2021
Con người là chủ thể, nền tảng và mục tiêu
Sr. M.Jos. Trần Thị Thanh Lương O.P.
Mục lục
II. NỀN TẢNG THẦN HỌC -THÁNH KINH 1. Con người là hình ảnh Thiên Chúa 2. Con người: người trông giữ tạo vật và cộng tác trong công việc sáng tạo 3. Tội lỗi và ơn cứu độ phổ quát |
WHĐ (16.8.2021) – Nền tảng của Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo (GHXHCG) không phải là xã hội, không phải là cộng đồng nhân loại, nhưng là nhân vị. Nó là nền tảng, không phải một trong những nền tảng, không phải một trong những lãnh vực trọng yếu, nhưng nhân vị là nền tảng duy nhất, riêng biệt của GHXHCG. Con người luôn là chủ thể, nền tảng và mục tiêu của xã hội loài người. Trong lịch sử hình thành GHXHCG, Giáo hội cho thấy các nguyên lý và nội dung của giáo huấn về xã hội của Giáo hội đều dựa trên nguyên lý nền tảng là nhân vị.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2, trong thông điệp đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng: Đấng Cứu Chuộc Con Người (Redemptor Hominis) đã xác định con đường đầu tiên và nền tảng của Giáo hội, cả trong những vấn đề xã hội, là chính nhân vị cụ thể (xem số 14). Những huấn dụ mang tính hiện thực chủ nghĩa nhân học (anthropological realism) của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI trong tông thư mới nhất về vấn đề xã hội của ngài: Bác Ái trong Chân Lý (Caritas in Veritate) cũng đưa con người, là hữu thể duy nhất, toàn bộ và không thể phân chia, như là yếu tố nền tảng của việc phát triển toàn bộ con người cũng như xã hội. Phẩm giá của nhân vị không chỉ bao gồm trong hữu thể của mình (nền tảng nhân học), nhưng trước hết, như là một tạo vật, nó mang ý nghĩa trong chính Đấng Tạo Thành (nền tảng thần học). Trong quan điểm Kitô giáo, cũng cần phải nhấn mạnh đến nền tảng Kitô học trong mạc khải về con người được thể hiện trong chính Đức Kitô, con người hoàn hảo[1], qua mầu nhiệm nhập thể.
Vì vậy, GHXHCG, như đã phát họa trong cuốn Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo (TLHTXHCG) (cách đặc biệt ở Chương Ba), trình bày cho chúng ta một phân tích rõ ràng về nhân vị, không từ chối nói về những khiếm khuyết cũng như nhân đức, không đưa ra một quan niệm trừu tượng, một kiểu mẫu làm cho chúng ta không nhận ra con người cụ thể, không làm cho chúng ta đón nhận con người trong tính cách cá nhân và duy nhất của nó, nhưng nhân vị được xác định trong con người cụ thể.
I. NGUYÊN TẮC NHÂN VỊ
Cuốn TLHTXHCG trước tiên muốn trình bày nguyên tắc nền tảng thường bị quên lãng hay giải thích sai lệch: “Toàn bộ đời sống xã hội đều là sự biểu hiện của người giữ vai trò chính không thể nhầm lẫn được , đó chính là con người”[2]. Tất cả mọi cộng đồng của con người, dù là gia đình, tổ chức tôn giáo, trường học, chính phủ, xí nghiệp lớn hay nhỏ, những công ty đa quốc gia hay chính toàn bộ hệ thống kinh tế, không phải để tự duy trì sự tồn tại cho chính mình, nhưng là để phục vụ nhu cầu và sự phát triển đích thực của con người. Nói cách khác, nguyên tắc nhân vị của một cộng đồng chính trị hay văn hoá có nghĩa là chấp nhận rằng nhân vị (nam hay nữ) với phẩm giá siêu việt của họ là “tác giả, trung tâm và mục đích của đời sống kinh tế-xã hội”[3].
Đức Giáo Hoàng Gioan 23, trong tông thư Hoà bình trên Trái đất, xác định: “Trong bất cứ hiệp hội nào của con người theo quy chế và sinh hiệu quả đều phải chấp nhận nguyên tắc nền tảng là mỗi con người là một nhân vị, tức là theo bản tính họ được phú bẩm sự hiểu biết và ý chí tự do. Vì thế họ là chủ thể của những quyền lợi và nghĩa vụ xuất phát ngay từ chính bản tính của mình; những quyền lợi và nghĩa vụ phổ quát, bất khả xâm phạm, và không thể hủy bỏ”[4]. Nhưng điều này không có nghĩa là một thứ cá nhân chủ nghĩa cứng nhắc, vì tự bản tính mỗi con người mang tính xã hội, cũng không chối từ công ích. Nhưng nó nhấn mạnh rằng những quyền lợi của cá nhân không thể bị hi sinh cho quyền lợi tập thể. Trong lãnh vực kinh tế chẳng hạn, những quyết định về kinh tế không thể có thái độ tùy tiện đối với nhu cầu của những con người đã tạo nên chúng.
Cũng thế, xác quyết rằng “con người trước quốc gia” có nghĩa là chấp nhận rằng trọng tâm của thể chế là nhân vị với những quyền lợi cũng như bổn phận của nó, bắt đầu bằng quyền được sống, là nền tảng của tất cả các quyền tự do căn bản: tự do tư duy và tự do lương tâm, tự do giáo dục và lập hội, bao gồm quyền được có công ăn việc làm cũng như tất cả các quyền lợi dân sự khác.
Từ nguyên tắc đầu tiên này phát xuất ra tiêu chuẩn có giá trị phổ quát để phán xử. Trước hết, nhà nước cũng như xã hội phải theo đuổi công ích, luôn bị phụ thuộc vào sự thể hiện trọn vẹn của những cá vị. Vì thế, xã hội cũng như nhà nước có thể quy định những hoạt động của cá vị nhằm đạt đến những mục tiêu chung, nhưng không bao giờ có thể đặt định về chính bản vị con người, cũng như về cuộc sống con người, đây là nền tảng của tất các quyền lợi khác. Những giới hạn về luân lý hay pháp lý do việc tôn trọng đó mà ra không gây cản trở hay làm chậm tiến độ của quyền lực công, của phát triển, hay tiến bộ của những nghiên cứu khoa học, nhưng đơn giản là bảo đảm cho văn minh. Nhân vị có được trong chính mình giá trị của mục tiêu và không bao giờ, và trong bất cứ trường hợp nào, có thể bị xem như vật thí nghiệm.
Tuy nhiên, ưu tiên tuyệt đối của nhân vị không những không đặt cá thể đối lập với xã hội, nhưng nhìn thấy trong cá thể nền tảng của chính xã hội. Xã hội đến sau nhân vi và dựa trên nền tảng nhân vị.
II. NỀN TẢNG THẦN HỌC -THÁNH KINH
Bắt nguồn từ Thánh Kinh, Giáo hội chân nhận ra con người có được một phẩm giá trổi vượt , không thể so sánh và không gì có thể thay thế được, là một tạo vật theo hình ảnh của Thiên Chúa. Việc chân nhận quan trọng được diễn tả trong xác quyết rằng con người “từ lâu bị xem là đối tượng và một yếu tố thụ động của đời sống xã hội, thay vì là, phải là, và luôn là chủ thể, nền tảng và mục tiêu”[5].
1. Con người là hình ảnh Thiên Chúa[6]
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”[7] . Thiên Chúa không những tạo thành con người, nhưng còn đặt con người là trung tâm và là tột đỉnh của việc tạo thành, ‘thổi hơi vào mũi’ để ban cho con người sự sống của chính Thiên Chúa[8] . “ Vì con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên có phẩm giá là một nhân vị. Không phải là một sự vật mà là một con người. Con người có khả năng tự biết mình, tự làm chủ chính mình và tự do tự hiến và thông hiệp với những người khác. Do ân sủng, mỗi người được mời để giao ước với Ðấng Sáng Tạo, dâng lên Ngài một lời đáp trả tin yêu mà không ai có thể thay thế được”[9].
Qua đó chúng ta thấy con người là tạo vật được Thiên Chúa tạo dựng như là một bản vị để tiếp thông với Ngài. Mối tiếp thông đó còn được thể hiện nơi chiều kích xã hội trong bản tính con người. “ Nhưng Thiên Chúa đã không dựng nên con người cô độc: bởi vì từ khởi thủy “Ngài đã tạo dựng có nam và có nữ” (Stk 1,2-7). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những người khác, con người sẽ không sống và phát triển tài năng mình.”[10] Vì thế mỗi con người là hình ảnh của Thiên Chúa có được một phẩm giá trổi vượt trên những tạo vật khác và cần phải sống trong mối tiếp thông với người khác.
2. Con người: người trông giữ tạo vật và cộng tác trong công việc sáng tạo
“Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất”[11]. trước những tạo vật khác, con người , nam và nữ, được một ơn gọi đặc biệt, để tận hưởng và quản trị. Từ ‘làm bá chủ’ trên thế giới không có nghĩa là tự do lợi dụng cách ích kỷ nhưng là lãnh trách nhiệm gìn giữ tạo vật. Ở đây từ rdh, theo nguyên ngữ Do Thái, thường được dịch là ‘thống trị’, ‘làm bá chủ’, nên được dịch theo nghĩa ‘hướng dẫn, thuần hoá’. Con người được Thiên Chúa mời gọi cộng tác với Ngài trong tiến trình tạo dựng qua việc thực thi trách vụ ‘làm chủ’, không tuyệt đối nhưng mang tính cách cộng tác và thừa tác, tôn trọng sự tốt lành nguyên khởi của tất cả mọi điều Chúa tạo thành[12].
Thiên Chúa ủy thác cho con người gìn giữ có trách nhiệm các tạo vật, không chỉ những các tạo vật không phải là con người, nhưng còn chính con người nữa. “Bảo vệ và thăng tiến sự sống, tôn trọng và yêu mến sự sống, đó là nhiệm vụ Thiên Chúa trao cho mọi người, khi kêu gọi họ, vốn là hình ảnh sống động của Chúa, tham dự vào quyền làm chủ mà Ngài đang thực hiện trên thế giới…Việc con người tham dự phần nào đó vào quyền Chủ Tể của Thiên Chúa cũng được biểu lộ rõ ràng, do sự kiện họ được trao phó trách nhiệm đặc thù đối với sự sống con người nói riêng”[13].
Dựa trên nền tảng đó, GHXHCG nhấn mạnh rằng mỗi người được kêu gọi để chăm sóc cho cuộc sống mọi người, nhất là những người yếu đuối, khốn khó; nhưng cũng cần phải được giúp đỡ để thực hiện với trách nhiệm quyền lợi mà Thiên Chúa trao ban, mà không ai có thể cướp mất, đề cùng cộng tác với Ngài trong tiến trình sáng tạo. Đây cũng là một ơn gọi lớn lao, được là người chung phần với Thiên Chúa trong việc phát triển trật tự đã được tạo thành.
3. Tội lỗi và ơn cứu độ phổ quát
Dù là người cộng tác viên và chung phần với Thiên Chúa, nhưng chính con người không là thần thánh. Dù hình ảnh là người chung phần vào công việc tạo dựng thật là lý tưởng, nhưng đó không phải là tất cả câu chuyện. Hình ảnh Thiên Chúa trong con người và lịch sử nhân loại đã bị hoen ố và nhơ nhuốc bởi tội nguyên tổ. Do tội đó “con người đã phá vỡ giới hạn thụ tạo của mình, thách thức Chúa, là Thiên Chúa duy nhất và là nguồn sự sống của mình. Chính tội bất tùng phục ấy (x. Rm 5,19) đã tách con người ra khỏi Chúa”[14]. “Đó là một tội được truyền lại bằng cách làm lan ra tới hết mọi người, nghĩa là được truyền lại một bản tính đã mất đi sự thánh thiện và công chính nguyên thuỷ”[15]. “Hậu quả của tội, bao lâu nó còn là hành vi xa rời Chúa, chính là sự tha hoá, tức là sự xa rời của con người không những với Chúa mà còn với chính mình, với người khác và với thế giới chung quanh”[16]. Chính vì ý muốn ‘được trở nên như Chúa’, con người từ chối tình trạng tạo vật. Và như thế, trong khi cố gắng tự trở nên người có toàn quyền trên vũ trụ, con người đi vào sự xung khắc với chính vũ trụ và với nhau. Nói cách khác, tội lỗi làm chúng ta mù loà với bản tính nền tảng của chính mình là tương quan và xã hội, và đưa chúng ta đến việc chỉ quan tâm đến những lợi ích của mình, không lưu tâm đến người khác, cũng như tạo cho ảo tưởng rằng dù sao chúng ta cũng hoàn toàn tự túc.
Mầu nhiệm của tội là một “vết thương hai mặt”, như GHXHCG nói đến. Nó luôn mang hệ quả nơi cá nhân nơi mối quan hệ với tha nhân và xã hội. Cả hai sóng đôi và không thể tách rời cũng như không thể tách rời bản tính con người trong chiều kích cá nhân và xã hội, trong mối tương quan với chính mình và tha nhân. Tội lỗi len lỏi và phá hoại chính bản tính con người nên cũng phá hoại chính mối tương quan liên đới và hỗ tương nền tảng này.
Vì thế, tội mang tính cách xã hội đặc biệt, với hậu quả là mang lại cái nhìn nghèo nàn và bị thương tổn về bản tính con người, dẫn tới việc lợi dụng và lèo lái người khác, và xâm hại trực tiếp đến người khác, khi quá nhấn mạnh vào một yếu tố riêng biệt nào đó. Chủ nghĩa cá nhân cực đoan đưa đến cái nhìn con người tự tạo chính mình và có thể tái tạo nó theo ý muốn. Tự do con người tách biệt khỏi mọi hệ thống luân lý nền tảng, và ‘chọn lựa’ cá nhân là giá trị tối thượng. Một cực đoan khác là những hình thức của chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa định mệnh, trong đó bản tính con người bị cho là rất dễ bị uốn nắn, thuần hoá, có thể và cần phải được kiểm soát bởi Nhà Nước, hay những ‘chuyên gia’ hỗn hợp. Trong cả hai quan niệm, con người không được coi là cùng đích trong chính nó, nhưng chỉ là phương tiện được dùng cho những mục tiêu khác. Con người chỉ còn là một đối tượng cần được kiểm soát và điều khiển hay là một trở ngại cần được khuất phục. Vì vậy, tội được gọi là ‘xã hội’ vì chống lại nhân quyền, bắt đầu từ quyền sống, và tất cả mọi quyền lợi khác của con người để sống trọn vẹn nhân phẩm. Nó chống lại những mối liên hệ theo như chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa.
Các tội cá nhân và xã hội tiếp diễn trong lịch sử, cấu thành một kinh nghiệm đau thương và bi quan về thân phận con người. Và tội lỗi đã mang con người đến tình trạng phổ biến là đặt lợi nhuận và lợi ích cũng như quyền lực của cá nhân hay của nhóm là giá trị cao nhất phải theo đuổi bất chấp bất cứ thủ đoạn nào.
Nhưng niềm tin căn bản của Kitô giáo vào Mầu nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô là công trình kỳ diệu đã chuyển đổi tất cả con người trong bản tính cũng như trong mối tiếp thông với người khác, cá nhân và phổ quát. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu Kitô, đã hoàn toàn lãnh nhận sự hiện hữu vật chất, làm cho sự hiện hữu trong thân xác của chúng ta thành phương tiện để chúng ta có thể tiếp thông với sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã cảm nghiệm vũ trụ chất thể, cho dù những giới hạn của nó, nhưng tốt lành và được chúc phúc, cho dù nếu chúng ta không thể nhận ra. Và chúng ta cũng được ban cho ơn sủng thông phần vào việc tiếp tục công trình tạo dựng và cứu chuộc[17]
Qua niềm hi vọng vào sự phổ quát của ơn cứu độ trong Đức Kitô, Adam mới chiếu toả và thành toàn hình ảnh của Thiên Chúa, con người không còn bi quan về chính sự thất bại, bạc nhược, hay sai lầm do tội mang lại. Tất cả tạo vật được giải thoát khỏi diệt vong nhờ lời hứa được tham phần vào cuộc sống vĩnh cửu của Đấng Tạo Thành.
4. Hình ảnh Đức Kitô (Imago Christi)
Để hiểu được đầy đủ ý nghĩa con người là “hình ảnh Thiên Chúa”, cần nên nhớ là trong Tân Ước, quan niệm này nói về Chúa Giêsu Kitô[18]. “Bởi vì chính Chúa Kitô mạc khải cho con người trọn vẹn hữu thể của nó, trong bản tính nguyên khởi, trong thành toàn chung kết, và trong thực tại hiện thời”[19]. “Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì Adam con người đầu tiên đã là hình bóng của Adam sẽ đến, là Chúa Kitô. Chúa Kitô, Adam mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ. Bởi vậy không lạ gì khi những chân lý đã nói ở trên đều tìm thấy nguồn gốc của chúng và đạt tới tột điểm nơi Người”[20].
Nguồn gốc của con người được tìm thấy nơi Đức Kitô, ‘nhờ Người và trong Người’ mà con người được tạo dựng[21]. Tình trạng hiện sinh của con người trong hiện tại cũng đạt được ý nghĩa trọn vẹn trong Đức Kitô. Đức Kitô, qua mầu nhiệm Nhập Thể, cái chết và sự Phục Sinh của người mang lại cho con người ‘hình ảnh Thiên Chúa’ nguyên tuyền. “Bởi vì nơi Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt, do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi”[22]. Qua việc chia sẻ mọi khía cạnh của đời sống con người, cả những lao nhọc thể xác, đau khổ và cái chết, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta chính căn tính con người, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và được ban cho một phẩm giá cao vời.Con người hướng về Nước Thiên Chúa như một tương lai tối hậu, sự thành toàn của chính sự hiện hữu của con người. “ Và như thế sự sống hằng ngày của con người được định nghĩa như là một nỗ lực để tương hợp trọn vẹn hơn với hình ảnh Chúa Kitô và cống hiến cuộc đời tăng trưởng để chiến đấu mang lại chiến thắng chung cuộc của Chúa Kitô trên trần gian”[23]
III. NỀN TẢNG NHÂN HỌC
Trong các ý thức hệ xã hội, chúng ta thường thấy họ có những quan điểm giảm thiểu về con người, chỉ chú trọng đến một khía cạnh và coi thường hay bỏ qua những khía cạnh khác. Giáo huấn xã hội của Giáo hội xác định sự ưu tiên của nhân vị không giống như những cái nhìn giảm thiểu của chủ nghĩa cá nhân hay tập thể hoá, nhưng nhấn mạnh là “những cá thể không xuất hiện như những hạt cát tách biệt nhau, nhưng được liên kết trong một cơ phân, liên hệ hài hoà và hỗ tương”[24] và con người không chỉ đơn giản là một tế bào của xã hội, chỉ được công nhận qua vai trò chức năng. GHXHCG giới thiệu một cái nhìn về con người với tất cả những chiều kích trong toàn bộ của nó, không giảm thiểu hay thiển cận.
