2021
FABC: Gia đình Á Châu hướng đến nền văn hóa của sự sống toàn diện
Để giúp dân Chúa tại Việt Nam có thêm tài liệu suy tư và sống đạo trong Năm Gia đình Amoris Laetitia (19.3.2021 – 26.6.2022), chúng tôi xin được giới thiệu bản dịch Việt Ngữ của sứ điệp: “Gia đình Á Châu hướng đến một nền văn hóa của sự sống toàn diện” của Đại hội Liên Hội đồng Giám mục Á châu lần thứ 8 tại Chungnam, Hàn Quốc, từ ngày 17 đến ngày 23.8.2004.
DẪN NHẬP: NIỀM HY VỌNG CỦA CÁC GIA ĐÌNH Á CHÂU VỀ SỰ SỐNG VIÊN MÃN
- Niềm hy vọng, khát khao, mơ ước của các gia đình Á châu về Sự Sống viên mãn trong Nước Chúa là một hy vọng khôn nguôi. Dù sống giữa khổ đau và đói nghèo dường như không thể vượt qua được, các gia đình tại Á châu, không hiểu vì sao, lại vẫn sống niềm hy vọng này với một tinh thần vui tươi sống động, đến mức khoáng đạt. Những kinh nghiệm tích cực của các gia đình Á châu khi tìm kiếm hạnh phúc và an vui lâu dài trong cuộc sống gia đình là dấu chỉ Thần khí của Thiên Chúa đang hoạt động. Luôn nuôi niềm hy vọng về Sự Sống viên mãn chính là sự cảm nhận sâu xa của người Á châu về linh thánh và kho tàng tâm linh phong phú của Á châu. Thiên Chúa, Hữu thể tối cao và là Đấng dựng nên sự sống chính là nguyên lý phát sinh niềm hy vọng này. Chính Thần khí Thiên Chúa làm việc trong các nền văn hóa Á châu đã duy trì và cho thấy vì sao các gia đình Á châu sống thâm trầm, hòa hợp, mềm dẻo, sẵn sàng thích nghi và nhiều giá trị tích cực khác. Chính Thần khí Thiên Chúa gợi lên viễn cảnh gia đình Á châu tiến bước trên đường hiệp thông, liên đới và thực thi sứ mạng phục vụ Nước Thiên Chúa. Đó là tất cả những lý do để hy vọng.
- Suy tư về gia đình Á châu và niềm hy vọng của các gia đình về sự sống toàn diện, các giám mục châu Á đã tham dự Đại hội Liên Hội đồng Giám mục Á châu (FABC) lần thứ 8 về đề tài “Gia đình Á châu hướng đến một nền văn hóa sự sống”. Các giám mục ý thức việc tham dự Đại hội với tư cách là những mục tử của “đoàn chiên nhỏ” tại Á châu, từ ngày 17 đến 23 tháng Tám 2004, là một hồng ân của Thiên Chúa[1]. Chỉ mới năm ngoái, năm 2003, lần đầu tiên tại mảnh đất Á châu, Manila, cuộc Gặp gỡ các Gia đình toàn thế giới lần thứ 4 đã thúc giục Giáo Hội khẩn thiết quan tâm đến Gia đình và tầm quan trọng lớn lao của gia đình trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
- Mối quan tâm này đặc biệt cấp bách khi đặt vào bối cảnh những phát triển của thế giới. Trong hai thập kỷ qua, những phát triển nhanh chóng về công nghệ, khoa học, văn hóa cùng với những phát triển về chính trị và kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến xã hội con người. Ở ngay trung tâm sự xáo trộn trong xã hội chính là gia đình, tế bào tiếp nhận những trào lưu văn hóa đang xuất hiện cũng như là điểm đầu tiên phát sinh những nguồn lực tác động về văn hóa cả tốt lẫn xấu. Với tư cách là một cơ quan quốc tế, Liên Hiệp Quốc tiếp tục coi gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội, bất chấp một số trào lưu tân tự do muốn đặt lại vấn đề. Giáo huấn của Giáo Hội về xã hội luôn nhìn nhận gia đình là tế bào và là cộng đồng cơ bản đầu tiên của xã hội. Rõ ràng cấu trúc nền móng và đầu tiên cho môi trường sinh thái của nhân loại chính là gia đình.
- Giáo Hội hoàn vũ không ngừng nhấn mạnh về tầm quan trọng hàng đầu của gia đình và toàn bộ lịch sử diễn ra qua gia đình, đồng thời gia đình là Hội Thánh tại gia hoặc Hội Thánh chính là một gia đình[2]. Sách Tông đồ Công vụ nhắc chúng ta nhớ rằng đức Tin lan tỏa “từ nhà này sang nhà kia” (Cv 20, 20)[3][3]. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II vừa triệu tập cuộc gặp gỡ các Gia đình toàn thế giới vào bốn dịp khác nhau nhằm nhấn mạnh vai trò không thể thiếu của các gia đình Kitô hữu trong việc định hình số phận nhân loại dưới ánh sáng đức Tin và Tin Mừng. Trong bối cảnh thế giới đang phát triển và nhằm đóng góp cho Giáo Hội hoàn vũ, Đại hội FABC về Gia đình tại Á châu nhắm đến hai phương diện ý nghĩa hoàn vũ và địa phương. Rõ ràng những phát triển diễn ra trên phạm vi toàn cầu cũng đã tác động đến gia đình tại những miền quê xa xôi hẻo lánh nhất của châu Á.
- Chúng tôi, các giám mục châu Á, mong rằng suy tư sau đây sẽ góp phần hướng đến suy tư sâu xa hơn về gia đình tại Á châu, nhằm đưa ra những chăm sóc mục vụ thích đáng và có hiệu quả. Chúng tôi cũng mong rằng suy tư này sẽ phục vụ như một tài liệu tham khảo đối với các Hội đồng Giám mục và các giáo phận, hướng đến một tầm nhìn về mục vụ gia đình và những định hướng mục vụ nói chung. Chúng tôi bắt đầu những suy tư của mình về những thách đố mục vụ hiện các gia đình Á châu đang phải đối đầu.
PHẦN I: NHỮNG THÁCH ĐỐ VỀ MỤC VỤ GIA ĐÌNH TẠI CHÂU Á
1. Những giá trị và truyền thống gia đình
- Trước những thay đổi mau lẹ, sâu rộng, thậm chí mang tính cách mạng trên thế giới, người dân châu Á vẫn tiếp tục coi hôn nhân là một giá trị thánh thiêng. Trẻ em vẫn được ấp ủ như quà tặng và kho báu Chúa ban cho. Các bậc phụ huynh vẫn biểu lộ tình thương yêu con cái qua việc sẵn sàng hy sinh để chúng được khỏe mạnh, học hành và được săn sóc mọi bề. Các thành viên trong gia đình vẫn duy trì sự gắn bó với nhau. Kể cả những người trong họ hàng cũng vẫn đi lại với nhau thật gần gũi. Các bậc cao niên, các thành viên trong gia đình đã về hưu, cha mẹ, ông bà vẫn được con cháu trong gia đình, mặc dù sống trong khó khăn vất vả, rất kính trọng và phụng dưỡng. Họ được lắng nghe và kính yêu. Chính những bậc cao niên bảo đảm cho sự gắn kết trong gia đình. Dù sống nghèo, nhưng các gia đình Á châu vẫn được tiếng hiếu khách. Dù gặp nhiều khó khăn nặng nề cả từ bên trong lẫn bên ngoài, nhưng các gia đình Á châu tương đối vẫn giữ được sự ổn định ở mức cao, vẫn kiên trì và sẵn sàng hi sinh khi gặp khốn khó. Mang trong mình tinh thần tín ngưỡng và cảm nghiệm sâu sắc về thần linh nên họ sống tràn trề lạc quan. Phần lớn các gia đình Á châu sống ở nông thôn, nên họ có sự gần gũi tự nhiên với công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Những giá trị này đặc biệt được thể hiện nơi những người thuộc các sắc tộc thiểu số thường được coi là những người nghèo nhất ở châu Á, vốn ít chịu ảnh hưởng của nền văn hóa kỹ trị. Còn nhiều giá trị khác đang tồn tại và góp phần vào truyền thống gia đình, thành những điểm sáng gợi lên hy vọng cho tương lai châu Á[4]. Chính truyền thống sẽ giúp cho các gia đình Á châu được vững vàng trước cảnh nghèo khổ và những thế lực gieo rắc sự chết trong thế giới ngày nay. Những giá trị tích cực trong truyền thống gia đình Á châu chính là những hạt giống của Ngôi Lời Thiên Chúa và là “đá tảng” chúng ta xây nhà trên đó như trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về người khôn ngoan (x. Mt 7, 24-25; Lc 6, 47-48). Vì vậy các gia đình được mời gọi hãy nhận ra, thực hành và phát triển những giá trị tích cực này để giá trị quý báu của chúng không bị mai một mà được tăng trưởng.
- Nhược điểm trong một số giá trị. Chẳng hạn, việc coi trọng gia đình và họ hàng cũng có những mặt trái của nó. Tệ hối lộ và tham nhũng, chủ nghĩa gia đình trị, đầu óc phe cánh trong hoạt động chính trị và kinh tế thường xuất phát từ thói chỉ biết vun vén cho lợi ích của gia đình, người thân và bạn bè cùng phe cánh, bất chấp thiệt hại cho công ích. Điều này dẫn đến tình trạng bè phái, gây chia rẽ, mất đoàn kết trong cộng đồng và xã hội. Hơn nữa, ngày nay xuất hiện nhiều thực trạng mang tính phổ biến, trong đó có những thực trạng diễn ra đã lâu và nhiều thực trạng mới xuất hiện nhanh chóng, đang khiến cho nhiều gia đình tại châu Á dễ bị tổn thương trước những thay đổi sâu sắc trong xã hội, nhất là sự tác động của quá trình toàn cầu hóa. Những biến động trong xã hội đang định hình lại các xác tín tôn giáo và đạo đức, những quan niệm về cá nhân và gia đình, kể cả cơ cấu của hôn nhân và gia đình.
- Nhận biết các tình thế khác nhau về phương diện văn hóa tại châu Á là điều cần thiết giúp chúng ta nhận ra những nét chung nhất về hoàn cảnh của các gia đình Á châu. Phải thừa nhận rằng, hoàn cảnh các gia đình tại các nước Cộng hòa Xô viết cũ thật cá biệt và rất khó khăn. Là một thiểu số nhỏ nhoi, nhiều thế hệ tín hữu Công giáo tại các nước Cộng hòa này đã chịu nhiều mất mát vì một thời gian dài không có tự do tín ngưỡng. Các xác tín liên quan đến hôn nhân và gia đình hoàn toàn xa lạ với chuẩn mực Kitô giáo.[5]
2. Sự đa dạng các kiểu gia đình
- Hiện nay, tại châu Á, nhìn chung hoàn cảnh các gia đình chắc chắn đã khác với quan niệm truyền thống và lý tưởng của người châu Á về gia đình. Các cuộc “hôn nhân hỗn hợp” đã sinh ra các kiểu gia đình liên văn hóa và liên tín ngưỡng. Các cặp vợ chồng “hôn nhân hỗn hợp” gặp nhiều khó khăn trong việc tự điều chỉnh để hòa hợp trong cuộc sống gia đình hơn các đôi vợ chồng cùng tín ngưỡng. Cũng đang tăng thêm con số các gia đình với cha mẹ đơn thân, ly dị, một người hoặc cả hai đều tái hôn. Một số bậc cha mẹ vì sinh kế phải thường xuyên hoặc tạm thời sống xa nhau. Cảnh con cái có cha mẹ li dị và phải về ở với ông bà không còn là họa hiếm. Có những gia đình chỉ có bố hoặc mẹ sống với con cái, những gia đình bố mẹ chỉ về nhà một năm đôi ba lần, những gia đình con cái không có cha chung hoặc mẹ chung. Cũng có nhiều gia đình cha mẹ không kết hôn hoặc không thể mang lại cuộc sống ổn định cho con cái. Có những gia đình cha mẹ không muốn có con hoặc trì hoãn việc có con. Ngày càng ít thấy cảnh “đại gia đình” Á châu truyền thống với các thế hệ chung sống, tứ đại đồng đường, gồm ông bà, cha mẹ, con-cháu-chắt, dâu rể. “Gia đình hạt nhân” ngày càng có xu hướng ít liên lạc với các thành viên trong đại gia đình. Ngoài ra, có những xung đột trong gia đình, chẳng hạn xung khắc với cha mẹ chồng/vợ, cần phải có quá trình giải quyết xung đột và biết tha thứ để hàn gắn xung khắc.
- Với sự bành trướng của các phong trào tân giải phóng, của trào lưu tư tưởng tân tự do và hậu hiện đại, các kiểu “gia đình” khác, đang từng bước xuất hiện tại các quốc gia Á châu vốn đã chịu ảnh hưởng ngày một sâu đậm hơn của quá trình thế tục hóa và tự do hóa, ngoại trừ kiểu gia đình hôn nhân đồng tính vẫn còn bị khước từ mạnh mẽ. Những kiểu gia đình này đang gây lo ngại sâu sắc. Chúng thách thức quan niệm truyền thống của chúng ta về “gia đình Kitô giáo” với hôn nhân mang ý nghĩa bí tích giữa người nam và người nữ là một chuẩn mực và là sự khởi đầu của gia đình, đến mức chúng ta phải đặt câu hỏi liệu các đôi vợ chồng có thực sự tin hôn nhân là một giao ước thánh thiêng hay cũng chỉ là một bản giao kèo về mặt pháp lý. Những vấn đề luân lý cũng có thể được đặt ra xung quanh vấn đề trong thực tế tổ chức đám cưới phần đời trước đã rồi mới làm đám cưới tại nhà thờ. Tại một số nơi sở dĩ có tình trạng này là vì gia đình thiếu những nền tảng vững chắc hoặc do luật lệ, phong tục, tập quán của làng xã, họ tộc.
- Làm thế nào xem xét dưới ánh sáng đức Tin hoàn cảnh đa dạng này của các gia đình, làm thế nào giúp các đôi vợ chồng và các gia đình suy nghĩ về những hoàn cảnh này dưới ánh sáng của việc dấn thân cho Nước Chúa, làm thế nào giúp các gia đình tích cực dấn thân, và như thế làm thế nào mang lại cho họ những hướng dẫn mục vụ, trước những thách đố gay gắt đang đặt ra cho từng giáo xứ tại châu Á.
3. Cảnh nghèo túng của các gia đình Á châu và quá trình toàn cầu hóa về kinh tế
- Thách đố lớn đầu tiên đối với đại đa số các gia đình Á châu là đói nghèo. Nghèo đói là một thực tế bi thảm hàng ngày các gia đình phải đương đầu và không thể nào thoát ra được. Nhiều thanh niên nghèo khó lòng dám nghĩ đến việc kết hôn, xây dựng gia đình vì không có kế sinh nhai. Hơn nữa cái nghèo ở châu Á ngày nay lại thêm một chiều kích mới. Đó là tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế mang tính tân tự do, dẫn đến một trật tự thế giới mới mà mọi quốc gia đều phải thích ứng vì sợ bị rớt lại phía sau trên con đường phát triển kinh tế đã được xác định bởi các nước phát triển. Nói cho đúng, toàn cầu hóa có hai mặt tốt xấu. Hằng năm các bản Báo cáo Phát triển Con người của Liên Hợp Quốc không ngừng cho thấy việc toàn cầu hóa về kinh tế đã làm tình cảnh người nghèo và các nước nghèo thêm nghiêm trọng, nhất là người nghèo tại các nước nghèo. Có thể ghi nhận ảnh hưởng của toàn cầu hóa đối với tình trạng nghèo khổ ít nhất ở ba lĩnh vực:
- a.Tình trạng nghèo khổ của các gia đình nông thôn
- Việc mua hàng nông sản do các gia đình nông thôn làm ra ngày càng giảm dần do việc tự do hóa kinh tế và việc bãi bỏ các quy định -hai yêu cầu song song của toàn cầu hóa kinh tế- cho phép nhập khẩu nông sản và bán với giá rẻ hơn nông sản địa phương. Không thể cạnh tranh, không được nhà nước bảo vệ, không có mạng lưới an toàn để bảo vệ nông sản trước cuộc cạnh tranh không lành mạnh, các gia đình nông thôn bước vào tình trạng nghèo khổ mới về phương diện kinh tế do các nhân tố ngoài tầm kiểm soát của họ gây ra. Đồng thời, đại đa số nông dân Á châu làm nông nghiệp với quy mô nhỏ, không thể cạnh tranh với xu thế đang lên của những doanh nghiệp lớn hiện đầu cơ vào việc hợp tác hóa nông nghiệp, với công nghệ biến đổi gien (GMO) ngày càng trở nên phổ biến, khiến các tiểu nông Á châu phải lệ thuộc vào các công ty và công nghệ vốn vượt khỏi tầm hiểu biết và khả năng tài chính của họ. Hơn nữa, trong hoàn cảnh thường xuyên phải chịu gánh nặng của những vấn đề liên quan đến sở hữu đất đai, nên các gia đình ở nông thôn đang nhận ra đất đai của họ không còn mang lại hiệu quả. Tình trạng trên càng thêm trầm trọng khi hiện tượng di cư lên thành phố đã khiến cộng đồng nông thôn lâm vào trì trệ. Một khảo sát đáng chú ý là “vấn đề của những gia đình nông thôn Nhật Bản không phải là cảnh nghèo khổ về kinh tế mà là sự sụp đổ của những ngôi làng ở nông thôn”[6]. Cuối cùng là, trong cảnh nghèo túng, đôi khi nhiều gia đình đã lâm vào bước đường cùng phải bán các bộ phận thân thể để tồn tại.
- Tình trạng nghèo khổ của các gia đình thành thị
- Hiện tượng đô thị hóa không phải chỉ mới xảy ra nhưng tình trạng người nghèo ở nông thôn di cư lên thành phố chưa bao giờ lại diễn ra dồn dập và đông đảo như vậy trong vài thập niên vừa qua. Quá trình toàn cầu hóa không chỉ khiến cho các quốc gia nghèo mất khả năng cạnh tranh ngay cả trong lĩnh vực nông nghiệp, mà còn làm tăng thêm số người nghèo nông thôn bỏ quê hương đi tìm việc làm vốn khan hiếm do trình độ phát triển kinh tế tại phần lớn các quốc gia Á châu. Sự tăng trưởng và phát triển các khu nhà ổ chuột tại các đô thị cho thấy tốc độ mau lẹ của quá trình đô thị hóa. Người nghèo đô thị càng gặp khó khăn hơn nữa về những điều kiện sống như nơi ở, điều kiện sinh hoạt gia đình, không gian gia đình và sự riêng tư, nước uống an toàn, vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân. Các khu ổ chuột đều nằm trên đất thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu tư nhân, nên người nghèo sống tại đây đứng trước nguy cơ bị đuổi và quay về cảnh vô gia cư. Lâm cảnh đường cùng những người dân này dễ bị cuốn vào con đường tội phạm, bị lạm dụng, gia đình tan vỡ.
- Hiện tượng di dân
- Do hoàn cảnh kinh tế của gia đình, nhiều người châu Á đã phải lìa bỏ nhà cửa đi tìm việc làm vốn không hợp với hiểu biết và khả năng của họ. Những nơi họ tìm đến là quốc gia có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Malaysia và Thái Lan cũng như những quốc gia Trung Đông giàu có về dầu lửa. Thật bi đát người lao động di dân thường phải làm việc trong những điều kiện bị phân biệt đối xử và bị bóc lột nặng nề. Châu Á là nơi xuất khẩu lớn nguồn lao động rẻ. Đúng là tiền lương họ kiếm được ở nước ngoài đáng kể hơn nhiều so với tiền lương trong nước, nhưng đã phải trả bằng giá của sự ổn định gia đình, việc dạy dỗ con cái đang khôn lớn lại không có cha mẹ ở bên để hướng dẫn và yêu thương.
- Ngoài ra, những người dân thiểu số di cư tìm việc làm gặp khó khăn do sự thay đổi môi trường văn hóa nhiều hơn các nhóm dân cư khác. Họ đánh mất nhiều giá trị tích cực vốn được cộng đồng dân tộc thiểu số của mình giữ gìn. Khi quay về họ cũng lại rất khó khăn như vậy. Như vậy chúng ta thấy có mối liên hệ mật thiết giữa hai đối tượng được Đại hội FABC VII quan tâm hàng đầu là những lao động di dân và người thiểu số.
- Tóm lại, người lao động di dân rất cần nhận được sự chăm sóc mục vụ của Giáo hội bản quán và Giáo hội tại nơi nhập cư. Quả thật, chăm sóc mục vụ dành cho người lao động di dân là một trong năm ưu tiên mục vụ của Giáo hội tại châu Á[7]. Việc hết lòng thực thi Huấn thịErga Migrantes Caritas Christi(Tình yêu của Đức Kitô đối với di dân) một cách cẩn thận sẽ minh chứng mối quan tâm mục vụ lớn lao của Hội thánh[8].
- Cắt lát mọi chiều kích cái nghèo ở châu Á, sẽ thấy một hiện tượng mới được các báo cáo về phát triển gọi là “nữ hóa cái nghèo”, phát hiện chính phụ nữ là những người mang gánh nặng của cái nghèo. Thông thường người chồng kiếm sống nuôi gia đình nhưng người vợ phải lo thu vén tằn tiện sao cho đủ cái ăn cái mặc cho con cái, chăm sóc chúng khi ốm đau, chăm sóc ông bà cha mẹ trong đại gia đình. Không có thời gian biểu nào cho người vợ. Nội trợ chẳng phải là công việc từ 7g30 sáng đến 5g chiều với một vài giờ nghỉ trưa. Con gái cũng phải làm mọi việc. Bà mẹ và các cô con gái khi gặp cơ hội cũng đi làm kiếm thêm tiền cho gia đình. Cái nghèo chạm đến phụ nữ rõ rệt hơn đàn ông.
4. Không có đất canh tác hoặc bị mất đất đai tổ tiên
- Tình cảnh nghèo khổ của các gia đình Á châu càng thêm nghiêm trọng với thực trạng không có đất đai canh tác. Hàng triệu gia đình ở châu Á không có đất hoặc không còn được sở hữu đất. Một thiểu số đã sở hữu các bất động sản rộng lớn đã cho thấy tình trạng mất cân đối lớn trong việc phân phối các tài nguyên tại châu Á, thêm một dấu chỉ của sự bất công xã hội tước mất của người nghèo cơ hội thực sự để hướng đến một tương lai sáng sủa hơn. Việc cải cách ruộng đất tại nhiều quốc gia Á châu đang để lại nhiều vấn đề, đặc biệt tại những nơi giới giàu có đang chi phối quyền lực chính trị và cản trở những cơ hội pháp lý đối với việc phân phối đất đai được cân bằng hơn.
- Đất đai là sự sống – phương châm này đặc biệt đúng đối với các gia đình dân tộc thiểu số. Từ ngàn xưa họ đã coi đất đai, sông ngòi, rừng núi do mình sở hữu, chẳng cần giấy tờ pháp lý chứng minh. Lợi dụng nhận thức này của người thiểu số về quyền sở hữu như một thứ luật bất thành văn, những người khai thác lâm sản, khoáng sản, điền chủ ở các vùng đồng bằng đã lấn chiếm các vùng đất tổ tiên của người thiểu số và thu hẹp các ranh giới của họ từ năm này sang năm khác. Các cộng đồng dân tộc thiểu số thường chỉ biết tháo lui, rút vào vùng núi để tránh xung đột. Quả thật các quyền của họ về đất đai, về sự phát triển mang bản sắc riêng về kinh tế và văn hóa đã bị xâm hại. Hơn nữa kiểu phát triển theo mô hình tân tự do được thúc đẩy bởi các dự án phát triển của chính quyền trong nền kinh tế toàn cầu hóa tại các vùng đất tổ của người thiểu số có khi chống lại sự phát triển toàn diện của các dân tộc thiểu số.
5. Toàn cầu hóa về văn hóa và những tác động đối với gia đình
- Đáng chú ý hơn, toàn cầu hóa về kinh tế còn dẫn đến toàn cầu hóa về văn hóa. Từ giữa thế kỷ 20, chủ nghĩa thế tục hóa của phương Tây đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nước châu Á. Ngoài ra, với quan niệm hiện nay về tự do cá nhân chủ nghĩa hậu hiện đại, tiến trình thế tục hóa còn diễn ra nhanh hơn và triệt để hơn so với hai thập niên cuối thế kỷ 20 trong việc thay đổi hệ thống giá trị về gia đình. Các tác nhân cho sự thay đổi này, như chúng ta đã thấy, chính là kinh tế và truyền thống đại chúng mang tính toàn cầu đã thực sự biến thế giới thành một ngôi làng.
- Tuy nhiên, cuộc cách mạng công nghệ cũng có nhiều mặt tích cực. Nó mang đến cho châu Á nhận thức sâu sắc hơn về phẩm giá, về quyền được tự định đoạt của mỗi cá nhân và các quyền con người mang đặc tính phương Tây. Nó tạo ra và cổ võ sự liên đới toàn cầu có thể thấy rõ ngay lập tức vào những lúc xảy ra các thảm họa. Nó giúp cho sự hiểu biết về thế giới và con người được phát triển nhảy vọt. Nhìn chung sự ứng dụng và chia sẻ những hiểu biết đã góp phần đáng kể vào việc cải thiện cuộc sống con người.
- Tuy nhiên toàn cầu hóa về văn hóa có những nhược điểm rất lớn. Nền văn hóa kỹ thuật đang nổi lên nhanh chóng đã bứng các gia đình ra khỏi gốc rễ văn hóa truyền thống và tạo ra những xã hội vô danh tại các vùng đô thị. Mang tinh thần của các chủ nghĩa tân tự do, thế tục, duy vật, khoái lạc và tiêu thụ, tinh thần của nền văn hóa kỹ thuật thì xa lạ với các nền văn hóa hướng về tín ngưỡng của các dân tộc Á châu. Lối sống chú trọng đến các mối quan hệ, sự liên đới và nương tựa vào nhau của các dân tộc Á châu đang mất dần. Nhiều giá trị của nền văn hóa kỹ thuật đi ngược lại các giá trị gia đình Á châu. Sự phát triển tư duy kỹ thuật đang làm suy yếu các mối quan hệ thân mật và yêu thương trong hôn nhân và gia đình. Nhiều người không còn coi hôn nhân là một cam kết suốt đời nữa. Do đó sống chung không cần kết hôn không còn là chuyện họa hiếm ở các đô thị, nơi không ai biết ai nên cũng chẳng coi đó là chuyện cấm kỵ như ngày xưa. Kể cả bây giờ đang cố xóa bỏ những quan niệm truyền thống về hôn nhân và gia đình, thậm chí xóa bỏ cả giá trị sự sống. Vì vậy, tinh thần hậu hiện đại và tục hóa đang lan tràn và có sức lôi cuốn đối với các công cụ truyền thông xã hội, nhất là các phương tiện thông tin đại chúng được quản lý một cách khôn khéo và âm thầm nhằm chiếm lấy linh hồn nhiều người châu Á.
- Các gia đình là nơi tiếp nhận đồng thời là kênh truyền dẫn văn hóa, vì thế, thật đáng lo ngại trước sự tác động của nền văn hóa thế tục đang lan tràn trong các gia đình Á châu. Thông thường các thành viên có học thức trong các gia đình là những người đầu tiên tiếp nhận nền văn hóa thế tục, bởi họ có thể sử dụng các công cụ truyền thông xã hội. Nhưng thứ văn hóa này cũng đang tràn xuống đến tầng lớp bình dân từ truyền hình, truyền thanh địa phương và loại điện ảnh bắt chước phương Tây, khiến các giá trị và hình ảnh gia đình, cuộc sống phương Tây đang từng bước trở thành tiêu chí đối với người nghe, người xem. Thật trớ trêu, các công cụ truyền thông xã hội như truyền hình, vi tính, internet, điện thoại di động lẽ ra được dùng để giao tiếp và củng cố các mối quan hệ trong gia đình thì lại thành trở lực khi mọi người trong gia đình ít dành thời gian cho nhau. Những ngày lễ, bữa ăn trong gia đình, các dịp cùng nhau vui chơi ít dần đi. Rõ ràng những ảnh hưởng tiêu cực như vậy đang làm tăng thêm các vụ li dị, đổ vỡ gia đình, thiếu niên phạm pháp cũng như làm sa sút nền nếp gia đình.
- Hơn nữa, toàn cầu hóa văn hóa còn tạo ra những hình thức bần cùng mới. Nền công nghệ mới và những cách thức mới nhằm cải thiện việc học, kể cả lối sống hiện đại, thì đều vượt khỏi tầm tay các gia đình nghèo. Như vậy ngoài sự bần cùng về vật chất, tình trạng nghèo đói về kiến thức và sự tiếp cận kiến thức đang đẩy thêm các gia đình nghèo ra ngoài lề xã hội. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gọi hiện tượng này là sự nghèo đói không phải của những “người nghèo” mà của những người không được hiểu biết. Nếu sự giàu có của những nước công nghiệp được đặt trên nền tảng “sở hữu các bí quyết, công nghệ và kỹ năng” hơn là các nguyên liệu tự nhiên[9], thì sự nghèo đói của các quốc gia khác có thể được giải thích là do thiếu loại giàu có mới này. Ngoài ra chúng ta cần nhận ra còn hơn cả cái nghèo về kinh tế và kỹ thuật, đó là cái nghèo về tinh thần, về những xác tín và giá trị của tôn giáo và đạo đức[10].
- Chúng ta cũng phải lưu ý một trong những phản ứng trên một số lĩnh vực trước những thay đổi đáng lo ngại về văn hóa do toàn cầu hóa gây ra là việc quay về với chủ nghĩa giáo điều. Xem ra điều này mang lại cho những người chủ trương cách giải quyết rõ rệt và dứt khoát trước những vấn đề cuộc sống, như các vấn đề phức tạp của công bằng và bác ái, hôn nhân, gia đình, các mối quan hệ liên tôn, chính trị và chính quyền. Nhưng rốt cục, chủ nghĩa giáo điều chỉ đưa đến tinh thần bất khoan dung, kể cả bạo lực, ngày càng sinh ra sự căng thẳng cho các nước châu Á.
