2021
Cái nghèo theo tâm thức của Đức Thánh Cha Phanxicô
Lm. Gioan Phan Văn Định
Mục lục
II. TƯƠNG QUAN GIỮA ĐTC VỚI NGƯỜI NGHÈO IV. CHỌN LỰA VÀ THĂNG TIẾN NGƯỜI NGHÈO 2. Công bằng xã hội và nhân quyền |
I. DẪN NHẬP
“Nghèo” là chủ đề quen thuộc đã được nhiều vị Giáo hoàng nhắc đến, nhưng cách riêng, với Đức Thánh Cha (ĐTC) Phanxicô, nghèo không chỉ là chủ đề thần học nhưng còn là lối sống của cá nhân ngài. Lối sống nghèo khó của ĐTC Phanxicô đã được giới truyền thông, người Công giáo, và cả những người ngoài Công giáo, cảm phục và khen ngợi. Trong chuyến tông du đến Philippines năm 2012, ĐTC đã khiến giới trí thức Công giáo ngỡ ngàng khi ngài xác tín vai trò bất khả phân ly giữa người nghèo với sứ điệp của Đức Kitô: “Nếu chúng ta loại người nghèo ra khỏi Tin Mừng, chúng ta không thể hiểu được toàn bộ sứ điệp của Đức Kitô.” Ngoài ra, nơi Tông huấn Evangelii Gaudium, dựa trên nền tảng Kitô học, ĐTC còn mời gọi các tín hữu tham gia vào đời sống xã hội, kinh tế và chính trị để phục hồi cho người nghèo những gì vốn thuộc về họ.[1] Đây quả là nét độc đáo của ĐTC, nhưng điều này cũng mở ra một vài thắc mắc cần được xác định rõ: Người nghèo có liên hệ thế nào với Đức Kitô và sứ điệp Tin Mừng? ĐTC có hướng Giáo hội đến hoạt động từ thiện xã hội như một tổ chức NGO,[2] hoặc khuyến khích Giáo hội tham gia vào hoạt động kinh tế và chính trị không?
Dựa trên lối sống của ĐTC, Tông huấn Evangelii Gaudium (EG) và Thông điệp Fratelli Tutti (FT), bài viết này sẽ trình bày quan niệm của ĐTC về cái nghèo và góp phần làm sáng tỏ những thắc mắc trên đây với ba nội dung chính: (1) Tương quan giữa ĐTC với người nghèo; (2) Nền tảng suy tư của ĐTC; (3) Ưu tiên chọn lựa và thăng tiến người nghèo. Mong rằng những khảo luận về lối sống và suy tư của ĐTC sẽ hữu ích cho người Kitô hữu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cho người nghèo.
II. TƯƠNG QUAN GIỮA ĐTC VỚI NGƯỜI NGHÈO
Với ĐTC Phanxicô, lối sống gần gũi người nghèo đã cắm rễ sâu nơi cuộc sống hằng ngày và tâm thức mục vụ từ khi ngài còn là giám mục và hồng y thuộc Tổng giáo phận Buenos Aires, nước Argentina. Ngài thường sử dụng phương tiện giao thông công cộng (xe buýt, xe điện…) thay vì xe ôtô, taxi hoặc xe sang vì ngài muốn có cơ hội gặp gỡ tha nhân, biết và chia sẻ với những khó khăn của họ. Suốt thời gian khủng hoảng kinh tế tại Argentina vào những năm 1990, ngài chọn sống trong một nhà trọ đơn sơ thay vì sống tại tòa tổng giám mục.
Vào tháng 3 năm 2013, nhiều người trên thế giới đã khen ngợi và cảm phục về hình ảnh đẹp từ lối sống nghèo khó của vị Tân Giáo hoàng. Gương sống của ngài như một thông điệp về dung mạo mới mẻ của Giáo hội dành cho người nghèo. Từ khi lên ngôi Giáo hoàng, ĐTC chọn sống tại nhà trọ Santa Marta, nơi ở dành cho khách vãng lai, thay vì sống tại dinh thự dành cho Giáo hoàng.[3] Xuất phát từ lời nhắc nhở của một vị hồng y đã nghỉ hưu, Đức hồng y Claudio Hummes: “Đừng quên người nghèo”, Đức Thánh Cha đã chọn tên gọi Phanxicô làm tước hiệu cho triều đại giáo hoàng của mình. Tước hiệu Phanxicô là dấu chỉ cho thấy ĐTC muốn noi gương sống khó nghèo của thánh Phanxicô Assisi, hướng lòng về người nghèo trong triều đại giáo hoàng của ngài. Xét về nguyên nhân chọn tước hiệu, tác giả Olga Caro cho rằng có lẽ sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần trong mật viện về mục vụ cho người nghèo đã trở nên mạnh mẽ nơi ĐTC, và có lẽ đường hướng mục vụ này vốn đã là mối bận tâm then chốt từ lâu trong đời sống của ngài.[4]
Cũng trong tháng 3/2013, người Công giáo hết sức ngạc nhiên khi nghe tin lần đầu tiên ĐTC phá vỡ truyền thống rửa chân vào ngày lễ thứ Năm Tuần Thánh. Thay vì rửa chân cho 12 giáo sĩ như những vị tiền nhiệm thường làm, ĐTC đã rửa chân cho 12 tù nhân trẻ trong chuyến viếng thăm nhà tù Casal Del Marmo, nước Ý. Trong số 12 người được rửa chân có 2 người phụ nữ trẻ, một trong hai người này là người Hồi giáo.[5] Việc làm này cho thấy ĐTC thể hiện sự gần gũi người nghèo, không phân biệt nam nữ hoặc tôn giáo.