1. Tính thống nhất
Quan điểm nhân học của Giáo hội xác định rõ con người “được tạo dựng thành một thể thống nhất xác và hồn”[25], Sự thống nhất đó được bảo đảm do linh hồn thiêng liêng và bất tử nhờ đó con người hiện hữu như một tổng thể. Điều đó xác định sự liên kết giữa các chức năng thiêng liêng, tri thức và ước muốn, cũng như xác thể và cảm xúc. “Ngôi vị con người bao gồm thân xác và được giao phó toàn bộ cho chính con người, chính trong sự thống nhất hồn xác mà ngôi vị con người là chủ thể của những hành vi luân lý”[26] . Con người là một hữu thể vật chất hoà nhập vào thế giới qua thân xác mình, cùng lúc cũng là một hữu thể thiêng liêng, nhờ khả năng hiểu biết, có thể hướng về siêu việt và để khám phá ra chân lý vượt quá vật chất. Tinh thần và vật chất trong con người không là hai bản tính nối kết nhau, nhưng là sự hiệp nhất tạo thành một bản tính duy nhất. Bởi vậy trong giáo huấn của Giáo Hội không có chủ trương duy linh, là chủ thuyết hạ giá thực tại của thân xác, cũng không chủ trương duy vật, xem thường tinh thần, xem nó đơn giản chỉ là một lối biểu lộ của vật chất. Con người luôn là một thể thống nhất xác và hồn.
2. Hướng mở đến siêu việt
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo xác định rằng con người tự bản tính và do ơn gọi là một hữu thể tôn giáo, vì vậy ‘có khả năng’ hướng về Thiên Chúa. “Vì con người phát xuất từ Thiên Chúa và đi về cùng Thiên Chúa nên không sống một cuộc sống thuần nhân loại, nhưng sống trong mối tiếp thông với Thiên Chúa cách tự do”[27] Con người hướng mở về Thiên Chúa, nhưng cũng hướng mở về tất cả những tạo vật khác: về người khác, về thế giới. Vượt ra khỏi chính mình, khỏi cái tôi ích kỷ chỉ lo cho bản thân mình, con người bước vào mối liên hệ đối thoại và hiệp thông với người khác[28].
3. Độc nhất
Con người là một hữu thể độc nhất không thể sao chép, có khả năng tự hiểu về mình, tự làm chủ chính mình và tự quyết. “Con người hiện hữu trước hết như một thực thể làm chủ thể, như một trung tâm của ý thức và tự do mà những kinh nghiệm sống của mỗi một người không thể so sánh với kinh nghiệm của bất cứ ai. Điều này cũng nhấn mạnh đến việc không thể chấp nhận bất cứ toan tính nào muốn giản lược thân phận con người bằng cách ép con người đi vào trong các phạm trù đã được dự tính trước hay vào các hệ thống quyền lực đã có sẵn, dù có thuộc ý thức hệ hay không”[29]. Vì vậy công quyền không bao giờ dùng con người như một phương tiện để thực hiện những kế hoạch kinh tế, xã hội hay chính trị. Nhưng phải cảnh giác để mỗi can thiệp của các định chế khác nhau luôn nhằm tôn trọng phẩm giá con người. Bởi vì sự ưu việt của con người vượt lên trên xã hội: “trật tự xã hội và tiến bộ của nó phải luôn luôn nhằm ích lợi của các nhân vị, bởi vì trật tự của muôn vật phải lệ thuộc vào trật tự của các nhân vị chứ không ngược lại”[30].
4. Tự do của con người
Sự tự do là dấu hiệu đặc biệt để nhận ra con người là tạo vật được Thiên Chúa tạo nên giống hình ảnh và sự tự do của Ngài. “Tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên Chúa trong con người. Bởi vì Thiên Chúa đã muốn để con người tự định liệu, hầu con người tự mình đi tìm Ðấng Tạo Dựng và nhờ kết hợp với Ngài con người tiến tới sự hoàn thiện trọn vẹn và hạnh phúc. Vậy phẩm giá của con người đòi họ phải hành động theo sự chọn lựa ý thức và tự do, nghĩa là chính con người được thúc đẩy và hướng dẫn tự bên trong, chứ không do bản năng mù quáng hay cưỡng chế hoàn toàn bên ngoài”[31]. Con người được ơn gọi dùng sự tự do của chính mình để tìm kiếm sự thiện cho riêng mình và công ích. Qua sự tự do hướng về sự thiện chân thực, trật tự nội tâm triển nở để có khả năng phát sinh trong chính con người cũng như xây dựng trật tự xã hội. Tuy nhiên, khi con người sử dụng sự tự do để mưu tìm sự thiện, riêng cũng như chung, cần phải tương hợp và đi theo những trật tự của luật luân lý tự nhiên, phổ quát và phù hợp với bản tính con người, được ghi khắc trong tâm khảm mỗi người. Trật tự luân lý đó hướng dẫn con người phục tùng sự thiện tối hậu là chính Thiên Chúa và tôn trọng sự bình đẳng trong quyền lợi và phẩm giá của những đồng loại khác. Để được như thế, cần phải loại trừ mọi bất công cản trở việc cổ võ cho tự do và nhân phẩm, qua những thay đổi trong trật tự kinh tế, xã hội, luật pháp, chính trị và văn hoá. Các định chế phải thực hành với cách thức liên đới với những người bị cản trở cách bất công trong việc thể hiện sự tự do của họ, để đặt họ vào vai trò chính yếu trong những quyết định thuộc về lãnh vực riêng của họ.
Cho dù sự tự do của con người mang giá trị cao vượt, nhưng không phải là vô hạn. Vì yêu mến sư thiện tối cao và tha nhân, con người chấp nhận giới hạn tự do của mình theo luật luân lý tự nhiên của Thiên Chúa, qua đó họ được giải thoát khỏi sự giam hãm của sự dữ. Và trong sự tự do tìm kiếm sự thiện cho cá nhân và xã hội, luật luân lý tự nhiên mà họ tuân thủ cũng đòi buộc sự hoán cải cá nhân trước khi thực hiện những thay đổi xã hội. Đức Kitô trong khi đặt mình tuân thủ ý muốn của Thiên Chúa Cha đã giải phóng nhân loại khỏi xu hướng ích kỷ, chỉ hướng về mình và loại trừ hay hạ thấp mối liên hệ với Thiên Chúa và tha nhân, mang lại cho con người sự tự do đích thực theo ý muốn và chương trình của Đấng Tạo Thành.
5. Bình Đẳng
Một chiều kích nền tảng quan trọng khác mà GHXHCG nhấn mạnh đó là sự bình đẳng về phẩm giá của con người. Trước mặt Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng về phẩm giá, vì cùng được tạo dựng như nhau và giống hình ảnh Người. Không có sự phân biệt chủng tộc, văn hoá, phái tính, giai cấp xã hội trong nhân phẩm. Đây là một xác quyết do việc Tạo Dựng, nhưng xác quyết này còn mạnh mẽ hơn trong mầu nhiệm Nhập thể của Con Thiên Chúa, trong đó: “ Không còn là Hy Lạp hay Do Thái; tự do hay nô lệ; không còn là nam hay nữ, vì tất cả anh em đều là một trong Chúa Giêsu Kitô”[32]. Dĩ nhiên trong con người có sự khác biệt về giới tính, khả năng thể lý, trí thức hay tinh thần, “tuy nhiên, phải vượt lên trên và loại bỏ mọi hình thức kỳ thị về những quyền lợi căn bản của con người, hoặc trong phạm vi xã hội hoặc trong phạm vi văn hóa, kỳ thị vì phái tính, chủng tộc, màu da, địa vị xã hội, ngôn ngữ hay tôn giáo, vì như vậy là trái với ý định của Thiên Chúa”[33]. Phẩm giá của con người trước mặt Thiên Chúa là nền tảng của phẩm giá con người trước mặt người khác, đây là yếu tố nền tảng của sự bình đẳng tự căn bản, và của tình huynh đệ con người, không bị giới hạn bởi bất cứ sự khác biệt nào. GHXHCG cũng nhấn mạnh sự bình đẳng giữa nam và nữ, tuy khác biệt nhưng vốn bổ sung cho nhau, điều đó kêu gọi sự yêu thương và liên đới. Các người thiểu năng cũng cần được đối xử bình đẳng. Các định chế không thể nhân danh các lý do kinh tế hay xã hội mà tìm cách áp chế hay loại bỏ họ, nhưng tôn trọng và nâng đỡ họ với sự kính trọng tối đa nhân phẩm của họ nhưng việc bảo vệ và công nhận việc mọi người có nhân phẩm ngang nhau không thể là một nỗ lực cá nhân, nhưng cần sự hỗ trợ của cộng đồng xã hội và định chế. Chỉ hành động hổ tương giữa các cá nhân, giữa các quốc gia mới mong mang lại tình huynh đệ đại đồng và nhân phẩm con người được tôn trọng, bằng không tình trạng chênh lệch và bất bình đẳng khiến cho ngôi nhà thế giới, gia đình nhân loại càng nghèo đi.
6. Xã hội tính
“Tự bản tính thâm sâu của mình, con người là một hữu thể có xã hội tính”[34] Con người được kêu gọi tự bản tính để sống trong xã hội, “là tập thể những người sống liên kết với nhau cách hữu cơ theo một nguyên lý hợp nhất, vượt lên trên từng cá nhân. Là một cộng đồng vừa hữu hình, vừa thiêng liêng, xã hội tồn tại mãi: kế thừa quá khứ và chuẩn bị tương lai”[35], và do đó con người khác biệt với những tạo vật khác. Nhưng tội lỗi đã nhập vào thế gian. Xã hội tính của con người, vì tính ích kỷ và kiêu căng do tội, không tự động đưa đến sự hiệp thông giữa con người với nhau, nhưng tiếp tục với nguy cơ tách biệt nhau do mầm mống của chủ nghĩa cá nhân và lạm quyền. Điều này nói lên sự cần thiết của liên đới để xã hội họ đang sống là một môi trường thực sự phục vụ cho con người và công ích. Con người được liên kết với nhau không những trong một bản tính chung mà còn một định mệnh chung để xây dựng. Do vậy, trong tất cả các mối tương giao trong tất cả mọi cộng đồng xã hội, con người cần đồng tâm nhất trí theo đuổi một mục tiêu luân lý chung nhằm thăng tiến và phát huy nhân phẩm của mỗi người, trong sự liên đới và đồng trách nhiệm với nhau. Nhưng xã hội tính của con người không thể đơn điệu đồng dạng. Thực vậy, công ích, được xem như mục tiêu của đời sống xã hội, “có được là tuỳ ở chỗ sự đa nguyên về xã hội có lành mạnh hay không. Mọi thành phần khác nhau của xã hội đều được mời gọi xây dựng một tập thể thống nhất và hoà hợp, trong đó mỗi thành phần đều có thể duy trì và phát triển những đặc tính riêng và sự tự trị của mình. Một số thành phần – như gia đình, cộng đồng dân sự và cộng đồng tôn giáo – đáp ứng trực tiếp hơn bản tính sâu xa của con người, nhưng cũng có những thành phần khác xuất hiện dựa trên căn bản tự nguyện nhiều hơn”[36].
7. Nhân Quyền
Nền tảng của nhân quyền phát xuất từ phẩm giá của mỗi con người. Phẩm giá đó có khi có cuộc sống và bình đẳng cho mọi người; chúng ta có thể hiểu và nhận thức được nó bằng lý trí. Qua cái nhìn của Mặc Khải, phẩm giá con người sau khi được Thiên Chúa trao ban, đã bị thương tổn nặng nề do tội lỗi, nhưng được cứu độ và phục hồi do Chúa Kitô, nhờ việc nhập thể, chết và sống lại của Ngài.
Theo GHXHCG, những quyền lợi khác nhau của con người phản ánh một sự duy nhất về cơ cấu của con người. Trong đó , ”những quyền lợi khách quan về tinh thần” đóng vai trò quan trọng. Qua những giá trị thiêng liêng và mối tương giao với Thiên Chúa, ý nghĩa của sự hiện hữu cá nhân hay xã hội, cũng như những được định nghĩa. Đó là lý do quyền tự do tôn giáo được xem như nguồn và tổng hợp của những quyền lợi khác. Quyền đó được xem như là nguồn, vì con người trong hướng mở về Thiên Chúa và hiệp thông với ngài , đã thể hiện và tăng trưởng sự tự do, trách nhiệm, cũng như phẩm giá của mình, là chính nền tảng của các quyền con người. Mặc khác, nó tổng hợp các quyền khác của con người, vì con người coi đó là ý nghĩa trọn vẹn và cuối cùng của tất cả cuộc sống, và luôn hướng về nó.
GHXHCG cũng đưa ra những quyền khác được phân biệt dựa theo tầm quan trọng của nó cho sự sống và tăng trưởng của mỗi con người. Trước hết là quyền sống, từ khi được thụ thai cho đến cái chết tự nhiên, đây là quyền đầu tiên cần được tôn trọng . Liên quan đến quyền này là quyền được toàn vẹn về thể lý, quyền được có những phương tiện tối cần và đủ để có được cuộc sống tương xứng, quyền được bảo đảm an toàn, tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo…
Trong quan điểm của GHXHCG, việc giải thích đúng đắn và bảo vệ hữu hiệu các quyền lợi con người tùy thuộc vào một nhân học bao trùm toàn bộ các chiều kích kiến tạo nên nhân vị. Trong cái nhìn đó, việc xem các quyền con người chỉ là phương tiện để bảo vệ phạm vi tự trị của các cá nhân trước Nhà nước, là một khuynh hướng sai lạc. Tuy nhiên, tập hợp các quyền con người phải tương hợp với chính bản chất của nhân phẩm. Nó phải đưa đến việc thoả mãn những nhu cầu thiết yếu, việc thực thi sự tự do, và mối tương quan với người khác và với Thiên Chúa của con người.
KẾT LUẬN
Hiển nhiên là quan điểm về con người và xã hội được mạc khải Thánh Kinh đưa ra đã linh hứng cho giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Chúng ta có thể nói nhiều hơn nữa. Trong giáo huấn của Thánh Kinh, đức tin không đối nghịch hay xa lạ với lý trí. Chúng ta không cùng quan điểm với ý thức hệ duy lý không chấp nhận đức tin như là một nguồn của hiểu biết, kiến thức. Đức tin đưa ra những chất liệu để lý trí hoạt động trên đó. Nguyên tắc nền tảng của phẩm giá của nhân vị và sự liên đới tự nhiên của nhân loại là một thách thức cho lý trí, nhưng không có gì là vô lý. Chúng ta nói rằng trật tự tự nhiên của thế giới trở nên hoàn toàn có thể hiểu được chỉ qua sự linh hứng nhận được từ mạc khải của Thiên Chúa và trật tự của ân sủng. Chúng ta phải công nhận rằng Giáo Hội đã đưa ra một học thuyết xã hội theo luật tự nhiên. Chúng ta giải thích những nguyên tắc của chúng trong những phạm trù phải nhờ đến quan điểm của Thánh Kinh về con người và xã hội. Lối giải thích của chúng ta xung đột hay mâu thuẫn với những lối giải thích khác từ những nến triết học hay nhân học khác. Lối hiểu đạo đức xã hội của người công giáo không được lối hiểu hậu-tân-thời thừa nhận như được biểu lộ qua các khuynh hướng triết học, công luận và hệ thống luật pháp quốc gia hay quốc tế. Thoạt nhìn đó là vấn đề chú giải. Cả hai phía đều dùng những từ ngữ như nhau nhưng giải thích ý nghĩa khác nhau. Chúng ta cũng dễ dàng nhận tra những nguyên tắc nhân học tạo ra sự khác biệt. Khi chúng ta nói nhân vị, họ thường quy về cá nhân. Chúng ta nói con người tự bản tính mang tính xã hội; họ cho là các cá nhân hoàn toàn tự lập và tự quyết. Chúng ta nói có luật tự nhiên, là quy luật luân lý đâm rễ sâu trong bản tính nhân loại của con người. Họ nói luật lệ là những gì được thảo luận và được xác lập do bỏ phiếu. Họ nói không có phạm vi siêu việt cho những luật lệ ứng xử. Chúng ta coi đạo đức xã hội đặt nền trên những giá trị đòi buộc mọi người. Họ cho là mọi sự đều có thể thương thảo. Vì thế vấn đề giải thích là vấn đề trọng tâm của đạo đức xã hội. Giáo huấn xã hội của Giáo hội cố gắng làm cho rõ rằng việc giải thích không thể tùy tiện, theo ý muốn của những người có quyền hơn, nhưng phải đưa chính nhân tính của con người làm đối tượng nghiên cứu[37].
Như chúng ta đã đề cập đến, nền tảng của mọi hoàn cảnh xã hội là chính nhân vị . Xã hội được tạo lập cho con người chứ không phải ngược lại. Nguyên tắc này là chìa khoá cho cả cấu trúc. Có con người là trung tâm điểm, xã hội có một phạm vi để phục vụ: là những gì chúng ta gọi là công ích. Các cấu trúc quyện vào nhau của xã hội ở mức độ gia đình, thành phố, cộng đồng lao động, nhà nước, cộng đồng các quốc gia là nhằm mang lại công ích. Để đạt tới công ích cần phải thực hiện một số điều kiện căn bản: tự do, sự thật, công lý, và liên đới. Ở đâu những giá trị này được tôn trọng, ở đó xã hội phục vụ cho việc nhân bản hoá, đó là mục tiêu cao nhất.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 75 (Tháng 3 & 4 năm 2013)
[1] Xem Công Đồng Vatican 2, Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes), số 22.