6. Chế độ gia trưởng trong các gia đình và xã hội tại châu Á
- Nói về vai trò của phụ nữ và nam giới trong xã hội và gia đình tại châu Á, thật đáng buồn, chế độ gia trưởng vẫn còn là yếu tố quyết định. Trong tiếng latinh,paternitas(gia trưởng) có chữ “pater” nghĩa là cha, và từ này có ý nghĩa tiêu cực. Nhưng trong cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, từ “pater” (cha) được sử dụng dưới ánh sáng cảm nghiệm về Đấng Abba của Chúa Giêsu, về mối tương quan tình yêu con thảo của Người đối với Thiên Chúa, cho nên không còn mang các yếu tố áp đặt, đè nén nữa. Quả thật, ngày nay cần phải khôi phục ý nghĩa của từ “pater” (cha) trong Tin Mừng, vốn diễn tả tình thương yêu độ lượng và tha thứ của người cha qua dụ ngôn của Chúa Giêsu về người con hoang đàng, cũng như tình yêu trổi vượt được thể hiện trong kinh “Lạy Cha, mối quan hệ người làm đầu-kẻ làm tôi đã được chính Chúa Giêsu nêu gương khi Người rửa chân cho các môn đệ. Như vậy, có thể biểu thị “tình phụ tử” hoặc “uy quyền người cha” mà không cần phải ra vẻ gia trưởng. Ngày nay cũng như trong xã hội Do Thái và Hy-La thời xưa, chế độ gia trưởng có hàm nghĩa tiêu cực. Nghĩa là thái độ gia trưởng đã đi vào các cấu trúc xã hội, và về cơ bản, đã hình thành tính chất bất bình đẳng giới và vai trò ăn trên ngồi trốc của nam giới. Thế giới quan gia trưởng đã ăn sâu vào tiềm thức tôn giáo và văn hóa của châu Á, chi phối các mối quan hệ giữa người với người, các quan hệ kinh tế và chính trị, nuôi dưỡng những cách nhìn nhận và thực hành, những định kiến về nam giới và nữ giới, những vai trò trong cộng đồng, v.v… Chế độ gia trưởng cho rằng đàn ông gan dạ, mạnh mẽ, có quyền và là kẻ đứng đầu. Đây chính là nền tảng của chủ nghĩa xô-vanh nam giới và tính độc đoán của người đàn ông trong gia đình. Mặt khác, chế độ gia trưởng quan niệm phụ nữ thì hiền lành, phục tùng và là người lệ thuộc. Coi phụ nữ là ăn theo, nên nhìn chung, đã hình thành kiểu xử sự thiên vị nam-nữ, con trai-con gái. Chẳng hạn, chính từ cái nhìn gia trưởng như thế, nên khi người chồng không sống trung thành với vợ, người cha vô trách nhiệm đối với con cái thì dễ dàng được bỏ qua, tha thứ hơn là một người vợ, người mẹ.[11]
- Ở một số nước, chế độ gia trưởng còn biểu lộ một điều rất tệ hại, đó là việc chọn lựa giới tính khi mang thai. Tại các quốc gia này, việc chọn sinh con trai đã gây nên tình trạng mất quân bình nghiêm trọng về giới tính trong dân số. Thật đáng buồn, khoa học đã tiếp tay cho chủ nghĩa gia trưởng tệ hại này qua việc xác định và chọn lựa giới tính của thai nhi trước khi sinh, dẫn đến việc phá bỏ hàng vạn thai nhi nữ.
7. Phụ nữ và bé gái
- Việc thừa nhận sự bình đẳng về những phẩm giá cơ bản, việc đạt được sự cân bằng trong phát triển và thành quả về giáo dục cũng như trong việc trợ giúp các gia đình đã từng bước thách đố vai trò truyền thống đầy quyền lực của người chồng trong các gia đình tại châu Á. Quả thực, trong những thập niên vừa qua, vai trò của người phụ nữ từng bước được nâng lên. Đối với những phụ nữ thuộc các tầng lớp nghèo trong xã hội, phần lớn việc học nghề không phải là một chọn lựa xu thời, mà do sức ép kinh tế phải ra khỏi nhà tìm việc làm, kiếm tiền nuôi con, trang trải chi tiêu trong gia đình, nhất là khi chồng và con trai không còn kiếm đủ tiền nuôi sống gia đình. Do đó vai trò nội trợ và nuôi dạy con cái của các bà mẹ và các cô con gái được chuyển giao cho người khác. Thật đáng tiếc, việc thay đổi các vai trò này đơn thuần chỉ là chuyển giao trách nhiệm truyền thống đối với gia đình cho những người có hoàn cảnh kinh tế kém hơn, chẳng hạn những người giúp việc hoặc những người nghèo khổ trong họ hàng. Đây chính là trường hợp các bà mẹ làm việc toàn thời gian tại các trường học hoặc công sở nhà nước. Sự biến động về trách nhiệm nội trợ của người phụ nữ đặc biệt thấy rõ ở các vùng đô thị, nơi việc chăm sóc trẻ nhỏ, nhà cửa được giao phó cho các vú nuôi, người giúp việc, kể cả ông bà nội ngoại, khi các bà vợ phải đi làm toàn thời gian với các ngành nghề chuyên môn họ đã chọn như bác sĩ, y tá, kỹ sư, dạy học, luật sư, doanh nhân, v.v…
- Tuy vậy, việc từng bước thay đổi hướng đến sự bình đẳng và hợp tác trong mối quan hệ vợ chồng cũng đã không ngăn được tình trạng phụ nữ bị đánh đập và chịu những hình thức phân biệt đối xử, ngược đãi trong gia đình cũng như nơi làm việc. Đáng tiếc tại một số quốc gia châu Á, việc đánh đập vợ và con gái đã thành tập quán, nhất là ở vùng nông thôn. Tại những quốc gia này, ngoài việc phải đáp ứng tập tục đòi của hồi môn nặng nề, gắt gao, những người phụ nữ về nhà chồng còn phải tự mình tỏ ra xứng đáng trở thành thành viên của gia đình và họ hàng bên chồng. Con trai thì được chiều chuộng, còn con gái thì ngay từ nhỏ đã bị phân biệt đối xử.[12]Thậm chí bé gái có thể bị giết lúc mới sinh ra. Cuối cùng, tại nhiều nơi ở châu Á, việc buôn bán phụ nữ nhằm kinh doanh tình dục nội địa cũng như bán ra nước ngoài đã không còn là hiện tượng họa hiếm, thậm chí cũng không loại trừ việc buôn bán trẻ em. Tất cả những thách đố mục vụ này đang đòi phải có những đáp ứng mục vụ thích hợp.
- Chúng tôi ghi nhận những phát triển tích cực mà những hình thức khác nhau của các phong trào giải phóng phụ nữ đã đạt được tại châu Á. Các phong trào này đã lôi kéo sự chú ý của công luận đối với các vấn đề về bạo lực trong gia đình, phá các bào thai nữ và đòi phải có sự bình đẳng hơn nữa giữa nam và nữ, chồng và vợ, con trai và con gái. Tại tất cả các quốc gia châu Á, phụ nữ, đặc biệt là những người mẹ, đang hoạt động cho công cuộc giải phóng xã hội qua cuộc vận động chính trị-xã hội, hợp tác xã, ngân hàng nông thôn (Grameen) dành cho người nghèo, công nghệ phù hợp, xóa nạn mù chữ và các chương trình về sức khỏe, v.v…
8. Người trẻ trong gia đình
- Không còn nghi ngờ gì nữa, với sự xâm nhập của công nghệ thông tin và phương tiện truyền thông đại chúng, nền văn hóa hậu hiện đại đang thịnh hành, có cả mặt tốt lẫn mặt xấu, đang len lỏi vào tận các gia đình, nhất là đang tác động đến giới trẻ. Người trẻ có nhiều cơ hội học hỏi hơn, đồng thời cũng dễ dàng bước vào thế giới truyền thông hơn người lớn. Thế giới truyền thông có mặt tốt lẫn mặt xấu, có thể mang lại điều lành và cũng có thể mang lại điều dữ. Người trẻ giao tiếp với người khác bằng ngôn ngữ của văn hóa kỹ thuật. Vì thế trong gia đình rất cần phải có thời gian chất lượng. Đó là thời gian dành cho việc làm chủ và khám phá căn tính của mình. Chính gia đình mang lại sự vững vàng cho người trẻ. Khi không được cha mẹ hướng dẫn, người trẻ sẽ hấp thu thứ văn hóa mới vốn nhiều khi họ không ý thức được. Kết quả là, nền văn hóa đang xuất hiện sẽ tạo ra những khoảng cách về giá trị giữa người già và người trẻ. Thậm chí chính người trẻ cũng có thể thấy mình đang gặp khủng hoảng các giá trị. Họ thấy mình bị giằng xé giữa các giá trị trong kho tàng của gia đình truyền thống nhưng không hẳn bao giờ cũng mang tính tích cực, và các giá trị thế tục được phát trên các diễn đàn bên ngoài gia đình mà chưa hẳn luôn mang tính tiêu cực. Khi các mối quan hệ trong gia đình trở nên sa sút, thì những diễn đàn bên ngoài gia đình sẽ là nơi để người trẻ tìm đến, có khi lại sử dụng ma túy mà nạn nhân cứ lầm tưởng sẽ giúp họ quên đi đau khổ.
- Như các Đại hội trước đây của FABC đã từng lưu ý, giới trẻ tại châu Á thường là lực lượng đi đầu trong cuộc cải cách tôn giáo và xã hội tại nhiều quốc gia, dẫn dắt công cuộc giải phóng và các phong trào xã hội, tham gia các phong trào canh tân trong Giáo Hội và xuất hiện như những người lãnh đạo trong các chương trình mục vụ của Giáo Hội cũng như tại các cộng đoàn Giáo Hội cơ bản. Việc xác định căn tính của Giới trẻ châu Á là một trong năm ưu tiên chính về mục vụ[13]sẽ củng cố niềm hy vọng của người trẻ và cho người trẻ. Châu Á đang là lục địa của tuổi trẻ. Giới trẻ không chỉ là tương lai mà còn là hiện tại của Giáo Hội tại châu Á.
9. Lao động trẻ em
- Một hiện tượng khác đang tác động lên châu Á là việc sử dụng rộng khắp lao động trẻ em. Do nghèo đói và tình trạng bất bình đẳng, hàng triệu trẻ em đang bị buộc phải tham gia lao động. Hiện tượng này hẳn xuất phát từ nhãn quan văn hóa, qua đó cha mẹ coi con cái “thuộc quyền sở hữu” của mình và được sử dụng để sinh lợi cho gia đình. Vì vậy, chính cha mẹ là người cho phép, hoặc thậm chí, khuyến khích con cái làm những nghề vặt vãnh trên đường phố, nhà máy, cửa hàng nhằm kiếm thêm thu nhập, thức ăn cho gia đình và trang trải học phí cho mình.[14]Hệ quả tất yếu của việc trẻ em phải lao động là, các em không được nuôi dạy và phát triển toàn diện, nhiều em mù chữ, suy dinh dưỡng, bị cha mẹ bỏ rơi, sống lang thang nơi vỉa hè, không nhà cửa, sống thiếu cha mẹ, vì thế số tội phạm vị thành niên chiếm tỉ lệ cao.
10. Sinh thái
- Tình trạng xuống cấp về môi trường cũng tác động tiêu cực đến các gia đình tại châu Á. Việc hy sinh sự cân bằng sinh thái lâu dài cho lợi ích kinh tế trước mắt đã hủy diệt rừng và nguồn nước một cách có hệ thống, không gì ngăn lại được. Hạn hán, lũ lụt là hậu quả của sự tàn phá này, và đất đai thì không còn đem lại năng suất như trước. Hiệu quả sản xuất nông nghiệp của các gia đình nông thôn giảm sút thấy rõ. Tại các vùng đô thị sầm uất của châu Á, sự xuống cấp về môi trường mang một hình thức khác. Ô nhiễm không khí và việc quản lý chất thải kém là những vấn đề chính, gây ra nhiều loại bệnh, nhất là về đường hô hấp, đặc biệt đối với những gia đình nghèo ở thành thị, khiến chất lượng sống của họ ngày càng giảm sút thêm.
11. Các chương trình dân số
- Vả lại, các chương trình dân số của chính phủ đặc biệt nhắm đến những gia đình nghèo. Mục tiêu tổng quát, như vẫn được tuyên bố, là nhằm đến một dân số lành mạnh và giảm dân số trước tình trạng giảm sút sản lượng lương thực. Giả thuyết Malthus về ngày tận thế vẫn còn ảnh hưởng nhiều đến tư duy chính thức của nhà cầm quyền, bất chấp quan điểm mang tính khoa học của các kinh tế gia đã cho thấy giả thuyết này về cơ bản chỉ là một huyền thoại vốn đã bị vấn đề dân số và xu hướng sản xuất lương thực trong ba thập kỷ vừa qua bác bỏ.
- Lộ trình kinh tế và chính trị của các nước phát triển đối với dân số các nước nghèo dường như không phải là chuyện công khai. Nhưng điều hiển nhiên là, sự viện trợ nước ngoài dành cho việc phát triển đòi các quốc gia đang phát triển phải đưa các biện pháp giảm dân số trở thành luật. Những biện pháp này nhằm vào việc ngừa thai nhân tạo và hợp pháp hóa việc phá thai, ít nhất trong một số trường hợp. Xuất phát từ chủ nghĩa tân tự do và thế tục, rõ ràng các biện pháp này đang cổ võ cho “nền văn hóa sự chết”. Não trạng chỉ nghĩ đến việc ngừa thai và quan hệ tình dục trước hôn nhân nơi người trẻ và sự phổ biến ngày càng rộng rãi thứ văn hóa thế tục không phải không có liên quan với nhau.
- Hơn nữa, khi đề ra chương trình kiểm soát dân số, người ta cho rằng việc nhiều người châu Á di cư đến các nước để tìm kế sinh nhai tốt đẹp hơn như lời đồn đãi là một mối đe dọa về kinh tế và đôi khi cả về an ninh nữa. Mặt khác, nhiều quan sát viên châu Á cho rằng, khi nhằm mục tiêu vào người nghèo, các chương trình giảm dân số của các chính phủ dễ dàng gạt ra ngoài nhiệm vụ khó khăn là cải cách việc xóa đói giảm nghèo về phương diện cơ cấu và xã hội, điều này đòi hỏi phải phân phối các nguồn lực một cách công bình và tạo điều kiện bình đẳng cho việc tiếp cận các thành quả của sự phát triển. Trái lại, tại Hàn Quốc và Nhật Bản, tình hình số sinh ở mức rất thấp và dân số già đi đang tạo ra những vấn đề lớn liên quan đến việc giảm sút lực lượng lao động và các dịch vụ công cộng dành cho người về hưu. Hiện các quốc gia này đang tìm cách tăng dân số.[15]
- Qua các chương trình dân số của chính phủ, các tổ chức vận động hành lang có thế lực liên kết với các tổ chức quốc tế chính thức, các tổ chức tư nhân và bán công tại các quốc gia châu Á đang tác động lên trên công luận và chính quyền để chấp nhận các tư tưởng tự do và thế tục về sự sống con người, về gia đình, trẻ em và hôn nhân. Vì thế đã diễn ra việc định nghĩa lại thời điểm thụ thai sự sống con người, việc kết liễu sự sống con người chưa sinh ra, bản chất của hôn nhân giữa người nam và người nữ cũng như lời cam kết sống trọn đời với nhau, ý nghĩa của sức khỏe phụ nữ, khái niệm “quyền con người” đối với thân xác liên quan đến sự chọn lựa sự sống con người. Hiện nay, qua một số phong trào giải phóng tại phương Tây cũng như tại các nơi ở châu Á chịu ảnh hưởng phương Tây, qua phương tiện thông tin đại chúng và luật pháp, tại châu Á đã xuất hiện những tư tưởng triết học phương Tây đi ngược lại một số giáo lý nền tảng nhất của Giáo Hội.
12. Gia đình và HIV / AIDS
- Mối lo ngại HIV / AIDS ở châu Á là một lý do mà các chương trình dân số của chính phủ nêu lên để cổ động “tình dục an toàn” và sử dụng biện pháp ngừa thai nhân tạo. Do đó, một cách có ý đồ, cuộc vận động kiểm soát dân số đã biến vấn đề “tình dục an toàn” thành vấn đề chính trị và y tế với việc sử dụng từ ngữ hàm hồ “quyền có sức khỏe sinh sản”. Làm vậy rất tiện cho việc bỏ qua khía cạnh đạo đức của vấn đề.
- Quả thật, chúng ta cần nhận ra HIV / AIDS là một căn bệnh hiểm nghèo đang đánh mạnh vào nhiều quốc gia châu Á. Căn bệnh này vẫn đang xuất hiện nhiều dấu hiệu đáng lo ngại về thảm họa số người Á châu bị nhiễm bệnh tăng lên với tỉ lệ khủng khiếp. Do đó Giáo Hội tại châu Á đang phải đối đầu với dịch bệnh này trên nhiều tuyến của hoạt động mục vụ -về y tế, qua việc chăm sóc nhân đạo đối với các nạn nhân HIV / AIDS và gia đình của họ; về chính trị, qua sự tác động mang tính nguyên tắc đối với các nhà lập pháp; và về đạo đức, qua việc giảng dạy và cổ võ không ngừng giáo thuyết của Hội Thánh về luân lý, đặc biệt trong lãnh vực xã hội có liên hệ đến các vấn đề dính dáng tới HIV / AIDS, các gia đình cũng phải đối mặt với các vấn đề y tế khác có liên quan đến đạo đức, y học và mục vụ. Do đó, Giáo Hội đứng trước những thách đố, chẳng hạn cần phải mang đến cho những người nghiện ma túy sự săn sóc mọi mặt về sức khỏe một cách thích đáng.
13. Gia đình trong những cuộc xung đột
- Nhiều nơi tại châu Á, những cuộc xung đột vũ trang bắt nguồn từ nhiều lí do đã ảnh hưởng đến hằng trăm ngàn gia đình. Những gia đình này thường xuyên phải rời bỏ nhà cửa bởi những cuộc đụng độ quân sự lẻ tẻ hoặc kéo dài. Sợ hãi, căng thẳng, lo âu, bất an là tình cảnh nơm nớp của nhiều bậc cha mẹ khi nghĩ đến sự an toàn và tương lai của gia đình. Việc học hành của con cái bị gián đoạn hoặc phải bỏ học. Bệnh tật luôn rình rập các gia đình đang cố xoay xở trong điều kiện khốn cùng của các trại sơ tán. Sâu xa hơn nữa, các gia đình di tản phải cay đắng hứng chịu các thành kiến, định kiến, những quan điểm và thái độ, các giá trị đang là tâm điểm của những xung đột chính trị, kinh tế, ý thức hệ, sắc tộc và tôn giáo tại châu Á. Chủ nghĩa công xã và chủ nghĩa giáo điều là những chiều kích của các cuộc xung đột này. Có nhiều khả năng trẻ con thời chiến lớn lên sẽ trở thành những người gánh vác cuộc chiến tranh trong tương lai, mang vào ngày mai những mầm mống xung đột mà cha mẹ chúng đã khắc ghi trong tâm trí. Tuy nhiên cũng đáng mừng là tại một số quốc gia đang có xung đột, chính những người mẹ đang phải chịu gánh nặng và đau khổ vì cuộc xung đột lại đang vận động cho hòa bình. Các phụ nữ, thực tế là những người mẹ, đang can đảm ấp ủ, săn sóc, bén nhạy trước những nhu cầu, thiết tha yêu chuộng hòa bình, đã giữ vai trò đặc biệt trong việc thúc đẩy hòa bình, phản đối chiến tranh.
14. Di truyền sinh học đang đe dọa sự sống
- Ngày nay những tiến bộ khoa học hết sức nhanh chóng đã mở mang tầm hiểu biết của chúng ta về sự sống con người và không ngừng mang lại những thông tin khoa học có giá trị. Dự án nghiên cứu hệ gien của loài người có khả năng mang lại lợi ích to lớn cho nhân loại. Trong tương lai những căn bệnh nan y nhất có thể sẽ được chữa khỏi. Trong ánh sáng đức Tin, những tiến bộ này càng khiến chúng ta vô cùng ngạc nhiên trước quyền năng sáng tạo vô biên của Thiên Chúa. Mặt khác, từ những phát triển lớn lao về khoa học và công nghệ, đã nảy sinh các vấn đề sâu xa thuộc đạo đức sinh học về sự linh thánh và phẩm giá của sự sống từ lúc mới bắt đầu và liên quan đến trách nhiệm quản lý của con người đối với sự sống được Chúa ban cho.
- Ngay khi việc sản xuất tế bào gốc phôi người bằng sinh sản vô tính lần đầu tiên công bố, ngay lập tức chúng được coi là có khả năng chữa bệnh và thay thế các bộ phận nhiễm bệnh. Các tế bào gốc phôi người có nguồn gốc từ phôi người được sản xuất nhằm mục đích chữa bệnh cũng như sinh sản đều được thực hiện bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Hàng ngàn phôi người được dùng để sản xuất tế bào gốc đã bị phá hủy. Các nhà nghiên cứu Hàn Quốc cho biết đã sản xuất thành công tế bào gốc phôi người. Năm 2003, Hội đồng Giám mục Nhật Bản đã gửi bản nhận định đến Nhóm phụ trách Đạo đức sinh học của chính phủ và phản đối việc sản xuất phôi người nhằm mục đích nghiên cứu và sinh sản vô tính nhằm mục đích điều trị. Các cuộc tranh luận đã liên tục diễn ra sôi nổi giữa các nhà khoa học, các nhà thần học luân lý, các nhà đạo đức và các lãnh đạo tôn giáo. Công cuộc phát triển này không xa lạ với châu Á, bởi một số quốc gia châu Á hiện đang diễn ra các cuộc thử nghiệm. Một thực tế đáng lo ngại hơn, chính là những tư tưởng đối nghịch với giáo huấn của Hội Thánh hiện đang được sử dụng để biện minh cho việc sản xuất và phá hủy các phôi người, coi phôi người chỉ là chất liệu người, không phải là con người. Ngành di truyền học đang rơi vào thuyết ưu sinh, chủ trương dùng khoa học để sản sinh có chọn lọc các siêu nhân hoặc “các em bé theo thiết kế”, tạo ra một chủng tộc ưu đẳng, đây chính là điều đáng lo ngại khi con người đang lộ rõ tham vọng muốn đóng vai Thiên Chúa.
- Việc nhân bản phôi người và sản xuất tế bào gốc từ phôi người bằng cách phá hủy phôi người rõ ràng đã xúc phạm nặng nề đến phẩm giá con người và tính chất thánh thiêng của sự sống con người. Ngay cả khi nhằm mục đích có thể tốt như chữa bệnh hoặc sinh sản, thì việc sản xuất, can thiệp bằng thủ thuật và phá hủy phôi người để có được tế bào gốc từ phôi người thì về mặt luân lý không thể nào chấp nhận được.[16]“Tòa Thánh ủng hộ việc nghiên cứu về tế bào gốc phôi người sau khi sinh, vì cách tiếp cận này -như những nghiên cứu gần đây cho thấy- là cách thức đúng đắn, hứa hẹn và hợp đạo đức để thực hiện việc cấy ghép và điều trị tế bào có thể mang lại lợi ích cho nhân loại”.[17]Giáo Hội chủ động đưa ra lập trường và luôn cảnh giác trước những phát minh như thế đang xâm nhập ngôi nhà châu Á.
15. Gia đình và các cộng đoàn cơ bản của Giáo hội / con người
- Một trong những phát triển thực sự có ý nghĩa tích cực là nhận thức ngày càng tăng về vị trí và vai trò của gia đình trong việc xây dựng những cộng đoàn cơ bản của Giáo Hội/ Con người, hướng đến một cách thế hiện diện mới của Giáo Hội. Gia đình là tế bào cơ bản của xã hội đồng thời là cộng đoàn cơ bản của Giáo Hội, là Giáo Hội tại gia.[18]Hiện nay, tại châu Á, ngày càng thấy rõ gia đình phải là trọng tâm của công cuộc Phúc âm hóa toàn diện và góp phần chủ yếu xây dựng cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng như Giáo Hội địa phương nói chung. Nói cách khác, Giáo Hội bắt đầu từ gia đình, không phải tại giáo xứ, do đó, cần phải đặt lại vấn đề các chương trình mục vụ. Nhiều cách tiếp cận vấn đề xây dựng những cộng đoàn nhỏ hình thành giáo xứ đã có những chú ý đối với gia đình và các nhóm gia đình, chính vì thế tất cả các chương trình mục vụ đều nhắm vào việc xây dựng đời sống gia đình.
16. Tóm lại
- Chúng tôi đã xem xét những tác động đối với tình hình mục vụ. Có những tác động hủy diệt và có những tác động mang lại sự sống. Nền văn hóa thế tục, hậu hiện đại đang xuất hiện, nói cho cùng, gồm cả mặt tốt lẫn mặt xấu. Nền văn hóa này có những mặt tích cực đóng góp cho sự phát triển tích cực nền văn hóa sự sống toàn diện. Những yếu tố văn hóa, kinh tế, chính trị, tôn giáo – bao gồm các cơ cấu – tác động đến các gia đình ở cả hai khía cạnh tốt và xấu. Những tác động như nghèo đói, chia rẽ, xung đột, bóc lột và các cơ cấu áp chế tại châu Á lại đang được thúc đẩy bởi quá trình toàn cầu hóa về kinh tế và văn hóa, đều là những tác động hủy diệt. Chúng không những đe dọa đến chất lượng sống mà còn đến sự sống còn của nhiều gia đình châu Á. Ngay cả bản thân sự sống cũng đang bị những phát triển ngành di truyền học đe dọa. Hẳn nhiên, tập quán phân biệt giai cấp, gia trưởng và bất bình đẳng giới, tình trạng đói nghèo, lao động trẻ em, các vấn đề đất đai, sự xuống cấp môi trường sinh thái và những xung đột xã hội chính là những tác động hủy diệt. Các tác động đe dọa này đang làm mất đi những giá trị gia đình truyền thống của châu Á, như: quan hệ gắn bó giữa mọi người trong đại gia đình, lòng yêu thương trẻ nhỏ, tôn kính và chăm sóc người già, sống hòa thuận, ý thức sâu sắc về đạo đức và tôn giáo, rất quý trọng sự sống và chăm sóc sự sống ngay khi còn trứng nước, cung kính những gì là thánh thiêng. Những tác động hủy diệt cũng đe dọa quan niệm tôn giáo của chúng ta về nguồn gốc và bản chất sự sống cũng như bản chất và cấu trúc của gia đình và hôn nhân. Chúng đi ngược lại ý thức trách nhiệm phải gìn giữ sự sống vốn không hề bị gián đoạn từ lúc thụ thai đến tận lúc chết, ngược lại với tính chất thánh thiêng của hôn nhân giữa người nam và người nữ, và ngược lại với mục đích đã được Chúa ấn định cho hôn nhân. Nói tóm lại, tình hình mục vụ tại châu Á, dù thuận lợi hay không thuận lợi, cũng phải có ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống, sự hiệp nhất và hòa thuận, sự hiệp thông và liên đới của các gia đình tại châu Á, những giá trị của Nước Trời được Chúa ấn định cho toàn thể tạo vật, tuôn trào từ tình yêu và sự sống của Thiên Chúa, từ giao ước Chúa đã thiết lập với loài người. Những giá trị Kinh Thánh này chính là đề tài suy tư về thần học-mục vụ của chúng tôi.
- Bối cảnh hiện nay thực sự là một thách đố lớn đối với mục vụ gia đình của Giáo Hội tại châu Á. Gần hai mươi năm trước, các giám mục tại châu Á đã nói:
“Có lẽ thách đố lớn nhất đối với Giáo Hội tại châu Á chính là thách đố được đặt ra cho các gia đình. Các gia đình châu Á như một chiếc thùng chứa mọi vấn đề của châu Á: đói nghèo, áp bức, bóc lột, xuống cấp, chia rẽ và xung đột. Gia đình chịu ảnh hưởng trực tiếp các vấn đề tại châu Á: tôn giáo, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa cũng như các vấn đề liên quan đến phụ nữ, sức khỏe, công ăn việc làm, kinh doanh, giáo dục, v.v…[19]
- Vì thế, chúng tôi muốn gửi đến anh chị em những vấn đề mục vụ sau: Giáo Hội tại châu Á, đặc biệt Hội Thánh tại gia, có thể giải quyết một cách thích đáng những thách đố mục vụ được nói ở trên? Bằng cách nào, về mặt mục vụ và thần học, Giáo Hội suy tư một cách thích đáng về các tác động hủy diệt và những tác động mang lại sự sống tại châu Á đang ảnh hưởng lên cuộc sống, sự hiệp nhất, hiệp thông và tình liên đới của các gia đình châu Á? Làm thế nào các chương trình mục vụ của Giáo Hội mang lại ảnh hưởng cho các gia đình châu Á?
PHẦN II: SUY TƯ THẦN HỌC – MỤC VỤ
1. Khuôn khổ và tiến trình suy tư
- Mục đích của suy tư thần học-mục vụ này nhằm giúp mang lại câu trả lời của đức Tin cho những vấn đề nêu trên. Suy tư này dựa trên sự chiêm nghiệm các dữ liệu được Kinh Thánh và Giáo huấn của Hội Thánh mang lại[20], luôn lưu tâm đến những đặc điểm hoạt cảnh mục vụ đang thách đố sứ vụ Phúc âm hóa của Giáo Hội.
- Nhìn chung khuôn khổ suy tư gồm: Sự sống, Hiệp thông, Liên đới và Sứ vụ, với những trọng tâm sau đây:
- Trước tình hình nền văn hóa sự chết đang diễn ra tại châu Á, chúng ta đáp lại bằng cách trình bày nhãn quan của nền văn hóa sự sống toàn diện, đặc biệt hướng tới hôn nhân và gia đình. Chúng ta hình dung nền văn hóa sự sống toàn diện được tập trung vào giao ước sự sống với Thiên Chúa, gồm những giá trị của Nước Thiên Chúa như tình yêu, sự hiệp thông và liên
đới giữa những cá nhân, gia đình và xã hội.
- Chúng ta giới thiệu nền văn hóa sự sống toàn diện này là quà tặng đồng thời là trách nhiệm được Thiên Chúa trao nơi và qua Đức Giêsu, Đấng đã nâng sự sống con người lên hàng Thiên Chúa và chia sẻ sự sống đó cho chúng ta trong Hội Thánh nhờ Chúa Thánh Thần.
- Chúng ta suy tư về bản thân Giáo Hội như Gia đình của Thiên Chúa đang phục vụ như một dấu chỉ đồng thời là lời hứa về sự sống toàn diện trong Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa được Người loan báo chính là câu trả lời đức Tin của chúng ta đối với văn hóa sự chết đang đe dọa mọi giá trị Tin Mừng vốn gia đình được nhận lãnh ngay từ thuở ban đầu. Chúng tôi tin rằng, đặt dưới ánh sáng về bản chất đa nguyên của nhiều gia đình châu Á, điểm nhìn này rất có ý nghĩa.
- Hơn nữa chiêm niệm về quan điểm Kitô giáo, chúng ta suy nghĩ về bản chất của hôn nhân và gia đình được Chúa phú ban dưới ánh sáng những giá trị nền tảng của giao ước, tình yêu, sự hiệp thông và liên đới. Động cơ suy tư của chúng ta là xem xét gia đình không chỉ đơn thuần là đối tượng của Phúc âm hóa và dẫn đến việc nhận ra căn tính của mình, mà quan trọng hơn, còn là chủ thể của việc truyền giáo trong chính gia đình mình (missio ad intra) và truyền giáo cho những người ngoài gia đình(missio ad extra) –hướng đến nền văn hóa sự sống toàn diện của Nước Thiên Chúa.