Như thế, kể cả khi sống ở Argentina, nơi có nhiều người nghèo, trong vai trò giám mục và hồng y, hay ở Rôma trong cương vị giáo hoàng, ĐTC vẫn thường gần gũi với người nghèo. Nơi ngài, cái nghèo không còn là những nguyên tắc thần học trừu tượng hay viễn tượng mục vụ trên bàn giấy, nhưng là lối sống thực tế của một vị Giáo hoàng. Lối sống này đã tác động lên cách triển khai suy tư của ĐTC về chủ đề người nghèo nơi các giáo huấn chính thức của Giáo hội, cách riêng là Tông huấn Evangelii Gaudium và Thông điệp Fratelli Tutti.
III. NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG
1. Ai là người nghèo?
Dù đã nhiều lần nhắc đến người nghèo trong bài giảng và văn kiện chính thức nhưng ĐTC vẫn chưa trực tiếp đưa ra định nghĩa về người nghèo.[6] Tuy nhiên, qua nghiên cứu, Đức Hồng y Pedrioli nhận xét: Trong tâm thức của ĐTC, người nghèo là những người nghèo về điều kiện vật chất. Nghèo vật chất không chỉ gồm những người đói khát và bị bóc lột, nhưng còn là những người thiếu điều kiện bình thường về chăm sóc sức khỏe, y tế, nhà ở, giáo dục, thu nhập và những quyền căn bản. [7] Đức Hồng y Pedrioli lưu ý đến khía cạnh thể lý và xã hội khi đưa ra định nghĩa về người nghèo theo tâm thức của ĐTC Phanxicô.
Thế nhưng, nơi Tông huấn EG, khi thảo luận về chủ đề người nghèo trong xã hội, ĐTC còn đề cập đến những hình thức nghèo và bị tổn thương mới. Phụ nữ nghèo và thai thi là những người không có được quyền tự vệ chính đáng, bị loại trừ, bị đối xử tệ bạc và bạo lực.[8] Đối tượng người nghèo nơi ĐTC không chỉ là nghèo điều kiện vật chất nhưng còn là những người nghiện ngập, tị nạn, bị loại trừ và cô lập.[9] Nơi Thông điệp FT, ĐTC còn đề cập đến tình trạng những người già và người tàn tật không được chăm sóc, bị bỏ rơi và bị xem như virus corona.[10] Nơi Tông huấn Querida Amazonia, ĐTC nhận thấy người dân bản địa (người dân tộc thiểu số) của vùng Amazon bị đẩy ra khỏi thành phố là hình thức nô lệ mới từ chính sách bài ngoại, nạn khai thác tình dục và buôn người.[11]Nói chung, người nghèo là nạn nhân của những bất công và tệ nạn xã hội,[12] của sự ích kỷ cá nhân và ý thức hệ chính trị.[13] Từ những hiểu biết về người nghèo tại Argentina, linh mục Luciani lưu ý thêm: Người nghèo là những người không có khả năng phát triển thực sự vì điều kiện sống của họ xuất thân từ nghèo đói và bị loại trừ khốc liệt. Thậm chí họ còn bị loại ra khỏi những kế hoạch và chương trình phát triển toàn cầu trong xã hội hiện đại.[14]
Vì thế, việc tìm hiểu chủ đề nghèo theo quan niệm của ĐTC Phanxicô không chỉ dừng lại nơi đối tượng nghèo đói, nhưng còn nơi những người bị loại trừ, bị bỏ rơi và cô lập bởi những người xung quanh, bởi kế hoạch phát triển xã hội và thể chế chính trị. ĐTC không chỉ quan tâm đến người nghèo về điều kiện vật chất mà còn về điều kiện xã hội, kinh tế và chính trị. Đây vốn là những điều kiện căn bản và cần thiết cho việc phát triển con người toàn diện.