[2] Hội Đồng Giáo Hoàng về Công Lý và Hoà Bình, Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Công Giáo (TLHTXHCG), 2004, số 106.
[3] Gaudium et Spes, số 63.
[4] Gioan XXIII, Tông thư “Hoà Bình trên Trái Đất” (Pacem in terris), số 9.
[5] Pio XII, Thông điệp Giáng Sinh trên đài truyền thanh 24 .12. 1944, 5, trong AAS 37 (1945) 12.
[6] Xin xem Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG), số 355-379; Gaudium et Spes, 12-18; tài liệu “Hiệp Thông và Phục Vụ, Con người được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa” (Communion and Stewardship: Human Persons Created in the Image of God), của Ủy Ban (Giáo Hoàng) Thần Học Quốc tế (2004).
[7] Sáng thế 1,27.
[8] Xem Sáng thế 2,7.
[9] Sách GLHTCG, số 357.
[10] Gaudium et Spes, số 12.
[11] Sáng thế 1,28.
[12] Xem Sáng thế 1,4.10.12.18.21.25
[13] Gioan Phaolô II, Thông điệp “Tin Mừng của Sự Sống” (Evangelium Vitae), 1995, số 43-44.
[14] GLGHCG, số 1850.
[15] GLGHCG, số 404
[16] TLHTXHCG, số 116.
[17] TLHTXHCG, số 263.
[18] Xem 2Cor 4,4; Col 1,15-16.
[19] Ủy Ban (Giáo Hoàng) Thần Học Quốc tế, “Hiệp Thông và Phục Vụ, Con người được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa” (Communion and Stewardship: Human Persons Created in the Image of God), 2004, số 52
[20] Gaudium et Spes, số 22.
[21] Col 1, 16; Ga 1,3-4,9.
[22] Gaudium et Spes, số 22.
[23] Ủy ban Thần Học Quốc Tế, Hiệp Thông và Phục Vụ, số 55.
[24] Pio XII, Summi Pontificatus, 463.
[25] Công đồng Lateranô IV, C.1, De fide catholica, DS 800, p. 259.
[26] Gioan Phaolô II, Tông thư Veritatis Splendor ( Chân lý Rạng ngời), số 48.
[27] GLGHCG, số 44.
[28] Xem TLHTXHCG, số 130.
[29] TLHTXHCG, số 131
[30] Gaudium et Spes, số 26
[31] Nt., số 17
[32] Gal 3,28.
[33] Gaudium et Spes, số 29.
[34] Nt., số 12
[35] GLGHCG, số 1880
[36] TLHTXHCG, số 151.
[37] Theo Roland Minnerath, Fundamental Principles of Social doctrine, the Issue of their interpretation, bài tham luận tại Hàn lâm viện Toà Thánh về Khoa Học Xã Hội, 2008, tại https://www.ordosocialis.de/pdf/minnerath/FundPrincofSocDoc08.pdf
2021
Giáo dục con cái hướng đến trưởng thành tâm linh
Không có ý định diễn tả hết mọi khía cạnh của đời sống trưởng thành tâm linh, vì sự trưởng thành tâm linh không thể bị giới hạn vào một số trang giấy, bài viết này chỉ trình bày một số điểm liên quan đến sự trưởng thành tâm linh của người Kitô hữu qua các đề mục sau: Trưởng thành tâm linh là gì? Đặc điểm sự trưởng thành tâm linh? Những dấu hiệu nào cho chúng ta nhận ra sự trưởng thành tâm linh?
I. TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH LÀ GÌ?
Với câu hỏi: Sự trưởng thành tâm linh là gì? Làm thế nào để trưởng thành hơn về mặt tâm linh? Có thể đưa ra một số câu trả lời:
– Từ ngữ “trưởng thành” liên quan đến sự chín chắn và sự chín muồi. Trưởng thành là trạng thái của những gì đã chín muồi. Sự trưởng thành tâm linh là trạng thái phát triển hoàn chỉnh các yếu tố tinh thần và trí tuệ, những yếu tố lập thành con người nội tâm, nghĩa là con người tinh thần mà chúng ta phải có. Với trạng thái này, con người trưởng thành có khả năng phân biệt điều gì là tốt, điều gì là xấu, điều gì thiện, điều gì là ác và đặc biệt là điều làm đẹp lòng Chúa.
– Dựa trên bối cảnh của câu Kinh thánh : “Vì thế, gác một bên giáo huấn sơ đẳng về Đức Kitô, chúng ta hãy vươn tới trình độ giáo huấn trưởng thành …” (Dt 6, 1), sự trưởng thành này là trạng thái của một con người chín chắn, “…những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ” (Dt 5, 14). Thánh Phaolô còn lưu ý “người trưởng thành” này là một ‘“người sống theo Thần Khí”: “Nhưng con người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự, mà chẳng có ai xét đoán được người đó” (1 Cr 2, 15). Từ ngữ “trưởng thành” trong văn bản Kinh thánh này diễn tả trạng thái hoàn thiện về mặt tinh thần hoặc đạo đức.
– Trưởng thành tâm linh là một quá trình được khởi đầu khi một cá nhân nhìn nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc. Người đó được sinh lại bởi Chúa Thánh Thần sau khi chọn cuộc sống “trong Chúa Kitô” (Pl 3, 12-14). Với tư cách là người Kitô hữu, một khi được Rửa Tội, chúng ta bắt đầu một quá trình trưởng thành về mặt thiêng liêng, làm thế nào để ngày càng trở nên giống Chúa Giêsu Kitô. Chính vì vậy, để trở thành một Kitô hữu trưởng thành và để phát triển đời sống của bạn, bạn nên chọn cách lắng nghe Lời Chúa, bước theo Chúa để đổi mới suy nghĩ, và sau đó vâng nghe những gì mà bạn đã học được (Rm 12, 1-2), dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần (Gl 5, 22-23). Sự trưởng thành của người Kitô hữu đòi hỏi phải xác định lại cách triệt để các ưu tiên của người trưởng thành: chúng ta không còn tìm cách làm hài lòng bản thân nữa, nhưng làm hài lòng Thiên Chúa và học cách vâng lời Ngài. Chìa khóa của sự trưởng thành này là sự gắn bó chặt chẽ và kiên trì làm những gì mà chúng ta biết sẽ đưa chúng ta đến gần Chúa hơn. Những thực hành này được gọi là các kỷ luật tâm linh, bao gồm đọc và nghiên cứu Kinh Thánh, cầu nguyện, hiệp thông và phục vụ anh em.
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ DẤU HIỆU TRƯỞNG THÀNH TÂM LINH
Người trưởng thành tâm linh có những đặc điểm và những dấu hiệu nào để được nhận ra?
A – Đặc điểm trưởng thành của con người
– Để mô tả nhân cách trưởng thành, cách chung, chúng ta thường đề cập đến một đặc điểm là sự vượt qua tình trạng “trẻ con” để đạt được tình trạng “người lớn”: Một cá nhân nào đó đã vượt qua, từng nấc thang, từ tình trạng vô tổ chức của những năm đầu đời của cuộc sống nói chung: thể lý, tâm lý, tâm linh, đến sự sáng tạo của tuổi trưởng thành, trong đó người trưởng thành và đặc biệt là với tư cách một người Kitô hữu có thể đối mặt với nhiều vấn đề hiện có và đảm nhận các trách nhiệm một cách hợp lý.
– Sự trưởng thành tâm linh có đặc điểm là sự hài hòa nội tâm giữa tất cả các yếu tố trong nhân cách của một cá nhân. Vượt qua cách cân đối hài hòa “cái tôi” của mỗi người để thích nghi với xã hội mang tính xây dựng và hạnh phúc. Hài hòa bên ngoài là sự thích nghi đối với người khác, ý thức trách nhiệm và khả năng tự kiểm soát, nhưng không để mất chính mình. Đây là những điều kiện rất tích cực cho mọi nền giáo dục: cá nhân, trong gia đình, trong Giáo Hội và ngoài xã hội.
Cho nên, đặc tính của người trưởng thành nhân bản và tâm linh: Khả năng chuyên môn, khả năng thích ứng, hợp tác hài hòa và khả năng đối diện với các vấn đề của cuộc sống, giải quyết các vấn đề này cách có kiểm soát, trách nhiệm, với năng lực của chính mình và nhờ ơn Chúa.
Từ các đặc điểm này chúng ta bước đến những dấu hiệu trưởng thành tâm linh.
B – Những dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh
Dù muốn hay không, tất cả chúng ta đều trưởng thành về mặt thể lý. Tuy nhiên, trưởng thành tâm linh thì không được bảo đảm ngay tức khắc, bởi vì trưởng thành tâm linh không xảy ra một sớm một chiều. Nó đòi hỏi mục đích, thời gian, và nỗ lực để nhận ra những ích lợi của nó. Dựa vào các bản văn Kitô giáo, chúng ta sẽ thấy một phần nào về dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh.
Thánh Phaolô nói về ba nhân đức: Tin, Cậy, Mến, như những lực lượng năng động đóng vai trò quyết định trong sự trưởng thành của đời sống tâm linh (1 Tx 1, 3, 5, 6…). Ngài đối lập thái độ của người Kitô hữu “trẻ con” với một thái độ của người Kitô hữu “trưởng thành”. Ngài thường sử dụng các từ đối lập “trẻ con-người lớn” hoặc “không hoàn hảo-hoàn hảo” (1 Cr 2, 6; 13, 10 sq. 14, 20; Pl 3,15; Col 1, 28). Theo Thánh Phaolô, “trẻ con” là khởi đầu của đời sống Kitô hữu. Trẻ con có những bước đầu tiên của nó còn chưa chắc chắn và những lời nói ấp úng của trẻ con không rõ ràng. “Người trưởng thành”, hay “hoàn hảo”, là người Kitô hữu mà trong người đó những mầm mống của cuộc sống mới nhận được lúc Rửa tội đã phát triển và đạt đến sự viên mãn. Ngừng cách hành xử như một đứa trẻ để đảm nhận hành vi của một người lớn, nghĩa là, đảm nhận trách nhiệm mới về đức tin và ân sủng tạo thành một bước quyết định trong sự trưởng thành của nhân cách Kitô giáo. “Bao lâu người thừa kế còn là thiếu niên thì không khác gì một nô lệ, mặc dù là chủ mọi tài sản. Nó phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định…” (Gl 4, 1-2..; 1 Cr 13, 11)
Việc vượt qua chủ nghĩa trẻ con (tính trẻ con) chỉ là khía cạnh tiêu cực của quá trình trưởng thành tâm linh. Bởi vì sự trưởng thành không chỉ là sự từ bỏ những điều không hoàn hảo, sự trưởng thành còn là một sự phát triển tích cực hướng tới sức sống trọn vẹn nhất, thể hiện đầy đủ ân sủng. Những dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh như thế rất đa dạng.
1. Đối với bản thân
Có những giai đoạn khác nhau trong đời sống Kitô hữu mà qua đó người Kitô hữu vượt qua, hoặc phải vượt qua, để đạt đến sự trưởng thành. Đây là lý do tại sao mà chúng ta có thể nói rằng người Kitô hữu lúc đầu là một “đứa trẻ” trong đức tin khi vào gia đình của Chúa. Vào những lúc đó, Kitô hữu cần “sữa” thiêng liêng như những đứa trẻ nhỏ để lớn lên, để trưởng thành (Dt 5, 13 ; Ga 16, 12).
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, bản thân người Kitô hữu trưởng thành có những dấu hiệu nào ?
a- Tính tiết độ
Tính tiết độ là tính chất và thái độ cư xử của một người tránh xa những cực đoan : không thái quá cũng không bất cập. Áp dụng cho tính tiết độ, có câu ngạn ngữ “In medio stat virtus’” mà Aristotle, trong tinh thần này, đã đề cập trong quyển Nicomachean Ethics Book II, Chapter VI.Không dừng lại trong chế độ ăn uống điều độ, tính tiết độ là hoa trái của Thánh Linh : “Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế” (Gl 5, 23). Đó cũng là một dấu hiệu của tình yêu, bởi vì người có tình yêu chân chính không nổi giận và chịu đựng mọi thứ (1 Cr 13, 5-7). Tính tiết độ là dấu hiệu cao quý nhất của người Kitô hữu. Ngày nay chúng ta hầu như ít thấy dấu hiệu này ở nơi con người, bởi đặc điểm của con người thời nay gần đúng như lời Thánh Phaolô trong thư thứ hai gửi cho Timôthêô : “…Người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa” (2 Tm 3, 2-4). Chỉ có Kitô hữu trưởng thành mới có dấu hiệu của sự tiết độ.
Người trẻ trong đức tin sẽ phải rèn luyện sự tiết độ để từ bỏ những gì mình từng làm trước đó ! Thật dễ dàng để bị kích động hoặc tức giận khi chúng ta bị khiêu khích, hoặc khi mọi người nói xấu chúng ta, hoặc khi người khác nhìn chúng ta một cách khó chịu hoặc khi mọi người nói chúng ta một cách ác ý. Thật dễ dàng để rơi vào một rối loạn tình cảm hoặc dinh dưỡng ! Mặc dù sống trong một xã hội tiêu cực như thế, nhưng Lời Chúa thúc giục chúng ta rèn luyện tính tiết độ để giành chiến thắng trước những khuynh hướng tội lỗi và xác thịt của chúng ta (1 Cr 9, 24-27). Chúa Kitô, là mẫu mực của chúng ta trong mọi thứ, dĩ nhiên Ngài có dấu hiệu của sự ôn hòa (1 Pr 2, 22-23 ; Mt 4, 1- 11). Một Kitô hữu trưởng thành có thể giữ được sự thanh thản giữa cơn bão, người đó làm chủ chính mình và sử dụng sự ôn hòa trong mọi việc, người đó có giá trị hơn đá quý và người đó chứng tỏ mối quan hệ chặt chẽ với Thiên Chúa. Sống đạo không vì tình cảm, vui buồn, không vì sự thành công hay thất bại trong đường đời, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, người Kitô hữu trưởng thành tâm linh cũng thờ phượng Chúa và yêu mến tha nhân cách điều hòa.
b- Kiểm soát tư tưởng
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát được tư tưởng. Chúng ta phải cầu xin Chúa kiểm tra ý tưởng của chúng ta. “ Lạy CHÚA, xin dò xét và thử thách con, tâm can này, xin đem thử lửa” (Tv 26, 2). Những hành động của lòng tốt là kết quả của những suy nghĩ tốt, “Vì lòng có đầy, miệng mới nói ra” (Mt 12, 34).
Tinh thần có thể buồn và suy đồi ở cấp độ tâm linh (2 Cr 3, 14). Tinh thần như thế có thể chuẩn bị mảnh đất cho việc rơi vào tội lỗi. “Kiêu căng đưa đến sụp đổ, ngạo mạn dẫn đến té nhào” (Cn 16, 18). Nhưng, người Kitô hữu trưởng thành tâm linh có dấu hiệu này: Anh ta kiểm soát tư tưởng của mình. Anh ta sống theo tinh thần“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù” (1 Cr 13, 4-5). Nên nhớ, ma quỷ luôn tìm cách chuyển hướng ý tưởng chúng ta đến những điều xấu xa và nhục cảm, nhưng hãy cầu nguyện luôn để chúng ta dẫn ý tưởng xấu trở lại con đường đúng đắn và sửa chữa nó hướng về những thứ mà Chúa mong muốn. Khi Chúa thấy những nỗ lực chân thành của chúng ta để giữ những suy nghĩ cho trong sạch, thì Ngài sẽ thanh tẩy những suy nghĩ và sẽ giải thoát chúng khỏi mọi tội lỗi kín đáo, và Ngài ban ơn cho chúng ta để “Chúng ta đánh đổ các kiểu lý luận và mọi thái độ kiêu căng chống lại sự hiểu biết Thiên Chúa. Chúng ta bắt mọi tư tưởng phải đầu hàng để đi tới chỗ vâng phục Đức Kitô” (2 Cr 10, 5).
Vâng, Thiên Chúa qua Thánh Thần của Người, là Đấng có thể làm mới ý tưởng của chúng ta, và đưa chúng ta đến sự trưởng thành về tâm linh (Dt 8, 10). Chúng ta có dấu hiệu này không?
c- Kiểm soát lời nói
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát được lời nói của mình. Đây là một dấu hiệu khác của sự trưởng thành Kitô giáo đích thực. Ông Gióp hiểu câu hỏi quan trọng này: “Phải chăng tôi nói lời gian dối khi mở miệng?” Gióp 6, 30 là câu hỏi mà tất cả chúng ta nên tự hỏi mình là Kitô hữu vì “Sống hay chết đều do cái lưỡi, ai yêu chuộng nó, sẽ lãnh nhận hậu quả” (Cn 18, 21). Trong y học tự nhiên có chẩn đoán bằng lưỡi. Qua màu sắc và hình dạng của lưỡi, bác sĩ có thể biết một người đang như thế nào, đi về hướng nào. Thuốc trị dị ứng cũng sử dụng chẩn đoán này. Do đó, bác sĩ có thể có một hướng dẫn để biết tình trạng sức khỏe của từng cá nhân.
Theo cách tương tự, trong “bệnh viện” là Thánh đường, người ta có thể biết anh chị em đang làm thế nào, có thái độ nào thông qua lưỡi của mình. Đó là một dấu hiệu đặc biệt, không ai có thể nghi ngờ nó. Khi người nào không thể kiểm soát lời nói của mình, việc giữ đạo của người đó chỉ là giả hiệu, như thánh Giacôbê nói: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi, là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão” (Gc 1, 26).