- Nhằm bảo đảm cho suy tư của chúng ta không rơi vào trừu tượng và không sinh ơn ích, chúng tôi liên hệ đến một số thách đố lớn về xã hội, văn hóa và Giáo Hội tại châu Á.
- Điểm suy tư cuối cùng của chúng tôi về gia-đình- truyền-giáo hướng đến nền văn hóa sự sống toàn diện không tách rời những trọng tâm vừa đề cập trên đây. Đó là suy tư về nền linh đạo cần thiết cho các gia đình châu Á trong việc thực thi căn tính của mình và chu toàn sứ mạng truyền giáo.
2. Nền văn hóa sự sống toàn diện
- Dù nền văn hóa mới đang được hình thành chắc chắn có những đóng góp tích cực cho thế giới, thì cũng đặt ra một thách đố với với các gia đình tại châu Á phải Phúc âm hóa và mang lại tự do bằng cách làm cho nền văn hóa này trở thành nền văn hóa của sự sống toàn diện và không gây thiệt hại cho sự sống toàn diện của con người. Hiển nhiên những truyền thống lâu đời về triết học và tôn giáo tại châu Á sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu nền văn hóa sự sống và mối đe dọa nghiêm trọng đối với nền văn hóa này. Và chắc chắn sẽ có nhiều điểm tương đồng trong nhận thức. Tuy nhiên suy tư của chúng ta về thần học và mục vụ sẽ phải khởi đi từ cái nhìn đức Tin của mình. Từ nhãn quan này, chúng ta cần nhận biết và trân trọng, với sự cảm nghiệm mang tính toàn diện, đối với sự sống con người, nghĩa là, sự sống như vốn có và với phẩm giá gắn liền với sự sống, sự sống được Thiên Chúa ban tặng[21]và được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa[22], sự sống đang diễn ra hôm nay trong cuộc tranh đấu không ngừng hướng đến sự an bài đời đời dành cho sự sống[23], sự sống viên mãn[24]trong Nước Chúa đang đến. Từ nhãn quan toàn diện này, cùng với Hội Thánh khắp nơi, chúng tôi lên án tất cả những gì tước đoạt phẩm giá con người, bóc lột và đè nén sự sống con người. Bất cứ hoàn cảnh, mối quan hệ, cơ cấu, tình huống, lối ứng xử và hành động nào đang đe dọa và làm sự sống bị kiệt quệ cũng đều là hiểm họa[25] – thuộc về văn hóa sự chết. Chúng chống lại ý muốn của Thiên Chúa và Vương quốc của Ngài. Trái lại văn hóa sự sống toàn diện thì tôn trọng, nuôi dưỡng, tặng cường, cổ võ và phục vụ mọi chiều kích của sự sống con người, từ lúc kết thúc hành vi sinh sản và giây phút thụ thai, trải qua cuộc đời tranh đấu trên trần thế đến khi trở về sống trọn vẹn bên Chúa ngày tận thế[26] trong Nước Chúa. Quan điểm này về sự sống toàn diện có những liên hệ sâu xa về ý nghĩa của “phò sinh” và phạm vi của mục vụ gia đình.
- Giao ước tình yêu và sự sống, hiệp thông và liên đới
- Nền tảng của văn hóa sự sống toàn diện, theo Kinh Thánh, là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng dựng nên muôn loài và ban mọi sự sống, đặc biệt là sự sống con người[27]. Trong sách Sáng thế, chúng ta thấy gợi lên việc Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ sự hiệp thông cho loài người: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta… Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”[28]. Như vậy sự sống con người đã bắt đầu nhờ chính tình yêu của Thiên Chúa. Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa nên sự sống là quà tặng của Thiên Chúa. Do đó sự sống của mỗi người, dù nghèo hèn ra sao, cũng vẫn quý báu và thánh thiêng. Rõ ràng trần thuật của Thánh Kinh về công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa đã đặt việc Chúa dựng nên loài người vào vị trí trung tâm. Chúng ta cần nhận ra, nhờ hành động tạo dựng của Thiên Chúa nên toàn thể vũ trụ thực sự là một mạng lưới những mối quan hệ phụ thuộc vào nhau mà con người có trách nhiệm phải coi sóc và phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa là Đấng đã dùng tình yêu mà cai quản, săn sóc. Do đó, ngay từ ban đầu, Chúa đã muốn mọi thụ tạo liên đới với nhau qua việc phụ thuộc lẫn nhau và sống hòa hợp. Đối với con người, sự liên đới luôn là một chọn lựa tự do, do đó ngăn ngừa việc dùng sức mạnh để tạo ra sự liên đới giả tạo.
- Tân Ước cho thấy trọn vẹn ý định này của Thiên Chúa. Tột đỉnh và trung tâm của mọi thụ tạo chính là Đức Kitô, “hình ảnh Thiên Chúa vô hình, trưởng tử của mọi thụ tạo; vì trong Người, muôn vật được tạo thành… nhờ Người và cho Người”[29]. Nhờ Người “Thiên Chúa vui lòng hòa giải mọi vật với mình, dù dưới đất hay trên trời”. Nhờ Người mọi tương quan đã bị đổ vỡ đều được giao hòa, và “nhờ máu Người đổ ra trên Thập giá, Thiên Chúa mang lại bình an”[30].
- Giao ước giữa Thiên Chúa và dân được tuyển chọn trong Cựu ước có ý nghĩa quan trọng đối với nền văn hóa sự sống toàn diện. Thiên Chúa quy định những điều phải được thực hiện để bảo đảm cho sự sống; dân chúng là chủ thể cam kết thực thi ý muốn của Thiên Chúa, trong sự tự do vâng phục. Điều đáng nói là mối tương quan giao ước được diễn đạt bằng những từ ngữ trong đời sống gia đình, kể cả vợ chồng, các mối quan hệ thân mật. Thiên Chúa đã dành cho dân được Ngài tuyển chọn sự chăm sóc, thương yêu khôn tả và hết sức trìu mến: “Ta đưa tay đỡ lấy chúng. Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà dẫn dắt chúng. Ta đã cúi xuống gần chúng và cho chúng ăn”[31]. “Như người mẹ an ủi con mình, Ta cũng sẽ an ủi các ngươi như vậy”[32]. Kể cả ngôn từ diễn tả mối giao tình giữa chú rể và cô dâu cũng được sử dụng[33]. Những lời sau đây cho thấy tình yêu trao ban sự sống của Thiên Chúa cho dân của Ngài thật dịu dàng biết bao: “Ta đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi, ngươi là của riêng Ta… vì trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân trọng và mến thương”[34]. Mối tương quan gia đình mang tính chất giao ước do Thiên Chúa thiết lập với dân riêng được Ngài thể hiện bằng sự kiên nhẫn vô hạn, lòng nhân từ, thương xót, tha thứ và không ngừng kêu gọi canh tân.
- Được Thiên Chúa yêu thương quan phòng, nên dân của giao ước có sự liên đới tích cực với mọi người. Do đó họ có sứ mạng phục vụ mọi người, nhất là những ai thiếu thốn, cô nhi quả phụ và khách kiều cư[35]. Sau hết, khi mối tương quan giao ước đã hoàn toàn bị đổ vỡ do con người ngoan cố bất trung, thì tình yêu ban sự sống của Thiên Chúa hứa sẽ biến đổi triệt để thành một “quả tim mới”, dễ dàng cho Thiên Chúa uốn nắn theo hình ảnh của Ngài[36].
- Rõ ràng, đối với Giao ước cũ, nền văn hóa sự sống toàn diện gồm bốn trọng tâm: sự sống là quà tặng của tình yêu Thiên Chúa; hiệp thông và liên đới với Thiên Chúa và tha nhân; thực thi sứ mạng phục vụ, nhất là phục vụ người nghèo khổ, thiếu thốn, như một đòi hỏi của giao ước; và Thiên Chúa hứa ban sự sống viên mãn. Có thể tìm thấy đầy đủ cái nhìn về sự sống toàn diện trong Cựu ước, nơi chủ đề then chốt về Nước Thiên Chúa trong ngày sau hết, khi đó, người sống chính trực sẽ được cứu thoát và khát vọng của con người sẽ được đáp ứng[37].
- Chúa Giêsu là sự sống: chia sẻ yêu thương, hiệp thông và liên đới
- Cuối cùng, cần phải nhìn trong ánh sáng mầu nhiệm của Chúa Giêsu, mới thấy sự sống chỉ đạt đến ý nghĩa trọn vẹn khi tham dự vào sự sống đích thực của Thiên Chúa. Tình yêu nhưng không của Thiên Chúa luôn tràn ngập và vượt trên tất cả, vì thế Ngài đã sai Con của mình đến mang thân phận loài người chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, để chúng ta được sự sống đời đời[38]. Chúng ta tin Đức Giêsu Kitô là Lời ban Sự Sống[39]. Là Đấng làm Chủ Sự Sống, Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống mình cho mọi người và có thể “lấy lại mạng sống ấy”[40]. Trong mặc khải cuối cùng về mình, Chúa Giêsu nói: “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”[41]. Rồi Người nói về giữ lòng tin, tuân giữ lời của Người và tình yêu thông hiệp mật thiết. “Những ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy yêu mến những người ấy, và chúng ta sẽ đến và ở cùng họ”[42]. Chúa Giêsu chính là Sự Sống, đã loan báo sứ mạng của Người trên trần gian là ban sự sống, liên đới với con người để ban cho họ ơn cứu độ: “Ta đến để chúng được sống và được sống dồi dào”[43]. Người không ngừng liên hệ sứ mạng ban sự sống của mình với Nước Thiên Chúa, Người đặc biệt nói về một vương quốc dành cho những người hèn mọn và khiêm hạ[44], về việc nếu không “tái sinh” sẽ không thể nhìn thấy Nước Thiên Chúa[45]. “Sự Sống”, sự sống toàn diện, chính là những gì các môn đệ đầu tiên đã cảm nghiệm nơi Đức Giêsu và qua Đức Giêsu. Gioan đã miêu tả một cách sống động trải nghiệm của các môn đệ. Những gì các ông đã “nghe”, đã “nhìn”, đã “thấy” và đã “chạm tay vào” hoàn toàn không phải là những thực tại thuần túy vật lý, nhưng thực sự khác hẳn -đó là sự siêu việt- là phẩm chất của sự sống. Đối với các môn đệ, Chúa Giêsu chính là Đấng đã đến để mang lại sự sống dồi dào.
- Chính trong Bí tích Thánh tẩy, Chúa sẽ ban sự sống mới này. Qua Bí tích Thánh tẩy, người tín hữu vượt qua sự chết do tội lỗi gây ra để tiến đến sự sống trong Đức Kitô[46]. Từ Đức Kitô phát sinh “nước hằng sống” sẽ trở nên “suối nước tuôn trào sự sống đời đời”[47]. Hơn nữa Người còn là “bánh ban sự sống”[48]“bởi trời mà đến và mang lại sự sống cho trần gian”[49]. Chúa Giêsu nói về sự Thông hiệp trong Bí tích thánh Thể, mình và máu của Người” “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời; và bánh Tôi sẽ ban cho thế gian được sống chính là thịt của Tôi đây”[50]. “Những ai ăn thịt của Tôi và uống máu của Tôi sẽ được sống muôn đời… Ai ăn thịt Tôi và uống máu Tôi sẽ ở trong Tôi và Tôi ở trong người ấy”[51]. Vì thế tông đồ Phaolô hân hoan: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô”[52]. Còn tác giả sách Phúc âm Gioan nói: “Từ sự sung mãn của Người, chúng ta lãnh nhận mọi sự, hết ơn này đến ơn khác”[53].
- Giao ước sự sống trong thần khí: gia đình của thiên chúa, hội thánh
- Tuy nhiên, tình yêu trao ban sự sống của Chúa Giêsu thì trổi vượt hơn chính mối tương giao cá nhân giữa các tín hữu với Chúa Giêsu. Giao ước tình yêu và sự sống, giờ đây “đã được đóng dấu bằng Máu Thánh Chúa Giêsu”, một lần nữa trở thành cốt lõi trong mối tương giao mới giữa Thiên Chúa và dân mới của đức Tin, những người đã được ban cho điều răn mới. Điều răn mới được Chúa trao ban làm sứ vụ phải thực thi: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là hãy yêu thương nhau. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, nếu các con yêu thương nhau”[54]. Không có mối thông hiệp tình yêu và sự sống nào sâu xa hơn điều này, là chia sẻ với các tín hữu trọn vẹn sự sống của Chúa Giêsu là Mình và Máu Thánh của Người. Tình yêu hiến tế của Người đã gầy dựng một cộng đoàn mới, một gia đình đức Tin được sinh ra trong Thần khí. “Khi Chúa Giêsu sinh thì”, và “trút Thần khí của Người cho Thiên Chúa”, thì trong cùng một hành động, Người cũng “trao lại” Thần khí của mình cho Giáo Hội”[55]. Do đó Giáo Hội được sinh ra như một tạo vật mới[56], làm “người nhà” của Thiên Chúa, gia đình riêng của Ngài[57]được sinh ra từ Thần khí của Đức Giêsu, Thần khí mang lại Sự Sống[58].
- Tiếp đến, sống trong Đức Kitô là sống trong Thần khí[59]. Chỉ đức Tin mới nhận biết được sự sống đó. Thực ra có những dấu chỉ về đời sống có Thần khí. “Hoa trái của Thần Khí là yêu thương, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân hậu, độ lượng, trung tín, hiền hòa và tiết độ”[60]. Thánh Phaolô dùng ngôn ngữ tình yêu diễn tả viễn cảnh về Nước Thiên Chúa khi ngài viết: . Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần”[61]. Ngược lại với sự sống có Thần khí là sống theo xác thịt với “những việc làm của xác thịt”, đó là: “gian dâm, ô uế, phóng đãng, thờ ngẫu tượng, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các điều đó sẽ không được thừa hưởng Nước Thiên Chúa”[62]. Tránh những “việc làm của xác thịt” là một đòi hỏi căn bản của giao ước mới. Thánh Phaolô đúc kết mối tương giao giao ước qua việc nêu lên nhiệm vụ phải yêu mến và phục vụ tha nhân:
Thưa anh em, anh em đã được gọi để được hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo tính xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau. Vì tất cả Lề Luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: ‘Hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi’[63].
- Vì vậy, sống trong Thần khí là sống hiệp thông và liên đới với mọi người và vì mọi người. Sự hiệp thông và liên đới càng tuyệt diệu hơn nữa khi Thánh Phaolô nói Giáo Hội là Thân Thể của Đức Kitô, và nơi Thân Thể này, mọi chi thể đều quan trọng và bổ túc cho nhau. Có nhiều chi thể khác nhau nhưng chỉ có một Thân Thể. Nơi Thân Thể có sự hiệp nhất giữa những khác biệt, sự bổ túc bởi những khác biệt và đồng trách nhiệm xây nên toàn thể[64].
- Trong Tân ước cũng như trong Cựu ước, những sự kiện chủ yếu được nêu bật là Chúa ban hồng ân Sự Sống, Chúa hứa ban Sự Sống dồi dào, Tình yêu, Hiệp thông, Liên đới và sai đi thực thi Sứ vụ. Đó là những chiều kích cơ bản của nền văn hóa sự sống toàn diện. Thiên Chúa là Sự Sống. Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi Thiên Chúa là Tình yêu nên chúng ta được sống. Nếu đã được sống thì chúng ta phải yêu thương. Nếu yêu thương thì phải hành động cho sự hiệp thông và tình liên đới -phục vụ tha nhân. Dưới ánh sáng của suy tư trên đây, chúng ta có thể hiểu vì sao Tin Mừng của Chúa Giêsu được gọi là “Tin Mừng Sự Sống” và Nước Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu loan báo thì “ở đây, lúc này và chưa đến” chính là Vương quốc của Sự Sống toàn diện.
3. Gia đình: Thánh điện của tình yêu và sự sống, của giao ước và hiệp thông
- Giáo Hội, sự sống của gia đình Thiên Chúa trên trần gian, vừa là quà tặng Chúa ban để tiên báo sự sống viên mãn trong Nước Thiên Chúa tuy đang hiện diện ở đây, lúc này nhưng chưa nên trọn. Thực tại Giáo Hội vừa là cuộc sống đang diễn ra vừa là niềm trông mong đến ngày thành toàn. Trong bối cảnh Hội Thánh là hồng ân Chúa ban đồng thời là nhiệm vụ phải thi hành, gia đình với tư cách là Giáo Hội tại gia càng có ý nghĩa sâu xa hơn. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Đứng trước cái gọi là nền văn hóa sự chết, gia đình chính là trái tim của nền văn hóa sự sống”[65]. Từ gia đình, nền văn hóa của sự sống toàn diện được khám phá lại, tiếp nhận nguồn năng lượng đã được đổi mới, được diễn đạt lại trong bối cảnh mới của chúng ta. Chính việc suy tư sâu xa hơn về giao ước sự sống, hiệp thông, liên đới và sứ vụ sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn lý do phải làm như thế.
- Kinh nghiệm của Chúa Giêsu về gia đình khi sống cùngĐức Mẹ và Thánh Giuse
- Các Kitô hữu luôn coi gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse tại Nazareth là mẫu gương tuyệt hảo của các gia đình Kitô hữu. Mái nhà Nazareth là trải nghiệm đầu tiên của Chúa Giêsu về gia đình của loài người. Kinh nghiệm này được bắt đầu với việc Chúa kêu gọi Đức Maria và Thánh Giuse nên vợ thành chồng. Theo trần thuật của các sách Tin Mừng[66], Đức Maria và Thánh Giuse đã phải lấy đức Tin suy xét mầu nhiệm lời kêu gọi hai đấng trở nên những bậc làm cha làm mẹ và nhận biết mầu nhiệm về người Con duy nhất của mình. Hằng ngày các ngài đều phải đứng trước những mầu nhiệm sâu thẳm này. Đức Maria “ghi nhớ mọi sự… và suy ngẫm trong lòng”[67]. Các ngài không phải như rất nhiều đôi nam nữ bình thường phải lòng nhau rồi kết hôn, nhưng cuộc đời sống chung vợ chồng của hai ngài, của bác thợ mộc và vợ mình, cũng diễn ra bình thường, nhưng những gì các ngài trải qua thì rất khác thường: các ngài đã không tìm được một nơi thuận tiện để sinh con và cuối cùng được vui mừng thấy con đã chào đời. Các ngài hân hoan vào đền thờ dâng con cho Chúa nhưng rồi lại phải đau đớn nghe những lời tiên tri về tương lai đau khổ của con và của mẹ. Các ngài vui mừng tìm được nơi nương náu tại đất khách quê người nhưng rồi lại đau buồn biết vì con mình mà các trẻ em bị sát hại. Các ngài đau buồn và bối rối khi mất con suốt ba ngày, rồi vui mừng quá đỗi khi tìm thấy con trong Đền thờ nhưng lại băn khoăn không hiểu ý nghĩa câu nói “đang ở trong nhà của Cha con”. Tuy nhiên tất cả chỉ nhằm củng cố cho tình yêu, sự hiệp thông giữa cha mẹ và người con, giữa gia đình và Thiên Chúa trong giao ước đã được Đức Maria tin tưởng đón nhận trong vâng phục và tự do: “Này tôi là tôi tớ của Chúa, xin cứ thực hiện theo lời Ngài truyền”[68].
- Đọc Kinh Thánh chúng ta đã biết Chúa Giêsu được sinh ra và nuôi dưỡng trong một gia đình Do Thái có nền tảng tôn giáo vững chắc. Tại đây, Người cảm nghiệm lòng thương yêu, chăm sóc của cha mẹ và được dạy bảo về những giá trị tâm linh đặc thù của Do Thái giáo: kính mến Chúa và quan tâm sâu sắc đến tha nhân. “Người học vâng phục”[69], như Thánh Phaolô viết trong Thư gửi tín hữu Do Thái, để biết sống theo ý Chúa, và, cũng như nhiều gia đình lúc đó cũng như bây giờ, không phải không có đau khổ và đấu tranh. Mặc dù đòi hỏi những ai muốn theo Người hãy nhìn gia đình xa hơn những quan hệ tự nhiên, nhưng Chúa Giêsu không bao giờ quên giá trị và tầm quan trọng của những mối quan hệ gia đình Người vẫn duy trì: “Ai là mẹ và anh em của Tôi?”[70], hoặc “Anh em làm bất cứ điều gì cho người bé mọn nhất trong anh em và chị em của Tôi…”[71]. Đến tận giây phút cuối cùng, Người cũng vẫn nêu lên cách sống liên đới mang tính gia đình khi trao gửi “con” cho “mẹ” và “mẹ” cho “con”[72]. Qua những trải nghiệm của Chúa Giêsu về gia đình, một lần nữa chúng ta lại gặp chủ đề trở đi trở lại của giao ước tình yêu, sự sống và kết hiệp với nhau “đến chết”, sự liên đới và sứ mạng, một sứ mạng bao trùm trên phạm vi của một gia đình, đến gia đình của cộng đoàn đức Tin và còn vượt xa hơn nữa. Con đường gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse đã đi cũng là con đường của mọi gia đình Kitô hữu.
- Hôn nhân:Giao ước thánh thiêng giữa người nam và người nữ
- Giao ước thánh thiêng giữa người nam và người nữ là khởi đầu của gia đình. Sự khác biệt của họ về giới tính, về cơ bản, đã “hướng họ tiến đến sự kết hiệp”. Ngay từ đầu, mang dấu chỉ nam tính-nữ tính, họ đã có “thuộc tính hôn phối, nghĩa là có khả năng biểu lộ tình yêu, để trong tình yêu này, con người trở nên một quà tặng”. Như vậy, “Người nam và người nữ ngay từ ban đầu đã được kêu gọi không chỉ sống ‘bên nhau’ hoặc ‘cùng nhau’ mà còn ‘sống cho nhau’… SáchKhởi nguyên2:18-25 cho thấy hôn nhân là chiều kích thứ nhất, và theo một nghĩa nào đó, cũng là chiều kích cơ bản của lời mời gọi này”[73]. Hôn nhân, và sau đó một gia đình được phát sinh, chính là giao ước về tình yêu và sự sống giữa người chồng và người vợ, qua đó họ “hiến thân và đón nhận nhau”[74], gắn bó với nhau trong yêu thương và trung tín đến chết[75], hoàn toàn hiến mình cho nhau. Toàn hiến cho đến chết: đó chính là sự thật tuyệt diệu về ý nghĩa của hôn nhân.
- Bí tích tình yêu của Đức Kitô
- Đối với Giáo Hội, sự kết hiệp trong hôn nhân là bí tích. Sự kết hiệp này làm cho tình yêu vô hình và ẩn giấu của Đức Kitô đối với dân của Người được trở nên hữu hình, có thể chạm vào được. Đồng thời “Việc Đức Kitô nên một với Hội Thánh” là kiểu mẫu cho sự kết hiệp vợ chồng[76]. Khế ước kết hiệp giữa người chồng và người vợ trong bí tích hôn nhân phản ánh hiện thực sâu xa về khế ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Do đó tình yêu của người chồng cần nên giống tình yêu của chính Đức Kitô đối với hiền thê của Người là Hội Thánh, một tình yêu được cam kết luôn trung tín và hy sinh. Tình yêu của người vợ đối với chồng cũng phải như thế. Vợ chồng là bí tích tình yêu của Đức Kitô đối với Hội Thánh, và là tình yêu của Hội Thánh đối với Đức Kitô. Tình yêu của Đức Kitô phải hiện diện bên trong tình yêu, các mối quan hệ và đời sống gia đình của họ, đồng thời là nguồn nuôi dưỡng tâm linh, giúp họ thăng tiến. Nếu muốn biết cụ thể những gì thuộc về tình yêu của Đức Kitô, việc chúng ta cần làm là ngắm nhìn tình vợ chồng yêu thương nhau. Đây là “mầu nhiệm lớn lao”[77]về tình yêu và sự sống được biểu thị bằng lời cam kết hôn nhân của hai vợ chồng nói với nhau và được biểu tượng bằng nhẫn cưới hoặc các biểu tượng khác trong một số nền văn hóa tại châu Á.
- Khi thánh Phaolô khuyên nhủ người chồng hãy “yêu thương” vợ mình, thì ý nghĩa của tình yêu vợ chồng trở nên khi thánh nhân bảo người vợ hãy “kính trọng” chồng mình[78]. Điều thánh Phaolô nói, trong một khung cảnh mang tính gia trưởng, những người chồng hãy yêu thương vợ mình như Đức Kitô đã yêu thương thực sự mang ý nghĩa cách mạng. Những người chồng không chỉ được mời gọi hãy yêu thương vợ mình theo mẫu gương tình yêu vợ chồng của Chúa Kitô đối với Hội Thánh, mà Thư Êphêsô 5, 25 còn hàm ý chúng ta phải yêu thương nhau bởi Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta. Như thế, về mặt ngữ nghĩa, ý nghĩa đầy đủ của động từ “kính trọng” là “nhìn sâu vào” điều tốt thật sự của nhau. Đó là “kiếm tìm tất cả những gì làm nên sự tốt lành của người mình yêu thương”[79]. Do đó, ngay cả khi thánh Phaolô nói đến những nghĩa vụ xem ra khác nhau, chẳng hạn, chồng yêu thương vợ, vợ kính trọng chồng, thì những giá trị đó, nếu hiểu cho đúng nghĩa, đều đồng nhất và bổ túc cho nhau. Chồng và vợ đều phải kính trọng-yêu thương nhau. Tính bổ túc và hỗ tương là đặc điểm cốt yếu của tình yêu vợ chồng.
- Qua tình yêu thương nhau, cả hai vợ chồng cùng thăng tiến, hướng đến sự trưởng thành về đời sống Kitô hữu và nhân bản, cùng nhau giải quyết những thách đố của trách nhiệm gia đình. Một tình yêu như thế sẽ lan tỏa đến những người trong gia đình, được thể hiện bằng một đời sống nhẫn nại, nhân hậu, kính trọng nhau, tin tưởng, tha thứ, hy sinh và giàu lòng trắc ẩn, cả khi gặp gian nan cũng như lúc vui sướng. Nhờ đó mối dây ràng buộc gia đình thêm bền vững và tỏa niềm vui mỗi khi có đứa con được sinh ra. Khi được ban thêm một đứa con, cha mẹ thường lo sợ trước quà tặng vượt ra ngoài khả năng của họ. Cảm nghiệm này về sự sống mời gọi họ nhận ra Thiên Chúa của sự sống đang hiện diện trong hiện thực cuộc sống gia đình mình và hướng nhìn về tương lai. Hạnh phúc sẽ lan tỏa trong những ước mơ và hy vọng về tương lai cuộc sống rồi cũng sẽ tốt đẹp hơn lên. Khi trong lòng đầy ắp sự phong phú của Thiên Chúa, thì mầu nhiệm lớn lao về gia đình quả thật là một Tin Mừng.
- Giao ước tình yêu trong hôn nhân:cha mẹ và con cái
- Là “Đấng thiết lập hôn nhân”[80], Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã quy định hôn nhân thì bất khả phân ly[81]và hoàn toàn phải sẵn sàng đón nhận quà tặng của Thiên Chúa là sản sinh sự sống. Ngay từ ban đầu, Chúa đã ban cho con người khả năng làm cha, làm mẹ, khả năng này được Chúa phú vào tính bổ túc cho nhau giữa nam và nữ theo hình ảnh của Chúa. “Tự bản chất, định chế hôn nhân và tình yêu lứa đôi được sắp đặt cho việc sinh sản và giáo dục con cái như chóp đỉnh diễm phúc của hôn nhân”[82].Vì vậy, được Chúa ban cho trở nên “một thân xác”[83], sự kết hiệp vợ chồng trong tình yêu và cuộc sống là điều bất khả phân ly, không chỉ trong cuộc đời sống bên nhau mà còn nơi mọi sự sống mới được Chúa dùng họ mà dựng nên. Quả thật, họ phải hoàn toàn sẵn sàng đón nhận mọi sự sống mới, bởi tình yêu của Thiên Chúa thì không phân biệt đối xử và không loại trừ bất kỳ người nào, dù trẻ trai hay trẻ gái, trẻ khuyết tật hay mạnh khỏe, giàu hay nghèo. Mọi đứa trẻ đều là quà tặng của Thiên Chúa. Điều này hoàn toàn không có ý xem thường những cặp vợ chồng vô sinh, không thể có con vì bất lực về thể lý, nhưng nhằm nói lên thái độ cởi mở, đặt trên nền tảng luân lý, sẵn sàng đón nhận mọi sự sống được Chúa ban cho, coi đó là một phúc lành và ân sủng xuất phát từ Thiên Chúa.
- Các đôi vợ chồng Kitô hữu phải dạy dỗ con cái theo con đường đức Tin và Nước Thiên Chúa. Họ là những người thầy đầu tiên dạy đức Tin cho con mình. Về vấn đề này, cha mẹ phải tìm kiếm những cách thức giúp con cái được trưởng thành trong đức Tin, biết thể hiện đức Tin trong cuộc sống và chia sẻ đức Tin cho mọi người, nhất là cho bạn bè đồng trang lứa qua những cơ hội khác nhau được Giáo Hội mang lại, hoặc qua những sáng kiến riêng của mình dưới sự hướng dẫn của Giáo Hội. Như gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse, gia đình Kitô hữu phải là một mái ấm, ngôi trường dạy nên thánh và làm môn đệ của Chúa, nơi đây mọi người được học hỏi và sống theo đường lối của Chúa và các giá trị Tin Mừng, nơi đây việc lắng nghe và tìm biết ý Chúa trở thành chuẩn mực cho cuộc sống hằng ngày, nơi đây trẻ em lần đầu tiên được cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa. Tại các quốc gia châu Á đa tôn giáo, các Kitô hữu chỉ là thành phần thiểu số và không thể có việc dạy đạo tại các trường học, thì sứ vụ của các bậc cha mẹ dạy cho con cái biết Chúa và hướng dẫn chúng ý thức phải truyền giáo là tuyệt đối cần thiết. Một gia đình có đức Tin sâu sắc chính là dấu chỉ của Hội Thánh và Nước Thiên Chúa. Trong các gia đình liên tôn và đại kết, việc có ý thức sâu sắc về tôn giáo như thế chính là một dấu chỉ đáp lại tinh thần vô tôn giáo của nền văn hóa thế tục đang mỗi ngày một tăng lên.
- Rõ ràng Thiên Chúa gieo trồng trong bản chất của gia đình những hạt giống cho tương lai là các trẻ nhỏ, cũng như ký ức đáng trân trọng về quá khứ là người già. Lòng biết ơn, niềm hy vọng, nỗi lo âu và sự tôn kính là sự đáp lại của người già cũng như người trẻ trước món quà siêu việt Thiên Chúa ban cho hôn nhân, khi người chồng và người vợ chia sẻ hành động tạo dựng tuyệt vời của Thiên Chúa. Do đó, gia đình thực sự là kho tàng của sự quan tâm và kính trọng, của sự chăm sóc và thương yêu, của người già và trẻ sơ sinh, những báu vật được Thiên Chúa ban tặng.