2. Nền tảng suy tư
- Ưu tiên chọn lựa người nghèo
Theo tác giả Stan Chu Llo, nơi Tông huấn EG, một trong những khẩu hiệu đáng nhớ nhất diễn tả khao khát của ĐTC cho Giáo hội đương thời là “Giáo hội nghèo và cho người nghèo”.[15] Tư tưởng này không trực tiếp bắt nguồn từ ĐTC Phanxicô mà được thôi thúc từ những vị Giáo hoàng tiền nhiệm. Theo cha Rafael Luciani,[16] ĐTC Gioan XXIII là vị Giáo hoàng đầu tiên khởi xướng ý tưởng Giáo hội hiện diện cho người nghèo vào năm 1962: “Theo căn tính và ước muốn, Giáo hội hiện diện cho tất cả mọi người, cách riêng là cho người nghèo”[17] ( Tiếp sau đó, lời mời gọi ‘“Giáo hội nghèo và cho người nghèo” được đưa vào Công đồng Vaticanô II, được phát triển bởi các thần học gia Gustavo Gutiérrez, Ignacio Ellacuría và Jon Sobrino,[18] và được Liên Hội đồng Giám mục Châu Mỹ La Tinh tiếp nhận năm 1968.[19]
Gần đây, Đức Bênêđictô XVI còn nói thêm Thiên Chúa đã trở nên nghèo cho người nghèo và làm cho cái nghèo của chúng ta trở nên giàu có.[20] Từ đường hướng mục vụ của Giáo hội và nền tảng thần học của vị tiền nhiệm này, ĐTC Phanxicô đã từng bước suy tư thêm về chọn lựa ưu tiên cho người nghèo và thăng tiến người nghèo toàn diện. Có thể nói, dù ĐTC Phanxicô được sinh ra và lớn lên tại Argentina, châu Mỹ La Tinh, nơi có nhiều người nghèo, nhưng lời mời gọi Giáo hội “chọn lựa người nghèo” của Ngài không nằm ngoài hướng đi chung của Giáo hội toàn cầu đã được những vị tiền nhiệm khởi xướng.
Theo cách giải thích của tác giả George Sauch, thật nguy hiểm khi hiểu chọn lựa người nghèo (the option for the poor) như một điều ưu tiên nhưng có thể chọn lựa hay từ chối (an optional preference for the poor), mà cần phải hiểu đây là lời mời gọi hãy ưu tiên chọn lựa người nghèo (preferential option for the poor).[21] Tuy nhiên, dù phục vụ người nghèo và những người bị bỏ rơi, giúp đỡ vật chất và bảo vệ quyền lợi xã hội cho họ là điều cần thiết nhưng giúp họ sống mật thiết với Chúa – Đấng thăng tiến và ban phẩm giá cho họ – lại là điều cần thiết hơn.[22] Sứ mạng cốt yếu của Giáo hội không phải là phát triển xã hội nhưng hướng con người đến ơn cứu độ của Thiên Chúa qua trung gian của Giáo hội lữ hành. Vì thế, ĐTC xác định “chọn lựa người nghèo” phải được đặt nền tảng trên chiều kích thần học,[23] cách riêng chiều kích Kitô học và Giáo hội học.
- Chiều kích Kitô học
“Chọn lựa người nghèo” được đặt nền tảng trên sự liên kết giữa Mầu nhiệm Nhập thể và giáo huấn của Đức Kitô. Nơi Đức Kitô, Thiên Chúa đã mặc lấy hình ảnh một người nghèo thực sự. Người đã sống trọn cuộc đời trong điều kiện sống của một người nghèo. Nơi người nghèo, chúng ta nhận ra dung mạo và thân thể của Đức Kitô, Đấng đã mặc lấy cái nghèo mà làm cho chúng ta trở nên giàu có (2Cr 8,9).[24] Từ đó, ĐTC nhận thấy sự hiện diện của Đức Kitô nơi người nghèo vì ngài tin rằng “người nghèo là thân thể Đức Kitô”.[25] Đức Kitô đã trở nên nghèo khó để luôn gần gũi người nghèo và những ai bị lãng quên.[26] Không chỉ người nghèo, Lời Chúa cũng thôi thúc người Kitô hữu nhận ra Đức Kitô nơi mỗi anh em bị bỏ rơi và bị loại trừ.[27]
Nơi Thông điệp FT, từ hành vi phớt lờ người bị hại của hai thầy tư tế trong dụ ngôn người Samaria nhân hậu, ĐTC nhận thấy niềm tin và tôn thờ Thiên Chúa là điều kiện cần nhưng chưa đủ để chắc chắn rằng chúng ta đang làm hài lòng Thiên Chúa. Trong việc thực hành việc đức tin, chúng ta chỉ thực sự mở lòng ra với Chúa khi chúng ta mở lòng ra với anh em.[28] Qua hình ảnh người Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu ngụ ý diễn tả sự quan tâm của Chúa đến những người nghèo và bị loại trừ. Người nghèo có chỗ đứng đặc biệt nơi trái tim của Chúa. [29]
Người nghèo có vai trò đặc biệt trong đời sống Giáo hội. Ơn cứu chuộc của Thiên Chúa đã đi vào thế gian và được mạc khải qua sự hiện diện của người nghèo: “Toàn thể lịch sử cứu chuộc được đánh dấu bởi sự hiện diện của người nghèo.”[30] Tin Mừng cứu độ đã bắt đầu và gắn chặt với đời sống của người nghèo. Thật vậy, qua lời thưa “xin vâng” của Đức Maria, một phụ nữ nghèo, Đức Kitô đã nhập thể và được sinh ra trong một gia đình nghèo.[31] Và cũng chính nơi đó, quà tặng cứu độ của Thiên Chúa đã trở nên hữu hình trong lịch sử nhân loại. Suốt dòng lịch sử, người nghèo chia sẻ cảm thức đức tin của dân Chúa. Qua sự khó nghèo của mình, họ nhận biết đau khổ của Đức Kitô.[32] ĐTC khẳng định “người nghèo dạy chúng ta nhiều điều; chúng ta cần để chính mình được loan báo Tin Mừng nhờ người nghèo.”[33] Quả thật, đời sống đức tin của người Kitô hữu được tăng trưởng nhờ vai trò của người nghèo.