Có bao nhiêu vấn đề mà chúng ta rơi vào hoặc có thể rơi vào, vì không thể kiểm soát lưỡi của chúng ta, bởi vì, với cái lưỡi, chúng ta thường hay phê bình, phán đoán, dèm pha không đúng lúc, không đúng đối tượng. Nhưng nên nhớ rằng: “Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận?” (Ga 4, 12). Có bao nhiêu vấn đề đã được gây ra hoặc có thể gây đau buồn trong giáo xứ, trong gia đình, trong khu phố của chúng ta, tại nơi làm việc, trên đường phố, vì những gì mà chúng ta nói hoặc cách mà chúng ta nói. Thánh Giacôbê nhận định: “Cái lưỡi cũng vậy: nó là một bộ phận nhỏ bé của thân thể, mà lại huênh hoang làm được những chuyện to lớn… Cái lưỡi cũng là một ngọn lửa, là cả một thế giới của sự ác. Cái lưỡi có một vị trí giữa các bộ phận của thân thể chúng ta, nó làm cho toàn thân bị ô nhiễm, đốt cháy bánh xe cuộc đời, vì chính nó bị lửa hỏa ngục đốt cháy” (Gc 3, 4-6). Mặt khác, nếu chúng ta kiểm soát được lời nói của mình, chúng ta sẽ ít bị cám dỗ làm điều xấu hơn, bởi vì người khác không thể đọc được suy nghĩ của chúng ta, nhưng có thể thấy những việc mà chúng ta làm và nghe những lời mà chúng ta nói ra mà khuyên nhủ chúng ta.
Mặc dù chúng ta phải rõ ràng với người khác, điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể nói bất cứ điều gì hoặc bằng bất kỳ cách nào. Hãy cẩn thận, hãy giải thích chân lý nhưng hãy làm điều đó bằng sự khiêm tốn, bằng sự đơn giản và tình yêu. Điều ngược lại có thể làm tổn thương cách vô ích và Thiên Chúa không thể chấp nhận (Cn 10, 31-32). Chúng ta hãy nói để xây dựng: “Anh em đừng bao giờ thốt ra những lời độc địa, nhưng nếu cần, hãy nói những lời tốt đẹp, để xây dựng và làm ích cho người nghe” (Ep 4, 29). Chúa Giêsu là mẫu gương kiểm soát lưỡi của mình. Ngài đã có dấu hiệu trưởng thành này. Những người đã ở với Ngài xác nhận điều này: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân” (Lc 24, 19; Ga 7, 46). Chúng ta có dấu hiệu này chưa? Chúng ta kiểm soát lời nói của chúng ta hay là nó kiểm soát chúng ta?
d- Kiểm soát việc làm
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát được việc làm của mình. Việc làm của mình có thể được phân chia ra trong hai lãnh vực: Tình cảm và Lý trí.
e- Kiểm soát tình cảm
Khi đã đủ no “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát được tình cảm. Nơi một người “trưởng thành”, các sức mạnh tình cảm phải tạo thành một tổng thể và được hội nhập với lý trí, để lý trí có thể sử dụng các sức mạnh này một cách thực sự hợp lý. Sự hợp nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, không vướng trở ngại, cho phép con người đạt đến mức trưởng thành tâm linh cao nhất và gặt hái những lợi ích tốt nhất. Như thế, lý trí được hưởng lợi từ nghị lực và niềm vui đến từ tình cảm. Đồng thời, một khi lý trí kiểm soát được tình cảm, thì chủ thể tận hưởng một sự thống nhất hài hòa nội tâm và chủ thể ở trong điều kiện tốt nhất để sống sự trưởng thành tâm linh của mình. Không nên để tình cảm làm chủ con người của mình, bởi vì, lúc đó, con người sẽ bị điều khiển bởi những đam mê của mình hoặc sẽ bị chia rẽ nội tâm.
Trong phạm vi Kitô giáo, theo sự quan sát của các tác giả có uy tín, thì dựa trên một quan niệm được truyền cảm hứng từ tư tưởng Kitô giáo, thậm chí người ta có thể nói rằng sự trưởng thành về tình cảm trùng khớp với sự trưởng thành về đạo đức, hay đúng hơn là với sự trưởng thành nhân bản.
Nhân cách trưởng thành phải đạt đến sự trưởng thành trên mọi mặt, đặc biệt là về tình cảm. Và chính vì cảm tính được coi là một chiều kích cơ bản của con người mà chúng ta có thể đánh giá có sự trưởng thành hay không. Tình cảm là điều kiện thiết yếu cho sự vận hành hoàn hảo của nhân cách: con người là có tình cảm. Người trưởng thành tâm linh kiểm soát được tình cảm, để đưa tình cảm về phạm vi đạo đức. Được nâng đỡ bởi Ơn Chúa và lý trí, người trưởng thành tâm linh phán đoán về mình và về người khác cách không thiên vị, không quá bị ảnh hưởng bởi tình cảm, phán đoán một cách khách quan.
f- Kiểm soát lý trí
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, người Kitô hữu trưởng thành kiểm soát lý trí. Trong việc này, người trưởng thành trước hết là biết phân định việc đúng và sai trong cuộc sống nói chung.
– Phân định là nghệ thuật dạy sự phân biệt cần thiết cho kiến thức hoặc hành động để nhận định điều nào tốt điều nào xấu, việc làm này thuộc về ai, và thực hiện lúc nào… Trong đời sống đạo đức phức tạp, rất khó để áp dụng các chuẩn mực đạo đức đúng đắn và ngay lập tức, cho nên phân định làm cho việc áp dụng đó có thể xác định được để tránh khỏi xung đột về bổn phận và trách nhiệm. Phân định phải tính đến hoàn cảnh và lịch sử cá nhân của mỗi người để đưa ra quyết định “điều chỉnh” cho hợp với tình yêu và lời kêu gọi cá nhân mà Thiên Chúa gửi đến từng người chúng ta. Về đề mục “Phân định”, chúng ta liên tưởng đến Tông Huấn Niềm Vui của Tình Yêu (Amoris Laetitia) của Đức Thánh Cha Phanxicô năm 2016, trong đó có mục bàn về việc “Phân định”. Chúng ta chỉ nói vắn tắt ở đây, vì việc này liên quan đến đời sống Hôn nhân nhiều hơn.
Phân định mục vụ khi đối diện với những hoàn cảnh không đáp ứng đầy đủ những gì Chúa đề nghị (NVTY 6). Phân định những khó khăn trong các Bí tích Rửa tội, Hôn phối, Thánh Thể, để một người có thể tham gia vào đời sống cộng đoàn… “cần phân định xem có thể vượt qua những hình thức loại trừ nào đang được thi hành trong lãnh vực phụng vụ, mục vụ, giáo dục và cơ chế” (NVTY 299).
Phân định này chỉ ra nhiệm vụ của các mục tử, đặc biệt là Giám mục và Linh mục, đối với những người hoặc những tình huống riêng biệt. Phân định này nhằm mục đích đo lường tính đặc thù của sự khác biệt chủ quan và khách quan, bằng cách liên kết chúng với giáo huấn của Giáo Hội (xem NVTY 300). Phân định này chỉ cho các tín hữu con đường của sự trung thành và tăng trưởng của đời sống Kitô hữu trong các tình huống nghi vấn. Trong sự phân định này, lời khuyên dành cho các vị mục tử là không nên khắt khe: “Các Mục tử trong khi nêu cho các tín hữu lí tưởng trọn vẹn của Tin mừng và giáo huấn của Hội thánh, cũng phải giúp họ biết cảm thương những con người yếu đuối và tránh ngược đãi hoặc xét đoán quá khắc nghiệt và thiếu kiên nhẫn” (NVTY 308)
– Trong việc phân định, dấu chỉ của người trưởng thành tâm linh là nhận ra sự biến đổi và canh tân của tâm trí và trái tim trong trung tâm sâu thẳm của nó (Rm 12, 2), những thứ đó có thể làm cho người trưởng thành tâm linh “phân biệt điều lành điều dữ”, “Thức ăn đặc thì dành cho những người đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ” (Dt 5, 14; 1 Cr 14, 20). Chúng ta thậm chí còn đạt được một phân định về “dâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”(Rm 12, 2). “Ý Thiên Chúa”, “sự hoàn hảo” này, không còn có thể được xác định bằng một quy tắc của luật tự nhiên được đưa ra một lần cho mãi mãi nữa. “Sự hoàn hảo” của người Kitô hữu có nét đặc trưng là sự ngoan ngoãn và phục tùng ý muốn Thiên Chúa. Cần phải tìm kiếm, phân định bởi vì chúng ta không thể biết trước các yêu cầu của Thiên ý.
Trong việc kiểm soát lý trí, lý trí phân định phẩm cấp những phán đoán của mình: việc tất yếu và việc bất tất, việc chính và việc phụ; từ đó đưa ra tiêu chuẩn định vị tính siêu việt trong phạm vi lý trí (xem Dictionnaire de la Vie Spirituelle. Cerf, 1987, pp. 662-671).
1) Tính ưu việt của tổng số trên một thành phần. Đây là một nguyên tắc căn bản của lý trí nói về sự hiển nhiên tự nó mà mọi người công nhận: hai cộng hai bằng bốn; toàn thể lớn hơn thành phần. Dĩ nhiên tất cả các phần của cơ thể đều quan trọng, nhưng mọi thành phần cơ thể đều hướng về thân thể: thành phần hướng về toàn thể. “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1 Cr 12, 26). Có thể nói, tất cả các hoạt động khác nhau phải phụ thuộc vào mục đích của toàn thể.
2) Tính ưu việt của khách quan so với chủ quan. Đây cũng là một quy luật xử sự chung của mọi người. Chủ quan chưa chắc đã tốt, bởi vì đôi khi những phán đoán “chủ quan” thì thiếu tính trung thực, dựa vào tình cảm, dựa vào thế giá, mà không dựa vào công ý (sensus communis). Cho nên, phải vượt qua “cái tôi” ích kỷ của mình để cân bằng tình cảm, để hướng về các lãnh vực của các giá trị khách quan trọng yếu. Tận hiến chính mình cho sự thật và điều thiện, bằng cách từ bỏ những sự thỏa mãn vô ích của sự ích kỷ, thì phong phú hóa sự thật và điều thiện nhiều hơn.
3) Tính ưu việt của sự tiến triển có tính sáng tạo. Quy luật của mọi sinh vật và đặc biệt nơi con người là khuynh hướng phát triển và làm tăng giá trị cá nhân. Con người về cơ bản được định hướng về hướng siêu việt. Nên con người cần phải có đầu óc sáng tạo để đi lên hướng về siêu việt thể.
Kết hợp ba quy luật này lại, thì công việc đào tạo thành người trưởng thành sẽ thành công hơn về nhân cách và tâm lý, cao hơn nữa là cộng tác cho sự thành công về trưởng thành tâm linh.
2. Đối với tha nhân
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, đối với tha nhân, người Kitô hữu trưởng thành có những dấu hiệu theo sau đây:
a- Hội nhập để hiệp thông trọn vẹn vào đời sống Giáo Hội là mục đích của Giáo Hội. Không loại trừ nhưng luôn luôn tìm nhiều phương cách khác nhau để kéo mọi người đến với Chúa và với Giáo Hội của Ngài.
Trong phạm vi hẹp hơn của từng cá nhân, khái niệm “hội nhập” về cơ bản có nghĩa là sự thống nhất, sự hài hòa các chức năng của con người. Sự hài hòa giữa những mong muốn, khuynh hướng, ý tưởng, tham vọng và những quyết tâm, giữa tâm tính và hành vi. Sự hội nhập xuất hiện như một sự thống nhất trong phạm vi ý tưởng và hành động.
Dĩ nhiên, trong một nhân cách hội nhập tốt cũng có khả năng xảy ra những xung đột nội bộ. Giải pháp cho những xung đột vẫn là sự cố gắng thống nhất và hài hòa giữa các khuynh hướng xung đột này. Từ sự hội nhập các thành phần, các khuynh hướng tâm lý của con người, con người mới bước thêm một bước nữa là hội nhập với người khác. Việc hội nhập tốt sẽ có kết quả là các thành phần khác nhau của xã hội, của Giáo Hội được tổ chức thành một tổng thể hoạt động như một đơn vị.
Đến đây, hội nhập cá nhân, hội nhập xã hội, hội nhập Giáo Hội dẫn sự “hội nhập” người trưởng thành vào Chúa Kitô: toàn bộ cuộc sống của Kitô hữu được tích hợp vào những đức tính của Chúa Kitô (1 Tx 5, 23). Đời sống vì Chúa, được phát triển trong các tiềm năng của người Kitô hữu, mang đến một sự thống nhất những suy nghĩ,
tình cảm, ham muốn và hành động. Người Kitô hữu trưởng thành đã tự thanh luyện mình khỏi những khuynh hướng cảm xúc xấu. Và ở trong bất cứ cảnh hội nhập nào, người Kitô trưởng thành kiên định trong đức tin (Rm 11, 20), tránh xa cái ác và quay về với Chúa. Một khi “đã được hội nhập” vào Chúa Kitô, thì “Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20).
b- Luôn tha thứ cho nhau
“Bấy giờ, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? “ Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.”” (Mt 18, 21-22). Phải luôn luôn tha thứ.
Luôn luôn tha thứ cho nhau cũng là dấu hiệu của người trưởng thành tâm linh. Được như vậy, người trưởng thành tâm linh xóa bỏ đi các chất độc của sự thù hận để tha thứ cho những ai làm tổn thương họ. Người trưởng thành tâm linh giải thoát bản thân và tha nhân khỏi những xiềng xích của việc không tha thứ.
c- Quan tâm đến người nghèo, người thiệt thòi, và người bị áp bức
“Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 17-19). Hầu như tất cả các truyền thống tôn giáo đều thúc đẩy chăm sóc cho những nhu cầu của những người kém may mắn. Khi chúng ta có cuộc sống hạnh phúc và bình an, hoặc khi chúng ta có cơ hội thành công hơn người khác, thì chớ quên người anh em bên cạnh đang trong cảnh lầm than cơ cực… trong cảnh của những người yếu thế. Người trưởng thành tâm linh luôn ý thức về những nhu cầu của người nghèo và sống theo tinh thần mà Chúa dạy qua đoạn Phúc âm thánh Luca kể trên. Người trưởng thành tâm linh hiểu rằng vì một xã hội lành mạnh, thì phải chăm sóc cho người yếu thế nhất ở giữa họ. Người trưởng thành tâm linh vừa tham gia xây dựng Giáo Hội của Chúa vừa tham gia vào cuộc đối thoại mang tính xây dựng với người khác, kém may mắn hơn mình.
Đến đây chúng ta bước qua một dấu hiệu cao hơn trong sự trưởng thành tâm linh. Trong sự trưởng thành này “mọi người” dấn thân một cách tận tâm và hoàn toàn cho Chúa, cho Giáo Hội của Ngài và cho sự cứu rỗi thế gian. Thật vậy, một đời sống vì Chúa, vì Giáo Hội của Ngài cách hoàn toàn chắc chắn đưa người trưởng thành ra khỏi một nhãn quan ích kỷ, tâm thức quy ngã. Đời sống như thế làm cho người trưởng thành ý thức rằng mình sống vì Chúa và vì mọi người nhiều hơn. Người trưởng thành tâm linh luôn có trong tâm thức của mình: toàn thể con người được hướng về cùng đích duy nhất là Thiên Chúa, chân lý tối cao và sự thiện tối cao: “Chúa của con, Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28).
3. Đối với Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài
Khi đã no đủ “sữa thiêng liêng”, đối với Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài, người Kitô hữu trưởng thành có những dấu hiệu theo sau đây.
Trước hết, người trưởng thành tâm linh tự mình không thể nào đạt được sự trưởng thành, thể hiện qua những dấu hiệu trên, nếu không có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng ngự trong chúng ta. Chúng ta bước đi tiến tới sự trưởng thành theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nghĩa là sống ngoan ngoãn, sống “…theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa” (Gl 5, 16). Theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, người trưởng thành tâm linh phân biệt điều gì đẹp lòng Chúa nhất, khuyến khích họ “ am tường thánh ý Người, với tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết mà Thần Khí ban cho” (Cl 1, 9).
Chúa Thánh Thần hướng dẫn người trưởng thành tâm linh để đạt được dấu hiệu đối với Thiên Chúa và Giáo Hội của Ngài cách xứng hợp.
a- Đối với Thiên Chúa
Người trưởng thành tâm linh bày tỏ “niềm xác tín kiên quyết” (Rm 14, 5) hoặc “niềm xác tín sâu xa” (1 Tx 1, 5). Việc làm này tạo ra một loại bằng chứng về sự Hiện hữu của Thiên Chúa và sự Quan phòng của Người (Rm 4, 21). Do đó, người trưởng thành tâm linh đào sâu thêm, chặt chẽ hơn những mối tương quan của mình với Thiên Chúa và dần dần nhận thức được kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện nơi loài người.
Người trưởng thành tâm linh rất “ổn định” trong mối tương quan này. Người trưởng thành tâm linh dấn thân vì Chúa dưới tư cách là một “người lớn, chín chắn” và rất tự do, không giống như lời hứa của “đứa trẻ”, thường hay thay đổi và hối tiếc. Chỉ có người đã đạt đến sự trưởng thành tâm linh mới có khả năng “chết đi cho thế gian” bằng quyết tâm, điều đó ngụ ý từ bỏ các giá trị trần thế và bảo vệ chống lại cái ác, luôn hướng về Thiên Chúa trong Chúa Kitô: “Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt 6, 21). Muốn thực hiện được điều trên thì người trưởng thành tâm linh phải áp dụng Lời Chúa mỗi ngày trong mọi hoàn cảnh. Khi bạn bước từng bước theo Chúa, áp dụng lời Chúa vào trong đời sống thì bạn sẽ phát triển tâm linh.
b- Đối với Giáo Hội
Cuối cùng, dấu hiệu của sự trưởng thành Kitô giáo là sự “dấn thân trong Giáo Hội và trong thế giới”, nghĩa là khả năng vượt qua những giới hạn chật hẹp của “cái tôi” và bước vào trong một mối quan hệ rộng lớn hơn với những người khác. Người trưởng thành tâm linh thực hiện trong đức ái, trong phục vụ Giáo Hội và trong sự dấn thân vào thế giới để hoàn thiện thế giới.