- Các mối quan hệ con người trong gia đình và Nước Thiên Chúa
- Nếu gạt những nét cá biệt đặc thù Kitô giáo ra khỏi suy tư và xem xét hôn nhân, gia đình và những mối quan hệ con người trong gia đình từ nhãn quan Nước Chúa, chúng ta sẽ khám phá một chiều kích mới, đầy ý nghĩa. Chúng ta nhận ra những cuộc hôn nhân và các gia đình liên tôn và đại kết thật sự chia sẻ một cách giống nhau những giá trị của giao ước sự sống, hiệp thông, liên đới, tự hiến và bổ túc cho nhau. Vì lẽ đó, khi chung sống với chồng/vợ mình và với con cái trong hành trình thăng tiến cuộc sống, hướng đến Nước Thiên Chúa, người phối ngẫu (vợ/chồng) là Kitô hữu mang đến cho giao ước hôn nhân và gia đình sự phong phú độc đáo của đức Tin mình đã xác tín.
- Những chiều kích thần học nền tảng của giao ước sự sống, hiệp thông, liên đới và thực thi sứ vụ trong gia đình hẳn nhiên không phải là trừu tượng như vẫn nghĩ. Những mối quan hệ thực tế giữa những con người trong cuộc sống gia đình hằng ngày, cuộc sống hòa thuận, yêu thương và chăm sóc cho nhau, giữa vợ chồng, con cái, anh chị em trong nhà, nhất là những khi gặp lo lắng buồn phiền, thì hành trình tiến đến cuộc sống thập toàn, băng qua đau khổ và niềm vui, đều đang làm cho sự hiệp thông, liên đới và thực thi sứ vụ được trở nên cụ thể. Biết nương tựa vào nhau, sống gần gũi, thân mật, vui tươi, thân ái là những dấu chỉ của sự thông hiệp sâu xa trong gia đình. Các nhà tư vấn gia đình vẫn cho rằng, chìa khóa đạt đến mối quan hệ nhân bản đó trong gia đình chính là giữa các thành viên trong gia đình phải biết đả thông cho nhau trong mọi sự, bằng lời nói cũng như bằng hành động. Do đó, trong những quan tâm chủ yếu về hoạt động mục vụ gia đình tại châu Á, cần phải đặt ra việc huấn luyện về những mối quan hệ giữa con người với nhau trong đời sống hôn nhân, gia đình.
- Ơn gọi và sứ mạng truyền giáo: “gia đình, hãy trở nên chính mình!”
- Kiến tạo gia đình đúng với bản chất của nó chính là một ơn gọi và sứ mạng linh thánh. Mọi Kitô hữu đều được kêu gọi tìm kiếm Nước Thiên Chúa trên hết mọi sự. Đây chính là ơn gọi duy nhất và chung cho tất cả mọi người. Các cặp vợ chồng đáp lại lời mời gọi này bằng cuộc sống hôn nhân và gia đình. Qua việc kết hôn, họ tiếp nhận Nước Chúa. Qua cuộc sống hôn nhân và gia đình, họ cho thấy lòng trung thành của mình đối với Nước Thiên Chúa. Qua tình yêu dành cho nhau và hành vi vợ chồng thể hiện tình yêu đó, qua việc nuôi nấng con cái và sử dụng của cải vật chất, họ bày tỏ sự dấn thân đối với Nước Chúa. Quả thật, ngay từ nền tảng, hôn nhân đã hướng về Nước của Thiên Chúa, đó là ý nghĩa thực sự của hôn nhân.
- Lời kêu gọi gia đình truyền giáo là: “Hỡi gia đình, hãy trở nên chính mình!”. Sứ mạng mang ý nghĩa bí tích này bắt nguồn nơi bí tích Thánh tẩy và bí tích Thêm sức. Phát xuất từ tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, căn tính đích thực của hôn nhân thúc đẩy vợ chồng phải truyền giáo. Chính trải nghiệm về Thiên Chúa qua và trong cuộc sống hôn nhân đã khiến họ thành những thừa sai. Là vợ chồng, họ thực sự đảm nhận một tác vụ đặc biệt của Hội Thánh trong và ngoài gia đình[84]. Họ thực thi tác vụ đối với nhau. Họ cùng nhau tìm kiếm Nước Chúa. Họ dạy con cái hãy chọn Nước Chúa trên hết mọi sự. Mọi người trong gia đình đều thi hành tác vụ đối với nhau. Trong đời thường, khi lo âu và vui sướng, qua thập giá và phục sinh của cuộc sống hôn nhân hằng ngày, họ Phúc âm hóa cho nhau. Công cuộc Phúc âm hóa diễn ra qua tình yêu dành cho nhau, qua mọi săn sóc và phục vụ của chồng và của vợ, qua việc nhắc nhở khích lệ nhau chu toàn trách nhiệm của mình trong tình yêu trung thành, qua yêu thương và chăm sóc con cái, cũng như qua lòng mến yêu và vâng phục của cái. Đặc biệt đối với Kitô hữu, chính gia đình “là nơi Tin Mừng được thông truyền và từ gia đình Tin Mừng được lan tỏa… mọi người trong gia đình thực hiện Phúc âm hóa và được Phúc âm hóa”[85]. Gia đình là nơi con người có thể sống đúng chính bản thân mình và được phát triển trọn vẹn. Đây là nơi nuôi dưỡng ý thức và niềm say mê phục vụ bằng những cách sống khác nhau, trong đó có ơn thiên triệu trở thành thừa sai[86]. Trong quan hệ giao tiếp hằng ngày trong gia đình, mọi người làm chứng Tin Mừng Cứu độ về Nước Chúa, về cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô. Đây thực sự là bài giáo lý bằng cuộc sống. Việc truyền giáo trong gia đình (missio ad intra) của vợ chồng và gia đình mình là vậy đó.
- Nhưng mọi người trong gia đình không chỉ loan báo cho nhau về Nước Thiên Chúa và về cái chết và sự phục sinh của Đức Kitô, mà còn được mời gọi loan báo cho mọi
người khác.
“Hỡi gia đình, hãy trở nên chính mình!”. Gia đình còn được mời gọi hướng việc truyền giáo ra bên ngoài (missio ad extra). Những mối tương quan yêu thương được phát triển trong phạm vi gia đình -giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ với con cái, giữa con cái với nhau, giữa các thành viên trong gia đình hạt nhân và đại gia đình- đều có chiều kích truyền giáo. Họ thực hiện lời Chúa dạy: “Nếu các con yêu thương nhau, mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy”[87]. Cả gia đình cũng còn được mời gọi minh chứng một cách đặc biệt về thực tại Hội Thánh. Hôn nhân và gia đình là một phương thế sống và trở thành Giáo Hội. Nhờ sống thân mật với nhau và ra sức mang lại hạnh phúc cho mọi người trong nhà, gia đình dùng lời nói và hành động để cổ võ ý nghĩa hiện thực và tầm quan trọng của tương quan thương yêu, mang lại sự sống trong Hội Thánh và trong mọi cơ cấu của Hội Thánh.
- Gia đình mang lại máu thịt cho niềm tin của người Kitô hữu vào Thiên Chúa, Đấng là Tình yêu Tự hiến. Gia đình làm cho lòng nhân từ tốt lành của Thiên Chúa trở nên bí tích, nhất là khi khắp nơi con người lâm cảnh cùng cực. Ra sức dấn thân, sống trung tín và nuôi dưỡng tình yêu (đời sống thân mật) trong gia đình, không phản bội tình yêu, sẽ làm cho niềm tin mang giá trị Tin Mừng càng trở nên đáng tin hơn, đó là niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng hằng quan tâm đến con người, tin vào tình yêu của Đức Kitô, một tình yêu vững bền, trung tín, luôn tha thứ và hằng nuôi dưỡng chúng ta, Giáo Hội của Chúa. Giá trị mang tính biểu tượng này của hôn nhân và gia đình Kitô giáo chứa đựng một sứ điệp mạnh mẽ gửi đến các cuộc hôn nhân và những gia đình đang bị tàn phá bởi sự ích kỷ và vô cảm, thói nhỏ nhen và sự dối trá, hoặc bởi những lo lắng cùng cực về kinh tế, những lo âu trong tinh thần và xã hội.
- Khi nói về những gì Ngài đã dựng nên: “Thật tốt đẹp”, Thiên Chúa không chỉ nói về vẻ đẹp thể lý của tạo vật. Toàn thể thế giới đều tốt đẹp vì xuất phát từ sự thiết kế của Thiên Chúa và phản ánh sự tốt lành và tình yêu của Ngài. Thế giới in dấu sự cai quản yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa thống lĩnh mọi loài thụ tạo. Chiều kích đạo đức và tâm linh này có lẽ đặc biệt ứng với lời Chúa nói với Ađam và Evà, đôi vợ chồng đầu tiên và là bậc tổ phụ tiên khởi của chúng ta: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất”[88]. Lệnh truyền này không chỉ hiểu theo nghĩa đen, mà còn phải hiểu hãy làm cho mặt đất được đầy sự tốt lành và vẻ đẹp, công lý và tình yêu của Thiên Chúa -và đặt trái đất dưới sự Cai trị của Thiên Chúa. Kinh nghiệm của hai tổ phụ tiên khởi của chúng ta về tội lỗi và sự giới hạn của nhân loại đã khiến họ hiểu ra tiến trình sinh trưởng đau đớn của con người. Nhưng những hạn chế và thất bại của con người không phải là những vật cản con người thực thi ơn gọi và sứ mạng của gia đình, bởi Thiên Chúa đã hứa Ngài luôn trung thành[89]. Chính vì thế, Thiên Chúa vẫn kêu gọi các gia đình, ngay trong thử thách, hãy cộng tác với Ngài để phục hồi việc chiếu giãi vẻ ngời sáng đạo đức và tâm linh của loài người khắp trái đất, ngõ hầu phản ánh một cách thích đáng, dù bị giới hạn, sự tốt lành của Thiên Chúa một lần nữa.
- Do đó việc truyền giáo của gia đình cho mọi người trải rộng khắp các lĩnh vực xã hội, văn hóa, chính trị và giáo dục. Gia đình là “một trong những tác nhân Phúc âm hóa hữu hiệu nhất của Hội Thánh”[90]. Điều này đặt ra cho các vị lãnh đạo Giáo Hội vấn đề phải làm gì để củng cố sự hiện diện và những mối tương quan gia đình -xây dựng gia đình thực sự thành một dấu chỉ đang biến cải thành Vương quốc của Thiên Chúa, hoặc thực sự là Giáo Hội tại gia. Đây là một thách đố làm sao để các gia đình có khả năng truyền giáo, bằng cách giúp mọi người trong gia đình sống đời sống hôn nhân và gia đình phù hợp với những giá trị Nước Chúa, tức hợp với giáo huấn của Tin Mừng và của Hội Thánh. Cần làm thế nào để việc mang lại khả năng truyền giáo cho các gia đình phải trở thành mối quan tâm chính của mục vụ gia đình.
- Truyền giáo và vấn đề toàn cầu hóa về kinh tế
- Như chúng ta đã thấy, nhiệm vụ của mọi gia đình phải phản chiếu sự tốt lành và ngay thẳng của Thiên Chúa trong các lĩnh vực đạo đức và xã hội của đời sống là điều cấp bách và khẩn thiết hơn đâu hết. Vì thế hoạt động mục vụ và suy tư về việc truyền giáo của gia đình đặt chúng ta đứng trước hiện tượng và tiến trình toàn cầu hóa cùng với vô số vấn đề có liên quan. Quả thực, hai thập kỷ trước đã nói việc toàn cầu hóa đã biến thế giới thành một ngôi làng toàn cầu. Ngay cả chúng ta đã có thể nói rằng toàn cầu hóa cần phải trở thành công cụ chính, nhờ đó mọi người, mọi chủng tộc, mọi nền văn hóa trên thế giới cùng sống với nhau trong hòa bình và hòa hợp, kẻ giàu người nghèo trên thế giới có thể chia sẻ một cách bình đẳng và công bằng mọi của cải được Chúa dựng nên và mọi phúc lợi của sự phát triển, toàn thể thế giới là một gia đình con người sống hòa thuận với nhau dưới mắt Chúa, nơi đó không có chỗ cho chiến tranh và những xung đột chia rẽ, cho thành kiến, sự phân biệt đối xử, loại trừ, áp bức, cô lập và gạt ra ngoài lề.
- Thế nhưng, đến nay việc toàn cầu hóa để lại những hậu quả đáng buồn, khác xa những điều được hình dung bởi loại thần học mơ mộng. Công bằng xã hội và hòa bình, việc quản lý công trình tạo dựng của Chúa, trách nhiệm đối với nhau, nền công ích gia đình nhân loại hưởng chung vẫn còn là ảo tưởng. Thậm chí trong nhiều trường hợp, việc toàn cầu hóa đã làm tăng thêm sự bất công, đói nghèo, áp bức và tàn phá môi trường tại hầu hết quốc gia châu Á. Cuộc chạy đua về khả năng cạnh tranh đã bỏ lại đàng sau hàng trăm triệu người châu Á trong cuộc tiến hóa toàn cầu về kinh tế và văn hóa mang tính chất mạnh được yếu thua. Suy nghĩ dưới ánh sáng đức Tin về tình thế hiện nay, chúng ta thấy con đường toàn cầu hóa đang diễn ra thực sự là một sai lầm đối với gia đình nhân loại, cần phải tìm con đường thay thế.
- Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chỉ ra một cách xác đáng rằng phải làm cho toàn cầu hóa hướng đến công bằng xã hội trên thế giới, “toàn cầu hóa phải diễn ratrong liên đới,không được loại trừ”[91]. Điều này đòi phải đặt ra quy định đối với các lực lượng thị trường tự do hiện được kiểm soát một cách hữu hiệu trong các nền kinh tế phát triển mạnh trên thế giới. Việc toàn cầu hóa phải được điều chỉnh bởi những chuẩn mực pháp lý quốc tế và những nguyên tắc đạo đức phổ quát đang chi phối việc sử dụng và phát triển mọi của cải được Chúa dựng nên và mọi phúc lợi của sự phát triển. Rõ ràng dưới ánh sáng các giáo huấn của Hội Thánh, những nguyên tắc đó là: giữ gìn những gì Chúa đã dựng nên được toàn vẹn, mọi người đều được hưởng nhận của cải Chúa dựng nên, sự phát triển con người là điều không thể thiếu, phân phối công bằng mọi phúc lợi của sự phát triển, dành cho người nghèo sự chọn lựa và được tham gia vào việc phát triển. Những nguyên tắc này được Giáo Hội tại châu Á kiên quyết giảng dạy, đặc biệt qua Liên Hội đồng Giám mục châu Á, cụ thể là qua các Học viện Giám mục về Hoạt động xã hội và các Học viện Liên tôn về Hoạt động xã hội.
- Gia đình và toàn cầu hóa văn hóa
- Chúng ta cũng nên hiểu rõ vấn đề toàn cầu hóa văn hóa và việc bắt đầu phát triển nền văn hóa hậu hiện đại. Ngày nay quyền tự chủ của mỗi cá nhân và các quyền của cá nhân được nuôi dưỡng và bảo vệ. Những giá trị nền tảng này không thể thiếu đối với nền công ích. Vì vậy, đứng trước nền văn hóa gia trưởng hiện còn phổ biến, cần phải đề cao và cổ võ những quyền của người phụ nữ tại châu Á. Mặt khác, chúng ta cũng nhận thấy hiện ít nhấn mạnh gia đình là “một cộng đồng của tình yêu và sự sống” và dường như trong một số trường hợp lại quá nhấn mạnh một số quyền của cá nhân hơn cả lợi ích cộng đồng, nhấn mạnh quyền của cá nhân người vợ, người chồng, con cái hơn cả lợi ích của gia đình và cộng đồng. Trong mọi trường hợp, luân lý đòi phải có sự quân bình giữa hai thái cực.
- Tuy nhiên, đối với hôn nhân, tự do là điều rất dễ bị đe dọa. Thay vì là “một khả năng nhận biết sự thật về chương trình của Thiên Chúa dành cho hôn nhân và gia đình”, thì tự do lại được hiểu theo nghĩa của chủ nghĩa hậu hiện đại “là một năng lực tự lập để khẳng định chính mình, thường đối nghịch với tha nhân, vì hạnh phúc của chính bản thân mình”[92]. Ngày nay có thể thấy cách hiểu như thế về tự do đang cố gắng để được pháp luật thừa nhận đối với những giá trị và ứng dụng mới vốn trái hẳn với đức Tin truyền thống của chúng ta, chẳng hạn việc li dị, hôn nhân đồng giới, phá thai, và nhiều ý tưởng trong đó có thuật ngữ “sức khỏe sinh sản” còn hàm hồ ý nghĩa như đã thấy tại nhiều hội nghị của Liên Hiệp Quốc. Như vậy cần phân định một cách sâu sắc đối với những “quyền” mới mẻ mà nền văn hóa mới đang ra sức để được khắp nơi nhìn nhận.
- Giáo Hội hằng nắm giữ những chân lý phổ quát, mặc dù có những giới hạn về ngôn ngữ và văn hóa. Mặt khác, chủ nghĩa tương đối về tín lý và luân lý đang hạ thấp giá trị của những chân lý này và cho rằng chân lý thay đổi theo các thời đại. Vì thế, những người chỉ trích chế giễu Giáo Hội là “lỗi thời” với giáo thuyết khẳng định hôn nhân là một bí tích và bác bỏ hôn nhân đồng giới, li dị, ngừa thai, phá thai, v.v. Họ quả quyết như đinh đóng cột giáo thuyết của Hội Thánh phải thay đổi theo thời đại, mỉa mai rằng “nếu Giáo Hội còn phù hợp”. Đây chính là chủ nghĩa tương đối về tín lý và luân lý chúng ta phải đương đầu trong công cuộc Phúc âm hóa gia đình. Quả thật, chúng ta phải chia sẻ nỗi buồn của những người phải hứng chịu tình cảnh đau khổ của li dị, hôn nhân tan vỡ, đánh mất sự sống khi phá thai, v.v. Vì thế, cần giảng dạy chân lý với lòng khiêm hạ, nhân từ và tình yêu[93]. Đây là một đòi hỏi đối với mục vụ gia đình cần phải thực sự chăm sóc và nuôi dưỡng đối với các đôi vợ chồng và gia đình họ.
- Công cuộc Phúc âm hóa nền văn hóa liên quan đến nhiều chiều kích khác nhau. Chúng ta cần hiểu sâu hơn nữa về những nền văn hóa của mình, chúng diễn tả phong phú sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta. Hơn nữa chúng ta cần Phúc âm hóa nền văn hóa của mình và đưa ra khỏi nền văn hóa ấy những truyền thống, tín ngưỡng, phong tục và những thực hành xem ra không phù hợp với những chương trình của Thiên Chúa theo nhận thức của đức Tin Kitô giáo. Gia đình là nơi đầu tiên gặp gỡ và tiếp nhận, cũng là khung cảnh cho việc củng cố và thanh tẩy nền văn hóa. Gia đình có cơ hội truyền cho nền văn hóa những gì đã được thấm nhuần bởi tinh thần của Nước Chúa. Chúng ta cần làm cho nhau nhận thức niềm tin của mình dưới ánh sáng những hạt giống của Lời được Thần khí gieo trong các tôn giáo và truyền thống tín ngưỡng khác. Chúng ta phải tiến tới việc kết hợp những quà tặng được Thần khí ban cho để đức Tin của mình có thể được trình bày, hiểu biết và cử hành trong các ngôn ngữ và những nét đặc thù của văn hóa Á châu.
- Gia đình và những phương tiện truyền thông xã hội
- Những phương tiện truyền thông xã hội là những đường kênh chính của nền văn hóa mới. Chúng có sức mạnh thông truyền và ảnh hưởng về cả điều tốt cũng như điều xấu hầu như không thể tin được. Ngay cả người nghèo cũng có thể tiếp cận một, hai nguồn thông tin. Thế giới truyền thông là “Areopagus thứ nhất” (Areopagus: một hội trường ở Athens, Hy Lạp, nơi thánh Phaolô giảng cho dân ngoại –Chú thích của LML) của thời hiện đại[94]và mang chiều kích luân lý. Những công cụ của thế giới truyền thông mang lại “những cơ hội không giới hạn cho thông tin, giáo dục, bành trướng về văn hóa và kể cả thăng tiến về tinh thần”[95].
- Đối với nhiều người, nhất là với thế hệ trẻ, các phương tiện truyền thông là những phương tiện chủ yếu để thông tin, giáo dục, hướng dẫn và gợi ý. Do đó, Giáo Hội phải hiểu được những công cụ này, có khả năng và kỹ năng sử dụng chúng một cách hữu hiệu cho sứ vụ Phúc âm hóa. “Tuy nhiên, cũng chính những phương tiện truyền thông này có thể phương hại các gia đình khi đưa ra cái nhìn phiến diện, kể cả méo mó, về cuộc sống, gia đình, tôn giáo và luân lý”[96]. Vì vậy, Giáo Hội có sứ mạng phải Phúc âm hóa những phương tiện truyền thông, thanh tẩy và làm cho chúng phù hợp với những giá trị của Tin Mừng và của Nước Chúa. Phụ huynh và gia đình có nhiều ưu thế trong việc Phúc âm hóa các phương tiện truyền thông. “Đối thoại giữa các gia đình và các nhà hữu trách về truyền thông xã hội”[97]sẽ mang lại lợi ích cho mọi gia đình. Quy định việc sử dụng phương tiện truyền thông trong gia đình, yêu cầu chính quyền đưa ra những hướng dẫn dựa trên tiêu chí sự thật và phẩm giá con người là những việc cần làm. Để hoạt động mục vụ gia đình có hiệu quả, phải khai thác thế mạnh của gia đình và hướng gia đình vào việc thực thi nhiệm vụ quan trọng này.
- Gia đình và cải cách xã hội
- Vốn là tế bào cơ bản của xã hội, mọi gia đình đều có vai trò đối với xã hội. Điều này đặc biệt đúng với gia đình Kitô hữu. Bí tích Hôn nhân mang lại cho “các đôi vợ chồng và các bậc cha mẹ Kitô hữu khả năng và quyết tâm sống ơn gọi giáo dân, do đó họ ‘tìm kiếm Nước Thiên Chúa qua sự dấn thân vào những việc trần thế và xếp đặt chúng theo trật tự Chúa đã định”[98]. Việc “xếp đặt những việc trần thế theo trật tự Chúa đã định” hoặc giúp vào công cuộc cải cách xã hội là dự phần vào việc phục vụ hay thực thi sứ vụ vương giả của gia đình. Mọi gia đình đều đảm nhận sứ vụ như thế. Không một Kitô hữu nào, hoặc nói cách khác, không một gia đình nào bị tách khỏi thế giới luôn cần được thay đổi này.
- Tại châu Á, ít nhất có ba lĩnh vực chính cần được cải cách: việc tìm kiếm công lý xã hội và hòa bình, sự thanh liêm trong dịch vụ công cộng và sự toàn vẹn của thụ tạo. Những bất công đã ăn sâu trong các cấu trúc xã hội, gồm cả cấu trúc gia đình, chẳng hạn tình trạng chế độ gia trưởng. Những khác biệt về văn hóa, chủng tộc, chính trị và kinh tế biến thành xung đột bạo lực. Bệnh tham nhũng trong dịch vụ công cộng không chỉ là một biểu hiện về cung cách mà đã gắn liền với cấu trúc xã hội, cho nên chất lý tưởng của các công chức trẻ bị xói mòn một cách đáng thất vọng và cuối cùng bị “hệ thống” đưa vào bẫy. Nạn tàn phá môi trường vẫn không hề suy giảm.
- Sự thay đổi xã hội phải bắt đầu từ trong gia đình, qua sự thay đổi về cung cách sống của các bậc cha mẹ, qua việc giáo dục của họ đối với con cái và qua sự nêu gương của cha mẹ đối với con cái về các giá trị công lý, hòa bình, sống thanh liêm và chăm sóc giữ gìn mọi thụ tạo. Đồng thời, con cái Phúc âm hóa cha mẹ vì chúng có trực giác bén nhạy trước những việc ngay thẳng, trong sáng, công bằng, tử tế và quảng đại. Hơn nữa, các bậc cha mẹ và con cái của mình liên kết với các gia đình khác có thể sẽ giữ một vai trò có tác động mạnh mẽ trong xã hội qua “nền chính trị gia đình”[99]hoặc sự can thiệp mang tính chính trị khi cổ võ tính liêm khiết và tinh thần trách nhiệm nơi các công chức, hoặc cổ võ các bên xung đột hãy thương thảo và giải hòa.
- Cũng cần thực hiện nền chính trị gia đình trong việc bảo vệ những quyền lợi của gia đình mình[100]khi những quyền lợi này bị Nhà nước xâm phạm. Vì lẽ đó, các gia đình châu Á cần làm quen, bảo vệ, giữ gìn và cổ động bản Hiến chương về các Quyền của gia đình do Tòa Thánh đưa ra cho các tổ chức liên chính phủ và quốc tế[101]. Những quyền này không khác lạ với những gì người Công giáo tin tưởng. Chúng phát xuất từ chính bản chất của hôn nhân và gia đình và dễ dàng trở thành đối tượng của sự hợp tác liên tôn.
- Gia đình và đối thoại liên tôn
- Tại châu Á, nơi phát sinh những tôn giáo lớn trên thế giới, trong cuộc sống đời thường hằng ngày vẫn diễn ra sự gặp gỡ giữa những con người thuộc các niềm tin khác nhau. Chính cuộc gặp gỡ hằng ngày này là cơ hội làm chứng tốt nhất cho những giá trị Tin Mừng thuộc sứ mạng Phúc âm hóa của người Kitô hữu. Những giáo huấn trong Kinh Thánh phản ánh những giá trị, nhờ sự giải thích của Giáo Hội, các gia đình Kitô hữu phải đem ra thực hành trong cuộc sống hằng ngày của mình. Để chu toàn sứ mạng Phúc âm hóa, các gia đình Kitô hữu trước hết phải luôn nhớ mình có căn tính là người Kitô hữu, phải trung thành với những cam kết làm người Kitô hữu và phải sống với những giá trị Kitô giáo. Đối với các gia đình Kitô hữu, chỉ khi trung thành với căn tính và trách nhiệm làm người Kitô hữu mới có thể đối thoại trong cuộc sống một cách hiệu quả với những người thuộc những niềm tin khác.
- Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đưa ra nhận xét: “Mỗi tín hữu và mọi cộng đoàn Kitô hữu đều được kêu gọi thực thi đối thoại, dù không phải luôn cùng một mức độ hoặc cùng một cách thức”[102]. Quả thực có nhiều cách có thể thực hiện đối thoại liên tôn ở mức độ gia đình. Trước hết là làm chứng cho những giá trị Tin Mừng được các gia đình Kitô hữu thể hiện trong cuộc sống hàng ngày hôm nay. Trong số các giá trị Tin Mừng, có: tính chất thánh thiêng của sự sống từ lúc thụ thai đến khi chết theo lẽ tự nhiên, phẩm giá của con người, sự thánh thiện của hôn nhân giữa người nam và người nữ, hôn nhân và gia đình được Thiên Chúa thiết lập, đón nhận và yêu thương con cái, sống khiết tịnh theo ơn gọi mỗi người, liên đới với người nghèo, người bệnh tật và thiếu thốn[103]. Cùng nhau tôn trọng những giá trị chung sẽ đưa đến việc cộng tác với nhau nhằm bảo vệ và cổ võ những giá trị đó.
- Đặc biệt, sự liên đới với người nghèo là một giá trị xã hội chắc chắn sẽ đưa các gia đình Kitô hữu tiến đến cùng hành động với các gia đình thuộc các tôn giáo khác trong việc cổ võ công lý xã hội, mưu tìm hòa bình và hòa giải, và trong công cuộc chăm sóc môi trường. Cũng có thể nghĩ đến một lúc nào đó trong mối quan hệ liên tôn, các gia đình Kitô hữu cũng có thể chia sẻ với mọi người cảm nghiệm của bản thân về Thiên Chúa, kinh nghiệm tôn giáo về niềm tin và tình yêu của Đức Giêsu, không phải để cải đạo cho họ nhưng chỉ nhằm chia sẻ chính bản thân trong tình bạn sáng trong và hiệp nhất[104]. Cuối cùng, không thể bỏ qua điều này là, các gia đình Kitô hữu không phải không mang được Tin Mừng cứu độ đến cho những người muốn nghe và có tự do để đón nhận Tin Mừng ấy[105]. Gia đình Kitô hữu cần thực hiện sự loan báo này ít nhất là qua việc dạy giáo lý cho những người trong gia đình và làm chứng bằng cuộc sống của mình.
- Đặc biệt trong những cuộc hôn nhân của những người khác tôn giáo với nhau, cuộc đối thoại liên tôn gồm đối thoại bằng lời nói cũng như đối thoại bằng tình yêu và cuộc sống[106]. Ngay lúc mới chớm nở tình yêu giữa người nam và người nữ khác biệt về tôn giáo, cũng phải bắt đầu xem xét những khác biệt tôn giáo và hòa giải những khác biệt đó. Cuộc đối thoại bằng lời nói và tình yêu diễn ra trong giai đoạn tìm hiểu nhau, rồi kết hôn, và phát triển thành cuộc đối thoại yêu thương trong đời thường của cuộc sống hôn nhân. Những giá trị và cung cách đối thoại như thế lan tỏa đến con cái. Dù có những khác biệt về tôn giáo, tình yêu và hòa giải vẫn dựng lên được chiếc cầu nối kết, đây là một thực tế đầy ấn tượng trong những xã hội đang gặp khó khăn vì xung đột tôn giáo. Như vậy, rõ ràng trong những lo âu, phiền muộn, vui mừng, hy vọng và tình yêu trong cuộc sống hôn nhân, gia đình, có những cơ hội đã được Thần khí mang đến cho người khiêm hạ, đáng kính, lặng lẽ nhưng hùng hồn loan báo đức Tin Kitô giáo.
- Gia đình và cộng đoàn cơ bản của Giáo hội / con người
- Giáo Hội tại gia là hình thức cộng đoàn cơ bản nhất của Hội Thánh và phải được nghiêm túc coi là một thực tại thuộc về Giáo Hội. Gia đình phải là thành phần của toàn thể thực tại Hội Thánh tại địa phương. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, khi chấp thuận trọng tâm mục vụ của các Giám mục tại châu Á đối với BEC (Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản), đã nêu rõ: “Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản là phương thế hữu hiệu trong việc cổ võ sự hiệp thông và tham gia của các tín hữu tại các giáo xứ và giáo phận, đồng thời là nguồn lực đích thực cho công cuộc Phúc âm hóa…, do đó là điểm khởi đầu vững chắc cho việc xây dựng một xã hội mới, nói lên nền văn minh tình thương[107]. Rõ ràng gia đình với tư cách là Giáo Hội tại gia giữ vị trí trung tâm trong mục tiêu của hoạt động mục vụ xây dựng những Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản tại châu Á. Các Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản thường được hình thành từ các nhóm gia đình ở gần nhau, thường xuyên cùng nhau cầu nguyện, đọc, suy niệm và áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống hằng ngày. Cũng vậy, các nhóm gia đình liên tôn hình thành các Cộng đoàn Dân cư cơ bản để cầu nguyện liên tôn, suy tư, kết bạn và cùng hành động cho lợi ích của lối xóm.