Vì Đức Kitô đứng về phía người nghèo và Tin Mừng cứu độ gắn chặt với đời sống người nghèo nên những hiểu biết về sứ điệp của Đức Kitô cũng gắn liền với đời sống của người nghèo. Dựa trên nền tảng Kitô học này, ĐTC đã mạnh dạn tuyên bố xác tín của ngài tại Philippines: “Nếu tách người nghèo ra khỏi Tin Mừng, chúng ta không thể hiểu được toàn thể sứ điệp của Đức Kitô.” Do đó, tất cả những ai được đong đầy niềm vui của Tin Mừng cũng phải gần gũi với người nghèo trong cùng một cách thức như Thiên Chúa đã thực hiện.
- Chiều kích Giáo hội học
Nơi Thông điệp FT, ĐTC triển khai sự liên đới của mọi người trong xã hội qua dụ ngôn của Chúa Giêsu về người Samaria nhân hậu. Sự quan tâm chăm sóc của người Samaria với người bị hại cho thấy mỗi cá nhân đều bị ràng buộc thâm sâu với các cá nhân khác.
Cuộc sống không đơn thuần là những khoảng thời gian đang trôi qua, nhưng là những khoảnh khắc con người tương tác với nhau.[34]
Dụ ngôn này đề xuất việc tái xây dựng một thế giới đã bị tổn thương. Tình thương trong cộng đoàn có thể được tái xây dựng bởi những người tự đồng hóa bản thân với những người bị tổn thương và bị loại trừ.[35] ĐTC nói chúng ta không thể dửng dưng trước đau khổ, không thể để bất cứ ai lâm vào hoàn cảnh bị loại trừ. Trái lại, chúng ta nên cảm thấy phẫn nộ, bị thách thức để thoát khỏi khuynh hướng tìm sự thoải mái cho mình mà tiếp xúc với đau khổ của con người.[36] Quyết định tiếp nhận hay loại trừ những người bị thương đang nằm bên vệ đường không chỉ được đặt ra trong tương quan cá nhân, nhưng còn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và tôn giáo.[37]
ĐTC nhận thấy tình thương là sợi chỉ đỏ nối kết con người lại với nhau. Tình thương chân thành không phân biệt xuất thân của nhau. Tình thương sẽ phá vỡ xiềng xích đang chia cắt và loại trừ con người. Tình thương xây dựng những chiếc cầu nối con người lại với nhau trong cùng một đại gia đình nhân loại, nơi mọi người đều cảm thấy như ở nhà.[38] Sự hiệp nhất được mở rộng từ phạm vi gia đình đến cộng đoàn, quốc gia và thế giới vì “chúng ta được mời gọi hiệp nhất trong cùng một gia đình” hơn là tổng cộng những thành viên riêng lẻ.”[39]
Thế nên, Giáo hội không loại trừ người nghèo nhưng đối xử bằng sự quan tâm xuất phát từ tình thương.[40] Với tình thương chân thành, Giáo hội có trách nhiệm phục vụ người nghèo vượt lên trên dáng vẻ bên ngoài của họ. Chọn lựa người nghèo không chỉ là giúp đỡ hay cổ võ chung chung, nhưng còn là gặp gỡ cá nhân người nghèo trong những nhu cầu thiết thực, nơi văn hóa và đời sống đức tin của họ.[41] Giáo hội muốn bảo đảm chắc chắn rằng nơi mỗi cộng đoàn, người nghèo đều cảm thấy như ở nhà.