Sự trưởng thành Kitô hữu không phải là ân sủng được sống một cách trừu tượng và thoát tục, nhưng đó là cuộc gặp gỡ của đời sống vì Chúa và sự dấn thân toàn tâm toàn lực. Trong Giáo Hội và thông qua Giáo Hội, Kitô hữu trưởng thành sống sự dấn thân thánh thiện và hiệp thông đức ái, biết cách chấp nhận ngay cả thiếu sót của chính Giáo Hội và cố gắng làm việc hết sức mình để Giáo Hội luôn giống Chúa Kitô, mẫu mực và đầu của Giáo Hội: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu.” (Cl 1, 18).
Trong Giáo Hội, người trưởng thành tâm linh thể hiện cuộc sống chứng nhân của mình trong hoạt động tông đồ, trong đời sống đạo đức: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Gc 1, 22). Người trưởng thành tâm linh không thể giữ im lặng về những gì anh ta đã trải qua (Cv 4, 20), không thể không lặp lại lời mà anh ta đã nghe “hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4, 2). Và theo cách này, người trưởng thành tâm linh sống cuộc sống của Kitô hữu vừa với tư cách là một cá nhân chín chắn, vừa với tư cách của toàn thể Giáo hội. Dần dần, toàn thể Giáo Hội ý thức hơn về ý nghĩa của Tin mừng đối với sự cứu rỗi thế gian: các thành viên của Giáo Hội, trong đó có người trưởng thành tâm linh tiến đến việc “phục vụ” theo gương của Chúa Kitô: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45).
Cuối cùng, để trở thành một người lớn, hay trưởng thành tâm linh, không chỉ là có một kiến thức thần học suông, nhưng còn là hành động có trách nhiệm trong đức tin vào Chúa Kitô. Vì thế, người trưởng thành tâm linh phải tiến triển liên tục, trong sự hiệp nhất đức tin, trong nhiệm thể của Chúa Kitô, trong Giáo Hội, bằng cách cổ vũ lẫn nhau, bằng cách xây dựng và hỗ trợ lẫn nhau. Chúng ta cần phải đồng tâm nhất trí, hiệp nhất với nhau trong Chúa Kitô vì nếu một thành viên nào yếu kém trong Giáo Hội, thì chúng ta sẽ bù đắp cho sự yếu kém này.
Chính trong Giáo Hội mà mỗi người chúng ta có chỗ đứng của mình, mà mỗi người chúng ta sẽ đạt đến sự hiệp nhất trong đức tin, mà chúng ta sẽ trưởng thành và đạt đến tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô. . cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4, 13). Sự trưởng thành tâm linh này cho phép chúng ta phân biệt “cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 2), nhờ đó, chúng ta cùng nhau xây dựng Giáo Hội của Chúa cách tốt đẹp trong một xã hội có dấu hiệu thế tục hóa này.
Tóm lại, các dấu hiệu: sự tiết độ, kiểm soát tư tưởng và kiểm soát lời nói… là dấu hiệu xác nhận sự trưởng thành tâm linh thực sự. Nhưng lưu ý, chúng ta không phải là chủ nhân của những dấu hiệu này, nên chúng ta cần phải cầu nguyện và hiệp thông nhiều hơn với Chúa. Chúng ta hãy quỳ xuống trước mặt Chúa và cầu xin Ngài biến đổi chúng ta càng ngày càng trở nên giống Ngài. Chúa có những dấu hiệu trưởng thành tâm linh và Ngài hứa sẽ ban chúng cho chúng ta những dấu hiệu trưởng thành đó nếu chúng ta cầu xin Ngài và khao khát chúng bằng tất cả trái tim của chúng ta.
Nên giống Chúa Kitô là mục tiêu chính yếu của người Kitô hữu trưởng thành. Như Thánh Phaolô mô tả, nên giống Chúa Kitô là một cuộc hành trình liên tục kéo dài suốt đời: “Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt. Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu” (Phil 3,12-14). Như thế, chúng ta phải luôn luôn bước đi, hướng tới sự hiểu biết sâu hơn về Chúa Kitô để giống Ngài, nhờ đó chúng ta nhận được phần thưởng của Thiên Chúa, chớ chúng ta không thể chấp nhận sự dừng lại, hoặc như thế là đã đủ rồi!
Bài viết này mong chia sẻ một phần rất nhỏ về một vài tính chất của sự trưởng thành tâm linh, dấu hiệu của sự trưởng thành tâm linh. Hi vọng có thể khai triển trong những bài viết sau về dấu hiệu của tình trạng chưa trưởng thành tâm linh và tiếp theo nữa.
Gm. Phêrô Huỳnh Văn Hai
2021
Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022: Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 08 năm 2021
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG KIỆN TOÀN LỜI CHÚA
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng 7 vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Kiện Toàn Lề Luật. Tháng 8 này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Kiện Toàn Lời Chúa. Đây là hai chủ đề liên hệ mật thiết với nhau bởi vì lời của Thiên Chúa cũng được thể hiện qua lề luật Người. Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng nhờ lời của Thiên Chúa mà muôn vật muôn loài cũng như con người được dựng nên và lịch sử nhân loại gắn liền với lịch sử mặc khải của Thiên Chúa. Đặc biệt, dân Do-thái đóng vai trò quan trọng trong việc đón nhận, trao đổi và lưu truyền mặc khải của Người. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã gửi Đức Giê-su là Lời của Người đến với gia đình nhân loại để kiện toàn mặc khải, kiện toàn lời của Thiên Chúa hầu đem lại ơn cứu độ cho con người và quy tụ muôn vật muôn loài.
Trong Cựu Ước, lời của Thiên Chúa đến với dân Do-thái qua những người lãnh đạo được Thiên Chúa tuyển chọn, đặc biệt, qua các ngôn sứ. Theo các học giả Kinh Thánh, trong Cựu Ước, ‘lời’ (דָּבָר/ dabar là danh từ có chung gốc với động từ ‘nói’ (דבר/ dbr)) được dùng hơn 394 lần, còn trong Tân Ước, ‘lời’ (λόγος/ logos) được dùng khoảng hơn 300 lần. Lời của Thiên Chúa không chỉ là lời phát ra hay lời được lắng nghe mà còn được diễn tả qua các sự kiện, hiện tượng, biến cố hay hành động của Thiên Chúa nữa. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như những thị kiến, tiên báo, luật lệ, mệnh lệnh, cảnh cáo, khuyến khích. Lời của Thiên Chúa không chỉ cho con người mà còn cho các thiên thần hay các thụ tạo vô hình khác. Đặc biệt, lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn, được ứng nghiệm, được đầy đủ ý nghĩa (πληρόω, fulfill) nhờ Biến Cố Đức Giê-su. Trong bối cảnh Bài Giảng Trên Núi, Đức Giê-su nói rằng Người đến để kiện toàn lề luật và lời các ngôn sứ (Mt 5,17). Quả thật, Đức Giê-su đã thực thi điều đó và nội dung chính yếu của việc Người thực thi được diễn tả trong 27 cuốn sách của bộ Tân Ước, nhất là trong 4 cuốn Tin Mừng.
Để khai triển chủ đề ‘Đức Giê-su Ki-tô – Đường Kiện Toàn Lời Chúa’, chúng ta điểm qua ‘năm lời’ chính yếu của Thiên Chúa theo mặc khải Cựu Ước: (1) Lời của Thiên Chúa là lời sáng tạo: “Thiên Chúa phán: ‘Phải có ánh sáng’. Liền có ánh sáng” (St 1,3) hay: “Một lời Chúa phán làm ra chín tầng trời, một hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú” (Tv 33,6); (2) Lời của Thiên Chúa là lời giao ước: “Người đã thông báo cho anh em giao ước của Người, giao ước mà Người truyền cho anh em đem ra thực hành, đó là mười lời Người viết trên hai bia đá” (Đnl 4,13) hay: “Người đã viết trên các bia điều đã viết lần trước, là mười lời Đức Chúa đã phán với anh em trên núi, từ trong đám lửa, trong ngày đại hội. Rồi Đức Chúa ban những bia đó cho tôi” (Đnl 10,4); (3) Lời của Thiên Chúa là lời qua miệng ngôn sứ: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu, ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói” (Gr 1,7) hay: “Nhờ thần khí của Đức Chúa, tôi được đầy sức mạnh, công lý và can trường để loan báo cho nhà Gia-cóp biết tội phản nghịch, cho nhà Ít-ra-en biết tội lỗi của nó” (Mk 3,8); (4) Lời của Thiên Chúa là lời khôn ngoan: “Đức Khôn Ngoan kêu to ‘phàm nhân hỡi, ta mời gọi các ngươi đó, ta ngỏ lời với các ngươi, hỡi con cái loài người’” (Cn 8,3-4) hay: “Đức Khôn Ngoan hiểu biết tất cả, sẽ khôn khéo hướng dẫn con trong việc con làm, lấy quyền năng vinh hiển mà gìn giữ con” (Kn 9,11); (5) Lời của Thiên Chúa là lời dẫn lối chỉ đường: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105) hay: “Đến đây, ta cùng lên núi Đức Chúa, lên Nhà Thiên Chúa của Gia-cóp, để Người dạy ta biết lối của Người và bước theo đường Người chỉ vẽ” (Mk 4,2).
Theo nghĩa rộng, lời của Thiên Chúa đến với con người đồng thời với sự hiện hữu của con người (do Thiên Chúa sáng tạo) trong vũ trụ này. Tuy nhiên, lời của Thiên Chúa đến với con người cách cụ thể và rõ ràng hơn với việc Người chọn gọi Áp-ra-ham để qua ông, chương trình của Thiên Chúa ngày càng được trọn vẹn. Lời của Thiên Chúa được lưu truyền trong lịch sử dân Do-thái, dần dần được sưu tập và biên soạn. Như vậy, Kinh Thánh chính là lời của Thiên Chúa theo truyền thống được viết ra. Cuốn Kinh Thánh của người Do-thái (the Hebrew Bible) hay Cựu Ước (the Old Testament) được hình thành với khoảng thời gian hơn một ngàn năm. Nội dung chính yếu của Cựu Ước hướng về sự xuất hiện của Đức Giê-su, Lời hằng hữu của Thiên Chúa và là Đấng được Thiên Chúa xức dầu Thánh Thần để thực thi chương trình của Thiên Chúa đối với con người và toàn thể thế giới thụ tạo. Hành trình của Đức Giê-su trên đường dương thế được diễn tả trong Tân Ước.
Các vị lãnh đạo hay các ngôn sứ trong Cựu Ước như Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp, Mô-sê, I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en đều chuẩn bị cho sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su. Trong Tân Ước, Đức Giê-su nói với nhiều tầng lớp người khác nhau, chẳng hạn như Người nói với Đức Ma-ri-a, với các môn đệ, với những người Pha-ri-sêu, với các kinh sư, với Hê-rô-đê, với Phi-la-tô, với đám đông dân chúng. Lời của Người liên quan đến những hoàn cảnh đặc biệt, chẳng hạn như lời của Người xua trừ ma quỷ, chữa lành bệnh tật, nâng đỡ người đau yếu, hồi sinh kẻ chết. Đặc biệt, Đức Giê-su đã kêu gọi và thiết lập Nhóm Mười Hai cũng như công bố những tiêu chuẩn luân lý trổi vượt của thời Tân Ước so với Cựu Ước. Lời nói và việc làm của Đức Giê-su minh chứng rằng Người không chỉ thuộc về Thiên Chúa mà còn là Thiên Chúa hiện diện trong dòng lịch sử để đồng lao cộng khổ với mọi người trong gia đình nhân loại và cứu độ nhân loại.
Chúng ta nhận ra lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn, được trở nên hiện thực nơi Đức Giê-su, chẳng hạn như lời của Thiên Chúa là ánh sáng trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Ánh Sáng trong Tân Ước (Tv 119,105; Ga 8,12); lời của Thiên Chúa là lời sự thật trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Sự Thật trong Tân Ước (Tv 12,7; Ga 14,6); lời của Thiên Chúa đem lại sự sống trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Sự Sống trong Tân Ước (Tv 119,116; Ga 11,25); lời của Thiên Chúa là lời hy vọng trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Hy Vọng của mọi người trong Tân Ước (Tv 119,147; 1 Tm 1,1); lời của Thiên Chúa là của ăn cho bậc ngôn sứ trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Của Ăn cho mọi người trong Tân Ước (Gr 15,16; Ga 6,54-55); lời của Thiên Chúa ‘chớ giết người công chính’ trong Cựu Ước hướng về Đức Giê-su là Đấng Công Chính chịu chết cho mọi người trong Tân Ước (Đn 13,53, Mt 27,19). Chúng ta có thể kể ra nhiều trích đoạn tương tự khi so sánh lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn bởi Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước. Như vậy, chúng ta có thể nói rằng Cựu Ước là nền tảng cho Tân Ước, còn Tân Ước là ánh sáng chiếu soi Cựu Ước.
Dưới nhãn quan của thánh Gio-an, Đức Giê-su là Lời hằng hữu của Thiên Chúa đến với thế giới thụ tạo. Ngài viết: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” [ὁ λόγος σὰρξ ἐγένετο καὶ ἐσκήνωσεν ἐν ἡμῖν] (Ga 1,14). Từ ‘λόγος’ của tiếng Hy Lạp được dịch sang tiếng Việt là ‘Ngôi Lời’ (viết hoa). Có hai điểm cần quan tâm ở đây: (1) Trong bản văn cổ bằng tiếng Hy Lạp, người ta không phân biệt chữ viết hoa hay chữ viết thường và (2) khi dịch ‘λόγος’ là ‘Ngôi Lời’, chúng ta dịch theo cách diễn tả của thánh Gio-an. Đối với tiếng Việt, nói rằng ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm’ dễ hiểu hơn nói rằng ‘Lời đã trở nên người phàm’. Như vậy, với Đức Giê-su (Ngôi Lời), lời của Thiên Chúa không chỉ là âm thanh phát ra, đi vào lòng và biến đổi tâm hồn con người mà còn cho phép con người nhìn ngắm, đụng chạm và thiết lập mối tương quan liên vị trong hành trình trần thế. Với Đức Giê-su, lời của Thiên Chúa không chỉ cư ngụ trong hòm bia ở Lều hội ngộ để dẫn dắt dân Do-thái vào miền Đất Hứa Ca-na-an mà ‘đã cắm lều giữa chúng ta’ để dẫn dắt toàn thể nhân loại vào miền Đất Hứa Nước Trời. Với Đức Giê-su, Thiên Chúa vô hình của Cựu Ước đã trở nên Thiên Chúa hữu hình của Tân Ước. Với Đức Giê-su, Thiên Chúa trở nên ‘vừa tầm’ hơn để con người có thể tiếp cận, học hỏi và thực thi thánh ý Người. Chúng ta cùng xem xét một số trình thuật chính yếu diễn tả lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn trong Tân Ước.
Theo thánh Mát-thêu, khi truyền tin cho thánh Giu-se, sứ thần của Thiên Chúa nói: “Tất cả sự việc này đã xảy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’” (Mt 1,22-23). Điều này ứng nghiệm lời của ngôn sứ I-sai-a: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7,14). Thánh Mát-thêu cũng trình thuật biến cố Đức Giê-su đến Ai-cập rồi trở về Na-da-rét: “Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập” (Mt 2,14-15). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Hô-sê: “Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó, từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về” (Hs 11,1). Tin mừng Đức Giê-su theo thánh Mát-thêu có 130 chỗ quy chiếu trực tiếp Cựu Ước, trong đó có 43 lần trích sát bản gốc, chẳng hạn như Mt 1,22; 2,5.15.17.23; 3,3; 4,14. Thánh nhân muốn minh chứng rằng Đức Giê-su chính là Đấng kiện toàn và hoàn thành mọi lời Cựu Ước đã loan báo.
Theo thánh Lu-ca, Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi Giu-đa: “Khi Đức Giê-su khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giu-se. Giu-se là con Ê-li… Nác-sôn con Am-mi-na-đáp, Am-mi-na-đáp con Át-min, Át-min con Ác-ni, Ác-ni con Khét-rôn, Khét-rôn con Pe-rét, Pe-rét con Giu-đa… I-xa-ác con Áp-ra-ham… A-đam là con Thiên Chúa” (Lc 3,23-38). Điều này ứng nghiệm lời chúc phúc của ông Gia-cóp trong sách Sáng Thế: “Vương trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục” (St 49,10). Cũng theo thánh Lu-ca, sau khi chịu cám dỗ, Đức Giê-su trở về loan báo Tin Mừng tại Ga-li-lê. Đặc biệt, khi đến quê hương là Na-da-rét, Đức Giê-su vào hội đường như Người vẫn thường làm trong ngày sa-bát. Người ta trao cho Người sách ngôn sứ I-sai-a. Mở sách ra, Đức Giê-su gặp đoạn: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a (Is 61,1-2). Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giê-su cũng nói với các môn đệ về sự ứng nghiệm nơi Người lời của Thiên Chúa trong Kinh Thánh: “Thầy bảo cho anh em hay: Cần phải ứng nghiệm nơi bản thân Thầy lời Kinh Thánh đã chép: Người bị liệt vào hàng phạm pháp. Thật vậy, những gì đã chép về Thầy sắp được hoàn tất” (Lc 22,37).
Theo thánh Mác-cô, khi Đức Giê-su bị bắt: “Có nhiều kẻ đưa chứng gian tố cáo Người, nhưng các chứng ấy lại không ăn khớp với nhau. Có vài kẻ đứng lên cáo gian Người rằng chúng tôi có nghe ông ấy nói: Tôi sẽ phá Đền Thờ này do tay người phàm xây dựng, và nội ba ngày, tôi sẽ xây một Đền Thờ khác, không phải do tay người phàm!” (Mc 14,56-58). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa: “Bọn chứng nhân giả dối đứng lên, hạch hỏi tôi những điều tôi chẳng biết. Chúng lấy oán đền ơn, này thân tôi trơ trọi một mình” (Tv 35,11-12). Khi Đức Giê-su chịu đóng đinh vào thập giá giữa hai tên trộm cướp, thánh Mác-cô trình thuật: “Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái” (Mc 15,27-28). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53,12).