- Phải chăng không thể nói rằng trọng tâm của công cuộc Phúc âm hóa là gia đình, đối tượng và chủ thể được mọi chương trình mục vụ của giáo xứ hướng đến? Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản rồi đây sẽ là cộng đoàn được quy tụ từ các gia đình, và giáo xứ thực sự là một cộng đoàn gồm các cộng đoàn gia đình quy tụ lại[108]. Sự liên đới của các gia đình trên mọi phương diện của đời sống con người trong Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng như trong Cộng đoàn Dân cư cơ bản, quả thực, sẽ là câu trả lời ở cấp vi mô đối với hiện tượng toàn cầu hóa về kinh tế và văn hóa. Chính tại các cộng đoàn này, ở cấp độ gia đình, sẽ khởi sự “cuộc toàn cầu hóa của bác ái và tình liên đới”[109]. Tiếp đến, điều này sẽ đặt ra yêu cầu canh tân cấu trúc của giáo xứ và các chương trình mục vụ cũng như phải định hướng lại những việc cần ưu tiên trong công tác mục vụ, canh tân giáo dân cũng như hàng giáo sĩ. Việc đào luyện đức Tin trong gia đình nhằm mang lại cho gia đình khả năng thực hiện nhiệm vụ của Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng như Cộng đoàn Dân cư cơ bản hướng đến nền văn minh sự sống cần được dành cho vị trí ưu tiên trong hoạt động mục vụ.
- Gia đình làm ngôn sứ
- Từ những suy tư trên đây về gia đình, rõ ràng đã xuất hiện một chiều kích hết sức quan trọng. Gia đình thực sự có vai trò ngôn sứ. Được Thiên Chúa ban cho cuộc sống hiệp thông, liên đới và được kêu gọi giúp Ngài xây dựng nền văn hóa sự sống toàn vẹn, như vậy bản chất của gia đình hướng đến những giá trị của Nước Thiên Chúa, được mời gọi chia sẻ những giá trị cao đẹp của con người. Là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa, gia đình chính là một cộng đoàn ngôn sứ trong xã hội. Gia đình đưa ra lời kêu gọi xã hội phải triệt để canh tân chính mình vốn gồm nhiều lực lượng mang lại sự chết, hủy diệt vô tội vạ những món quà sự sống, tình yêu, công lý, hòa hợp và bình an được Thiên Chúa ban cho.
- Trung thành với căn tính và ơn gọi trở thành Giáo Hội tại gia, cũng vậy gia đình còn là ngôn sứ đối với toàn thể Hội Thánh. Khi Giáo Hội không còn sống đúng căn tính của mình là đền thờ của giao ước tình yêu và sự sống, không sống hiệp thông và liên đới; khi Giáo Hội sút giảm nhiệt huyết thực thi sứ vụ mang lại ơn cứu độ toàn diện; khi các chủ chăn không còn hành xử như những mục tử theo lòng Chúa mong ước; khi sự bình đẳng về phẩm giá, tinh thần đồng trách nhiệm, tham gia tích cực, lòng quảng đại tự hiến không thôi thúc Giáo Hội được nữa; khi quyền lực, thói ích kỷ và sự phân biệt đối xử đe dọa cấu trúc bên trong của Giáo Hội- thì chính những lúc như thế, gia đình đưa ra lời kêu gọi ngôn sứ đối với Gia đình của Thiên Chúa hãy bước vào con đường canh tân. Như vậy, nhờ chứng từ của Giáo Hội tại gia, toàn thể Hội Thánh được “hôn nhân hóa”, nghĩa là được tác động bởi kinh nghiệm sống của các đôi vợ chồng. Vì lẽ đó, gia đình phải luôn sống hiệp nhất với Chúa bằng một nền linh đạo năng động của hiệp thông và làm môn đệ Chúa.
5. Linh đạo gia đình hướng đến nền văn hóa sự sống toàn diện[110]
- Một câu hỏi lớn được các bậc cha mẹ và gia đình của họ đặt ra là: Đức Tin giúp tôi hiểu gì về ý nghĩa của hôn nhân và gia đình? Nếu không tìm được lời giải đáp về mối liên hệ toàn diện giữa đức Tin và cuộc sống, tác động đến cuộc sống của mình, thì cuộc sống hôn nhân và gia đình sẽ mất phương hướng khi phải đối phó với những thử thách họ phải đương đầu. Ý nghĩa trước hết của hôn nhân và gia đình, như chúng ta đã suy tư, đó là giao ước tình yêu và sự sống, thông hiệp, liên đới và sứ vụ. Câu trả lời sâu xa nhất, tìm đến chính bản chất của nó, thì hôn nhân và gia đình chính là một linh đạo, linh đạo của sự thông hiệp, linh đạo của người làm môn đệ Chúa, linh đạo của Thánh Thể.
- Linh đạo thông hiệp
- Cốt lõi của hôn nhân là tình yêu, tình yêu của Thiên Chúa đưa người nam và người nữ gắn bó với nhau trong tình yêu -nên một- trong hôn nhân, đó là tình yêu tự nền tảng đã hướng đến sự sống nơi con cái mình. Linh đạo hôn nhân được đặt trên nền tảng của sự thông hiệp yêu thương này. Sống linh đạo thông hiệp trong đời sống hôn nhân, toàn bộ nhân vị của vợ và chồng đều tham gia vào, bao gồm mọi cảm xúc, cảm nhận, tâm hồn và thể xác, những yếu tố tính dục khác nhau giữa nam và nữ, những yếu tố này về cơ bản luôn hướng đến nhau. Điều này có nghĩa là, trong hôn nhân, khoảnh khắc tột đỉnh độc đáo của sự hiệp nhất, một lòng một ý, thực sự diễn ra qua hành vi vợ chồng tự hiến cho nhau, một món quà kỳ diệu và nhiệm mầu được Thiên Chúa ban cho. Ý nghĩa sâu xa của sự nên một được các đôi vợ chồng cảm nghiệm qua hành vi vợ chồng, một cảm nhận sâu sắc về tình yêu tự hiến cho người mình yêu, cho thấy một kinh nghiệm mang ý nghĩa thần bí của vợ chồng, kinh nghiệm về việc hoàn toàn tự đánh mất mình để dành tặng cho vợ/chồng. Họ được thu hút đến sự sống tốt lành và nhờ sự sống tốt lành này mà nhận biết một cách sâu sắc chính Thiên Chúa là Tình yêu tự hiến (Agape). Do đó, không những khắc phục nền linh đạo mang tính nhị nguyên coi thường giá trị của thân xác, mà còn phải thấy sự kết hiệp yêu thương nên một lòng một ý được diễn tả qua hành vi vợ chồng đang làm sống động, nâng đỡ và củng cố linh đạo vợ chồng là linh đạo của sự thông hiệp. Hơn nữa, khi quảng đại hướng đến việc sinh con, tình yêu vợ chồng làm tăng thêm sự thông hiệp với nhau. Việc sinh ra một đứa con và hình ảnh người cha, người mẹ và đứa con gợi lên sự thông hiệp của Ba Ngôi Thiên Chúa. Con cái là quà tặng tuyệt vời và là hình ảnh của Thiên Chúa. Chúng mang niềm vui đến cho cha mẹ. Chúng củng cố những mối tương quan vợ chồng và gia đình. Chúng khiến cha mẹ phải thăng tiến để xứng đáng làm cha làm mẹ.
- Cũng như trong hôn nhân, sự hiệp thông cũng là cốt lõi của gia đình. Hiệp thông với Thiên Chúa, hiệp thông vợ chồng, hiệp thông giữa cha mẹ và con cái, hiệp thông giữa ông bà và con cháu trong dòng họ. Đó là sự hiệp thông của những người có quan hệ với nhau cùng sống dưới một mái nhà, cùng máu mủ. Đó cũng là sự hiệp nhất một lòng một ý[111], một hình ảnh phản ánh theo lối loài người về sự hiệp thông của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần – Ba Ngôi Thiên Chúa phát sinh gia đình. Theo định nghĩa, nền văn hóa sự sống bắt nguồn từ tình yêu và sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Do đó linh đạo hiệp thông đưa gia đình trở thành tác nhân của nền văn hóa sự sống toàn diện.
- Hiệp thông trong gia đình còn phải vươn ra cộng đồng rộng lớn hơn và thúc đẩy gia đình hướng đến sứ mạng phục vụ[112]vì Nước Thiên Chúa. Việc vươn ra bên ngoài này giúp gia đình có thể chia sẻ sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa đã lãnh nhận. Linh đạo hiệp thông truyền sức sống và lòng nhiệt thành -sự sống- vào động lực sống của gia đình, mối tương quan giữa vợ chồng với nhau, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên trong đại gia đình với nhau. Linh đạo này lan tỏa nơi các vòng tròn đồng tâm mở rộng dần, gồm hàng xóm láng giềng, toàn thể cộng đồng. Thiếu nền linh đạo này, gia đình sẽ không đạt đến căn tính và sứ vụ của mình.
- Linh đạo môn đệ và phương thế đời thường
- Đối với các gia đình Kitô hữu, linh đạo hiệp thông chính là linh đạo của người môn đệ Chúa, những người thuộc về Đức Kitô và bước theo Đức Kitô. Làm môn đệ Chúa trong gia đình trước hết là lắng nghe Đức Kitô và suy ngẫm lời Chúa trong cuộc sống đời thường của vợ chồng, gia đình, dưới ánh sáng Tin Mừng. Lời Đức Maria nói với những người giúp việc trong tiệc cưới tại Cana, khởi đầu cuộc sống hôn nhân của đôi vợ chồng mới, cũng được gửi đến các gia đình: “Hãy làm những gì Người bảo”[113]. Đó là việc lắng nghe Chúa Giêsu nói và tìm ra ý Người muốn đối với những mối tương quan trong gia đình, nơi làm việc hoặc những sự kiện xảy ra hằng ngày ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình. Quả thật, qua những sự kiện xảy đến trong đời thường, gồm vui mừng và hy vọng, buồn sầu và lo lắng, những rắc rối phiền hà xảy đến cho gia đình, cần khám phá những gì đẹp lòng Chúa và những gì không làm cho Chúa vui lòng, những gì đưa đến chính trực, công bình, hiệp nhất, hòa hợp, an bình và tình yêu, và những gì không mang lại những giá trị đó. Cũng chính qua con đường bình thường của lòng thương yêu và sự quan tâm, phục vụ và thực thi bổn phận trong gia đình mà Chúa ban ơn thánh hóa. Sống đời thường với sự trung thành làm môn đệ của Chúa trong yêu thương là cách thể hiện sự dấn thân cho Nước Chúa. Sống niềm tin son sắt giữa cuộc đời thường, vợ chồng và gia đình cảm nghiệm và nhận ra được Đấng Phi thường. Thiên Chúa trở nên hữu hình và có thể chạm vào Ngài ngay trong những điều bình thường của đời sống.
- Khi tìm hiểu những gì là giá trị và có ý nghĩa thực tiễn cần được nhìn nhận, các đôi vợ chồng và gia đình cần phải nhớ Chúa đang hiện diện trong cuộc đời mình. Thần khí nói với họ và qua họ. Do đó, toàn thể Giáo Hội phải nghiêm túc dùng những kinh nghiệm đức Tin của các đôi vợ chồng và gia đình như nhân tố quan trọng của trong việc Giáo Hội tìm biết ý Chúa.
- Nhận ra được tính chất độc đáo không gì sánh được và sự phong phú do bí tích Hôn nhân mang lại, đồng thời bí tích này đòi phải có một nền linh đạo dành cho các gia đình Kitô hữu, nên chúng ta cần mở rộng tầm nhìn của mình. Những giá trị quan trọng trong linh đạo gia đình Kitô hữu cũng giống như những giá trị cần cho những mối quan hệ giữa người với người trong các gia đình đại kết và liên tôn. Đó là những giá trị của Nước Thiên Chúa -sự sống, sự hiệp thông, liên đới, nhận lãnh sứ mạng, phục vụ, trung tín, liêm chính, công lý, hiệp nhất, hòa hợp, bình an, lắng nghe Chúa nói và để tâm tìm ý Chúa- những giá trị được thể hiện trong những việc bình thường của cuộc sống gia đình hằng ngày. Những giá trị đó làm nên người môn đệ của Nước Chúa. Nội dung được nói đến sau đây về việc huấn luyện lương tâm, cầu nguyện, tình yêu được củng cố qua việc cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn, việc trung thành chu toàn bổn phận, sự tự hiến mang tính chất “Thánh Thể” và giúp nhau nên thánh trong gia đình cũng là những điều cần thiết trong việc sống linh đạo Nước Thiên Chúa.
- Huấn luyện lương tâm và lãnh nhận ơn hôn nhân
- Lương tâm giữ vai trò không thể thiếu trong linh đạo gia đình. Thiên Chúa đã ghi khắc vào trái tim mỗi người luật buộc vâng theo tiếng Chúa nói – làm lành lánh dữ. Lương tâm “ở tận cốt tủy của hiện hữu”, “nơi bí nhiệm của cõi lòng”. Lương tâm là quà tặng của Thiên Chúa trao cho người nam và người nữ để họ được thực sự làm người, và trở thành những con người mang cảm nghiệm Thiên Chúa. Khi mỗi người trong gia đình sống theo lương tâm “được trợ giúp bởi những chuẩn mực đạo đức khách quan”[114], thì gia đình được hiệp nhất trong tình yêu theo ý muốn của Thiên Chúa. Sự kết hiệp với Chúa được củng cố. Nhờ đó gia đình được dẫn dắt để cùng tìm kiếm chân lý. Sống theo lương tâm, mọi người trong gia đình sẽ không chạy theo dư luận đương thời hoặc theo ý muốn, sở thích riêng. Cuộc sống và sự ứng xử của họ phải được dẫn dắt bởi tiếng Chúa nói qua lương tâm, trong ánh sáng huấn quyền của Hội Thánh là “nơi có thẩm quyền giải thích luật Chúa”[115]. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi chúng ta nhận biết rằng tội lỗi đã phá vỡ trật tự sự tự do của con người và ơn Chúa vốn cần thiết để hướng tự do đến điều lành[116]. Ngày nay, chủ nghĩa thế tục hóa đang phát triển, Thiên Chúa trở thành một ý niệm lỗi thời và Hội Thánh trở thành “tiếng kêu trong hoang địa”, vì vậy, lương tâm phải “đúng theo luật Chúa” vốn “chiếu ánh sáng vào ý nghĩa của tình yêu hôn nhân, gìn giữ và dẫn dắt tình yêu đó đạt đến sự thành toàn đích thực về phương diện con người”[117]. Do đó việc đào luyện một lương tâm ngay thẳng, dễ dàng uốn nắn theo luật Chúa, là một khía cạnh cần thiết trong linh đạo hôn nhân và gia đình. Chắc chắn điều này làm tăng thêm phần quan trọng của việc cha mẹ giáo dục con cái và huấn luyện chúng có một lương tâm ngay thẳng. Đồng thời khi nhìn vào mẫu gương cha mẹ trung thành với phận sự, con cái thấy mình được thôi thúc và khích lệ hãy noi theo những gì đã nhìn thấy nơi cha mẹ. Chúng sẽ học hỏi được nhiều hơn, sống hiếu thảo, tôn kính và vâng lời cha mẹ.
- Luôn luôn, trong mọi sự, dù bình thường hay bất thường, sự hiện diện của Chúa trong gia đình, một sự hiện diện đáng tin cậy, nhân từ và mang lại thay đổi, chính là nguồn ban sức cho con người trên đường nên thánh. Đức Tin giúp chúng ta biết vợ chồng Kitô hữu “được củng cố và được thánh hiến bằng một bí tích riêng để lãnh nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống họ; khi nhờ sức mạnh của bí tích này mà thực hiện vai trò trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô, nhờ vậy, toàn bộ cuộc sống của họ được thấm nhuần đức tin, cậy, mến, và họ càng ngày càng tiến gần hơn tới sự trọn lành của riêng từng người và cùng giúp nhau nên thánh, đồng thời cùng nhau tôn vinh Thiên Chúa[118]. Khi cầu nguyện cũng như lúc làm việc, việc ý thức về ơn đặc biệt ban cho hôn nhân chắc chắn sẽ mang lại nhiều hoa trái về mặt trần thế cũng như thiêng liêng cho gia đình, đồng thời không ngừng nhắc gia đình nhớ rằng Ba Ngôi Thiên Chúa đang hiện diện sống động.
- Cầu nguyện, Mầu nhiệm vượt qua và Bí tích Thánh thể
- Cầu nguyện là trung tâm của linh đạo gia đình, “cầu nguyện của gia đình, cầu nguyện cho gia đình, và cầu nguyện với gia đình”[119]. Các gia đình vừa cần được cổ võ vừa cần được huấn luyện để thường xuyên cầu nguyện, chứ không chỉ những dịp đặc biệt như mừng sinh nhật và những ngày kỉ niệm khác. Việc cầu nguyện trong gia đình phải liên kết một cách sáng tạo những cảm nghiệm hằng ngày vẫn có với những giá trị Tin Mừng. Đọc và suy niệm Lời Chúa theo phương phápLectio Divinanên được thực hành thường xuyên trong giờ kinh gia đình. Kinh nghiệm cho thấy việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương các Gia đình, nhất là việc thường xuyên, sốt sắng đọc kinh Mân Côi sẽ mang lại hoa trái cho đời sống gia đình. Sáng tạo những hình thức cầu nguyện mới trong gia đình, cũng như canh tân các thể thức và lòng tôn sùng đã quen thuộc cũng đều sinh ơn ích. Chính lời kinh được Chúa Giêsu dạy cho gia đình các tín hữu của Người gợi lên được nhiều nhất về sự cai quản của tình yêu Thiên Chúa. Kinh Lạy Cha thực sự là lời cầu nguyện của toàn thể vũ trụ và trên hết chính là lời kinh của gia đình có Thiên Chúa là Người Cha tối cao của mình.
- Một gia đình cầu nguyện thì được Chúa Thánh Thần đi cùng, được sống trong Thánh Thần, được ở lại trong Thánh Thần và bước theo Chúa Kitô trong tinh thần môn đệ trung tín. Trung thành trong đời sống hôn nhân, bền bỉ với cam kết hôn nhân, vợ chồng và con cái có khả năng đáp lại một cách thích đáng những thách đố trong cuộc sống hằng ngày, tất cả đều là ơn Chúa Thánh Thần ban cho qua cầu nguyện, mặc dù, về cơ bản, quả thật những ơn này vẫn được ban dồi dào qua bí tích hôn nhân. “Để kiên trì gánh vác những bổn phận của ơn gọi Kitô hữu này, phải hết sức can đảm: vì thế, vợ chồng cần được ban ơn đạt đến đời sống thánh thiện: nồng nàn với tình yêu bền vững, sống quảng đại, sẵn sàng hi sinh, đồng thời cầu nguyện nài xin Chúa ban cho tình yêu đó”[120].
- Cuối cùng chúng ta cần nhận thức một cách sâu sắc rằng vai trò thánh hóa của gia đình đã được đặt trên nền tảng bí tích Thánh tẩy và Thêm sức, nên sẽ “được diễn tả cách trọn vẹn nhất trong bí tích Thánh Thể”[121], bởi bí tích Thánh Thể là sự tưởng niệm cuộc Khổ nạn, cái Chết và sự Phục sinh của Đức Kitô, mầu nhiệm Vượt qua, nguồn ơn cứu độ chúng ta. Cũng như Đức Kitô đã trỗi dậy từ đau khổ và cái chết, các gia đình, nhờ mầu nhiệm Vượt qua đã trở thành bí tích trong phép Thánh Thể, cũng được ban sức mạnh để trỗi dậy từ những thử thách hằng ngày, những lo âu, chán nản, kể cả sự thất vọng -những “cái chết” mà cuộc sống hôn nhân và gia đình hằng ngày phải nhận lấy. Chắc chắn, các đôi vợ chồng và gia đình sẽ nhận được niềm vui và hi vọng, tha thứ và hòa giải, sự mạnh mẽ phát xuất từ bí tích Thánh Thể.
- Bí tích Thánh Thể thể hiện giao ước tình yêu giữa Đức Kitô và Hội Thánh. Do đó, trong hi tế Thánh Thể, người vợ và người chồng gặp gỡ nguồn phát sinh giao ước tình yêu của chính mình. Vì lẽ đó, cả hai vợ chồng không nên coi phép Thánh Thể chỉ như một bổn phận mà chính là một cuộc cử hành, ở đó họ gặp được suối nguồn bí tích đã phát sinh cuộc sống nên một của mình, đồng thời cũng là một biến cố cử hành cùng với con cái để làm cho tình yêu vợ chồng và giao ước của mình nên mới mẻ. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta: “Bí tích Thánh Thể sinh ra sự thông hiệp và nuôi dưỡng hiệp thông”[122]. Nơi bí tích Thánh Thể, người vợ và người chồng cùng toàn thể gia đình cử hành mầu nhiệm hiệp nhất của họ trong Thân Mình của Đức Kitô, và sự hiệp nhất của họ với mọi người. Thánh Augustinô nói: “Nếu anh em là thân mình của Đức Kitô và là các chi thể của Ngài, anh em sẽ thấy mầu nhiệm của chính anh em được đặt trên bàn của Chúa. Phải, anh em đang nhận lấy mầu nhiệm của riêng mình”[123]. Trong khung cảnh này, cuộc cử hành Năm Thánh Thể từ tháng Mười 2004 đến tháng Mười 2005, cũng được coi như một năm dành cho Gia đình, ngõ hầu các gia đình lưu tâm đến những lời dặn của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II để thêm trung tín: “Hỡi gia đình, hãy trở nên chính mình!”, phải chăng không phải là điều đáng mơ ước hay sao? Linh đạo hiệp thông và môn đệ cần cho các gia đình cũng chính là linh đạo Thánh Thể, liên quan đến mọi điều bao hàm trong hành động hiến tế Thánh Thể của Chúa Giêsu: một tình yêu tự hiến, tự hủy mình hoàn toàn ra không. Vì thế, cử hành bí tích Thánh Thể phải là một sự kiện của gia đình với sự tham dự của mọi thành viên trong gia đình, kể cả các thiếu nhi và hài nhi[124].
PHẦN III. NHỮNG ĐỀ NGHỊ ĐỐI VỚI MỤC VỤ GIA ĐÌNH
1. Viễn cảnh mục vụ gia đình tại Châu Á
- Trước tình hình mục vụ và những suy tư thần học về mục vụ gia đình tại châu Á, thấy cần thiết phải đưa ra một số hướng dẫn về mục vụ gia đình.
– Mục vụ gia đình phải mang tính toàn diện, cả chiều sâu lẫn bề rộng. Cần lưu tâm tìm hiểu về văn hóa sự sống toàn diện đã được chúng ta bàn luận;
– Vì vậy, mục vụ gia đình, về bề rộng, cần bao gồm đồng thời cũng trải rộng những điều thường được quan tâm như ngừa thai, phá thai, an tử, kế hoạch hóa gia đình bằng phương pháp tự nhiên, giáo lý trước và sau khi kết hôn, và những lớp bồi dưỡng về gia đình.
– Trước sự xuất hiện của những giá trị gia đình mang tính thế tục, mục vụ gia đình cần tìm cách bảo vệ và cổ võ mạnh mẽ những xác tín xuất phát từ đức tin của chúng ta:
+ Đó là “Gia đình được đặt trên nền tảng hôn nhân vốn là sự kết hợp mật thiết và bổ túc cho nhau giữa một người nam và một người nữ, sự kết hợp này được thiết lập bằng giao ước tự nguyện, bày tỏ công khai về mối dây liên kết hôn nhân bền vững và rộng mở cho việc thông truyền sự sống”;[125]
+ “Hôn nhân là định chế tự nhiên, duy nhất được ủy thác về sứ mạng thông truyền sự sống”;[126]
+ Hôn nhân Kitô giáo là một bí tích do Thiên Chúa thiết lập.
– Căn cứ vào thực tế xã hội, văn hóa và tôn giáo tại châu Á, mục vụ gia đình cần đặt ra mục tiêu chuẩn bị cho các đôi vợ chồng và gia đình ứng phó với những thách đố của tình trạng nghèo khổ, di dân, các vấn đề về giới tính, người trẻ, các gia đình dân tộc thiểu số, môi trường, chính trị, toàn cầu hóa về kinh tế và văn hóa;
– Mục vụ gia đình phải chăm sóc những gia đình đang đặc biệt khó khăn.
– Trong chiều sâu, mục vụ gia đình cần giúp các đôi vợ chồng và gia đình của họ sống với nguồn nội lực đức tin (các bí tích, phụng vụ, cầu nguyện, linh đạo sống đời thường) trong nỗ lực hướng đến nền văn hóa của sự sống toàn diện.
– Mục vụ gia đình cần giúp các gia đình trở thành những nhà truyền giáo, nhờ đó, hoạt động mục vụ này không những phục vụ các gia đình mà còn được thực thi bởi các gia đình.
- Những khảo sát cho thấy một số Hội đồng Giám mục tại châu Á đã xây dựng các chương trình giáo lý chuẩn bị hôn nhân và thường huấn hôn nhân thật vững mạnh. Các Hội đồng Giám mục này cũng đã xây dựng khá tốt các chương trình huấn luyện Trách nhiệm Làm Cha Làm Mẹ, nhấn mạnh đến việc Kế hoạch hóa gia đình bằng phương pháp tự nhiên. Còn việc triển khai nguồn tài chính cho mục vụ gia đình và huấn luyện nhân sự giáo dân, nhất là ở cấp giáo xứ, chưa được vững mạnh. Tuy nhiên, theo quan điểm của những hướng dẫn được nêu trên về mục vụ gia đình do hoàn cảnh mục vụ gia đình tại châu Á đặt ra, chúng tôi, ngoài những hướng dẫn mục vụ đã được các Ủy ban Mục vụ Gia đình trực thuộc các Hội đồng Giám mục đề ra, muốn nhắm đến Mục vụ Gia đình tại châu Á với các hướng dẫn chương trình tổng quát sau đây:
2. Hướng dẫn tổng quát / định hướng
- Mục vụ gia đình huấn luyện và tạo điều kiện
- Để gia đình trở thành trọng tâm của Phúc âm hóa
– Gia đình là trọng tâm của Phúc âm hóa là ưu tiên cao nhất. Mọi chương trình mục vụ cần phù hợp và hỗ trợ cho trọng tâm này;
– Định hướng lại mọi chương trình mục vụ để có thể góp phần vào việc củng cố và tạo điều kiện cho gia đình thực hiện việc truyền giáo.
- Huấn luyện đức Tin trong gia đình
– Cổ võ việc huấn luyện toàn diện về đức Tin trong gia đình, gồm có huấn luyện việc truyền giáo, hướng đến linh đạo hiệp thông, làm môn đệ Chúa và truyền giáo;
– Cổ võ việc huấn luyện các bậc cha mẹ đón nhận con cái là quà tặng của Thiên Chúa và huấn luyện tinh thần công dân cho con cái;
– Củng cố các bậc cha mẹ qua việc huấn luyện đức Tin một cách phù hợp, qua tư vấn gia đình, bồi dưỡng về hôn nhân và các phương cách khác để họ thực hiện ơn gọi làm nhà giáo dục, giáo lý viên và người huấn luyện truyền giáo đầu tiên đối với con cái;
– Huấn luyện việc sống đức Tin cho các đôi vợ chồng, các bậc cha mẹ và con cái hướng đến nền văn hóa sự sống toàn diện;
– Củng cố các giá trị Công giáo về hôn nhân, đồng thời biết cởi mở đón nhận việc đối thoại trong tinh thần tôn trọng niềm tin và những giá trị của các tôn giáo khác.
– Huấn luyện việc cầu nguyện trong gia đình, đọc Kinh Thánh và suy niệm hoặc Lectio Divina trong gia đình;
– Khuyến khích việc học hỏi vận dụng Hiến chương về các Quyền của Gia đình [bản dịch đã đăng trong HT số 80] như một nội dung chính của mục vụ gia đình;
- Vai trò của người chồng và người vợ trong gia đình
– Khôi phục sự bình đẳng, phẩm giá, tính bổ túc cho nhau và tinh thần tham gia đồng trách nhiệm của người chồng và người vợ qua các vai trò khác nhau trong gia đình;
– Bài trừ thói gia trưởng tệ hại và giải phóng phụ nữ khỏi các giá trị và những cơ cấu truyền thống mang tính áp bức vốn không nhìn nhận họ được bình đẳng về phẩm giá với nam giới;
– Giúp họ được huấn luyện một cách thích đáng về vai trò của giới tính nam và giới tính nữ trong các mối quan hệ nhân bản và gia đình;
– Giáo dục và đào tạo cả nam và nữ để họ có thể thực thi vai trò thể hiện việc bổ túc cho nhau và cùng tham gia vào việc duy trì và thúc đẩy đời sống hôn nhân cũng như việc chăm sóc toàn diện đối với con cái;
– Bảo đảm có được chương trình giúp phụ nữ có khả năng trở thành những nhân tố cơ bản đảm nhận sứ vụ tại các cấp giáo phận và giáo xứ;
- Nguồn lực và nhân sự dành cho mục vụ gia đình
– Cung ứng các nguồn lực thông thường, nhân sự và tài chính cần thiết cho việc điều hành các công việc toàn thời gian của mục vụ gia đình ở cấp giáo phận và giáo xứ, cần ưu tiên cho việc tuyển dụng nhân sự là giáo dân;
– Huấn luyện chuyên sâu và thích đáng mọi nhân sự của mục vụ gia đình; đặc biệt phải cấp bách tuyển dụng và đào tạo các nhà tư vấn nữ và “các đôi vợ chồng làm tư vấn”;
– Khuyến khích và tuyển dụng nam và nữ vào các ngành chuyên môn khác nhau có liên quan đến việc chăm sóc các gia đình như một phần của các hoạt động sứ vụ của giáo phận và giáo xứ;
- Sứ vụ gia đình và các ơn gọi
– Nâng cao nhận thức của các gia đình về các ơn gọi trong Giáo Hội, trong đó có ơn gọi gia đình;
– Huấn luyện người trẻ về ơn gọi gia đình, qua đó biết phân định đúng đắn trong việc chọn bạn đời tiến tới hôn nhân;
– Huấn luyện việc sống đức Tin cho các đôi vợ chồng, các bậc cha mẹ và con cái hướng đến nền văn hóa sự sống toàn diện;
– Đưa việc cổ võ ơn gọi vào mục vụ gia đình nhằm giúp các gia đình không những tham gia vào việc nâng đỡ ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ, mà còn biết khám phá, cổ võ, nuôi dưỡng và bồi dưỡng họ trong ơn gọi gia đình;
- Phương pháp tiếp cận các vấn đề, hình thành các Nhóm hỗ trợ và xây dựng Chương trình cho Sứ vụ Gia đình
– Thành lập các nhóm hỗ trợ tại giáo xứ để trợ giúp mọi mặt của sứ vụ;
– Sử dụng cách thức gặp gỡ theo từng cặp vợ chồng, từng hai gia đình để hỗ trợ, nâng đỡ và khuyến khích nhau;
– Cổ võ việc học hỏi giáo huấn của Hội Thánh về sinh sản có trách nhiệm, nhằm nâng cao nhận thức của các cặp vợ chồng về những cách tiếp cận các vấn đề ngừa thai, phá thai có mục đích hạn chế sinh sản, thực hiện “chính sách gia đình”;
– Biên soạn tài liệu về giáo dục giới tính, về các vấn đề đạo đức trong quan hệ vợ chồng, về việc làm cha làm mẹ của người Kitô hữu, về việc huấn luyện truyền giáo cho con cái, về giáo lý gia đình dùng trong các trường học, những cộng đoàn Giáo Hội / Xã hội cơ bản;
– Đưa môn sứ vụ gia đình vào chương trình giảng dạy tại các chủng viện, học viện;
– Đưa các phương tiện truyền thông đại chúng vào kế hoạch và hoạt động mục vụ của Giáo Hội, đồng thời gắn sứ điệp của Hội Thánh với nền “văn hóa mới” đang được giới truyền thông hiện đại cổ võ, nhằm giúp các gia đình loan báo Tin Mừng.