Trong Tông huấn EG, ĐTC xem chọn lựa người nghèo như hình thức ưu tiên của hoạt động bác ái Kitô giáo mà toàn thể truyền thống Giáo hội đang làm chứng.[42] Với sự liên đới của mọi người trong cùng một đại gia đình nhân loại, Giáo hội cần mang văn hóa gặp gỡ đến với người nghèo và những người đau khổ trên thế giới. Văn hóa gặp gỡ phải là điểm khởi đầu cho sứ mạng của Giáo hội. Được thúc đẩy bởi ân sủng, chứng nhân Tin Mừng phải phát triển khả năng mang ánh sáng của Thiên Chúa đến cho anh chị em, cách riêng là cho người nghèo, những người thiếu sức mạnh, ánh sáng và niềm an ủi phát xuất từ tương quan huynh đệ với Đức Kitô.[43] Thái độ này nên lan tỏa đến tất cả các khía cạnh trong Giáo hội như cơ cấu, thể chế, sứ vụ, đời sống bí tích, niềm tin và thực hành Kitô giáo.[44]
Cùng với văn hóa gặp gỡ, gần gũi cũng là thái độ Giáo hội nên biểu lộ với dân Chúa.[45] Khi khuyến khích gần gũi người nghèo và tha nhân, ĐTC mong muốn Giáo hội ra đi, phá tan các bức tường ngăn cách giữa Giáo hội với người nghèo.[46] Mỗi cộng đoàn loan báo Tin Mừng cần hội nhập vào lời nói và việc làm của người dân trong cuộc sống thường ngày. Điều đó góp phần nối liền ngăn cách, gắn chặt với đời sống và đụng chạm đến nỗi đau thể xác của Đức Kitô nơi tha nhân. Nhờ đó, chứng nhân Tin Mừng có thể cảm nhận được “mùi chiên”.[47]
Giáo hội không chỉ quan tâm đến người nghèo nhưng còn nhận ra sự nghèo khó, lắng nghe tiếng kêu khóc, cảm nếm và xúc động trước đau khổ của họ.[48] Giáo hội và các nhà lãnh đạo Giáo hội phải đặt nền tảng đời sống trên thực tại đau đớn của những người yếu đuối. Vượt trên cả tương quan xã hội trần thế, người Kitô hữu cần phục vụ người nghèo với sự thúc bách của Tin Mừng như tình thương huynh đệ, phục vụ trong khiêm tốn và quảng đại, công lý và lòng thương xót.[49]
Trách nhiệm này chỉ có thể thực hiện được khi Giáo hội Công giáo là một Giáo hội nghèo. Giáo hội sẽ không bao giờ có thể nhận thấy được sự nghèo đói trên thế giới nếu Giáo hội không sống căn tính của một Giáo hội nghèo.[50] Theo nhận định của Rafael Luciani về tư duy của ĐTC, thực thi căn tính Giáo hội nghèo là điều kiện cần thiết đầu tiên để Giáo hội nghèo và cho người nghèo. Thiếu điều kiện này, Giáo hội sẽ không thể là dấu chỉ và bí tích mang lại khả năng biến đổi tâm hồn.[51] Khi trở nên nghèo và cho người nghèo, Giáo hội không còn quan sát những cảnh đời bất công từ xa, nhưng từ sự gặp gỡ thân tình và gần gũi người nghèo.
IV. CHỌN LỰA VÀ THĂNG TIẾN NGƯỜI NGHÈO
1. Thăng tiến xã hội
Với ĐTC Phanxicô, ơn cứu chuộc có chiều kích xã hội. Đức Kitô không cứu chuộc từng cá nhân riêng lẻ nhưng cứu những con người có tương quan xã hội.[52] Nơi Thánh Ý Thiên Chúa, chúng ta không nên nghĩ về khái niệm như “họ” hay “chúng nó”, nhưng là khái niệm “chúng ta”.[53] Thiên Chúa ngự trị trong thế giới, trong và qua chúng ta, nên đời sống xã hội sẽ là môi trường huynh đệ, công bằng, bình an và nhân phẩm cộng đồng. Đời sống Kitô hữu cần có sự ảnh hưởng nào đó lên đời sống xã hội.[54] Nơi công tác phục vụ người nghèo và loan báo Tin Mừng, chọn lựa người nghèo không có nghĩa là chọn phục vụ một vài cá nhân riêng lẻ nhưng phục vụ cho những tương quan xã hội giữa con người với nhau. Việc cổ võ chân lý Kitô giáo không đóng khung trong lĩnh vực giáo lý và đời sống Giáo hội nhưng luôn bao hàm khát vọng biến đổi thế giới, xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn về xã hội và chính trị.[55] Như khí cụ của Chúa, mỗi cá nhân và cộng đoàn cần nỗ lực giải phóng và thăng tiến đời sống xã hội của người nghèo.[56]