Thánh Gio-an trình thuật cuộc thương khó của Đức Giê-su: “Đức Giê-su biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói: ’Tôi khát!’ Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người” (Ga 19,28-29). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong Thánh Vịnh: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69,22). Cũng trong cuộc thương khó Đức Giê-su theo thánh Gio-an: “Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,33-34). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong trong Thánh Vịnh: “Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi. Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy” (Tv 34,20-21). Chúng ta còn gặp rất nhiều đoạn trong Tin Mừng Nhất Lãm cũng như theo thánh Gio-an về lời của Thiên Chúa trong Tân Ước ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước, chẳng hạn như Mt 2,17-18; Mt 8,17; Mt 12,17-18; Mc 1,2-3; Mc 8,31; Mc 10,45; Lc 1,20; Lc 3,4-6; Lc 21,20-22; Ga 12,38; Ga 13,18; Ga 15,25.
Việc kiện toàn lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước cũng được diễn tả trong các sách khác của bộ Tân Ước. Chẳng hạn, trong Giáo Hội sơ khai ở Giê-ru-sa-lem, khi chọn người thay thế Giu-đa (môn đệ phản bội Đức Giê-su), thánh Phê-rô lên tiếng: “Thưa anh em, lời Kinh Thánh phải ứng nghiệm, lời mà Thánh Thần đã dùng miệng vua Đa-vít để nói trước về Giu-đa, kẻ đã trở thành tên dẫn đường cho những người bắt Đức Giê-su” (Cv 1,16). Đặc biệt, thánh nhân hiểu rõ giá trị và thẩm quyền độc nhất vô nhị của Kinh Thánh so với các tài liệu khác. Trong thư gửi các tín hữu, ngài viết: “Anh em phải biết điều này: Không ai được tự tiện giải thích một lời ngôn sứ nào trong Sách Thánh. Quả vậy, lời ngôn sứ không bao giờ lại do ý muốn người phàm, nhưng chính nhờ Thánh Thần thúc đẩy mà có những người đã nói theo lệnh của Thiên Chúa (2 Pr 1,20-21). Hơn nữa, theo thánh nhân, Đức Giê-su chính là Người Tôi Tớ Đau Khổ được ngôn sứ I-sai-a trình bày trong Cựu Ước (Is 52,13-53,12; 1 Pr 2,23-25).
Tương tự như thánh Phê-rô, nhiều trích đoạn của thánh Phao-lô khẳng định rằng Đức Giê-su đến trần gian theo ‘lời hứa’ trong Cựu Ước. Thánh nhân viết: “Đức Ki-tô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ [hậu duệ của Áp-ra-ham]” (Rm 9,5). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách Sáng Thế: “Nhờ ngươi [Áp-ra-ham], mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12,3). Thánh nhân biện giải: “Tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Rm 1,1-3). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a: “Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời” (Is 9,6). Đề cập đến cuộc thương khó, sự chết và phục sinh của Đức Giê-su, thánh nhân viết: “Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh” (1 Cr 15,3-4).
Đối với tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, Đức Giê-su là Đấng kiện toàn lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước. Tuy nhiên, sự kiện toàn của Đức Giê-su theo cách thức siêu việt, nằm ngoài nhận thức hay tưởng tượng của con người. Chẳng hạn, (1) Đức Giê-su kiện toàn giao ước: “Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9,15). (2) Đức Giê-su kiện toàn của lễ hiến tế: “Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống” (Dt 9,14). (3) Đức Giê-su kiện toàn phẩm vị thượng tế: “Đức Giê-su không như các vị thượng tế khác: Mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ. Vì Luật Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng manh yếu đuối trong mình, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt 7,27-28). Cũng theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Không phải Đức Ki-tô đã tự tôn mình làm Thượng Tế, nhưng là Đấng đã nói với Người: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con, như lời Đấng ấy đã nói ở một chỗ khác: Muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5,5-6). Điều này ứng nghiệm lời của Thiên Chúa trong Thánh Vịnh: “Đức Chúa đã một lần thề ước, Người sẽ chẳng rút lời, rằng ‘muôn thuở, Con là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê’” (Tv 110,4). Như vậy, cùng là giao ước, của lễ và thượng tế nhưng những gì được Đức Giê-su đảm nhận và kiện toàn thì cao trọng, kỳ diệu và nhiệm mầu hơn những gì được thực thi trong Cựu Ước cũng như lịch sử dân Do-thái.
Khi so sánh tương quan giữa thánh Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su (trong bài giảng 293,3), thánh Au-gút-ti-nô quả quyết rằng Gio-an là tiếng (voice), Đức Giê-su là Lời (Word); Gio-an là tiếng trong không gian, Đức Giê-su là Lời hằng hữu; Gio-an là tiếng bên ngoài, Đức Giê-su là Lời bên trong. Theo thánh nhân, tiếng vô nghĩa khi không có lời; tiếng phá vỡ im lặng, lời đi vào tâm hồn; tiếng chỉ đập vào tai, lời cảm hóa trí lòng; tiếng qua đi, lời ở lại; tiếng hoàn thành, lời tiếp tục. Vì người ta khó phân biệt giữa tiếng và lời, giữa Gio-an và Đức Giê-su, Gio-an đã nói ra cho họ biết (Ga 1,19-28). Khi gặp gỡ Đức Giê-su lần đầu tiên, thánh Gio-an Tẩy Giả nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Lời chứng của thánh Gio-an Tẩy Giả giúp chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su là Đấng kiện toàn lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước khi Người dạy bảo dân Do-thái giết chiên và lấy máu bôi lên khung cửa như là dấu chỉ để được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập (Xh 12,1-14). Nhờ Máu của Đức Giê-su, Chiên Thiên Chúa, mọi người trong gia đình nhân loại được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Thánh Phê-rô diễn giải rõ ràng hơn trong thư của ngài: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức Ki-tô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Đấng đã cho Người trỗi dậy từ cõi chết, và ban cho Người được vinh hiển, để anh em đặt niềm tin và hy vọng vào Thiên Chúa” (1 Pr 1,19-21).
Như đã được đề cập ở trên, lời của Đức Giê-su chữa lành bệnh tật, xua đuổi ma quỷ, hồi sinh kẻ chết, tha thứ tội lỗi. Trong ba năm loan báo Tin Mừng, phần lớn những lời Đức Giê-su là lời trực tiếp với con người, chẳng hạn như: ‘Thầy bảo thật các con…’, ‘Thầy bảo cho anh em biết…’, ‘hãy đứng dậy…’, ‘hãy ăn năn hối cải…’, ‘đừng thề thốt…’, ‘phải yêu kẻ thù…’, ‘hãy loan báo Tin Mừng…’. Thánh Mát-thêu trình thuật: “Người ta đem nhiều kẻ bị quỷ ám tới gặp Đức Giê-su. Người nói một lời là trừ được các thần dữ và Người chữa lành mọi kẻ ốm đau, để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a: Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,16-17). Lời của Đức Giê-su là những ‘lời mới mẻ’: “Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22) hay: “Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!” (Ga 7,46). Đặc biệt, Đức Giê-su diễn tả Người như là tác giả của lề luật được kiện toàn (Mt 5,17-48).
Lời của Đức Giê-su là lời đầy quyền năng. Chẳng hạn, khi Đức Giê-su đến Ca-phác-na-um, một viên đại đội trưởng dân ngoại thuộc quân đội Rô-ma đến xin Người cứu chữa người đầy tớ của ông đang trong tình trạng thập tử nhất sinh. Đức Giê-su định đến nhà ông để cứu giúp người đầy tớ đó. Tuy nhiên, viên đại đội trưởng nói với Người: “Thưa Ngài, tôi chẳng đáng Ngài vào nhà tôi, nhưng xin Ngài chỉ nói một lời là đầy tớ tôi được khỏi bệnh” (Mt 8,8). Thánh Mát-thêu trình thuật: “Đức Giê-su nói với viên đại đội trưởng rằng ‘ông cứ về đi! Ông tin thế nào thì được như vậy!’ Và ngay giờ đó, người đầy tớ được khỏi bệnh” (Mt 8,13). Đức Giê-su định đến nhà viên đại đội trưởng nhưng chưa đến. Người không nhìn thấy, không đụng chạm người đầy tớ bệnh tật nhưng người đầy tớ vẫn được khỏi bệnh. Có lẽ viên đại đội trưởng chờ nơi Đức Giê-su ‘lời chữa bệnh’ nhưng lời của Đức Giê-su lại là ‘lời đức tin’. Đức Giê-su tán dương đức tin của viên đại đội trưởng: ‘Ông tin thế nào thì được như vậy!’. Ông là ‘dân ngoại’ nhưng niềm tin của ông trổi vượt hơn niềm tin của những người được gọi là dân được tuyển chọn, dân Chúa. Với sự chữa lành này, Đức Giê-su biểu lộ sức mạnh của ‘lời’ cho những ai đặt niềm tin và hy vọng vào Người.
Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất mạnh, mạnh đến nỗi nhờ đó Thiên Chúa sáng tạo con người và muôn vật muôn loài; Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước còn mạnh hơn, mạnh đến nỗi Lời đã trở nên người phàm, nhờ đó, Thiên Chúa tái tạo con người và muôn vật muôn loài từ cảnh lầm than, hư hoại. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất mạnh, mạnh đến nỗi nhờ đó Thiên Chúa giải thoát dân Do-thái khỏi ách nô lệ Ai-cập; Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước còn mạnh hơn, mạnh đến nỗi nhờ đó Thiên Chúa giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ tội lỗi. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất mạnh, mạnh đến nỗi nhờ đó dân Do-thái có được man-na nuôi sống trong hành trình về với Đất Hứa; Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước còn mạnh hơn, mạnh đến nỗi nhờ đó toàn thể gia đình nhân loại có được Man-na Mới là Mình và Máu Đức Giê-su dưỡng nuôi trong hành trình về với quê hương vĩnh cửu. Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước rất mạnh, mạnh đến nỗi hồi sinh kẻ chết; Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước còn mạnh hơn, mạnh đến nỗi trả lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả những ai tin tưởng, tuân giữ và thực thi thánh ý Người.
Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước vang vọng và được nghe trong không gian, thời gian, cũng như thẩm thấu vào những gì thuộc về không gian, thời gian. Còn theo mặc khải Tân Ước, Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa có trước không gian, thời gian. Lời của Thiên Chúa trong Tân Ước được tóm lược trong Kinh Tin Kính là ‘Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha…’. Nói cách khác, những gì thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Chúa Cha, đều thuộc về Đức Giê-su và ngược lại (Mc 2,1-12; Lc 5,17-26; Ga 17,10). Như vậy, có sự liên kết mật thiết và trọn vẹn giữa Thiên Chúa và Đức Giê-su, Lời trở nên người phàm (Θεός-Λόγος σὰρξ ἐγένετο). Đây là sự liên kết nội tại và vĩnh cửu, đồng thời cũng là sự liên kết trong chương trình cứu độ, chương trình diễn ra trong không gian, thời gian của môi trường thế giới thụ tạo. Hơn ai hết, Đức Giê-su làm chứng về điều này khi nói với các môn đệ thân tín rằng Người ở trong Chúa Cha cũng như Chúa Cha ở trong Người (Ga 17,21). Người cũng minh định rằng những việc Người làm cũng là những việc của Chúa Cha và ngược lại (Ga 5,21; Ga 5,24-29).
Khi so sánh ‘Lời’ theo cách hiểu biết và diễn tả của thánh Gio-an với ‘lời’ (dabar) trong Cựu Ước hay ‘lời’ (logos) trong văn hóa Hy Lạp, chúng ta nhận ra rằng ‘Lời’ thánh Gio-an sử dụng mang ý nghĩa sâu đậm hơn. Chẳng hạn, thánh nhân viết: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống” (1 Ga 1,1). Đối với thánh nhân, Đức Giê-su không phải là Lời như bao lời khác mà là Lời hằng hữu, Lời quyền năng, Lời sự sống. Chính thánh nhân đã nghe, thấy, chiêm ngưỡng, gặp gỡ, đụng chạm Lời này. Các lời của Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử Cựu Ước nói riêng được xem là chuẩn bị cho Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại. Sự gắn bó mật thiết với Đức Giê-su, Lời của Thiên Chúa, nhất là việc ghé tai vào trái tim Đức Giê-su trong Bữa Tiệc Ly cũng như chứng kiến Đức Giê-su chịu chết trên cây thập giá với trái tim bị đâm thủng, giúp thánh nhân nhận ra căn tính, đời sống và sứ mệnh của Người cách đầy đủ hơn. Kinh nghiệm của thánh nhân về Đức Giê-su được ngài diễn tả cách cụ thể trong Tin Mừng cũng như các thư mà ngài biên soạn.
Chúng ta nhận ra ba hình thức lời của Thiên Chúa trong mặc khải Ki-tô Giáo: (1) Lời của Thiên Chúa phán ra, (2) Lời của Thiên Chúa được sưu tập, biên soạn (Kinh Thánh) và (3) Lời của Thiên Chúa đã trở nên người phàm. Trong ba hình thức đó, ‘Lời của Thiên Chúa đã trở nên người phàm’ thật nhiệm mầu và quan trọng hơn cả. Đây chính là nội dung căn bản giúp chúng ta phân biệt sự khác nhau giữa Ki-tô Giáo và các tôn giáo khác trong lịch sử thế giới. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta biết rằng lời nói hay chữ viết không bao giờ giải thích trọn vẹn thực tại, thậm chí lắm lúc còn làm cho thực tại méo mó, biến dạng hay vong bản. Thực tại luôn dồi dào, đa dạng và giàu có hơn các hình thức diễn tả nó. Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa đến trần gian để làm cho lời của Thiên Chúa trong Kinh Thánh hay các hình thức khác trở nên khả tín hơn, giúp con người điều chỉnh các tương quan nội tại của bản thân cũng như tương quan với anh chị em, với muôn vật muôn loài và với Thiên Chúa.
Lời của Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại được diễn tả bằng ngôn ngữ con người. Lời của Thiên Chúa luôn dồi dào hơn những gì con người có thể đón nhận, sống và lưu truyền trong lịch sử. Đặc biệt, lời của Thiên Chúa luôn dồi dào hơn những gì được viết trong các sách của bộ Kinh Thánh. Đức Giê-su nói với các môn đệ thân tín của Người trước khi bước vào cuộc khổ nạn: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Ga 16,12). Thánh Gio-an minh chứng: “Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,30-31). Như vậy, theo thánh nhân, lời của Thiên Chúa trong Kinh Thánh là điều kiện thiết yếu giúp con người luôn biết ở lại với Đức Giê-su để lắng nghe và tin tưởng vào Người hầu có thể cộng tác với Người trong việc biến đổi bản thân, biến đổi anh chị em đồng loại cũng như môi trường xã hội.
Là Lời hằng hữu của Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Đức Giê-su đã trút bỏ chính mình (ἑαυτὸν ἐκένωσεν/ emptied himself), làm cho mình trở nên trống rỗng. Tuy nhiên, những lời của Đức Giê-su đối với gia đình nhân loại không phải là những lời trống rỗng mà là những lời “sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4,12). Những lời của Đức Giê-su mãi mãi là những lời tiêu chuẩn giúp con người xây dựng và thăng tiến đời sống cá nhân, cộng đoàn, xã hội. Những lời của Đức Giê-su mãi mãi là những lời đầy quyền năng và lòng thương xót đối với con người. Đặc biệt, những lời của Đức Giê-su mãi mãi vang vọng trong gia đình nhân loại để thông đạt ý định của Thiên Chúa, hướng dẫn mọi người cách thức hoàn thiện bản thân và chú tâm hơn vào những giá trị của Nước Thiên Chúa giữa dòng đời.
Chúng ta nhận thức rằng lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước được kiện toàn trong Tân Ước, đặc biệt trong mầu nhiệm nhập thế, sự đau khổ, sự chết và phục sinh của Đức Giê-su như lời Người nói với các môn đệ trước khi về trời: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24,44). Tuy nhiên, Cựu Ước được kiện toàn trong Tân Ước luôn là một tiến trình nhiệm mầu. Một mặt, nội dung chính yếu của mặc khải Cựu Ước được kiện toàn trong Tân Ước. Mặt khác, một số khía cạnh liên quan đến cấu trúc, thể chế, phụng tự trong Cựu Ước được tiếp tục theo cách thức vượt quá sự hiểu biết của con người, chẳng hạn như những người Do-thái thuộc Dân Thiên Chúa và Dân Thiên Chúa Mới là Giáo Hội được Đức Giê-su thiết lập; việc thuộc về Dân Thiên Chúa Mới ít lệ thuộc vào yếu tố văn hóa, dân tộc mà lệ thuộc nhiều vào sự gắn bó với Đức Giê-su cũng như tuân giữ giới răn của Người; quan tâm chính yếu của dân Do-thái trong Cựu Ước là lề luật, trong khi quan tâm chính yếu của Dân Thiên Chúa Mới trong Tân Ước là ân sủng; việc cắt bì như là dấu chỉ để thuộc về giao ước giữa Thiên Chúa và Áp-ra-ham không còn tiếp tục nữa nhưng thay vào đó là các bí tích khai tâm Ki-tô Giáo.
Lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước nhiều đến nỗi làm cho con người dễ bị lẫn lộn, khó phân biệt rành mạch đâu là những điểm căn bản hầu có thể học hỏi và thực thi cách xứng hợp (Mc 12,28-34; Lc 10,25-28). Vì thế, Đức Giê-su là Lời hằng hữu của Thiên Chúa đến trần gian để ‘tóm lược lời của Thiên Chúa’ bằng chính bản thân Người. Như đã được đề cập ở trên, các hình thức lời chính yếu trong Cựu Ước như lời sáng tạo, lời giao ước, lời ngôn sứ, lời khôn ngoan, lời dẫn lối chỉ đường, đều được Đức Giê-su kiện toàn trong hành trình trần thế của Người. Chúng ta có thể khẳng định rằng lời của Thiên Chúa trong Cựu Ước là ‘tiềm năng’, là ‘mầm mống’, là ‘phôi thai’, là ‘chồi non’, là ‘hình ảnh’, là ‘mũi tên’, là ‘tiên báo’ hướng tới sự trọn vẹn về mục đích và ý nghĩa trong Tân Ước. Nội dung chính yếu của các sách Cựu Ước ‘hội tụ nơi Đức Giê-su’, còn nội dung chính yếu của các sách Tân Ước ‘khởi đi từ Người’. Do đó, chúng ta cần quan tâm đặc biệt đến tương quan giữa lời của Thiên Chúa trong toàn bộ Kinh Thánh và Đức Giê-su là Lời hằng hữu của Thiên Chúa.
Đề cập đến tầm quan trọng của Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội, Công Đồng Vatican II minh định: “Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa” (DV 21). Chúng ta biết rằng nói đến thân thể là nói đến thịt và máu. Nếu Kinh Thánh như chính Thân Thể Đức Giê-su thì chúng ta cần ý thức về ‘thịt’ và ‘máu’ của Kinh Thánh, tức là những gì giúp con người sống xứng đáng với phẩm giá cao trọng của mình giữa muôn vật muôn loài. Trong đời sống phụng tự, mỗi lần cử hành Bí Tích Thánh Thể, chúng ta không chỉ có ‘Thịt’ và ‘Máu’ của Đức Giê-su Thánh Thể mà còn có ‘thịt’ và ‘máu’ của lời Người nữa. Chúng ta gặp gỡ Đức Giê-su nơi lời của Người cũng như Bánh và Rượu được thánh hiến và trở nên Của Ăn, Của Uống thiêng liêng nuôi sống chúng ta. Chính Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,19-20). Lời của Thiên Chúa trong Kinh Thánh thật kỳ diệu, thật nhiệm mầu so với các hình thức lời mà con người có thể tiếp cận hay có kinh nghiệm trong cuộc sống mình. Đó là lý do giải thích tại sao thánh Giê-rô-ni-mô khẳng định: “Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki-tô”. Công Đồng Vatican II giải thích cách cặn kẽ hơn: “Lời Chúa còn có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng cường Giáo Hội, ban sức mạnh đức tin cho con cái Giáo Hội, là lương thực linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái Giáo Hội” (DV 21).
Đức Giê-su, Lời của Thiên Chúa, đã biến đổi và định dạng tâm tính, thái độ và hành vi của các môn đệ Người để họ tiếp tục chương trình loan báo lời của Thiên Chúa được kiện toàn cho muôn dân muôn nước. Ngay từ buổi sơ khai, các môn đệ đã ý thức về sự cần thiết phải loan báo Đức Giê-su và lời của Người cho anh chị em đồng loại. Nội dung chính yếu của ‘Lời loan báo tiên khởi’ (Κήρυγμα/ Kerygma) là: Đức Giê-su, Lời của Thiên Chúa, đã trở nên người phàm; Người chịu chết vì tội lỗi loài người, được mai táng và ngày thứ ba chỗi dậy như lời Kinh Thánh; Người đã hiện ra với Phê-rô và các môn đệ khác. Lời loan báo tiên khởi này luôn được lưu truyền và quảng diễn trong đời sống Giáo Hội, thực thể được Đức Giê-su thiết lập trên nền tảng các Tông Đồ để đồng hành với gia đình nhân loại cho đến tận thế. Là Ki-tô hữu, tất cả chúng ta được mời gọi dõi theo Đức Giê-su và hiệp thông với Người để ngày càng được biến đổi và trở thành khí cụ thuận tay Người trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống mình.
Chúng ta có thể kết luận rằng Đường của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Đường Kiện Toàn Lời Chúa. Nhờ Người là Lời hằng hữu, Thiên Chúa sáng tạo muôn vật muôn loài. Nhờ Người, mặc khải của Thiên Chúa trong Cựu Ước cũng như trong dòng lịch sử nhân loại được quy tụ, được kiện toàn và tiếp tục vang vọng giữa lòng nhân thế. Nhờ Người, chương trình kỳ diệu và đường lối sư phạm nhiệm mầu của Thiên Chúa được thực thi nhằm biến đổi và giải thoát con người từ thân phận nô lệ tội lỗi, nô lệ sự chết thành con cái của Ánh Sáng thường hằng bất biến, của Thiên Chúa từ bi, nhân hậu. Tất cả mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đón nhận Đức Giê-su, Đường Kiện Toàn Lời Chúa và sống theo Đường của Người. Cùng với Chúa Thánh Thần, Đức Giê-su tiếp tục đồng hành và hướng dẫn mọi người trong gia đình nhân loại. Người luôn hiện diện để làm cho chương trình cứu độ của Thiên Chúa được lan rộng đến tận cùng trái đất, tận cùng lịch sử của thế giới thụ tạo hầu quy tụ con người và muôn vật muôn loài về với Gia Đình Thiên Chúa viên mãn.
2021
Làm gì nếu bạn hay/và người thân là F0 – mắc bệnh COVID-19?
Làm gì nếu bạn hay/và người thân là F0 – mắc bệnh COVID-19?
Bây giờ dân chúng đã quá quen với từ ngữ F0 nhưng thiết nghĩ vẫn nên nói rõ: F0 là người được chẩn đoán mắc bệnh COVID-19 với kết quả xét nghiệm RT-PCR dương tính.
Tuần cuối tháng 7/2021 tình hình dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp trên cả nước và lan rộng trong cộng đồng nhiều tỉnh thành. Số trường hợp F0 tiếp tục tăng cao tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM), tương ứng số ca nặng, nguy kịch và tử vong tiếp tục tăng; tính đến hết ngày 27/7/2021 là hơn 70.000 ca F0 với 744 người bệnh nặng đang thở máy, 13 ca ECMO[1], và 817 ca tử vong.[2] Trong bối cảnh khẩn cấp, ngày 27/7 Sở Y Tế TP HCM điều chỉnh kế hoạch tiếp nhận và điều trị người bệnh COVID-19 theo hệ thống 5 tầng điều trị. Theo đó, tầng mới nhất là tầng 1 – là các cơ sở chăm sóc và theo dõi sức khoẻ các trường hợp F0 không có triệu chứng tại các địa bàn quận, huyện và TP Thủ Đức.
Mô hình tháp 5 tầng trong tiếp nhận và điều trị người mắc COVID-19 trên địa bàn Thành phố[3]
Chỉ hai ngày sau, chiều 29/7/2021 trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến ngày càng phức tạp và trầm trọng hơn, với số ca bệnh COVID-19 tại TP HCM vượt 82.000, Sở Y tế chính thức gửi văn bản khẩn về việc ban hành hướng dẫn triển khai chăm sóc và theo dõi sức khỏe tại nhà đối với người F0, nhằm tránh tình trạng quá tải người bệnh tại các cơ sở khám, chữa bệnh, để tập trung nâng cao chất lượng chăm sóc và điều trị bệnh nhân COVID-19 nặng và nguy kịch.
Bài viết này tập trung đến việc chăm sóc và tự chăm sóc F0 tại nhà theo hướng dẫn của Cơ quan CDC (Centers for Disease Control and Prevention, Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh Tật và Phòng ngừa) Bộ Y Tế và CDC TP HCM (HCDC) và vài điều cơ bản F0 cần biết khi phải đến cách ly tập trung ở các cơ sở Tầng 1.
Có hai loại đối tượng được áp dụng cách ly tại nhà:
1/ F0 không triệu chứng lâm sàng đang chăm sóc, điều trị tại các cơ sở y tế đủ điều kiện xuất viện vào ngày thứ 7, được tiếp tục theo dõi, giám sát y tế tại nhà, nơi lưu trú trong 14 ngày.
2/ F0 mới được phát hiện tại cộng đồng, không triệu chứng, không yếu tố nguy cơ (không có bệnh nền hoặc có bệnh nền đã điều trị ổn định, không béo phì) thì được cách ly tại nhà trong 14 ngày.
Điều kiện được cách ly tại nhà
Phải có phòng riêng dành cho người F0, có cửa sổ thông thoáng, nhà vệ sinh riêng.
Trong trường hợp tất cả người trong hộ gia đình đều là F0, có thể tự chăm sóc sức khỏe lẫn nhau thì không cần điều kiện phòng riêng cho từng người F0.[4]
- Vài số thống kê về triệu chứng của bệnh COVID-19[5]
Cho đến nay, giới chuyên môn ghi nhận
– 80% người bệnh COVID-19 không có triệu chứng. Vì thế, có nhiều bệnh nhân được phát hiện do tình cờ được lấy mẫu xét nghiệm. Điều này đáng mừng là đa số bệnh nhân COVID-19 ở thể nhẹ, nhưng đây cũng là điều đáng lưu tâm vì nhiều người F0 trong cộng đồng mà chúng ta không biết. Bộ Y Tế nhắc nhở trong hoàn cảnh đại dịch bùng phát hiện nay “phải cẩn thận vì bất cứ ai cũng có thể là F0”.
– 20% người bệnh có triệu chứng giống như cảm cúm. Các đợt bùng phát trước khi xuất hiện biến chủng Delta, bệnh thường kéo dài từ 2- 3 tuần. Với biến chủng Delta, chu kỳ lây lan ngắn hơn, nhưng thời gian bệnh cũng rút ngắn hơn, khoảng 10 ngày. Như vậy, trừ các trường hợp biến chứng nặng, thông thường các bệnh nhân sẽ được xuất viện sau 10 ngày.
– 95% người bệnh không phải thở Oxy. Chỉ 5 % người mắc bệnh cần thở Oxy, nằm trong nhóm nguy cơ:
1/ Thừa cân, béo phì;
2/ Người có bệnh nền chưa điều trị ổn định;
3/ Người trên 65 tuổi.
Vì vậy chiến lược quan trọng trong khi chờ đợi việc tiêm chủng vaccine đạt được 70% dân số để đạt miễn dịch cộng đồng, thì người trẻ cố gắng nghiêm túc tuân thủ các biện pháp phòng bệnh, để tránh lây nhiễm cho những người thuộc nhóm nguy cơ.
- Giữ gìn sức khỏe thể lý khi còn mạnh khỏe, khi trở thành F0 và sau khi lành bệnh COVID-19[6]
Hiện chưa có sách vở hay hướng dẫn hồi phục chính thức nào cho bệnh COVID-19 như các bệnh khác. Một số bệnh nhân COVID-19 gặp tình trạng bị kéo dài các triệu chứng dù đã khỏi bệnh. May mắn là thống kê cho thấy số người bị di chứng không nhiều. “COVID-19 kéo dài” là hiện tượng đang được các nhà khoa học Đông, Tây nghiên cứu. Nhiều bệnh nhân COVID-19, dù nhẹ hay nặng, sau khi khỏi bệnh (xét nghiệm âm tính với SARS-CoV-2) vẫn bị triệu chứng như khó thở, yếu cơ, tâm thần không ổn nhiều tháng.
Shivdasani, một bác sĩ Ấn Độ, cho lời khuyên “ 6 bí quyết” giúp loại bỏ các triệu chứng và hồi phục nhanh hơn trong cuốn sách “COVID và hồi phục sau COVID”. Các lời khuyên hữu ích về dinh dưỡng và lối sống có thể giúp bệnh nhân COVID-19 chữa dứt các triệu chứng còn sót lại và mau chóng hồi phục. Các cách thức này vẫn có thể áp dụng cả cho người bình thường chưa bị bệnh COVID-19, và đang khi trở thành F0 không có triệu chứng.
- Chọn thực phẩm lành mạnh
Trước hết cần giữ an toàn vệ sinh thực phẩm.
Bảo đảm đầy đủ chất dinh dưỡng. Tăng cường protein (đạm), tránh carbohydrate (bột, đường…). Hạn chế tối đa ăn đường – đây là loại thực phẩm gây viêm và ức chế hệ miễn dịch. Tránh các thực phẩm chế biến. Tăng cường ăn chất béo tốt, chế độ ăn có chất béo sẽ giúp bạn không ăn nhiều. Chất béo bão hòa (xấu) làm tăng phản ứng viêm. Chọn chất béo tốt như dầu oliu, dầu trái nho, dầu trái bơ, dầu mù tạt.
Khi đang bệnh COVID-19, nên ăn thức ăn lỏng dễ tiêu hóa. Phải cố gắng ăn dù miệng không muốn ăn do có thể mất vị giác khi bệnh COVID-19.
Uống đủ nước.
- Bảo vệ sức khỏe đường ruột
Giữ đường ruột khỏe mạnh bằng cách nuôi dưỡng hệ vi khuẩn tốt chống lại tác nhân lạ, bao gồm virus gây COVID-19. Ăn chất xơ (như tỏi, dâu, hành tây, táo…) và men vi sinh (như yogurt, kefir) sẽ giúp vi khuẩn tốt sinh sôi. Hãy dùng các loại rau và trái cây có màu sắc khác nhau trong bữa ăn.
- Ngủ ngon
Hãy nghe theo nhịp sinh học của bạn, đi ngủ và thức dậy vào cùng một giờ mỗi ngày. Ngủ sớm và thức dậy sớm tốt hơn ngủ trễ dậy trễ. Cần ngủ ngon 6-7 tiếng mỗi đêm để giữ hệ miễn dịch khỏe mạnh.
- Hãy vận động
Tập thể dục giúp giảm tình trạng viêm và cải thiện hệ miễn dịch. Nếu nhà có chút khoảng sân, hãy ra ngoài để hấp thụ vitamin D từ ánh nắng mặt trời.
- Tư duy lạc quan tích cực, tránh căng thẳng, lo lắng
Căng thẳng sẽ làm cơ thể tiết ra các cytokin gây viêm, khiến hệ miễn dịch phải làm việc quá mức. Ngồi thiền và tập thở sẽ giúp giảm nhịp tim, huyết áp và tình trạng viêm, kích thích tiết ra các chất dẫn truyền thần kinh tốt như serotonin, dopamine.
Những ngày tháng đại dịch này, tôi thường gặp các bệnh nhân đi khám vì các loại bệnh khác nhau, nhưng một điểm nổi bật chung là tâm trạng lo lắng. Biết rằng nỗi lo chính đáng, với lý trí Thiên Chúa ban cho, con người cần có những lo liệu cho đời sống hiện tại và tương lai. Nhưng sau khi đã làm hết sức, hãy phó dâng cho Thiên Chúa, Cha chúng ta trên Trời. Thiên Chúa có nhiều cách tỏ lộ tình thương của Ngài với chúng ta, nhưng ta cần có sự nhạy cảm tinh tế để nhận ra được sự hiện diện chăm sóc yêu thương gần gũi của Ngài qua từng biến cố, sự kiện nhỏ trong đời sống. Khi tình thân của ta đối với Cha trên Trời ngày càng trở nên sâu đậm qua cầu nguyện, ta dễ nhận ra sự hiện diện yêu thương của Cha nơi mọi sự: một lời hỏi thăm ân cần của người thầy thuốc, một bó rau, vài viên thuốc hạ sốt được chia sẻ trong cơn đại dịch, một ánh nhìn thấu cảm, một bắt tay ấm áp, một bông hoa tươi thắm, tiếng chim hót làm lòng lâng lâng, tia nắng lan tỏa vào phòng, cơn mưa bất ngờ giải nhiệt cho thành phố oi bức…
Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không?… Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi… Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy (Mt 6, 19-34).
- Đẩy nhanh hồi phục bằng bổ sung vitamin
Vitamin D chống oxy hóa và kháng viêm tốt, giúp tăng cường hệ miễn dịch. Thiếu vitamin D sẽ khiến phổi hoạt động không tốt. Vitamin C thì giúp giảm protein CRP – dấu hiệu thường gặp khi cơ thể bị viêm nặng do COVID-19.
Tình trạng viêm mãn tính ở những người mắc bệnh nền là nguyên nhân khiến COVID-19 trầm trọng. Cần nâng cao sức khỏe và đề kháng của bạn. Chúng ta chưa thực sự kiểm soát được virus nhưng chúng ta có thể cải thiện sức khỏe bằng nhiều phương thức trong tầm tay.[7]
III. Giữ gìn sức khỏe tinh thần, tâm linh
Trong đời sống, tinh thần và thể xác gắn liền mật thiết với nhau. Sức khỏe tốt là khả năng cảm nhận sự thoải mái về hai phương diện thể xác và tinh thần.[8] Thí nghiệm y khoa, đo EEG (điện não đồ) của một em bé sơ sinh, nếu tách rời khỏi mẹ, EEG của bé xuất hiện những đợt sóng rối loạn; cho bé nằm cạnh mẹ, EEG của bé trở về ổn định. Vì thế, thật đau lòng khi những ngày qua, chứng kiến các clip chụp các bé 2, 3 tuổi, trong bộ bảo hộ rộng thùng thình, một mình lủi thủi lên xe cứu thương vào viện, hay một mình ngồi bơ vơ trong bệnh viện. Nước mắt tôi (có lẽ nhiều người khác nữa) đã rơi khi xem các hình ảnh đó. Có lẽ những người có trách nhiệm phải xem xét lại cách xử trí đối với các bé nhỏ bị nhiễm SARS-CoV-2.
Chúng ta cũng kinh nghiệm gặp ngày buồn phiền thì ăn uống khó tiêu, công việc suy tưởng sẽ bị ngưng trệ, ngay cả cầu nguyện cũng khó khăn. Ngày nay khoa học chứng minh được rằng tinh thần và thể xác ảnh hưởng qua lại lẫn nhau một cách chặt chẽ. Những yếu tố tâm lý cảm xúc tác động mạnh mẽ đến hệ thống miễn nhiễm (cơ chế phòng chống bệnh tật chính của cơ thể). Các tình cảm tích cực như yêu thương, yên ổn, thỏa mãn trong công việc và tin tưởng dường như tăng cường khả năng chống đỡ của hệ thống miễn nhiễm, giúp cơ thể tránh được bệnh. Trái lại các tình cảm tiêu cực, âm tính như lo âu, căng thẳng, thất vọng, chán nản…có xu hướng làm suy yếu hệ thống miễn nhiễm, và do đó giảm khả năng chống đỡ bệnh tật của cơ thể.[9]
Giữ vững niềm hy vọng
Bài này được viết vào ngày 22/7, lễ kính Thánh nữ Maria Mađalêna. Vị Thánh chỉ mong tìm được xác Thầy, thì lại gặp được chính Thầy đang sống (Ga 20, 11-18). Bên cạnh những điểm tiêu cực không thể tránh do đại dịch mang đến, hãy tìm ra những điểm tích cực do hoàn cảnh đại dịch mang lại để không bị stress. Chúa là nguồn sức mạnh, là ánh sáng, là lẽ sống, là nguồn vui, là niềm hy vọng của cuộc sống người Kitô hữu.