- Sứ vụ gia đình – chăm sóc và phục vụ: những chương trình đặc biệt nhằm thực thi sứ vụ gia đình
– Xây dựng các chương trình mang tính toàn diện nhằm chăm sóc những người cha, người mẹ đơn thân, hôn nhân liên văn hóa, hôn nhân đại kết và hôn nhân liên tôn;
– Xây dựng các chương trình chăm sóc đặc biệt dành cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, như cha mẹ li dị, tái hôn;
– Xây dựng các chương trình chăm sóc những gia đình có người ra nước ngoài làm việc, đồng thời giúp đỡ những người ra nước ngoài làm việc, trước khi họ ra đi và lúc trở về;
– Lưu tâm đến các vấn đề bạo lực và lạm dụng trong gia đình, hôn nhân vị thành niên, hôn nhân sắp đặt, nghiện ngập, các vấn đề liên quan đến HIV;
– Tư vấn cho các gia đình, trong đó có tư vấn về ơn thiên triệu cho người trẻ;
– Xây dựng các chương trình chăm sóc trẻ em;
– Tạo dịp cho các gia đình đa tôn giáo được gặp nhau để chia sẻ kinh nghiệm tôn giáo, nhờ đó thêm hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau;
- Sứ vụ gia đình – cổ võ cải cách xã hội
– Cổ võ vai trò bổ trợ của Nhà nước và các định chế của Giáo Hội về gia đình;
– Xây dựng các chương trình phát triển toàn diện con người dành cho gia đình thông qua các cộng đoàn cơ bản của Giáo Hội / Xã hội, bắt đầu bằng nhận thức xã hội giúp họ có thể tự mình tham gia vận động và hành động xã hội, chính trị;
– Gắn quan điểm giới với nhiệm vụ cải cách xã hội, như lập trường “tân nữ quyền” được Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II ủng hộ;
– Vận động, tổ chức và huấn luyện phụ nữ về nhiệm vụ cổ võ công bằng xã hội và hòa bình;
– Huấn luyện các kỹ năng, thiết lập mạng lưới và xây dựng tình liên đới giữa các gia đình liên tôn tại các cộng đoàn cơ bản của Giáo Hội / Xã hội nhằm thực hiện cuộc vận động chính trị và xã hội, bao gồm việc nêu cao cảnh giác đối với những phương tiện truyền thông xã hội và không gian mạng (toàn cầu hóa sự liên đới các gia đình tại các cơ sở);
– Tăng cường mục vụ gia đình tại các trường Công giáo nhằm chăm lo cho các gia đình đại kết và liên tôn, nhất là các trường đảm nhận trách nhiệm giám hộ học sinh thay cho cha mẹ (in loco parentis);
– Thiết lập các nhóm giáo dân và các đôi vợ chồng có chuyên môn thuộc nhiều ngành khác nhau tham gia vận động chính trị xã hội nhằm bênh vực các giá trị Tin Mừng đang bị đe dọa bởi các phương tiện truyền thông và pháp luật.
– Ngăn chặn việc sử dụng trẻ em và trẻ vị thành niên trong chiến tranh.
– Ngăn chặn việc buôn bán trẻ em và phụ nữ dưới mọi hình thức, nhất là du lịch tình dục;
- Động lực cơ bản của sứ vụ gia đình tại châu Á phải là một nền linh đạo Gia đình thích hợp và mang tính dấn thân. Đó là linh đạo Hiệp thông, Truyền giáo, sống tinh thần Môn đệ. Một nền linh đạo mang tính Giáo Hội, bí tích và quy về trung tâm là Chúa Kitô.
- Trước thực trạng đa văn hóa và đa tôn giáo của các gia đình châu Á, nền linh đạo này cần đặc biệt quy chiếu linh đạo Nước Thiên Chúa, lấy đó làm mẫu số chung cho việc thực thi sứ vụ và hướng đến mục tiêu giúp đỡ các gia đình châu Á xây dựng nền văn hóa sự sống đích thực tại châu Á.
3. Những việc cần ưu tiên và các chương trình được Đại hội FABC lần VIII đề ra
- Định hướng tổng quát
- Gia đình là người loan báo Tin Mừng trong công cuộc Tân Phúc âm hóa của thế kỷ mới;
- Gia đình là trọng tâm của công cuộc Phúc âm hóa trong kế hoạch của giáo phận;
- Gia đình là Hội Thánh tại gia:
– Giáo Hội minh chứng cho đời sống gia đình qua cải cách giáo dục, ủng hộ những chính sách xã hội đúng đắn, v.v;
– Đem lại nhận thức về vai trò của gia đình trong công cuộc cải cách xã hội;
– Chuẩn bị cho gia đình việc đối thoại về sự sống và hành động bằng cách dấn thân đối thoại về sự sống với bà con láng giềng, cộng tác với những người đồng chí hướng;
– Biên soạn sách Kinh và nghi thức liên quan đến đời sống gia đình như lễ hỏi, lễ cưới, các lễ kỷ niệm, Rước lễ lần đầu, v.v.
- Các chương trình
– Cổ võ các chương trình mang tính hệ thống và toàn diện
về tình yêu và cuộc sống / làm phong phú đời sống gia đình
+ hướng đến mọi độ tuổi (thiếu nhi, thiếu niên, người lớn);
+ dành cho các gia đình thuộc diện đại kết, liên tôn, liên văn hóa;
+ dành cho các loại gia đình khác (gia đình có cha mẹ mẹ đơn thân, ly dị, tái hôn, di dân, v.v.) – Mang lại cho các gia đình đang sống trong hoàn cảnh đặc biệt (ly dị, nghiện ngập / bị bạo hành) sự chăm sóc đặc biệt về Mục vụ và Chữa lành;
– Dành sự chăm sóc đặc biệt cho các thiếu nhi thuộc gia đình nghèo túng;
– Thành lập ban Mục vụ Nam giới:
+ Khai triển nền linh đạo dành cho nam giới;
+ Làm thay đổi não trạng méo mó, lệch lạc, biến dạng về nam tính và phụ quyền, nhờ đó các ông có thể chiếu tỏa vẻ đẹp ngời sáng riêng của mình như Thiên Chúa mong muốn trong chương trình dựng nên người đàn ông của Ngài;
+ Đưa họ trở về với vai trò trách nhiệm trong gia đình.
– Cổ võ việc làm chứng cho những giá trị hôn nhân tốt lành và bền vững qua việc cử hành phụng vụ mừng kỷ niệm các gia đình (chẳng hạn kỷ niệm thành hôn, mừng sinh nhật)
+ Định chế hóa các chương trình tiếp xúc dành cho các đôi vợ chồng trong năm năm đầu mới thành hôn
+ Cổ võ các chương trình mang lại những lợi ích thiết thực cho các gia đình – chẳng hạn hướng dẫn nuôi dạy con cái, xây dựng các mối quan hệ với cha mẹ, anh chị em ruột, cha mẹ, anh chị em bên chồng, bên vợ, giải quyết các xung đột.
- Cơ cấu
– Tổ chức lại ban Mục vụ Gia đình nhằm khẳng định, cổ võ, cải thiện môi trường sống của gia đình, đặt những đôi vợ chồng giàu kinh nghiệm làm lãnh đạo, các linh mục làm cộng sự viên và những nhà tư vấn chuyên môn làm trợ lý;
– Thiết lập các cơ cấu cho việc huấn luyện đức Tin:
+ Hội Gia đình truyền giáo / Hội đồng Gia đình / Các tổ hạt nhân tại các giáo xứ, giáo phận;
+ Các Cộng đoàn Giáo Hội Cơ bản (BEC, Basic Ecclesial Communities) / Cộng đoàn Kitô hữu Cơ bản (BCC, Basic Christian Communities) / Tiểu Cộng đoàn Kitô hữu (SCC, Small Christian Communities);
+ Các nhóm học Thánh Kinh tại gia đình hoặc tại các liên gia nhằm chống lại giáo phái Ngũ tuần, đồng thời quy tụ các gia đình lại với nhau;
+ Cùng với các linh mục quản xứ, tiến hành việc huấn luyện đức Tin trong tư cách những linh hoạt viên của ban mục vụ Gia đình.
- Điều nghiên và hành động
– Tình trạng phụ nữ;
– Các gia đình lao động di dân / những nhà quản lý và giới chuyên môn thường phải sống xa người thân vì nhu cầu công việc.
- Các vấn đề / những mối quan tâm do các nhóm theo vùng đề nghị với Liên Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC)
– Phát triển một nền thần học châu Á về hôn nhân và gia đình – ơn gọi, sứ vụ và sự hiệp nhất vợ chồng;
– Thiết lập Văn phòng Gia đình trực thuộc FABC;
– Tìm phương cách khẳng định các giá trị gia đình;
– Cổ võ mục vụ chăm sóc những cuộc hôn nhân đại kết, liên tôn, liên văn hóa hướng đến việc tôn trọng lẫn nhau và thông truyền các giá trị cho con cái;
– Nghiên cứu các hệ thống xã hội của các dân tộc thiểu số và tìm hiểu những cách thức các dân tộc này góp phần vào việc làm phong phú đời sống gia đình;
– Xem xét những con đường thâm nhập của các trào lưu / luật dân sự đang làm xói mòn quan niệm Kitô giáo về gia đình (các vấn đề như an tử, phá thai, hôn nhân đồng tính / hôn nhân hợp đồng / sống chung không kết hôn, kiểu sống “Hai thu nhập, không con cái” (DINK: Double Income No Kids) / “Một thu nhập, không con cái (SINK: Single Income No Kids);
– Khuyến khích việc nghiên cứu những tác động đến đời sống gia đình của công nghệ thông tin, giải trí, truyền thông (không chỉ phim ảnh khiêu dâm mà còn não trạng sống cô lập chủ nghĩa – ‘một mình mình biết, một mình mình hay’);
– Những mối quan tâm đặc biệt về mục vụ:
+ Những người bị bỏ rơi / các nhóm dễ bị tổn thương;
+ Các gia đình lao động di dân (đồng thời kêu gọi những người sử dụng lao động cần có thái độ cư xử gần gũi, thân ái với những người giúp việc trong gia đình);
+ Nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em;
+ Hôn nhân tan vỡ và bạo lực gia đình;
+ Chăm sóc mục vụ đối với những người SGO (Same Gender Oriented: có khuynh hướng đồng giới) nhằm đáp lại lời mời gọi phổ quát hãy nên thánh và sống đúng mực người tín hữu thuộc về Hội Thánh.
Làm tại Daegon, Hàn Quốc Ngày 23 tháng 8 năm 2004
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 80 – 85 (Tháng 1 & 12 năm 2014)
[1] Từ khi thành lập vào năm 1974, Đại hội toàn thể FABC luôn đề cao vai trò quan trọng của gia đình trong việc truyền giáo. Đại hội toàn thể FABC lần thứ 4 về Giáo dân năm 1986 không những đề cập đến gia đình, mà còn dành 10 số nói về những thách đố đang đặt ra cho gia đình, về vai trò không thể thiếu trong công cuộc truyền giáo và trong việc đào tạo không những của giáo dân, mà còn của Giáo Hội xét như một toàn thể.
[2] Lumen Gentium (LG), 11; Apostolicam Actuositatem, 11; Familiaris Consortio (FC), 21. Từ La tinh domus, nghĩa là nhà, thuật ngữ trong tiếng Anh “domestic church” (được dùng trong bản tiếng Anh-chú thích của người chuyển ngữ) có thể gợi sự liên hệ đến các từ “domesticated” (thuần hóa) “domestic worker” (nội trợ) dễ gợi hình ảnh về sự mặc cảm, thụ động, tùng phục, cam chịu.
[3] Bản tiếng Anh của sứ điệp ghi chú: “Trừ khi có chú thích khác, tất cả các trích dẫn Kinh Thánh đều sử dụng bản dịch Kinh Thánh The New Revised Standard Version”. Theo đó, bản dịch Kinh Thánh này dùng cụm từ “from house to house” (từ nhà nọ đến nhà kia), còn bản Vulgata dùng “per domos” (các nhà).
[4] Xem The International Social Survey Program (ISSP), 2002; được trích trong Phát biểu của các Giám mục Hàn Quốc về Tài liệu làm việc (CBCK, IWP), ngày 22.7.2004, tr. 1.
[5] Chẳng hạn, ở Kazakhstan (một nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ), “khó có thể coi là những gia đình ‘Công giáo’ kể cả ‘Kitô giáo’ đối với những trường hợp kết hôn với các Kitô hữu không còn giữ đạo, các tín đồ Hồi giáo, những người không có tín ngưỡng”. Thực tế cho thấy, “những người Kazakhstan trở thành Kitô hữu thường bị họ hàng, đồng hương tẩy chay, kể cả bị đe dọa sát hại”. Do đó Mục vụ Gia đình đã phải bắt đầu bằng việc huấn luyện nhân sự. X. Phúc trình của HĐGM Kazakhstan tại Đại hội FABC lần thứ 8, tr 1-2.
[6] Phát biểu của các Giám mục Nhật Bản về Tài liệu làm việc (CBCJ, IWP), ngày 1.7.2004, tr. 1.
[7] Xem FABC VI, Manila, 1995.
[8] Theo Hội đồng Tòa thánh phụ trách Chăm sóc Mục vụ dành cho Di dân, 2004.
[9] Xem Thông điệp Centesimus Annus, số 32.
[10] Các giám mục Nhật Bản cho rằng, trong khi các gia đình Á châu phải đối mặt với cảnh nghèo khổ về kinh tế, thì “đa số các gia đình Nhật Bản lại phải đối phó với tình trạng nghèo về tinh thần” (CBCJ, IWP, tr. 1).
[11] Ngay cả khi người cha không còn nhiều quyền hành trong gia đình do các bà mẹ đảm nhận công việc nội trợ, “chúng tôi thấy trong xã hội vẫn còn tư tưởng phân biệt giới tính (đặc biệt tại các công ty )”, HĐGM Nhật Bản, Phát biểu về tài liệu làm việc, ngày 1 tháng Bảy 2004, tr. 2
[12] Theo sự phân loại xã hội học trên thế giới, “bé gái” và “bé trai” là thuật ngữ được dùng để nói đến trẻ em dưới bốn tuổi .
[13] x. FABC VI, Manila, 1995.
[14] Nhật Bản là quốc gia tuân thủ chặt chẽ việc cấm lao động trẻ em, thì lại đạt kỷ lục về việc tiếp nhận lao động trẻ em từ các nước khác đến, x. HĐGM Nhật Bản, Phát biểu về tài liệu làm việc, tr. 2, dẫn theo báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 6 năm 2004.
[15] x. HĐGM Nhật Bản, Phát biểu về tài liệu làm việc, tr. 2.
[16] x. Phát biểu của Phái đoàn Tòa Thánh tại Hội nghị Đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc lần thứ 57 về Nhân bản phôi người, ngày 23 tháng 9 năm 2002.
[17] Như trên. Tòa Thánh nhắc đến việc lấy các tế bào gốc từ tủy xương người lớn.
[18] Lưu ý về nhận xét của các giám mục Nhật Bản, các ngài cho rằng “Gia đình không thể là tế bào cơ bản của cộng đoàn Giáo Hội”, bởi vì “chúng tôi chỉ có thể thấy duy nhất một Hội Thánh Công giáo nơi các gia đình”, HĐGM Nhật Bản, Phát biểu về tài liệu làm việc, tr. 2.
[19] Văn kiện kết thúc Đại hội FABC lần thứ IV tại Tokyo, từ 16 đến 25 tháng 9 năm 1986, số 3.4.1, trong For All the Peoples of Asia, Rosales & Arevalo ấn hành, 1992, tr. 184.
[20] x. Giáo lý Hội Thánh Công giáo, s.s 1601-58.
[21] x. Kn 2, 7; Cv 17, 25.
[22] x. Rm 6, 23; Ga 4, 10.14; Kh 21, 6.
[23] Rm 6, 22
[24] Ga 10, 10
[25] x. Vui mừng và Hy vọng, 27
[26] 2 Tm 1, 10; 4, 1; Dt 9, 27-28
[27] x. Kn 1, 26-28, 2, 7; Kng 15, 11.
[28] Kn 1, 26. 27.
[29] Cl 1, 15-16.
[30] Cl 1, 20.
[31] Hs 11, 3-4
[32] Is 66, 13.
[33] x. Hs 2, 16. 19-20.
[34] Is 43, 1. 4.
[35] Xh 22, 22-23; Đnl 24, 17-22; Is 1, 17; Gr. 22, 3; Zcr 7, 10.
[36] x. Ed 11, 19; 36, 26.
[37] x. Tv 97, 11-12; 145, 13.17-21; Kng 4, 7-14.
[38] x. Ga 3, 16.
[39] 1 Ga 1, 1
[40] Ga 10, 17-18, x. Ga 5, 26.
[41] Ga 14, 6.
[42] Ga 14, 23.
[43] Ga 10, 10
[44] x. Mt 5, 3-10
[45] Ga 3, 3-8.
[46] Rm 6, 4; Cl 2, 12.
[47] Ga 4, 14.
[48] Ga 6, 34.48.
[49] Ga 6, 33.
[50] Ga 6, 51.
[51] Ga 6, 54. 56.
[52] Pl 1, 21.
[53] Ga 1, 16.
[54] Ga 13, 34-35.
[55] Từ điển Thần học Thánh kinh, Nxb Xavier Leon-Dufour, xuất bản lần 2 có cập nhật, 1982; Ga 19, 30.
[56] 2 Cr 5, 17.
[57] Ep 2, 19; 1Tm 3, 15.
[58] Giáo Hội là gia đình của Thiên Chúa, điểm nhắm đặc biệt của Thượng Hội đồng Giám mục, khóa đặc biệt về châu Phi; x. Tông huấn Ecclesia in Africa của ĐGH Gioan Phaolô II, số 199.
[59] x. Rm 8, 1.9-10.
[60] Gl 5, 22.
[61] Rm 14, 17
[62] Gl 5, 19-21.
[63] Gl 5, 13-14.
[64] Rm 12, 4-5; 1 Cr 12, 4-7; 12, 12; Ep 4, 16.
[65] Ecclesia in Africa, 39.
[66] x. Mt 1, 18 – 2, 23; Lc 1, 26 – 2, 52.
[67] Lc 2, 19. 51.
[68] Lc 1, 38.
[69] Dt 5, 8.
[70] Mc 3, 33; Mt 12, 48.
[71] Mt 25, 40.
[72] Ga 19, 26-27
[73] x. Bộ Giáo lý Đức Tin, Thư gửi các giám mục về sự cộng tác của người nam và người nữ trong Giáo Hội và trên thế giới, ngày 31 tháng Năm 2004, số 6 – trích dẫn suy tư của ĐGH Gioan Phaolô II về thân xác con người dựa trên Kn 2, 4-45.
[74] Vui mừng và Hy vọng, 48; x. Kn 2, 24.
[75] Mt 19, 6.
[76] Vui mừng và Hy vọng, 48.
[77] x. Ep 5, 21-33.
[78] Ep 5, 33.
[79] Salvatore Fisichella, “Gia đình Kitô hữu trong thời đại biến đổi về văn hóa”, Hội nghị quốc tế Thần học-Mục vụ, Gia đình Kitô hữu: Tin Mừng cho Thiên niên kỷ thứ ba, Đại hội quốc tế các Gia đình lần thứ tư, Manila, 22-23 tháng Giêng 2003, tr. 46.
[80] Vui mừng và Hy vọng, 48.
[81] Mt 19, 5-6.
[82] Vui mừng và Hy vọng, 48; xem thêm số 50.
[83] Kn 2, 24; Mt 19, 3-9.
[84] x. Lumen gentium, 11
[85] Evangelii Nuntiandi , 71.
[86] x. Redemptoris Missio, 80; Familiaris Consortio, 54.
[87] Ga 13, 35.
[88] Kn 1, 28.
[89] Is 38, 19; Gr 31, 3.
[90] Ecclesia in Asia, 46.
[91] Gioan Phaolô II, Sứ điệp nhân Ngày Hòa bình Thế giới 1.1.1998, số 3.
[92] Familiaris Consortio, 6.
[93] Ep 4, 15.
[94] Redemptoris Missio, 37.
[95] Gioan Phaolô II, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Truyền thông 2004, “Truyền thông và Gia đình: Hiểm họa và sự Phong phú”, số 2.
[96] nt.
[97] Gioan Phaolô II, Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Truyền thông 1980.
[98] Familiaris Consortio, 47.
[99] x. Familiaris Consortio, 44.
[100] x. Familiaris Consortio, 46 liệt kê các quyền này.
[101] Bản văn Hiến chương được đính kèm văn kiện này. (HT số 80 đã đăng bản tiếng Việt – ghi chú của LML).
[102] Familiaris Consortio, 57.
[103] x. Gaudium et Spes 51, Evangelium Vitae 58-67, Familiaris Consortio 16.
[104] x. Hội đồng Tòa Thánh về Đối thoại Liên tôn – Đối thoại và Loan báo, 57.
[105] x. Rm 10, 14-15.
[106] x. những trường hợp này được Thánh Phaolô nêu lên trong 1 Cr 7, 12-16.
[107] Ecclesia in Asia, 25
[108] x. Cv 4, 32.
[109] Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II từng nhắc đến toàn cầu hóa về bác ái và liên đới trong các Sứ điệp của ngài nhân Ngày Hòa bình thế giới.
[110] Những suy tư về linh đạo gia đình được trình bày đầy đủ trong văn kiện Đại hội FABC lần thứ IV về Ơn gọi và Sứ mạng truyền giáo của Giáo dân tại châu Á, diễn ra tại Tokyo, Nhật Bản, 1986, nói về Linh đạo giáo dân trong các số 4.8.1-11. Linh đạo Nước Thiên Chúa cần được đặc biệt áp dụng trong các gia đình liên tôn. Xem thêm văn kiện Đại hội FABC lần thứ V tại Bandung, Indonesia, 1990, trình bày về Linh đạo cho Thời đại chúng ta trong các số 9.1-7.
[111] Ga 17, 21; Cv 4, 32; Pl 2, 2; 1 Pr 3, 8
[112] Ga 17, 14.18.20.
[113] Ga 2, 5.
[114] Gaudium et Spes, 16.
[115] Gaudium et Spes, 50
[116] Gaudium et Spes, 17.
[117] Gaudium et Spes, 50
[118] Gaudium et Spes, 48
[119] Gioan Phaolô II, Thư gửi các Gia đình, số 4.
[120] Gaudium et Spes, 49.
[121] Familiaris Consortio, 57.
[122] Ecclesia de Eucharistia, 40.
[123] Bài giảng 272: PL 38, 1247, được dẫn lại trong Ecclesia in Asia, 40.
[124] Nơi nào thường có thánh lễ dành riêng cho thiếu nhi, dù chỉ mỗi tháng một lần, nên cử hành như một sự kiện trong gia đình, x. Hội đồng Giám mục Hàn Quốc, Tham luận, tr. 6.
[125] Hiến chương Các Quyền của Gia đình, Ngày 22 tháng 10 năm 1983.
[126] như trên.
2021
Đức Giê-su Ki-tô – Đường kiện toàn Lời Chúa
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 08 năm 2021
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG KIỆN TOÀN LỜI CHÚA
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng 7 vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Kiện Toàn Lề Luật. Tháng 8 này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Kiện Toàn Lời Chúa. Đây là hai chủ đề liên hệ mật thiết với nhau bởi vì lời của Thiên Chúa cũng được thể hiện qua lề luật Người. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng nhờ lời của Thiên Chúa mà muôn vật muôn loài cũng như con người được dựng nên và lịch sử nhân loại gắn liền với lịch sử mặc khải của Thiên Chúa. Đặc biệt, dân Do-thái đóng vai trò quan trọng trong việc đón nhận, trao đổi và lưu truyền mặc khải của Người. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã gửi Đức Giê-su là Lời của Người đến với gia đình nhân loại để kiện toàn mặc khải, kiện toàn lời của Thiên Chúa hầu đem lại ơn cứu độ cho con người và quy tụ muôn vật muôn loài.
Trong Cựu Ước, lời của Thiên Chúa đến với dân Do-thái qua những người lãnh đạo được Thiên Chúa tuyển chọn, đặc biệt, qua các ngôn sứ. Theo các học giả Kinh Thánh, trong Cựu Ước, ‘lời’ (דָּבָר/ dabar là danh từ có chung gốc với động từ ‘nói’ (דבר/ dbr)) được dùng hơn 394 lần, còn trong Tân Ước, ‘lời’ (λόγος/ logos) được dùng khoảng hơn 300 lần. Lời của Thiên Chúa không chỉ là lời phát ra hay lời được lắng nghe mà còn được diễn tả qua các sự kiện, hiện tượng, biến cố hay hành động của Thiên Chúa nữa. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như những thị kiến, tiên báo, luật lệ, mệnh lệnh, cảnh cáo, khuyến khích. Lời của Thiên Chúa không chỉ cho con người mà còn cho các thiên thần hay các thụ tạo vô hình khác. Đặc biệt, lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn, được ứng nghiệm, được đầy đủ ý nghĩa (πληρόω, fulfill) nhờ Biến Cố Đức Giê-su. Trong bối cảnh Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su nói rằng Người đến để kiện toàn lề luật và lời các ngôn sứ (Mt 5,17). Quả thật, Đức Giê-su đã thực thi điều đó và nội dung chính yếu của việc Người thực thi được diễn tả trong 27 cuốn sách của bộ Tân Ước, nhất là trong 4 cuốn Tin Mừng.
Để khai triển chủ đề ‘Đức Giê-su Ki-tô – Đường Kiện Toàn Lời Chúa’, chúng ta điểm qua ‘năm lời’ chính yếu của Thiên Chúa theo mặc khải Cựu Ước: (1) Lời của Thiên Chúa là lời sáng tạo: “Thiên Chúa phán: ‘Phải có ánh sáng’. Liền có ánh sáng” (St 1,3) hay: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33,6); (2) Lời của Thiên Chúa là lời giao ước: “Người đã thông báo cho anh em giao ước của Người, giao ước mà Người truyền cho anh em đem ra thực hành, đó là mười lời Người viết trên hai bia đá” (Đnl 4,13) hay: “Người đã viết trên các bia điều đã viết lần trước, là mười lời Đức Chúa đã phán với anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. Rồi Đức Chúa ban những bia đó cho tôi” (Đnl 10,4); (3) Lời của Thiên Chúa là lời qua miệng ngôn sứ: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói” (Gr 1,7) hay: “Nhờ thần khí của Đức Chúa, tôi được đầy sức mạnh, công lý và can trường để loan báo cho nhà Gia-cóp biết tội phản nghịch, cho nhà Ít-ra-en biết tội lỗi của nó” (Mk 3,8); (4) Lời của Thiên Chúa là lời khôn ngoan: “Đức Khôn Ngoan kêu to ‘phàm nhân hỡi, ta mời gọi các ngươi đó, ta ngỏ lời với các ngươi, hỡi con cái loài người’” (Cn 8,3-4) hay: “Đức Khôn Ngoan hiểu biết tất cả, sẽ khôn khéo hướng dẫn con trong việc con làm, lấy quyền năng vinh hiển mà gìn giữ con” (Kn 9,11); (5) Lời của Thiên Chúa là lời dẫn lối chỉ đường: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105) hay: “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người và bước theo đường Người chỉ vẽ” (Mk 4,2).
Theo nghĩa rộng, lời của Thiên Chúa đến với con người đồng thời với sự hiện hữu của con người (do Thiên Chúa sáng tạo) trong vũ trụ này. Tuy nhiên, lời của Thiên Chúa đến với con người cách cụ thể và rõ ràng hơn với việc Người chọn gọi Áp-ra-ham để qua ông, chương trình của Thiên Chúa ngày càng được trọn vẹn. Lời của Thiên Chúa được lưu truyền trong lịch sử dân Do-thái, dần dần được sưu tập và biên soạn. Như vậy, Kinh Thánh chính là lời của Thiên Chúa theo truyền thống được viết ra. Cuốn Kinh Thánh của người Do-thái (the Hebrew Bible) hay Cựu Ước (the Old Testament) được hình thành với khoảng thời gian hơn một ngàn năm. Nội dung chính yếu của Cựu Ước hướng về sự xuất hiện của Đức Giê-su, Lời hằng hữu của Thiên Chúa và là Đấng được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần để thực thi chương trình của Thiên Chúa đối với con người và toàn thể thế giới thụ tạo. Hành trình của Đức Giê-su trên đường dương thế được diễn tả trong Tân Ước.
Các vị lãnh đạo hay các ngôn sứ trong Cựu Ước như Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, Mô-sê, I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en đều chuẩn bị cho sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su. Trong Tân Ước, Đức Giê-su nói với nhiều tầng lớp người khác nhau, chẳng hạn như Người nói với Đức Ma-ri-a, với các môn đệ, với những người Pha-ri-sêu, với các kinh sư, với Hê-rô-đê, với Phi-la-tô, với đám đông dân chúng. Lời của Người liên quan đến những hoàn cảnh đặc biệt, chẳng hạn như lời của Người xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, nâng đỡ người đau yếu, hồi sinh kẻ chết. Đặc biệt, Đức Giê-su đã kêu gọi và thiết lập Nhóm Mười Hai cũng như công bố những tiêu chuẩn luân lý trổi vượt của thời Tân Ước so với Cựu Ước. Lời nói và việc làm của Đức Giê-su minh chứng rằng Người không chỉ thuộc về Thiên Chúa mà còn là Thiên Chúa hiện diện trong dòng lịch sử để đồng lao cộng khổ với mọi người trong gia đình nhân loại và cứu độ nhân loại.