Hoạt động cần thiết đầu tiên thể hiện Giáo hội ưu tiên cho người nghèo là thực thi lòng bác ái Kitô giáo. Thiếu lòng bác ái, người Kitô hữu chỉ thực hành nhân đức cách hời hợt bên ngoài bề ngoài và chưa chu toàn những điều răn Chúa muốn.[57] Nhưng bác ái thôi vẫn chưa đủ. ĐTC kêu gọi các tín hữu sống tình liên đới, không đơn thuần chỉ là thực thi một vài hoạt động bác ái nhưng là giúp phát triển người nghèo toàn diện. Tình liên đới nảy sinh từ lương tâm chân thật sẽ nhận ra rằng sự sống của mọi người ưu tiên hơn nhu cầu cá nhân của một ít người.[58] Thể hiện tình liên đới không có nghĩa là bố thí nhưng là tôn trọng người nghèo như những chủ thể có vai trò dẫn dắt xã hội[59] và phục hồi nơi người nghèo những gì vốn thuộc về họ.[60] Để thực hiện đúng tinh thần bác ái Kitô giáo, ĐTC mời gọi các tín hữu đổi mới tư duy, ưu tiên cho sự sống con người và đời sống cộng đồng.[61]
Các dự án an sinh xã hội là cần thiết nhưng đó chẳng qua chỉ là giải pháp tạm thời. ĐTC nhận thấy nền kinh tế thị trường và phân phối thu nhập mới là nguyên nhân chính yếu đang kìm hãm cái nghèo. Nếu muốn giải phóng và thăng tiến người nghèo, cùng đưa họ hội nhập hoàn toàn vào đời sống xã hội thì phải thay đổi những cơ cấu tạo nên cái nghèo trong xã hội. Nỗ lực thay đổi cần tác động lên cả chiều kích cấu trúc (thay đổi về kinh tế xã hội) và tái cấu trúc (thay đổi tư duy trong toàn bộ đời sống Kitô hữu).[62] Sự biến đổi này cần tác động lên mối tương quan giữa các vùng trung tâm và ngoại biên, giữa Giáo hội Rôma với Giáo hội địa phương, giữa Giáo hội và toàn xã hội.[63]
Hệ lụy tác động lâu dài lên nguyên nhân nhân sâu xa của cái nghèo là nền thương mại hoàn toàn tự trị và hành vi đầu cơ tích trữ tài chính. Trước đây, người ta vẫn nghĩ rằng tự do thương mại là đã đủ cho sự an toàn xã hội. Thế nhưng, bài học kinh nghiệm từ đại dịch Covid-19 khiến họ tái khám phá mối quan tâm đến cộng đồng nhân loại, đến mọi người chứ không chỉ lợi ích của một ít người.[64] ĐTC khuyến khích tác động vào những cơ cấu tạo nên bất công, được cắm rễ nơi các tệ nạn xã hội.[65] Không chỉ lắng nghe tiếng khóc than của người nghèo, Giáo hội cần phải lắng nghe tiếng khóc than của những bất công và tìm cách đáp ứng, xóa bỏ những cơ cấu gây ra tình trạng nghèo đói, cùng giúp thăng tiến sự phát triển toàn diện cho người nghèo.[66]
Thế nhưng, khi đặt người nghèo nơi vị trí trung tâm của những suy tư về xã hội và sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội, như khí cụ của Chúa, tình liên đới và thăng tiến cho người nghèo còn phải giúp họ triển nở mối tương quan với Chúa. [67] Theo ĐTC, vì người nghèo là thân thể trần thế của Đức Kitô, nên thể hiện tình liên đới với người nghèo sẽ đưa người Kitô hữu đến gần Chúa hơn. Sống thiếu tình liên đới với người nghèo sẽ tác động xấu đến mối tương quan giữa người Kitô hữu với Thiên Chúa.[68] Từ đó, Luciani nhận xét: Những người đi vào tương quan hiệp thông với Chúa thì cũng đi vào tương quan hiệp thông với con người.[69] Mặt khác, tham gia vào đời sống xã hội với người nghèo là cách thức nền tảng để nhận thấy, đào sâu đức tin và phân định ơn gọi.[70] Bằng cách liên kết đức tin với hành động cho một thế giới tốt đẹp hơn, ĐTC đã khai triển chọn lựa người nghèo trên nền tảng thần học và sự hiệp thông với Chúa. Thiếu loan báo Tin Mừng, mọi cơ cấu của Giáo hội sẽ biến thành tổ chức phi chính phủ.[71] Theo tác giả Joseph Kuppens, lối suy tư này giúp ĐTC tránh được mối nguy hiểm đồng nhất Giáo hội với các tổ chức NGO.[72]
2. Công bằng xã hội và nhân quyền
Trong Tông huấn EG, ĐTC trích dẫn lại câu chuyện giải phóng dân Israel ra khỏi Ai Cập. Khi nghe thấy tiếng kêu than của đoàn dân đang chịu thống khổ bên Ai Cập, Thiên Chúa đã tác động lên lịch sử nhân loại, giải phóng và đưa dân thoát khỏi tình trạng nô lệ. Bằng cách thuyết phục ông Môsê dấn thân vào hành trình giải phóng lâu dài, Thiên Chúa đã mạc khải đường hướng của Ngài và quyết định đem dân từ cảnh nô lệ khốn cùng đến cuộc sống mới.[73] Tiếng kêu than của người nghèo và những người bị đối xử bất công ngày nay cũng tương tự như tiếng kêu khóc của dân Chúa trên đất Ai Cập.[74] Do hậu quả của nền kinh tế loại trừ và bất công xã hội, thế giới đang phải đương đầu với thực trạng nô lệ mới, khiến con người lâm vào tình trạng không lối thoát.
