nguyễn Quang Thanh, CM. Kinh Thánh Nhập Môn. Học Viện Vinh Sơn. 21.
[51] x. Hợp Tuyển Thần Học, số 27 và 28 năm 2000. 279.
[52] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập I. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 117.
[53] x. Hợp Tuyển Thần Học số 27 và 28 năm 2000. 279.
[54] x. Chung Hyun Kyung “Chân Dung Đức Giêsu theo Chung Hyun Kyung” trong Hợp Tuyền Thần Học, sô 23 năm 1999. 53.
[55]William Barclay, Tin Mừng Theo Thánh Luca, dòng Phaolô Thiện Bản dịch. 37.
[56] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Đức Giêsu thành Nazarét tập I, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 117.
[57] Aloysius Pieris “Chân Dung Đức Giêsu” trong Hợp Tuyền Thần Học, số 23, năm 1999. 21.
[58] Hugues Cousin, Tin Mừng Luca, tài liệu nội bộ. 148.
[59] Hợp Tuyển Thần Học, số 27 vầ 28, năm 2000, tr 299.
[60] William Barclay. Tin Mừng Theo Thánh Luca. Dòng Phaolô Thiện Bản, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2008. 254.
[61] Tuyển tập các bút tích của Thánh Vinh Sơn, quyển số 3.
[62] https://vinhson.net/quy-luat-phuc-vu-o-noi-lam-viec.html. Truy cập ngày 07/01/2021.
[63] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô VI. Đức Giêsu thành Nazarét tập II. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 76.
[64] x Hugues Cousin. Tin Mừng Luca. Tài Liệu Nội Bộ. 113.
[65] Fudolf Schnackenburg, Đức Giêsu trong các Tin Mừng Kitô học Kinh Thánh. Phaolô Nguyễn Luật Khoa, OFM dịch. 202.
[66]https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/buoc-theo-chua-giesu-ngheo-kho-tinh-cach-tien-tri-cua-nguoi-tu-si-trong-the-gioi. Cập nhật ngày 07/01/2021.
[67] x. Hợp Tuyển Thần Học số 27 và 28, năm 2000. 275-276.
[68] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập II. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 274.
[69] x. Hợp Tuyển Thần Học số 27 và 28, năm 2000. 275-284.
[70] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập II. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 240.
[71] Giáo Phận Cần Thơ Ban Kinh Thánh. Tin Mừng Luca. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2015. 415.
[72] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập II. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 241.
[73] Hợp Tuyển Thần Học số 23 năm 1999. 50.
[74] Gm. Vũ Văn Thiên, http://conggiao.info/nguoi-ngheo-tren-thap-gia-d-6476, truy cập ngày 21/01/2021
[75] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập II. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 243.
[76] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập II. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 183-184
[77] Đức Giáo Hoàng BênêđictôX VI. Đức Giêsu thành Nazarét tập II. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 255.
[78] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Đức Giêsu thành Nazarét tập II. Lm Aug Nguyễn Văn Trinh, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2013. 255.
[79] x. Hợp Tuyển Thần Học số 23, năm 1999. 40.
[80] x. Hợp Tuyển Thần Học số 23, năm 1999. 41.
[81] x. Hợp Tuyển Thần Học số 23, năm 1999. 42.
[82] William Barclay. Tin Mừng Theo Thánh Luca. Dòng Phaolô Thiện Bản, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2008. 275.
[83]https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-08/tiep-kien-chung-dai-dich-chon-lua-uu-tien-vi-nguoi-ngheo-duc-ai.html.
[84]https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/buoc-theo-chua-giesu-ngheo-kho-tinh-cach-tien-tri-cua-nguoi-tu-si-trong-the-gioi-28228.
[85] Gerard. H. Luttenberger, CM. Dẫn vào Kitô học trong các Tin Mừng và Hội Thánh tiên khởi. Cha Đaminh Nguyễn Đức Thông C.Ss.R, dịch. Hà Nội, Nxb Tôn Giáo, 2011. 69.
[86] Cha Phạm Hữu Quang, PSS. Dẫn Nhập Kinh Thánh. Nxb Tôn Giáo, 2018. 847.
[87] x Norbrto Nguyễn Văn Khanh, OFM. Đức Giêsu Kitô Ngôi Lời Nhập Thể. Nxb Tổng Hợp Tp. HCM. 31.
[88] Titus Flavius Josephus (37-100), có lẽ là một Pharisiêu đã can dự vào cuộc nổi loạn chống lại Rôma và năm 66 và bị bỏ tù. Tuy nhiên, ông đã quy hàng và ca tụng Rôma, bị dân Do Thái xem là kẻ phản bội (trích Dẫn Nhập Kinh Thánh của Cha Phạm Hữu Quang, PSS. Tr. 848)
[89] Cha Phạm Hữu Quang, PSS. Dẫn Nhập Kinh Thánh. Nxb Tôn Giáo, 2018. 848.