Chúng ta nhận ra lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn, được trở nên hiện thực nơi Đức Giê-su, chẳng hạn như lời của Thiên Chúa là ánh sáng trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Ánh Sáng trong Tân Ước (Tv 119,105; Ga 8,12); lời của Thiên Chúa là lời sự thật trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Sự Thật trong Tân Ước (Tv 12,7; Ga 14,6); lời của Thiên Chúa đem lại sự sống trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Sự Sống trong Tân Ước (Tv 119,116; Ga 11,25); lời của Thiên Chúa là lời hy vọng trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Hy Vọng của mọi người trong Tân Ước (Tv 119,147; 1 Tm 1,1); lời của Thiên Chúa là của ăn cho bậc ngôn sứ trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Của Ăn cho mọi người trong Tân Ước (Gr 15,16; Ga 6,54-55); lời của Thiên Chúa ‘chớ giết người công chính’ trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Đấng Công Chính chịu chết cho mọi người trong Tân Ước (Đn 13,53, Mt 27,19). Chúng ta có thể kể ra nhiều trích đoạn tương tự khi so sánh lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn bởi Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng Cựu Ước là nền tảng cho Tân Ước, còn Tân Ước là ánh sáng chiếu soi Cựu Ước.
Dưới nhãn quan của thánh Gio-an, Đức Giê-su là Lời hằng hữu của Thiên Chúa đến với thế giới thụ tạo. Ngài viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” [ὁ λόγος σὰρξ ἐγένετο καὶ ἐσκήνωσεν ἐν ἡμῖν] (Ga 1,14). Từ ‘λόγος’ của tiếng Hy Lạp được dịch sang tiếng Việt là ‘Ngôi Lời’ (viết hoa). Có hai điểm cần quan tâm ở đây: (1) Trong bản văn cổ bằng tiếng Hy Lạp, người ta không phân biệt chữ viết hoa hay chữ viết thường và (2) khi dịch ‘λόγος’ là ‘Ngôi Lời’, chúng ta dịch theo cách diễn tả của thánh Gio-an. Đối với tiếng Việt, nói rằng ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm’ dễ hiểu hơn nói rằng ‘Lời đã trở nên người phàm’. Như vậy, với Đức Giê-su (Ngôi Lời), lời của Thiên Chúa không chỉ là âm thanh phát ra, đi vào lòng và biến đổi tâm hồn con người mà còn cho phép con người nhìn ngắm, đụng chạm và thiết lập mối tương quan liên vị trong hành trình trần thế. Với Đức Giê-su, lời của Thiên Chúa không chỉ cư ngụ trong hòm bia ở Lều hội ngộ để dẫn dắt dân Do-thái vào miền Đất Hứa Ca-na-an mà ‘đã cắm lều giữa chúng ta’ để dẫn dắt toàn thể nhân loại vào miền Đất Hứa Nước Trời. Với Đức Giê-su, Thiên Chúa vô hình của Cựu Ước đã trở nên Thiên Chúa hữu hình của Tân Ước. Với Đức Giê-su, Thiên Chúa trở nên ‘vừa tầm’ hơn để con người có thể tiếp cận, học hỏi và thực thi thánh ý Người. Chúng ta cùng xem xét một số trình thuật chính yếu diễn tả lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn trong Tân Ước.
Theo thánh Mát-thêu, khi truyền tin cho thánh Giu-se, sứ thần của Thiên Chúa nói: “Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’” (Mt 1,22-23). Điều này ứng nghiệm lời của ngôn sứ I-sai-a: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14). Thánh Mát-thêu cũng trình thuật biến cố Đức Giê-su đến Ai-cập rồi trở về Na-da-rét: “Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” (Mt 2,14-15). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Hô-sê: “Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó, từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về” (Hs 11,1). Tin mừng Đức Giê-su theo thánh Mát-thêu có 130 chỗ quy chiếu trực tiếp Cựu Ước, trong đó có 43 lần trích sát bản gốc, chẳng hạn như Mt 1,22; 2,5.15.17.23; 3,3; 4,14. Thánh nhân muốn minh chứng rằng Đức Giê-su chính là Đấng kiện toàn và hoàn thành mọi lời Cựu Ước đã loan báo.
Theo thánh Lu-ca, Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi Giu-đa: “Khi Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giu-se. Giu-se là con Ê-li… Nác-sôn con Am-mi-na-đáp, Am-mi-na-đáp con Át-min, Át-min con Ác-ni, Ác-ni con Khét-rôn, Khét-rôn con Pe-rét, Pe-rét con Giu-đa… I-xa-ác con Áp-ra-ham… A-đam là con Thiên Chúa” (Lc 3,23-38). Điều này ứng nghiệm lời chúc phúc của ông Gia-cóp trong sách Sáng Thế: “Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục” (St 49,10). Cũng theo thánh Lu-ca, sau khi chịu cám dỗ, Đức Giê-su trở về loan báo Tin Mừng tại Ga-li-lê. Đặc biệt, khi đến quê hương là Na-da-rét, Đức Giê-su vào hội đường như Người vẫn thường làm trong ngày sa-bát. Người ta trao cho Người sách ngôn sứ I-sai-a. Mở sách ra, Đức Giê-su gặp đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a (Is 61,1-2). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cũng nói với các môn đệ về sự ứng nghiệm nơi Người lời của Thiên Chúa trong Kinh Thánh: “Thầy bảo cho anh em hay: Cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất” (Lc 22,37).
Theo thánh Mác-cô, khi Đức Giê-su bị bắt: “Có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!” (Mc 14,56-58). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa: “Bọn chứng nhân giả dối đứng lên, hạch hỏi tôi những điều tôi chẳng biết. Chúng lấy oán đền ơn, này thân tôi trơ trọi một mình” (Tv 35,11-12). Khi Đức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá giữa hai tên trộm cướp, thánh Mác-cô trình thuật: “Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái” (Mc 15,27-28). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53,12).
Thánh Gio-an trình thuật cuộc thương khó của Đức Giê-su: “Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: ’Tôi khát!’ Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người” (Ga 19,28-29). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong Thánh Vịnh: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69,22). Cũng trong cuộc thương khó Đức Giê-su theo thánh Gio-an: “Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,33-34). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong trong Thánh Vịnh: “Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi. Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” (Tv 34,20-21). Chúng ta còn gặp rất nhiều đoạn trong Tin Mừng Nhất Lãm cũng như theo thánh Gio-an về lời của Thiên Chúa trong Tân Ước ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước, chẳng hạn như Mt 2,17-18; Mt 8,17; Mt 12,17-18; Mc 1,2-3; Mc 8,31; Mc 10,45; Lc 1,20; Lc 3,4-6; Lc 21,20-22; Ga 12,38; Ga 13,18; Ga 15,25.
Việc kiện toàn lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước cũng được diễn tả trong các sách khác của bộ Tân Ước. Chẳng hạn, trong Giáo Hội sơ khai ở Giê-ru-sa-lem, khi chọn người thay thế Giu-đa (môn đệ phản bội Đức Giê-su), thánh Phê-rô lên tiếng: “Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đa-vít để nói trước về Giu-đa, kẻ đã trở thành tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giê-su” (Cv 1,16). Đặc biệt, thánh nhân hiểu rõ giá trị và thẩm quyền độc nhất vô nhị của Kinh Thánh so với các tài liệu khác. Trong thư gửi các tín hữu, ngài viết: “Anh em phải biết điều này: Không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa (2 Pr 1,20-21). Hơn nữa, theo thánh nhân, Đức Giê-su chính là Người Tôi Tớ Đau Khổ được ngôn sứ I-sai-a trình bày trong Cựu Ước (Is 52,13-53,12; 1 Pr 2,23-25).
Tương tự như thánh Phê-rô, nhiều trích đoạn của thánh Phao-lô khẳng định rằng Đức Giê-su đến trần gian theo ‘lời hứa’ trong Cựu Ước. Thánh nhân viết: “Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ [hậu duệ của Áp-ra-ham]” (Rm 9,5). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách Sáng Thế: “Nhờ ngươi [Áp-ra-ham], mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3). Thánh nhân biện giải: “Tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Rm 1,1-3). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,6). Đề cập đến cuộc thương khó, sự chết và phục sinh của Đức Giê-su, thánh nhân viết: “Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).
Đối với tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, Đức Giê-su là Đấng kiện toàn lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước. Tuy nhiên, sự kiện toàn của Đức Giê-su theo cách thức siêu việt, nằm ngoài nhận thức hay tưởng tượng của con người. Chẳng hạn, (1) Đức Giê-su kiện toàn giao ước: “Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9,15). (2) Đức Giê-su kiện toàn của lễ hiến tế: “Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9,14). (3) Đức Giê-su kiện toàn phẩm vị thượng tế: “Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác: Mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng manh yếu đuối trong mình, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7,27-28). Cũng theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5,5-6). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong Thánh Vịnh: “Đức Chúa đã một lần thề ước, Người sẽ chẳng rút lời, rằng ‘muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê’” (Tv 110,4). Như vậy, cùng là giao ước, của lễ và thượng tế nhưng những gì được Đức Giê-su đảm nhận và kiện toàn thì cao trọng, kỳ diệu và nhiệm mầu hơn những gì được thực thi trong Cựu Ước cũng như lịch sử dân Do-thái.
Khi so sánh tương quan giữa thánh Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su (trong bài giảng 293,3), thánh Au-gút-ti-nô quả quyết rằng Gio-an là tiếng (voice), Đức Giê-su là Lời (Word); Gio-an là tiếng trong không gian, Đức Giê-su là Lời hằng hữu; Gio-an là tiếng bên ngoài, Đức Giê-su là Lời bên trong. Theo thánh nhân, tiếng vô nghĩa khi không có lời; tiếng phá vỡ im lặng, lời đi vào tâm hồn; tiếng chỉ đập vào tai, lời cảm hóa trí lòng; tiếng qua đi, lời ở lại; tiếng hoàn thành, lời tiếp tục. Vì người ta khó phân biệt giữa tiếng và lời, giữa Gio-an và Đức Giê-su, Gio-an đã nói ra cho họ biết (Ga 1,19-28). Khi gặp gỡ Đức Giê-su lần đầu tiên, thánh Gio-an Tẩy Giả nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Lời chứng của thánh Gio-an Tẩy Giả giúp chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su là Đấng kiện toàn lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước khi Người dạy bảo dân Do-thái giết chiên và lấy máu bôi lên khung cửa như là dấu chỉ để được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập (Xh 12,1-14). Nhờ Máu của Đức Giê-su, Chiên Thiên Chúa, mọi người trong gia đình nhân loại được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Thánh Phê-rô diễn giải rõ ràng hơn trong thư của ngài: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1 Pr 1,19-21).
Như đã được đề cập ở trên, lời của Đức Giê-su chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ, hồi sinh kẻ chết, tha thứ tội lỗi. Trong ba năm loan báo Tin Mừng, phần lớn những lời Đức Giê-su là lời trực tiếp với con người, chẳng hạn như: ‘Thầy bảo thật các con…’, ‘Thầy bảo cho anh em biết…’, ‘hãy đứng dậy…’, ‘hãy ăn năn hối cải…’, ‘đừng thề thốt…’, ‘phải yêu kẻ thù…’, ‘hãy loan báo Tin Mừng…’. Thánh Mát-thêu trình thuật: “Người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giê-su. Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau, để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,16-17). Lời của Đức Giê-su là những ‘lời mới mẻ’: “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22) hay: “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” (Ga 7,46). Đặc biệt, Đức Giê-su diễn tả Người như là tác giả của lề luật được kiện toàn (Mt 5,17-48).
Lời của Đức Giê-su là lời đầy quyền năng. Chẳng hạn, khi Đức Giê-su đến Ca-phác-na-um, một viên đại đội trưởng dân ngoại thuộc quân đội Rô-ma đến xin Người cứu chữa người đầy tớ của ông đang trong tình trạng thập tử nhất sinh. Đức Giê-su định đến nhà ông để cứu giúp người đầy tớ đó. Tuy nhiên, viên đại đội trưởng nói với Người: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8,8). Thánh Mát-thêu trình thuật: “Đức Giê-su nói với viên đại đội trưởng rằng ‘ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!’ Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh” (Mt 8,13). Đức Giê-su định đến nhà viên đại đội trưởng nhưng chưa đến. Người không nhìn thấy, không đụng chạm người đầy tớ bệnh tật nhưng người đầy tớ vẫn được khỏi bệnh. Có lẽ viên đại đội trưởng chờ nơi Đức Giê-su ‘lời chữa bệnh’ nhưng lời của Đức Giê-su lại là ‘lời đức tin’. Đức Giê-su tán dương đức tin của viên đại đội trưởng: ‘Ông tin thế nào thì được như vậy!’. Ông là ‘dân ngoại’ nhưng niềm tin của ông trổi vượt hơn niềm tin của những người được gọi là dân được tuyển chọn, dân Chúa. Với sự chữa lành này, Đức Giê-su biểu lộ sức mạnh của ‘lời’ cho những ai đặt niềm tin và hy vọng vào Người.
Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất mạnh, mạnh đến nỗi nhờ đó Thiên Chúa sáng tạo con người và muôn vật muôn loài; Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước còn mạnh hơn, mạnh đến nỗi Lời đã trở nên người phàm, nhờ đó, Thiên Chúa tái tạo con người và muôn vật muôn loài từ cảnh lầm than, hư hoại. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất mạnh, mạnh đến nỗi nhờ đó Thiên Chúa giải thoát dân Do-thái khỏi ách nô lệ Ai-cập; Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước còn mạnh hơn, mạnh đến nỗi nhờ đó Thiên Chúa giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ tội lỗi. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất mạnh, mạnh đến nỗi nhờ đó dân Do-thái có được man-na nuôi sống trong hành trình về với Đất Hứa; Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước còn mạnh hơn, mạnh đến nỗi nhờ đó toàn thể gia đình nhân loại có được Man-na Mới là Mình và Máu Đức Giê-su dưỡng nuôi trong hành trình về với quê hương vĩnh cửu. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất mạnh, mạnh đến nỗi hồi sinh kẻ chết; Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước còn mạnh hơn, mạnh đến nỗi trả lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả những ai tin tưởng, tuân giữ và thực thi thánh ý Người.
Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước vang vọng và được nghe trong không gian, thời gian, cũng như thẩm thấu vào những gì thuộc về không gian, thời gian. Còn theo mặc khải Tân Ước, Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa có trước không gian, thời gian. Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước được tóm lược trong Kinh Tin Kính là ‘Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha…’. Nói cách khác, những gì thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Chúa Cha, đều thuộc về Đức Giê-su và ngược lại (Mc 2,1-12; Lc 5,17-26; Ga 17,10). Như vậy, có sự liên kết mật thiết và trọn vẹn giữa Thiên Chúa và Đức Giê-su, Lời trở nên người phàm (Θεός-Λόγος σὰρξ ἐγένετο). Đây là sự liên kết nội tại và vĩnh cửu, đồng thời cũng là sự liên kết trong chương trình cứu độ, chương trình diễn ra trong không gian, thời gian của môi trường thế giới thụ tạo. Hơn ai hết, Đức Giê-su làm chứng về điều này khi nói với các môn đệ thân tín rằng Người ở trong Chúa Cha cũng như Chúa Cha ở trong Người (Ga 17,21). Người cũng minh định rằng những việc Người làm cũng là những việc của Chúa Cha và ngược lại (Ga 5,21; Ga 5,24-29).
Khi so sánh ‘Lời’ theo cách hiểu biết và diễn tả của thánh Gio-an với ‘lời’ (dabar) trong Cựu Ước hay ‘lời’ (logos) trong văn hóa Hy Lạp, chúng ta nhận ra rằng ‘Lời’ thánh Gio-an sử dụng mang ý nghĩa sâu đậm hơn. Chẳng hạn, thánh nhân viết: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1 Ga 1,1). Đối với thánh nhân, Đức Giê-su không phải là Lời như bao lời khác mà là Lời hằng hữu, Lời quyền năng, Lời sự sống. Chính thánh nhân đã nghe, thấy, chiêm ngưỡng, gặp gỡ, đụng chạm Lời này. Các lời của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử Cựu Ước nói riêng được xem là chuẩn bị cho Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại. Sự gắn bó mật thiết với Đức Giê-su, Lời của Thiên Chúa, nhất là việc ghé tai vào trái tim Đức Giê-su trong Bữa Tiệc Ly cũng như chứng kiến Đức Giê-su chịu chết trên cây thập giá với trái tim bị đâm thủng, giúp thánh nhân nhận ra căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người cách đầy đủ hơn. Kinh nghiệm của thánh nhân về Đức Giê-su được ngài diễn tả cách cụ thể trong Tin Mừng cũng như các thư mà ngài biên soạn.
Chúng ta nhận ra ba hình thức lời của Thiên Chúa trong mặc khải Ki-tô Giáo: (1) Lời của Thiên Chúa phán ra, (2) Lời của Thiên Chúa được sưu tập, biên soạn (Kinh Thánh) và (3) Lời của Thiên Chúa đã trở nên người phàm. Trong ba hình thức đó, ‘Lời của Thiên Chúa đã trở nên người phàm’ thật nhiệm mầu và quan trọng hơn cả. Đây chính là nội dung căn bản giúp chúng ta phân biệt sự khác nhau giữa Ki-tô Giáo và các tôn giáo khác trong lịch sử thế giới. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta biết rằng lời nói hay chữ viết không bao giờ giải thích trọn vẹn thực tại, thậm chí lắm lúc còn làm cho thực tại méo mó, biến dạng hay vong bản. Thực tại luôn dồi dào, đa dạng và giàu có hơn các hình thức diễn tả nó. Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa đến trần gian để làm cho lời của Thiên Chúa trong Kinh Thánh hay các hình thức khác trở nên khả tín hơn, giúp con người điều chỉnh các tương quan nội tại của bản thân cũng như tương quan với anh chị em, với muôn vật muôn loài và với Thiên Chúa.
Lời của Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại được diễn tả bằng ngôn ngữ con người. Lời của Thiên Chúa luôn dồi dào hơn những gì con người có thể đón nhận, sống và lưu truyền trong lịch sử. Đặc biệt, lời của Thiên Chúa luôn dồi dào hơn những gì được viết trong các sách của bộ Kinh Thánh. Đức Giê-su nói với các môn đệ thân tín của Người trước khi bước vào cuộc khổ nạn: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Ga 16,12). Thánh Gio-an minh chứng: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,30-31). Như vậy, theo thánh nhân, lời của Thiên Chúa trong Kinh Thánh là điều kiện thiết yếu giúp con người luôn biết ở lại với Đức Giê-su để lắng nghe và tin tưởng vào Người hầu có thể cộng tác với Người trong việc biến đổi bản thân, biến đổi anh chị em đồng loại cũng như môi trường xã hội.
Là Lời hằng hữu của Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Đức Giê-su đã trút bỏ chính mình (ἑαυτὸν ἐκένωσεν/ emptied himself), làm cho mình trở nên trống rỗng. Tuy nhiên, những lời của Đức Giê-su đối với gia đình nhân loại không phải là những lời trống rỗng mà là những lời “sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12). Những lời của Đức Giê-su mãi mãi là những lời tiêu chuẩn giúp con người xây dựng và thăng tiến đời sống cá nhân, cộng đoàn, xã hội. Những lời của Đức Giê-su mãi mãi là những lời đầy quyền năng và lòng thương xót đối với con người. Đặc biệt, những lời của Đức Giê-su mãi mãi vang vọng trong gia đình nhân loại để thông đạt ý định của Thiên Chúa, hướng dẫn mọi người cách thức hoàn thiện bản thân và chú tâm hơn vào những giá trị của Nước Thiên Chúa giữa dòng đời.
Chúng ta nhận thức rằng lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn trong Tân Ước, đặc biệt trong mầu nhiệm nhập thế, sự đau khổ, sự chết và phục sinh của Đức Giê-su như lời Người nói với các môn đệ trước khi về trời: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24,44). Tuy nhiên, Cựu Ước được kiện toàn trong Tân Ước luôn là một tiến trình nhiệm mầu. Một mặt, nội dung chính yếu của mặc khải Cựu Ước được kiện toàn trong Tân Ước. Mặt khác, một số khía cạnh liên quan đến cấu trúc, thể chế, phụng tự trong Cựu Ước được tiếp tục theo cách thức vượt quá sự hiểu biết của con người, chẳng hạn như những người Do-thái thuộc Dân Thiên Chúa và Dân Thiên Chúa Mới là Giáo Hội được Đức Giê-su thiết lập; việc thuộc về Dân Thiên Chúa Mới ít lệ thuộc vào yếu tố văn hóa, dân tộc mà lệ thuộc nhiều vào sự gắn bó với Đức Giê-su cũng như tuân giữ giới răn của Người; quan tâm chính yếu của dân Do-thái trong Cựu Ước là lề luật, trong khi quan tâm chính yếu của Dân Thiên Chúa Mới trong Tân Ước là ân sủng; việc cắt bì như là dấu chỉ để thuộc về giao ước giữa Thiên Chúa và Áp-ra-ham không còn tiếp tục nữa nhưng thay vào đó là các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo.
Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước nhiều đến nỗi làm cho con người dễ bị lẫn lộn, khó phân biệt rành mạch đâu là những điểm căn bản hầu có thể học hỏi và thực thi cách xứng hợp (Mc 12,28-34; Lc 10,25-28). Vì thế, Đức Giê-su là Lời hằng hữu của Thiên Chúa đến trần gian để ‘tóm lược lời của Thiên Chúa’ bằng chính bản thân Người. Như đã được đề cập ở trên, các hình thức lời chính yếu trong Cựu Ước như lời sáng tạo, lời giao ước, lời ngôn sứ, lời khôn ngoan, lời dẫn lối chỉ đường, đều được Đức Giê-su kiện toàn trong hành trình trần thế của Người. Chúng ta có thể khẳng định rằng lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước là ‘tiềm năng’, là ‘mầm mống’, là ‘phôi thai’, là ‘chồi non’, là ‘hình ảnh’, là ‘mũi tên’, là ‘tiên báo’ hướng tới sự trọn vẹn về mục đích và ý nghĩa trong Tân Ước. Nội dung chính yếu của các sách Cựu Ước ‘hội tụ nơi Đức Giê-su’, còn nội dung chính yếu của các sách Tân Ước ‘khởi đi từ Người’. Do đó, chúng ta cần quan tâm đặc biệt đến tương quan giữa lời của Thiên Chúa trong toàn bộ Kinh Thánh và Đức Giê-su là Lời hằng hữu của Thiên Chúa.
Đề cập đến tầm quan trọng của Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội, Công Đồng Vatican II minh định: “Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa” (DV 21). Chúng ta biết rằng nói đến thân thể là nói đến thịt và máu. Nếu Kinh Thánh như chính Thân Thể Đức Giê-su thì chúng ta cần ý thức về ‘thịt’ và ‘máu’ của Kinh Thánh, tức là những gì giúp con người sống xứng đáng với phẩm giá cao trọng của mình giữa muôn vật muôn loài. Trong đời sống phụng tự, mỗi lần cử hành Bí Tích Thánh Thể, chúng ta không chỉ có ‘Thịt’ và ‘Máu’ của Đức Giê-su Thánh Thể mà còn có ‘thịt’ và ‘máu’ của lời Người nữa. Chúng ta gặp gỡ Đức Giê-su nơi lời của Người cũng như Bánh và Rượu được thánh hiến và trở nên Của Ăn, Của Uống thiêng liêng nuôi sống chúng ta. Chính Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,19-20). Lời của Thiên Chúa trong Kinh Thánh thật kỳ diệu, thật nhiệm mầu so với các hình thức lời mà con người có thể tiếp cận hay có kinh nghiệm trong cuộc sống mình. Đó là lý do giải thích tại sao thánh Giê-rô-ni-mô khẳng định: “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô”. Công Đồng Vatican II giải thích cách cặn kẽ hơn: “Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội” (DV 21).
Đức Giê-su, Lời của Thiên Chúa, đã biến đổi và định dạng tâm tính, thái độ và hành vi của các môn đệ Người để họ tiếp tục chương trình loan báo lời của Thiên Chúa được kiện toàn cho muôn dân muôn nước. Ngay từ buổi sơ khai, các môn đệ đã ý thức về sự cần thiết phải loan báo Đức Giê-su và lời của Người cho anh chị em đồng loại. Nội dung chính yếu của ‘Lời loan báo tiên khởi’ (Κήρυγμα/ Kerygma) là: Đức Giê-su, Lời của Thiên Chúa, đã trở nên người phàm; Người chịu chết vì tội lỗi loài người, được mai táng và ngày thứ ba chỗi dậy như lời Kinh Thánh; Người đã hiện ra với Phê-rô và các môn đệ khác. Lời loan báo tiên khởi này luôn được lưu truyền và quảng diễn trong đời sống Giáo Hội, thực thể được Đức Giê-su thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ để đồng hành với gia đình nhân loại cho đến tận thế. Là Ki-tô hữu, tất cả chúng ta được mời gọi dõi theo Đức Giê-su và hiệp thông với Người để ngày càng được biến đổi và trở thành khí cụ thuận tay Người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình.
Chúng ta có thể kết luận rằng Đường của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Đường Kiện Toàn Lời Chúa. Nhờ Người là Lời hằng hữu, Thiên Chúa sáng tạo muôn vật muôn loài. Nhờ Người, mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước cũng như trong dòng lịch sử nhân loại được quy tụ, được kiện toàn và tiếp tục vang vọng giữa lòng nhân thế. Nhờ Người, chương trình kỳ diệu và đường lối sư phạm nhiệm mầu của Thiên Chúa được thực thi nhằm biến đổi và giải thoát con người từ thân phận nô lệ tội lỗi, nô lệ sự chết thành con cái của Ánh Sáng thường hằng bất biến, của Thiên Chúa từ bi, nhân hậu. Tất cả mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đón nhận Đức Giê-su, Đường Kiện Toàn Lời Chúa và sống theo Đường của Người. Cùng với Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su tiếp tục đồng hành và hướng dẫn mọi người trong gia đình nhân loại. Người luôn hiện diện để làm cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa được lan rộng đến tận cùng trái đất, tận cùng lịch sử của thế giới thụ tạo hầu quy tụ con người và muôn vật muôn loài về với Gia Đình Thiên Chúa viên mãn.
2021
Giáo Hội có chấp nhận hôn nhân đồng tính hay không?
Giáo Hội có chấp nhận hôn nhân đồng tính hay không?
Hỏi : dư luận báo chí cho rằng Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ công nhận hôn nhân đồng tính và bỏ luật độc thân cho các linh mục được kết hôn. Xin cha cho biết tin đồn đó có đúng không?
Trả lời :
Là người Công giáo sống trong Giáo Hội, chúng ta không được nghe và tin những gì Giáo Hội không chính thức loan báo hay dạy bảo. Tin đồn bên ngoài Giáo Hội thì có nhiều nhưng đó chỉ là những tin đồn vô căn cứ ( groundless rumors) mà thôi.
Thật vậy, từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô lên ngôi Giáo Hoàng cho đến nay, báo chí Tây phương đã phóng đại nhiều tin giật gân, cụ thể như nội dung câu hỏi trên đây, khiến gây hoang mang cho người tín hữu Công giáo.
Hội Nghị các Giám Mục ( synod of bishops) về Gia đình mới đây tại Rôma, tuy chưa kết thúc bằng một quyết định chung cuộc nào , nhưng chắc chắn đã không đề nghị lên Đức Thánh Cha một thay đổi nào về mục đích của hôn nhân vốn đã được thi hành từ bao thế kỷ nay. Nghĩa là các giám mục sẽ không đề nghị những gì trái ngược với giáo lý , tín lý của Hội Thánh về bí tích hôn phối ,mà chỉ đưa ra những đề nghị nhằm tái xác định lại hay làm sáng tỏ thêm giáo huấn của Giáo Hội về định chế hôn nhân giữa một người nam và một người nữ để Đức Thánh Cha duyệt xét hầu đi đến chung cuộc trong lần Hội Nghị kế tiếp vào tháng 10 năm 2015. Như thế, chúng ta chưa thể kết luận gì về Hội Nghị các Giám mục thế giới vừa qua về gia đình.
Tuy nhiên, chắc chắn Giáo Hội sẽ không thay đổi gì về mục đích của bí tích hôn phối đã được duy trì từ bao thế kỷ nay, dựa trên giáo lý căn bản của chính Chúa Giêsu như ta đọc thấy trong cácTin Mừng Thánh Matthêu và Mác Cô sau đây :
“ … Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình.Và cả hai sẽ thành một xương một thit. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mt 19: 4-6; Mc 10 : 6-8)
Giáo lý hiện hành của Giáo Hội cũng dạy rằng:
“ Giao ước Hôn nhân, nhờ đó một người nam và một người nữ làm thành một cộng đoàn cho cả cuộc đời, tự bản chất nó hướng tới lợi ích của những người phối ngẫu cũng như hướng tới việc sinh sản và giáo dục con cái. Giao ước này đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích giữa những người đã lãnh nhận phép rửa tội.” ( x. SGLGHCG số 1601)
Giáo luật của Giáo Hội cũng qui định rõ như sau :
“ Do giao ước hôn phối, người nam và người nữ tạo nên với nhau một cuộc thông hiệp trọn cả cuộc sống. Tự bản tính, giao ước hôn phối hướng về thiện ích của đôi bạn và việc sinh sản cùng giáo dục con cái. Chúa Kitô đã nâng giao ước hôn phối giữa người đã chịu phép rửa tội lên hàng Bí Tích.”( giáo luật số 1055& 1)
Như thế, tuyệt đối không có giáo lý hay giáo luật nào cho phép hôn nhân đồng tính ( same sex marriage) giữa hai người nam hay hai người nữ mà một số quốc gia –trong đó có Hoa Kỳ- đang cho phép loại hôn nhân này.Đâylà một sự suy thoái trầm trọng về luân lý và mục đích của hôn nhân, một định chế đã có từ lâu trong xã hội con người thuộc mọi nền văn hóa.Định chế đó chỉ nhìn nhận hôn nhân giữa một người nam và một người nữ mà thôi.