Nền kinh tế loại trừ và bất công xã hội là hậu quả của cơ chế cạnh tranh thương mại, đấu tranh sinh tồn và khao khát tiền của.[75] Người nghèo cảm thấy mình bị đẩy ra bên lề xã hội khi họ đang đói mà thực phẩm bị quăng bỏ. Người ta quan tâm đến điểm dao động của thị trường chứng khoán hơn là số người đói nghèo trong xã hội.[76] Khi con người đặt sự thống trị của đồng tiền lên trên nhân phẩm và xã hội, họ hướng đến nền kinh tế vô cảm, thương mại tự trị và đầu cơ tài chính. Khao khát kiếm tiền đã tạo nên một ý thức hệ mới (ý thức hệ của đồng tiền). Khủng hoảng tài chính khiến người ta chối bỏ ưu tiên dành cho nhân quyền.[77] Đặt mình vào cuộc chiến này, ĐTC kêu gọi người giàu hãy giúp đỡ người nghèo: “Nhân danh Đức Kitô, tôi xin nhắc lại rằng người giàu phải trợ giúp, tôn trọng và thăng tiến người nghèo.”[78] Ưu tư về những thách thức phát sinh từ đồng tiền, ĐTC cảnh báo: “Đồng tiền phải phục vụ, không được thống trị.”[79]
Nơi một góc nhìn khác, ĐTC đề cao vai trò của việc kinh doanh: “Kinh doanh là một ơn gọi và là một ơn gọi cao quý.”[80] Kinh doanh tạo nên sự phồn thịnh và cải thiện thế giới chúng ta đang sống.[81] Trong kế hoạch của Chúa, mỗi cá nhân được mời gọi thúc đẩy phát triển chính mình. Thế nhưng, như quà tặng của Chúa, khả năng kinh doanh nên được vận dụng để phát triển tha nhân và xóa bỏ nghèo đói.[82] Theo nhận định của ĐTC, quyền tích trữ cá nhân chỉ được xem là quyền tự nhiên thứ yếu, được rút ra từ mục đích phổ quát của hàng hóa. Nguyên lý sử dụng hàng hóa cho lợi ích của dân chúng mới là quyền tự nhiên chính yếu của con người. [83] Thế nên, các doanh nhân nên để mình bị chất vấn bởi ý nghĩa lớn lao về sự sống, phục vụ công ích và gia tăng hàng hóa cho thế giới hơn là chỉ lo cho lợi ích cá nhân. Sẽ không có giải pháp nào được tìm thấy nếu chưa loại trừ nền kinh tế hoàn toàn tự trị, nạn đầu cơ tài chính và tấn công vào cơ cấu gây ra bất bình đẳng xã hội.[84]
ĐTC triển khai hành vi bác ái cả trong tương quan vi mô (bạn bè, các thành viên trong gia đình hay nhóm nhỏ) lẫn tương quan vĩ mô (tương quan xã hội, kinh tế và chính trị).[85] Nền kinh tế cần phải mang lại lợi ích cho từng cá nhân, cho quốc gia và toàn thế giới như là căn nhà chung của nhân loại. Nhiệm vụ này được thực hiện không chỉ nhờ những nhà lãnh đạo, cơ quan tài chính, nhưng còn nhờ các chính trị gia, những người được mong đợi cải thiện điều kiện sống xã hội như: lương thực, việc làm, giáo dục và chăm sóc sức khỏe phù hợp với nhân phẩm con người. Tuy nhiên, đây không phải là những điều tự con người có thể làm được. ĐTC khẩn xin Thiên Chúa mang lại tâm thức chính trị và kinh tế mới, giúp đập tan các bức tường chia cắt giữa nền kinh tế và công ích xã hội.[86]
3. Bảo vệ môi trường sống cho người nghèo
ĐTC còn mở rộng chủ đề nghèo đến tương quan mật thiết giữa người nghèo với sự mỏng giòn của hành tinh chúng ta đang sống. Đây là tương quan bất khả phân chia giữa mối bận tâm về tự nhiên, công bằng cho người nghèo, trách nhiệm xã hội và bình an nội tâm.[87] Theo nhận thức của ĐTC, thế giới hiện hữu cho mọi người và tất cả mọi người được sinh ra đều có quyền bình đẳng như nhau. Thiên Chúa ban thế giới cho toàn thể nhân loại, không dành riêng cho bất kỳ ai. Ngài lưu ý “chúng ta đừng bao giờ quên rằng hành tinh này thuộc về mọi người và dành cho con người.”[88]
Lặp lại lời nhắc nhở của ĐTC Bênêđictô XVI: “Môi trường Amazon bị hủy diệt và phẩm giá con người của các dân tộc sống ở đó bị đe dọa”,[89] ĐTC cho rằng một người nghèo thiếu những điều kiện cần thiết để sống cho nhân phẩm là do người khác đang ngăn trở họ. Không san sẻ nguồn sống tự nhiên cho người nghèo đồng nghĩa với việc cướp đi sự sống và quăng họ ra bên lề.[90] Vì phần đông dân số thế giới là người nghèo, nên hậu quả để lại từ hành vi quăng họ ra bên lề xã hội là vô cùng lớn.[91] Chúng ta phải có trách nhiệm theo đuổi công lý cho người nghèo và người yếu đuối.[92]