Mới cách đây vài tuần, tôi và hàng triệu khán giả được đánh động bởi ca sĩ Jane Marczewski, nghệ danh Nightbirde, 30 tuổi, bị ung thư phổi, di căn cột sống và gan. Với vài tháng còn lại cuộc đời và 2% hy vọng được sống, cô ấy vẫn hát ca ngợi Chúa, thi American’s got talent tháng 6/ 2021và được Golden Buzzer của vị giám khảo khó tính Simon. Cô ấy nói: “I have a 2% chance of survival, but 2% is not 0%”. Hy vọng thật sự là nguồn sức mạnh. [10]
- Những điều F0 tại nhà cần làm
“Không may thành F0, việc đầu tiên là phải bình tĩnh” (Bác Sĩ Trương Hữu Khanh)
Các số liệu thống kê nêu ở phần I là chứng cứ khoa học để bạn yên tâm nếu bạn bị nhiễm SARS-CoV-2 trở thành F0, và khi bạn không rơi vào nhóm nguy cơ. Bác Sĩ Trương Hữu Khanh- trưởng khoa Nhiễm – Thần Kinh, Bệnh viện Nhi Đồng 1, TP HCM, cho lời khuyên thiết thực như sau:
Cần bình tĩnh, đừng hốt hoảng, tránh tưởng tượng hoảng loạn.
Có khả năng cả nhà đều bị nhiễm. Khi ấy phải có người trụ cột- dù người này cũng là F0- để động viên các thành viên gia đình với đầy đủ lý chứng y khoa:
Nên nhớ 95% có thể tự khỏi. Trong 10 người nhiễm bệnh thì 8 người nhẹ có thể tự theo dõi và điều trị ở nhà chỉ có 2 người cần đến chăm sóc y tế, nhập viện. Điều quan trọng là bạn phải biết cách tự chăm sóc bản thân và người nhà. Chỉ có 5% thuộc nhóm nguy cơ là cần rất thận trọng.[11]
Bộ Y Tế, CDC và HCDC hướng dẫn cụ thể như sau
- Chuẩn bị
Phòng cách ly: Phòng riêng, thông thoáng, có cửa sổ, phòng vệ sinh riêng. Sử dụng quạt, không nên dùng điều hoà.
Vật dụng cơ bản: điện thoại riêng, đặc biệt, cần trang bị sẵn số điện thoại của cơ sở y tế, số điện thoại của tổ phản ứng nhanh quận, huyện để liên hệ khi cần thiết. Dung dịch khử khuẩn tay và bề mặt, đồ dùng vệ sinh cá nhân, thùng rác riêng, bình đun nước siêu tốc, khẩu trang y tế, găng tay, bát đũa (có thể dùng loại sử dụng 1 lần), bột giặt…
– Bàn hoặc ghế cá nhân đặt trước cửa phòng cách ly để nhận thức ăn và các vật dụng cá nhân cần thiết.
– Quần áo ngâm xà-bông hoặc nước sôi > 50 độ C là đủ giết virus. Người nhận giặt dùm phải đeo găng tay.
– Mang khẩu trang y tế (không cần khẩu trang N 95) thường xuyên, trừ khi ăn uống, vệ sinh cá nhân. Thay khẩu trang 2 lần/ngày, khử khuẩn bằng cồn trước khi vứt bỏ khẩu trang.
– Thường xuyên khử khuẩn tay, hoặc rửa tay bằng xà bông theo đúng quy cách, khử khuẩn hay lau chùi các vật dụng và bề mặt tiếp xúc như mặt bàn, tay nắm cửa, bồn cầu, lavabo …
– Chú ý vệ sinh an toàn thực phẩm tránh ngộ độc rồi gây nhầm lẫn với triệu chứng COVID-19.
Thuốc: Hạ sốt, tiêu hoá, dạ dày, tiêu chảy, chữa đau họng, oresol, nước súc họng hay nước muối sinh lý (0,9%) súc miệng, xịt mũi, các loại tăng sức đề kháng nhất là Vitamin C, Vitamin D3.
Thiết bị y tế: Nhiệt kế, máy đo huyết áp, và máy đo oxy trong máu SpO2. Có thể tải App về điện thoại để đo được nhịp thở, SpO2.
- 2. Đối với F0 là trẻ em, người cao tuổi, người có bệnh lý nền không tự chăm sóc cá nhân được thì cần có người hỗ trợ và chăm sóc khi cách ly tại nhà.
- Kiểm tra, theo dõi: chú ý ngày thứ 5 đến ngày thứ 8 là thời kỳ dễ có biến chứng
Đo thân nhiệt: tối thiểu 2 lần/ngày, hoặc khi cảm thấy có dấu hiệu sốt.
Đếm mạch: Vị trí đặt ba ngón tay như hình, bạn sẽ thấy mạch đập dưới tay mình.
– Người lớn mạch bình thường 60-85 lần/ phút.
– Trẻ sơ sinh mạch khoảng 100-160 lần/phút; 0-5 tháng tuổi 90-150/phút; 6-12 tháng tuổi 80-140/phút; 1-3 tuổi 80-130/phút; 3-5 tuổi 80-120/phút; 6-10 tuổi 70-110 lần; 11-14 tuổi 60-90/phút.
Đo nhịp thở: Nằm thư thái 10 phút, đếm số lần lồng ngực phồng lên xẹp xuống trong 1 phút .
– Người lớn nhịp thở bình thường là 16-20 lần/phút,
– Trẻ em nhịp thở nhanh hơn người lớn: trẻ mới sinh 30-50 lần một phút; 0-5 tháng tuổi 25-40 lần; 6 tháng-5 tuổi 20-30 lần; 6-10 tuổi 15-30 lần; trẻ 11-15 tuổi 12-30 lần.
Đo oxy trong máu (SpO2), tùy theo kết quả mà xử lý
– SpO2 > 94% , người bệnh tiếp tục theo dõi 3-4 lần/ngày.
- Điều trị cơ bản
Nếu sốt < 38oC, có thể dùng paracetamol hạ sốt, liều 10-15 mg/kg/lần, không quá 60 mg/kg/ngày cho trẻ em và không quá 2 g/ngày với người lớn. Dùng thuốc hạ sốt cách nhau 4-6 giờ tùy loại. Thuốc hạ sốt có hiệu quả sau 1 giờ nên tránh nôn nóng mà uống quá liều lượng, có thể ảnh hưởng tới gan.
Khi bị sốt không nên nằm lâu một tư thế, có thể nằm nghiêng, sấp, hoặc ngồi thẳng đứng để thay đổi tư thế 2-3 giờ một lần.
Không tự ý dùng thuốc kháng sinh. Các loại thuốc kê đơn phải do bác sĩ chỉ định.
- Tập thở: rất quan trọng
Thông thường ta chỉ thở phần trên, ít người thở phần dưới của phổi, chỉ có những người tập khí công hoặc yoga mới tập thở phần dưới của phổi. Khi khỏe mạnh, thở phần trên phổi là đủ trao đổi khí rồi, tuy nhiên khi bị COVID-19 phần trên không đủ trao đổi khí thì phải sử dụng tất cả vùng dưới của phổi.
Theo BS Trương Hữu Khanh, bệnh nhân COVID-19 bị khó thở có thể do hai nguyên nhân: do bệnh nhân quá lo lắng, hay do có tổn thương ở phổi. Nếu khó thở do lo lắng, tập thở sẽ giúp bệnh nhân chú tâm vào nhịp thở nên giảm lo âu, sẽ thở được bình thường. Hơn nữa là khi tập thở, toàn bộ vùng phổi phía gần cơ hoành sẽ nở hết ra, giúp phổi trao đổi oxy tốt hơn.
Phương pháp thở bụng (huy động cả cơ hoành)
Dù còn thở bình thường, vẫn tập thở. Nếu bắt đầu có dấu khó thở (như phải ngồi mới thở được, cảm giác hơi ngộp thở), càng phải tập thở.
– Hít vô thật chậm, cho tới khi bụng phình lên
– Rồi thở ra thật chậm như thổi lửa, cho tới khi bụng xẹp xuống
– Ngày làm 2-3 lần, mỗi lần 15-20 nhịp.[12]
Nằm sấp giảm áp lực phổi cho người bệnh COVID-19
Theo BS Trương Hữu Khanh, các bệnh nhân khó thở liên quan đến COVID-19 thì việc nằm sấp rất hữu ích, sẽ vận dụng được tất cả phần phổi ở ở phía dưới. Nằm nghiêng bên phải 30 phút, rồi nằm nghiêng bên trái 30 phút để tất cả phổi hoạt động.
Hướng dẫn tư thế nằm sấp để cải thiện oxy phổi. Ảnh: Bác sĩ Khanh cung cấp[13]
- Khai báo y tếmỗi ngày ít nhất 1 lần qua ứng dụng Khai báo y tế điện tử
- Cần gọi nhân viên y tế khi có một trong các dấu hiệu:sốt > 38oC, ho, đau họng, tiêu chảy, mất mùi/vị, đau ngực, nặng ngực, cảm giác khó thở (khi không thể hít sâu và nín thở đủ 10 giây), khi nhịp thở > 20 lần/phút, mạch > 100/phút hoặc < 50 lần/phút để được hướng dẫn xử trí phù hợp.
- Cần gọi cấp cứu khi có các triệu chứng sau:
Nhịp thở người lớn > 24 lần/ phút
SpO2 < 94%: dấu hiệu khách quan quan trọng, dễ phát hiện bằng cách đo.
Đau thắt ngực, khó thở khi vận động
Không thể nói đủ câu
Lẫn lộn về thời gian, địa điểm
Da xanh, môi nhợt, choáng váng
Không tự đi, cầm nắm, ăn uống được
Lạnh đầu ngón tay, ngón chân
Gọi 115 hoặc 1900 9095 hoặc 1022
- Người chăm sóc
– Trẻ em, người có bệnh nền nguy hiểm, người trên 65 tuổi không nên ở cùng bệnh nhân COVID-19.
– Người chăm sóc cần mặc đồ bảo hộ, khẩu trang và găng tay.
– Bỏ rác thải vào thùng riêng, và xử lý riêng.
– Rửa tay sạch, súc miệng nước muối.
– Bổ sung thêm vitamin C, B1, B6, B12.[14]
– Đối với người chăm sóc, người ở cùng nhà với người mắc COVID-19, phải cam kết với chính quyền địa phương tuân thủ các điều kiện cách ly tại nhà theo quy định. Đồng thời, khai báo y tế điện tử cho bản thân và cho người mắc COVID-19 khi người bệnh không tự khai báo được 1 lần/ngày và khi có dấu hiệu bất thường cần khai báo.
– Thực hành được các biện pháp phòng, kiểm soát lây nhiễm, biết phát hiện các dấu hiệu chuyển nặng qua các tài liệu thông tin truyền thông của ngành y tế.[15]
- Nhóm sắp hết bệnh được cho về nhà
Bệnh thường nặng vào ngày thứ 5 (có khi ngày thứ 3) đến ngày thứ 8. Thường giai đoạn này lượng virus trong người bệnh cũng tăng cao, được chứa nhiều trong các giọt bắn. Sau 8 ngày bệnh thường sẽ ổn và lượng virus trong người bệnh cũng giảm thấp; xét nghiệm RT-PCR dương tính với lượng virus rất thấp sẽ được cho xuất viện, đặc biệt trong tình hình hiện nay số ca bệnh tăng vọt cần giường bệnh cho các ca bệnh mới nặng.
– Đã được về không sợ nặng thêm
– Không được ra khỏi nhà, vì tuy lượng virus thấp không nguy hiểm cho bản thân nhưng vẫn có thể lây nhiễm cho người khác.
– Giữ cách ly như trường hợp F0 đã nêu trên
– Cách thức ăn uống, nghỉ dưỡng, vận động nhẹ, như đã nói ở phần I.
– Thường người bệnh sẽ được thử test RT-PCR lại vào ngày thứ 14. Thời gian sau đó người bệnh an tâm vì đã có miễn dịch. Nếu test RT-PCR (-) ngày thứ 14 được xem như khỏi bệnh và sinh hoạt bình thường.[16]
- Nhóm F0 cách ly tập trung ở “Tầng 1” theo sơ đồ “5 tầng điều trị”
Đây là nhóm F0 không triệu chứng thì cách thức theo dõi, ăn uống, vẫn như các điều đã nói trên đối với F0 theo dõi tại nhà. Đặc điểm của nhóm này cũng như nhóm F0 triệu chứng nhẹ ở các bệnh viện dã chiến (Tầng điều trị thứ 2) là phải chung sống với nhiều người xa lạ, đủ mọi thành phần xã hội nên khá phức tạp.
– Điều đầu tiên vẫn là cần bình tĩnh.
– Giữ tư duy tích cực như đã nói ở Phần I. Giữ đời sống tâm linh, chiêm niệm, cầu nguyện, lần hạt Mân côi để có thêm sức mạnh.
– Ý thức và giữ gìn vệ sinh chung: Sức khỏe của cá nhân là sức khỏe của cộng đồng và ngược lại.
– Cộng tác với bác sĩ, y tá, nhân viên phục vụ. Các bác sĩ, y tá, nhân viên y tế đã hy sinh xa cách gia đình để chăm sóc điều trị bệnh nhân COVID-19, có người thậm chí hy sinh cả mạng sống, vì thế bệnh nhân không nên gây thêm khó khăn vô lý cho nhân viên y tế.
– Có nhiều bệnh nhân cô đơn, lo lắng, nên bạn, dù là F0, vẫn có thể an ủi họ, đem lại niềm vui, bình an và hy vọng cho họ. Lúc ấy, chính bạn sẽ thấy vui hơn, bình an hơn, và mau khỏe hơn.
TẠM KẾT: Bài viết này hoàn thành vào ngày thứ sáu 30/7, tuần 17 Thường niên với đoạn Tin Mừng Mt 13, 54-58 nói về Chúa Giêsu về quê của Ngài, dân làng Nazarét đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công, con Bác Thợ mộc. Khi xưa các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa chỉ vì Chúa Giêsu sống như một con người. Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện trong một xã hội đang đầy dẫy đau thương này, trong một Giáo Hội còn nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con, để thấy Chúa tỏ mình thật bình thường khiêm tốn giữa lòng cuộc sống.[17] Xin cho các bệnh nhân có được con mắt đức tin để dù hoàn cảnh nào, vẫn phó thác vào tình yêu quan phòng của Chúa, đón nhận Thánh Ý Chúa, cộng tác vào chương trình cứu độ của Chúa.
BS Trần Như Ý Lan, Dòng Đức Bà
Những ngày cuối tháng 7/2021
[1] ECMO là phương pháp oxy hóa qua màng ngoài cơ thể, sử dụng một hệ tuần hoàn để thực hiện quá trình trao đổi oxy ở bên ngoài của cơ thể nhằm hỗ trợ và duy trì chức năng sống ở các bệnh nhân suy tuần hoàn hoặc suy hô hấp nặng.vinmec.com
[2] Báo Thanh Niên, “TP.HCM: Thêm 4.353 ca Covid-19 xuất viện, 815 bệnh nhân tử vong; 21.338 ca hồi phục”, youtube.com, (28/7/2021).
[3] Sở Y Tế TP HCM, “Chuyển đổi sang mô hình tháp 5 tầng trong thu dung điều trị các trường hợp F0”, medinet.gov.vn, (24/7/2021).
[4] Hân Hồ, “Sở Y tế hướng dẫn F0 chăm sóc và theo dõi sức khỏe tại nhà”,thanhnien.vn, (29/07/2021).
[5] BS Trương Hữu Khanh, “ Bị nhiễm Covid-19 phải làm thế nào?” youtube.com >, (21/7/2021).
[6] Phần này được trích lại từ bài viết “Vài điều tản mạn Y Khoa trong đại dịch COVID-19 tại Việt Nam”,giaophanmytho.net>, (25/7/2021).
[7] Phúc Long, “6 lời khuyên giúp hồi phục sức khoẻ sau khi hết COVID-19”,tuoitre.vn, (12/07/2021).
[8] Nguyễn thị Hải Phượng biên soạn, Giảm Stress, (Nhà Xuất bản Tổng hợp Tp Hồ chí Minh, 2005), 4.
[9] Bác Sĩ Anthony J. Suttilaro, Living Well naturally (Houghton Mifflin com. Boston, 1986), bản dịch tiếng việt
[10] American’s Got talent 2021, youtube.com
[11] BS Trương Hữu Khanh, “ Bị nhiễm Covid-19 phải làm thế nào?” youtube.com, (21/7/2021).
[12] BS Trương Hữu Khanh, “Bị nhiễm Covid-19 phải làm thế nào?”
[13] Bác sĩ Trương Hữu Khanh, “Không may thành F0, việc đầu tiên là phải bình tĩnh”,vnexpress.net, (27/7/2021).
[14] “Hướng dẫn F0 cách ly tại nhà”, vnexpress.net; Hân Hồ, “Sở Y tế hướng dẫn F0 chăm sóc và theo dõi sức khỏe tại nhà”.
[15] Hân Hồ, “Sở Y tế hướng dẫn F0 chăm sóc và theo dõi sức khỏe tại nhà”.
[16] BS Trương Hữu Khanh, “Bị nhiễm Covid-19 phải làm thế nào?”
[17] Lm. Nguyễn Cao Siêu, S.J, “ Đức Giêsu về quê”, hdgmvietnam.com