Nhưng nay vì đạo đức suy đồi , hậu quả của trào lưu tục hóa ( vulgarism) đang bành trướng ở khắp nơi, mà người ta muốn định nghĩa lại hôn nhân để công nhận “ hôn nhân giữa hai người đồng tính” ( homosexual, lesbian), một đổ vỡ to lớn về mục đích của hôn nhân mà Thiên Chúa đã thiết lập từ đầu khi tạo dựng nên con người có nam có nữ và truyền cho họ “ phải sinh sôi nảy nở cho thật nhiều và thống trị mặt đất,” ( St 1: 28)
Trung thành với giáo lý của Chúa, chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao giờ thay đổi định chế hôn nhân để bảo vệ mục đích của gia đình, một giáo hội tại gia ( domestic church) và cũng là hình ảnh của Gia Đình trên Trời nơi Chúa là Cha Chung của mọi con cái đã được cứu độ và đoàn tụ quanh Người trong niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu.
Liên quan đến những người “ đồng tính” Giáo Hội không kỳ thị và loại bỏ họ trong mục đích hiệp thông tôn thờ Thiên Chúa và tuyên xưng đức tin vào Chúa Cứu Thế Giêsu. Nhưng chắc chắn Giáo Hội cũng sẽ không bao giờ cho phép hay công nhận hôn nhân đồng tính giữa hai người nam hoặc hai người nữ như một số quốc gia đang làm vì áp lực chính trị để chiều theo thị hiếu của những người đồng tính muốn hợp thức hóa hôn nhân của họ.Làm như thế, họ đang phá đổ mục đich của hôn nhân và tước bỏ quyền có cha , mẹ , có ông bà nội ngoại của con cháu. Lại nữa, họ cũng tạo gương xấu ( scandal) cho giới trẻ khi thấy hai người nam hoặc hai người nữ công khai sống chung với nhau như vợ chồng.
Về mặt tinh thần, những người đồng tính có thể đến nhà thờ cầu nguyện chung với mọi tín hữu, nhưng không thể lãnh nhận các bí tích Thánh Thể và hòa giải được vì lối sồng của họ ( sống chung như vợ chồng) không được Giáo Hội nhìn nhận như những cặp vợ chồng đã thành hôn qua bí tích hôn phối. Và ngay cả những cặp vợ chồng đã kết hôn hợp pháp trong Giáo Hội, nhưng nay đã ly dị ngoài tòa dân sự mà chưa được tòa án hôn phối của giáo phận tháo gỡ hôn phối cũ mà lại sống chung với người khác như vợ chồng, thì cũng tạm thời không được lãnh nhận hai bí tích trên.
Tóm lại, dù Giáo Hội chưa chính thức lên tiếng về vấn đề hôn nhân của người đồng tính , nhưng chắc chắn Giáo Hội sẽ không bao giờ định nghĩa lại hôn nhân giữa một người nam và một người nữ, vì đây là một định chế thiêng liêng ( sacred institution) mà Thiên Chúa đã thiết lập từ khi có con người trên mặt đất và đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích như đã nói ở trên.
2- về câu hỏi liên thứ hai quan đến vấn đề độc thân của hàng giáo sĩ và tu sĩ Công giáo, xin được trả lời như sau:
Kỷ luật độc thân ( celibacy) của hàng giáo sĩ và tu sĩ trong Giáo Hội Công Giáo La mã không phải là vần đề tín lý hay giáo lý, mà chỉ là luật của Giáo hội đặt ra vì mục đích thánh hóa và hy sinh của hàng giáo sĩ ( Giám mục, linh mục) và tu sĩ mà thôi. Kỷ luật này mới có từ thế kỷ thứ 11 cho đến nay vì mục đích hy sinh , “sống khiết tịnh ( chaste) vì Nước Trời” như Chúa Giêsu đã phán dạy ( Mt 19: 11-12)
Do đó, chắc chắn Giáo Hội cũng sẽ không thay đổi hay bỏ luật này như có một số người đã vội suy đoán sai lầm.
Tuy nhiên, cũng phải nói thêm là chỉ có Giáo Hội Công Giáo La Mã mới có kỷ luật này , trong khi ở các Giáo hội Chính Thống Đông Phương ( Eastern Orthodox Churches) thì kỷ luật này chỉ áp dụng cho hàng Giám mục mà thôi; trong khi các linh mục có thể chọn lựa hoặc kết hôn hay không trước khi lãnh chức linh mục. Nếu đã chọn không kết hôn khi còn là phó tế, thì sẽ không được kết hôn sau khi là linh mục.
Iiên quan đến vấn đề này, cũng cần nói thêm là : các linh mục Anh Giáo ( Anglican
Communion) và mục sư Tin Lành đều kết hôn. Vì thế ,sau khi họ trở lại với Công Giáo và được thụ phong linh mục thì họ được quyền tiếp tục sống với vợ con như cũ.Nhưng nếu sau đó vợ chết, thì không được tái kết hôn nữa..
Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn các câu hỏi đặt ra.
Lm. Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn
2021
Cái nhìn của Giáo Hội về người đồng tính và ”hôn nhân” đồng giới
Cái nhìn của Giáo Hội về người đồng tính và ”hôn nhân” đồng giới
Vài sự kiện dẫn nhập
Một cuộc biểu tình đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính và cộng đồng LGBT (đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới) làm cha mẹ, ở Paris vào ngày 27 tháng năm 2013 (AFP Photo / Thomas Samson)
Hiện nay, cho đến tháng Năm 2013, đã có mười bốn nước trên thế giới có hôn nhân đồng tính được luật pháp nhìn nhận là: Argentina, Bỉ, Brazil, Canada, Đan Mạch, Pháp, Iceland, Hòa Lan, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Nam Phi, Thụy Điển, Uruguay. Pháp là nước thứ mười bốn ngày 23.4 vừa qua đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính và cho phép các cặp đồng tính nhận con nuôi. Riêng ở Mỹ, hiện nay hôn nhân đồng tính được hợp pháp hóa tại 12 tiểu bang và quận Columbia (trong đó có Connecticut, Delaware, Iowa, Maine, Maryland, Massachusetts, Minnesota (1/8/2013), New Hampshire, New York, Rhode Island (1/8/2013), Vermont and Washington). Ba mươi sáu tiểu bang đã có lệnh cấm hôn nhân đồng tính. Chính phủ liên bang không công nhận vấn đề hôn nhân đồng tính này.
Ngày 26.5.2013 hơn 1 triệu người Pháp xuống đường ở thủ đô Paris chống luật hôn nhân đồng tính. Luật hôn nhân đồng tính là vấn đề gây chia rẽ sâu sắc tại nước Pháp, mặc dù được tổng thống Hollande ủng hộ.
Tại Hà Nội, ngày 17.05.2013 vừa qua các bạn trẻ cộng đồng LGBT (Les, Gay, Bisexual, Transgender) làm một đám cưới tập thể (dĩ nhiên là giả) 10 đôi uyên ương đồng giới, nhằm chào mừng ngày quốc tế chống kỳ thị người đồng tính (IDAHO), đã gây sự chú ý đặc biệt trong công luận Việt Nam.
Uỷ Ban Nhân Dân TP Hà Nội cho rằng thực tế hiện nay hiểu biết của xã hội Việt Nam về đồng tính còn rất hạn chế. Đa số đang hiểu sai ít hoặc nhiều về người đồng tính. Theo đó, UBND TP Hà Nội đề xuất luật nên quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính là phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống của người Việt Nam cũng như mục đích của việc kết hôn. Tương tự, báo cáo của Sở Tư pháp Thanh Hóa cũng cho rằng việc kết hôn giữa những người đồng giới là trái với quy luật phát triển bền vững của xã hội do không đảm bảo được chức năng của gia đình là duy trì nòi giống.
Còn người Công giáo có cái nhìn thế nào về những người đồng tính này, có quan điểm nào về sự kết hôn đồng giới có thể được luật hóa trong tương lai?
- Có thể định nghĩa đồng tính như thế nào ?
Truyền thống thường mô tả đồng tính luyến ái (homosexuality) hay sự hấp dẫn đồng giới (same-sex attraction – SSA) như là một sự thu hút dai dẳng và nổi trội, về mặt tình dục hay sinh lí, từ phía những người cùng giới với mình. Chữ “dai dẳng” có ý muốn nói có lẽ đương sự ít cảm thấy thích thú hơn về tình dục đối với người khác phái.
Một định nghĩa truyền thống khác do tiến sĩ Gerard van den Aardweg : “Chúng tôi dùng chữ đồng tính ở đây để chỉ những ước muốn tình dục hướng tới những người cùng phái, đồng thời giảm đi sự thích thú tình dục đối với những người khác phái”[1]
- Nguồn gốc
Từ một quan điểm khác, tiến sĩ Elizabeth Moberly cho rằng xu hướng đồng tính “không phụ thuộc vào sự thiếu cân bằng hoóc-môn có tính di truyền hoặc do các tiến trình tiếp thu bất bình thường, nhưng do từ những khó khăn trong mối quan hệ cha mẹ-con, nhất là trong những năm tháng của thời thơ ấu”[2].
Trong khi nhìn nhận tính phức tạp của hiện tượng đồng tính luyến ái, Moberly lưu ý một nguyên lí cơ bản, đó là: người nam hay người nữ đồng tính đã phải chịu một sự thiếu thốn nào đó trong mối quan hệ với người cha hay người mẹ cùng giới với mình, và có một xung năng tương ứng nhằm cải thiện sự thiếu thốn ấy nhờ mối quan hệ đồng giới hay đồng tính. Có thể tình trạng này là hậu quả của một chấn thương nào đó thời thơ ấu, đã hủy diệt sự quyến luyến đối với người cha hay mẹ đồng giới, để lại nơi đứa bé nhu cầu quyến luyến đồng giới không được thỏa nguyện. Điều này không hàm nghĩa người cha/mẹ đồng giới với em chủ tâm bỏ bê hay đối xử với em tàn tệ.
Moberly có ý muốn nói đồng tính (homosexuality) nói chung là một tình trạng lưỡng nan về đồng giới, nghĩa là, trước hết đó là một vấn đề về căn cước giới tính (gender-identity) hơn là vấn đề về tình dục-sinh dục[3]. Vì đứa bé kìm nén hay trấn áp giới tính của mình, nên xung năng đối trọng để khôi phục lại sự quyến luyến được củng cố mạnh thêm. Hậu quả của sự rời bỏ có tính phòng vệ đó là tình trạng lưỡng nan đồng giới[4].Quan điểm truyền thống về đồng tính tập chú vào ước muốn tình dục-sinh dục đối với một người đồng phái, trong khi định nghĩa của Moberly thì liên hệ đến sự lưỡng nan về căn cước giới tính của một người. Tình trạng này tồn tại trước, hay độc lập đối với bất kì một hoạt động tình dục nào. Điều quan trọng là, nhu cầu về căn cước giới tính của một người có thể (và phải) được đáp ứng cách độc lập đối với bất kì một hoạt động tình dục nào[5].
- Quan điểm của Hội thánh Công giáo về đồng tính
Trong Kinh thánh các đoạn văn liên quan đều kết án các hành động đồng tính. Thư gửi các đức Giám mục thuộc Hội Thánh Công Giáo về việc Chăm sóc Mục vụ cho những Người Đồng tính, do Bộ Giáo Lí Đức Tin ban hành năm 1986, đã trích dẫn những đoạn Kinh thánh sau đây : Sáng thế 19, 4-11 (liên hệ đến chuyện phá hủy thành Sơđôm và Gômôra vì đã thực hành đồng tính), và Lêvi 18, 22; 20, 13 (lên án chuyện ăn nằm giữa hai người đồng giới là điều ghê tởm), Rôma 1, 18-32 (lên án những hành vi đồng tính giữa người nam với nhau, và giữa người nữ với nhau)[6]. Trong bối cảnh mới Kitô giáo phải đối đầu với xã hội ngoại giáo thời bấy giờ, thánh Phaolô dùng kiểu sống đồng tính như một ví dụ cho tình trạng mù tối đang bao trùm trên nhân loại : xem 1Côrinthô 6, 9-10 (trong đó thánh Phaolô dạy rằng những kẻ làm những hành động đồng tính sẽ không được vào Nước Thiên Chúa) và 1 Timôthê 1, 9-10 (lặp lại những lời cảnh cáo trong 1 Côrinthô). Trong Rôma 1, 26, những thực hành đồng tính giữa nữ với nữ cũng bị lên án cách riêng.
Quan điểm dứt khoát của Hội thánh về đồng tính luyến ái được tuyên bố trong sách Giáo Lí Hội Thánh Công Giáo.
Dựa trên Kinh thánh, vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng, truyền thống Hội thánh luôn tuyên bố: “Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là vô trật tự”. Chúng nghịch với luật tự nhiên. Chúng loại bỏ khỏi hành vi tính dục tặng phẩm sự sống. Chúng cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc cho nhau thực sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.[7]
Thật ra, lập luận chống hoạt động đồng tính luyến ái “xuất phát trực tiếp từ giáo huấn của mạc khải về hôn nhân, cụ thể dạy rằng hai mục đích của hành động tính dục con người là sự hợp nhất thường xuyên trong tình yêu giữa người chồng và người vợ và sinh sản con cái – hai mục đích này gắn liền với nhau không thể tách biệt. Vì hoạt động đồng tính luyến ái không thể thực hiện mục đích này cũng như mục đích kia, nên chắc chắn tự chính bản chất của nó là vô luân”[8]. Từ đó ta đi tới kết luận “không thể sánh ví đồng hàng giữa hôn nhân của hai người khác giới và thực hành tính dục ngoài hôn nhân, bao gồm trong đó cả những phối giao đồng tính”[9].
- Bản chất của hôn nhân
Trong Kinh Thánh, hai chương đầu của sách Sáng thế có bao hàm những đoạn văn nền tảng về hôn nhân. Sáng thế 1,27-28 thuộc trình thuật sáng tạo thứ nhất tuyên bố «Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất”». Trong trình thuật sáng tạo thứ hai, Sáng thế 2,23-24, Thiên Chúa giới thiệu Eva và Ađam cho nhau, và Ađam hô lên «‘Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút tự đàn ông ra’. Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt». Nên lưu ý hai bản văn này đã mô tả hai thân xác hiệp thông với nhau như thế nào cũng như từ đó một đứa con được sinh ra (xem Sáng thế 4,1 nói về sự sinh hạ Cain).
Trong Tân ước, Đức Giêsu tái xác nhận lề luật đã được tuyên bố trong sáng Sáng thế. Phúc âm thánh Mathêu 19,3-7 ghi lại câu chuyện những người Pharisêu đến hỏi Đức Giêsu người ta có được phép li dị vợ mình vì bất kì lí do gì hay không. Đức Giêsu trả lời: «Các ông không đọc thấy điều này sao: ‘Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ’, và Ngài đã phán: ‘Vì thế, người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt’ ? Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân li».
Đoạn Thư Êphêsô chương 5 là một đoạn văn tuyệt vời trong đó người làm chồng được ví như Đức Kitô và người làm vợ như là Hội Thánh. Khi thánh Phaolô muốn diễn tả tình yêu của Đức Kitô dành cho Hội Thánh, ngài nhờ đến tình yêu nam-nữ giữa vợ chồng: «Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa Hội Thánh… Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình» (Ep 5,25; 5,28). Thế rồi thánh Phaolô trích dẫn Sáng thế 2,24: «Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình» (Ep 5,31). Thế đó, luật của Sáng thế về sự kết hôn dị tính (giữa một nam và một nữ) và vĩnh hôn, được khẳng định lại.
- Đối thoại với các nền văn hóa hiện nay
Không phải ai cũng tin vào mạc khải của Kitô giáo. Trong thực tế để đối thoại với những người không tin với các nền văn hóa hiện nay, người tín hữu Công giáo có thể dùng những lập luận rút ra từ luật luân lí tự nhiên. Luật luân lí tự nhiên là một luật trong phạm vi của con người bắt đầu có hiệu lực khi một đứa trẻ tới tuổi khôn. Đó là tiếng lương tâm giúp ta phân biệt phải hay trái. Đó là việc làm của một lí trí ngay thẳng. Thánh Phaolô nhắc tới luật tự nhiên này trong đoạn Thư Rôma 2,14-15 khi ngài nói rằng dân ngoại là những người không biết luật Môsê, nhưng họ có luật này được ghi khắc trong lòng họ.
Theo luật tự nhiên, phần đa số con người, nam cũng như nữ, có chịu sự thu hút về thể lí tự nhiên từ phía người khác giới, và sự thu hút đó có ý nghĩa để đưa tới một sự kết hợp thân mật vĩnh viễn giữa một người nam và một người nữ trong hôn nhân hướng tới việc sinh con cái. Chúng ta gọi điều này là tính bổ túc cho nhau giữa hai giới nam và nữ. Với tiên đề này chúng ta xem xét lập luận của triết gia Michael Pakaluk. Ông chống các hành động đồng tính luyến ái và lập luận từ ý nghĩa của hành vi giao hợp vợ chồng, “vốn là một tình trạng đặc thù khác với các hoạt động nhân linh khác. … Chúng ta nói tính dục là đặc thù bởi vì nó là một dấu hiệu của sự kết hợp hai thân xác, và điều đó có ý nghĩa là một sự kết hợp hai nhân vị. Như thế, quả là đúng nếu ta nói khi một người đàn ông và một người đàn bà dấn mình vào tình dục, thì sự giao hợp hai thân xác họ (bodies) có nghĩa là sự hợp nhất hai bản vị của họ (selves)”[10]. Pakaluk còn nói thêm “sự giao hợp tình dục có một ý nghĩa độc lập nào đó của lựa chọn của ta; nó có nghĩa là một sự kết hợp bản vị. Vì thế, chúng ta không thể thay đổi ý nghĩa khách quan của sự giao hợp tình dục.
“Hơn nữa, vì giao hợp tình dục giữa một người nam và một người nữ mang tính chất hướng đến sinh sản, hành vi hướng đến việc sản sinh ra con cái, bản thân chúng vốn là sự kết hợp các đặc trưng của vợ và chồng, và như thế càng làm gia tăng sự hiệp nhất vợ chồng. Như chúng ta biết, giao hoan đồng tính thì không có được những sức mạnh đó”.
Có thể triển khai các lập luận khác. Không thể có một sự hiệp thông thân xác đích thực trong giao hoan đồng tính. Cách đây ít năm một người mẹ, là thành viên của nhóm hướng dẫn một cuộc gặp gỡ tĩnh tâm cho các cặp đính ước (Engagement Encounter), đến gặp riêng một vị linh mục đồng hành với Phong trào Courage, hỏi về hành vi đồng tính: “Họ làm ‘chuyện ấy’ như thế nào, hở cha?” Vị linh mục mô tả cách thức họ làm ‘chuyện ấy’, và bà ta cười phá lên và nói: “mấy cái bộ phận làm sao mà tra khớp vừa khít được!”
Một người đàn ông cầm biểu ngữ “A father and a mother, nothing it′s better for a child!” trong một cuộc biểu tình để phản đối hôn nhân đồng tính vào ngày 02 Tháng Hai năm 2013 tại Paris (AFP Photo / Francois Guillot)
- Mục vụ cho những người có sự thu hút đồng giới (SSA)
Cha John F. Harvey, O.S.F.S., kể từ những năm giữa thập niên 1980, đã tham vấn cho các bạn trẻ đồng tính trong khi dùng đến những kết quả của Moberly giúp họ nhận ra rằng họ có thể làm cái gì đó về tình trạng thu hút đồng giới này của họ. Khi một bạn trẻ bắt đầu hiểu ra rằng không ai chủ ý chọn cho mình loại cảm giác thu hút này và rằng anh (hay cô ta) có thể học để khống chế quyền lực của nó, anh (cô ta) thường muốn làm việc với cả nhà tham vấn tâm linh và nhà tâm lí trị liệu, để giúp mình giải quyết vấn đề. Bạn trẻ ấy sẽ rất vui khi nghe, theo như Moberly hiểu, rằng sự thu hút đồng giới không phải là một điều bệnh hoạn (xu hướng bị thu hút đồng giới thì khác với hành vi và lối sống đồng tính có giao hoan tình dục). Thật ra đó là xung năng để khôi phục lại những quyến luyến vốn đã bị đổ vỡ với “một suối nguồn yêu thương, vốn là chính người cha hay người mẹ cùng giới với bạn ấy” và như thế, đây “không phải là một vấn đề cho bằng là một nỗ lực giải đáp vấn đề”[11]. Vấn đề bệnh hoạn hay không là ở chỗ đứa trẻ bị tách li sớm khỏi người cha hay người mẹ cùng giới trong tình trạng đổ vỡ oán trách, tuy nhiên người ta có thể sửa chữa sự thiếu hụt do quá khứ ấy bằng sự vun đắp một tình bạn đồng giới thanh khiết[12]. Trong khi giúp đỡ những người chịu sự thu hút đồng giới (SSA) sống đức khiết tịnh (là mục tiêu chính yếu của Phong trào Courage [Can đảm]), cha John nhận thấy quan điểm của Moberly rất hữu ích[13]. Theo đuổi đức khiết tịnh là bước đầu tiên rời xa chứng thu hút đồng giới (SSA). Cá nhân người đồng tính có thể không hoàn toàn phục hồi trở về tình trạng xu hướng dị tính tự nhiên, nhưng người ấy đang đi trên con đường tâm linh đúng đắn. Nhờ ơn Chúa, người ấy không những sẽ tránh được sa ngã phạm tội tình dục đồng giới mà còn phát triển được một tâm hồn khiết tịnh. Trong tiến trình từ giai đoạn non nớt sống thiên về cảm xúc đến giai đoạn trưởng thành hơn về tình cảm (tình cảm được hướng theo một trật tự ngay chính) những bạn này phát triển từng ngày một nhân đức gọi cho chính xác là khiết tịnh hay tiết độ (continence). Người có nhân đức khiết tịnh, theo định nghĩa, phải thường xuyên sống cảm xúc của mình hòa hợp với lí trí. Chừng nào người ấy vẫn còn sống cái phản ứng tách li phòng vệ hoặc bị thu hút tình dục chủ yếu bởi những người đồng giới, thì vẫn còn một lỗ hổng lớn trong tương quan giữa lí trí và tình cảm.
Thái độ và cái nhìn của Kitô hữu về anh chị em có sự thu hút đồng giới
Nhiều vị mục tử và các nhà thần học mục vụ chuyên về lãnh vực này tránh dùng những nhãn hiệu như “gay” (đồng tính nam) và “lesbian” (đồng tính nữ) hay “bisexual” (song tính) xuất phát từ tầm nhìn nhân học đúng đắn của Kitô giáo vốn coi trọng nhân vị, hình ảnh của Thiên Chúa. Đối với họ, một con người hay một cá vị thì khác hẳn một xu hướng tình dục. Một cá nhân là một ngôi vị, là một thọ tạo được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và giống Thiên Chúa, có trí hiểu và ý chí tự do, được tiền định để sống đời vĩnh cửu, và khi được rửa tội, lại là một người anh em hay chị em của Đức Kitô. Khi nói về người anh em hay chị em ấy như là kẻ “đồng tính” là ta đã giảm thiểu con người ấy (vốn là một nhân vị) thành chỉ như là một xu hướng tình dục. Một con người thì khác xa hơn nhiều do mầu nhiệm ngã vị tính của người ấy.
Những từ ngữ như “gay” hay “lesbian” thậm chí còn giảm trừ hơn nữa tính phức tạp kì diệu của mầu nhiệm ngôi vị. Gọi những người anh em / chị em ấy là “gay” hay là “lesbian” tức là xem xu hướng tình dục của họ như là điểm quan trọng nhất của căn tính con người họ. Sinh ra làm người theo cách như thế ấy hay không, đối với những cá nhân đó, không là vấn đề. Họ tuyên bố rằng: “Đó là cái cách thức mà tôi sống và sẽ luôn như thế. Tôi phải kết bạn với những người giống như tôi và để rồi sau cùng sẽ tìm thấy được một đối tác (bạn tình) lí tưởng mà tôi có thể kết giao trong một ‘quan hệ đơn nhất’ để ổn định cuộc sống. Tôi sẽ ra sức để kiến tạo nên một xã hội trong đó những người kết giao đồng tính có cùng quyền lợi như những người kết hôn dị tính”.
Cả ba hình thức xác định bản vị kiểu như thế (đồng tính luyến ái, gay, và lesbian) đều không thể mô tả một người hiện hữu như là một nhân vị. Không chỉ là một vấn đề lí thuyết, bạn nhìn chính mình như một nhân vị như thế nào liên quan chặt chẽ với cái nhìn về bản thân bạn và thiết lập những mục tiêu cá nhân của bạn cho tương lai thế nào. Hình ảnh về bản thân bạn như thế nào tác động rất lớn trên hành vi cuộc sống bạn.
Gọi người ấy là người có xu hướng bị “thu hút bởi người đồng giới” (“same-sex attraction”) (đối lại với cách gọi họ là “gay” hoặc “lesbian”) đặt trọng tâm trên tính duy nhất của ngôi vị hơn là trên một xu hướng (tendency) vốn ở thấp bên dưới lí trí và có thể thay đổi khi người ấy trưởng thành hơn. Trong ngôn ngữ của thời đại, người ta lại nói đến “hướng định” đồng tính (homosexual “orientation”). Thật không may, trong số nhiều người có xu hướng chịu “sự thu hút đồng giới”, từ ngữ trên mang một hàm nghĩa ấy là một xu hướng tất định, không thay đổi được. Nhưng đó không phải là trường hợp của nhiều cá nhân, cách riêng của những em tuổi teennghĩ mình là người đồng tính, nhưng chỉ sau ít năm lại đi yêu một người khác phái!
Nỗi khó khăn của việc ‘dán nhãn’ cho một ai đó, là: làm như thế là đã giới hạn người ấy vào một số tùy chọn và tầm nhìn giới hạn nhất định rồi. Bộ Giáo Lí Đức Tin phát hành văn kiện Về Chăm Sóc Mục Vụ cho Những Người Đồng Tính, nói rất rõ điểm này: «Ngày nay Hội Thánh đề nghị một cảnh vực hết sức cần thiết cho việc chăm sóc mục vụ con người, khi từ khước xem họ như là ‘người đồng tính’ (homosexual) hay như là ‘người dị tính’ (heterosexual), và luôn nhấn mạnh rằng mỗi người đều có một căn tính nền tảng. Họ là thụ tạo của Chúa, và nhờ ơn Chúa họ còn là con cái Chúa và được hưởng gia nghiệp đời đời»[14].
Vì thế, tình cảnh của một người có xu hướng đồng tính không lấy mất của người ấy phẩm giá thụ tạo được Chúa ban cho, cũng không làm thay đổi sự kiện một người đã rửa tội là anh em hay chị em của Đức Kitô với hi vọng được sống đời vĩnh cửu. Trên bình diện nhân bản, theo quan điểm của tiến sĩ Joseph Nicolosi, tác giả của Healing Homosexuality (Chữa lành Đồng tính), người ta nên nhìn bản thân mình như là một người vốn tự nhiên có xu hướng dị tính với vấn đề đồng tính[15]
Kết
Thiên Chúa không tạo dựng con người đồng tính; Ngài để cho con người chịu nỗi niềm riêng này là có những lí do bí nhiệm riêng của Ngài. Đừng ai để mình bị cám dỗ đi đến mức tự ghét bản thân, than thân trách phận, và oán trách Thiên Chúa vì một tin tưởng sai lầm rằng Ngài đã dựng nên mình đồng tính. Khinh bỉ bản thân mình vì mình là người có xu hướng chịu sự thu hút đồng giới (SSA) thật ra là một hình thái của chứng “sợ người đồng tính” (homophobia) và thậm chí thù ghét chính bản thân mình cách phi lí.
Ngày nay vẫn có nhiều người sợ một cách phi lí những người mang tiếng là đồng tính luyến ái bởi vì tình cảnh của những người ấy bị hiểu lẫn lộn với tình trạng của những người lạm dụng tình dục trẻ em (pedophilia), hoặc xem họ gắn liền với AIDS, hoặc cho là những người ấy đã tự chọn cách sống như thế. Thế nhưng, Hội thánh dạy chúng ta nên có một chương trình chăm sóc mục vụ đặc biệt cho những anh chị em có sự thu hút đồng giới, đồng thời đối xử với họ bằng thái độ yêu thương và kính trọng: «Phẩm giá của mỗi người phải luôn được kính trọng bằng lời nói, hành động, và bằng luật pháp»[16].
Lữ Y Nguyễn
THƯ MỤC
- BỘ GIÁO LÍ ĐƯC TIN, Thư gửi các đức Giám mục thuộc Hội Thánh Công Giáo về việc Chăm sóc Mục vụ cho những Người Đồng tính(1986)
- MOBERLY, E. R., Homosexuality: A New Christian Ethic(Cambridge, England: James Clark, 1983)
- MOBERLY, E. R., Psychogenesis: The Early Development of Gender Identity(London: Routledge and Kegan Paul, 1983)
- HARVEY, J. F., O.S.F.S., The Homosexual Person(San Francisco: Ignatius Press, 1987)
- HARVEY, J. F., O.S.F.S., The Truth about Homosexuality(San Francisco: Ignatius Press, 1996)
- HARVEY, J. F., O.S.F.S., Homosexuality and The Catholic Church(Ascension Press, LLC, 2007)
- AARDWEG, G. VAN DEN, On the Origins and Treatment of Homosexuality(New York: Praeger, 1986)
- NICOLOSI, J., PH.D., Healing Homosexuality(Northvale, NJ: Jason Aronson, 1997)
[1] G. VAN DEN AARDWEG, On the Origins and Treatment of Homosexuality (New York: Praeger, 1986), p. 1.
[2] E. R. MOBERLY, Homosexuality: A New Christian Ethic (Cambridge, England: James Clark, 1983), p. 2.
[3] J. F. HARVEY, O.S.F.S., The Homosexual Person (San Francisco: Ignatius Press, 1987), p.28.
[4] E.R. MOBERLY, Homosexuality: A New Christian Ethic, được trích lại trong Harvey, The Homosexual Person, p.28.
[5] HARVEY, The Homosexual Person, p.28.
[6] BÔ GIÁO LÍ ĐƯC TIN, (Thư gửi các đức Giám mục thuộc Hội Thánh Công Giáo) Về việc Chăm sóc Mục vụ cho những Người Đồng tính (1986), ss. 6-8; cũng nên tham khảo Persona Humana, s.8.
[7] Sách GLHTCG, 2357.
[8] J. F. HARVEY, O.S.F.S., The Truth about Homosexuality (San Francisco: Ignatius Press, 1996), p.304.
[9] Ibid.,p.127.
[10] Ibid., p.133.
[11] E. R. MOBERLY, Psychogenesis: The Early Development of Gender Identity (London: Routledge and Kegan Paul, 1983), p. x.
[12] MOBERLY, Homosexuality, pp. 28-29.
[13] Để biết chi tiết hơn lí thuyết của Moberly xin tham khảo chương ba của HARVEY, The Homosexual Person, p.38-48.
[14] BÔ GIÁO LÍ ĐƯC TIN, Về Chăm Sóc Mục Vụ cho Những Người Đồng Tính (1986), 16.
[15] J. NICOLOSI, PH.D., Healing Homosexuality (Northvale, NJ: Jason Aronson, 1997).
[16] Về Chăm Sóc Mục Vụ cho Những Người Đồng Tính (CSMVĐT), 10.