Vì những khó khăn do biến đổi khí hậu, nhiều người nghèo đã mất khả năng tự tìm kế sinh nhai và buộc phải di cư sang vùng đất khác.[93] Tại châu Phi, nhiều người nghèo đang thiếu nước sạch. ĐTC nhận thấy nhu cầu có nước sạch là quyền cơ bản của con người: “Có được nguồn nước sạch là quyền căn bản và phổ quát của con người vì đó là điều kiện sinh tồn thiết yếu.”[94] Những khủng hoảng môi trường đang diễn ra do chất thải công nghiệp gây nguy hại cho trái đất và sự sống của người nghèo: “Chính trái đất, đang oằn mình và bị tàn phá, lại ở trong số những người nghèo bị bỏ rơi và lạm dụng nhất của chúng ta.”[95] Là một cộng đoàn trong thế giới – ngôi nhà chung của chúng ta – Giáo hội có trách nhiệm bảo đảm mỗi người nghèo đều sống đúng với nhân phẩm và có đầy đủ cơ hội phát triển toàn diện.[96] Đáng buồn thay, thế giới nợ người nghèo sự trợ giúp kiện toàn nhân quyền và nhân phẩm, nhưng người ta lại không chú tâm đến trọng trách này.[97] Với các thành viên trong Giáo hội, ĐTC mời gọi các Kitô hữu tôn trọng mối liên hệ mật thiết giữa Thiên Chúa, người thân cận và công trình sáng tạo, cùng vun đắp cho mối tương quan này. Khi tương quan này bị phá vỡ thì hậu quả để lại sẽ là tội lỗi và những nguy hại cho sự sống con người.[98]
V. KẾT LUẬN
Dựa trên nền tảng Kitô học – Đức Kitô trở nên người nghèo và gần gũi với người nghèo – ĐTC mong muốn Giáo hội hiện tại là Giáo hội nghèo và cho người nghèo. Về sứ vụ của Giáo hội, ĐTC không đóng khung Giáo hội vào những không gian riêng tư nhưng mở ra với cuộc sống xã hội trong việc phục vụ người nghèo, những người bị loại trừ và bị ngược đãi. Các Kitô hữu nên ra khỏi nơi thờ tự, đến vùng ngoại biên, mang niềm vui Tin Mừng đến với người nghèo và toàn thể thế giới.[99] Chứng nhân loan báo Tin Mừng không nên đóng khung hoạt động mục vụ trong việc từ thiện, bác ái, nhưng sống tình liên đới, mở ra với các hoạt động xã hội, kinh tế và chính trị nhằm xây dựng một xã hội, một hành tinh tốt đẹp hơn cho sự phát triển toàn diện của người nghèo. Về chiến lược kinh tế và xã hội, ĐTC mời gọi chúng ta xóa bỏ nền thương mại tự trị, nạn đầu cơ tài chính, những cơ cấu gây ra nghèo đói và bất công, cùng nối lại sự chia cắt giữa lợi ích kinh tế cá nhân và công ích xã hội.[100]
Mặc dù mời gọi Giáo hội dấn thân vào tương quan xã hội, kinh tế và chính trị nhưng ĐTC không tham gia và cũng không mời gọi các thừa tác viên có chức thánh tham gia vào các đảng phái chính trị: “Thừa tác viên có chức thánh không được tham gia vào các đảng phái chính trị”[101] Những điều ĐTC mời gọi không chỉ là những suy tư mang tính lý thuyết, nhưng là lối sống của chính ngài, thể hiện qua sự yêu thương, gần gũi và chăm lo cho người nghèo nơi đời sống hàng ngày, trong vai trò giám mục và hồng y tại tổng Giáo phận Buenos Aires và cả trong cương vị Giám mục thành Rôma./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguồn chính yếu:
– Francis. Evangelii Gaudium: On the Proclamation of the Gospel in the Today’s World. www.vatican.va/evangelii-gaudium.html.
– Francis, Fratelli Tutti: On Fraternity and Social Friendship. www.vatican.va/fratelli-tutti.html.
– Francis. Gaudete et Exultate: On the Call to Holiness in Today’s World. www.vatican.va/gaudete-et-exsultate.html.
– Francis. Laudato Si’: On Care for Our Common Home. www.vatican.va/laudato-si.html
– Francis, Querida Amazonia. www.vatican.va/querida-amazonia.html .
Nguồn thứ yếu:
– Caro, Olga C.V. “The Social Dimension of Evangelization: An Incontrovertible Commitment.” In Evangelii Gaudium: Voices of the Universal Church, edited by Klaus Krẳmer and Klaus Vellguth, 189-198. Philippines: Claretian Communications Foundation, 2015.
– Gispert-Sauch, George. “The Social Dimension of Evangelization: A Reflection from India.” In Evangelii Gaudium: Voices of the Universal Church, edited by Klaus Krẳmer and Klaus Vellguth, 163-174. Philippines: Claretian Communications Foundation, 2015.
– Ilo, Stan. Poverty and Economic Justice in Pope Francis. Accessed January, 2019. www.researchgate.net/Poverty_and_Economic_Justice_in_Pope_Francis
– Johnson, Siluvaipillai. “Encountering the Word-Event: The Realization of God’s Nearness and Newness in the Fragile World.” In Evangelii Gaudium: Voices of the Universal Church, edited by Klaus Krẳmer and Klaus Vellguth, 137-148. Philippines: Claretian Communications Foundation, 2015.
– Krẳmer, Klaus. “The Social Dimension of Evangelization: The Kingdom of God as the Horizon of Social and Communal Activity.” In Evangelii Gaudium: Voices of the Universal Church, edited by Klaus Krẳmer and Klaus Vellguth, 199-210. Philippines: Claretian Communications Foundation, 2015.
– Kuppens, Jos. “On the Social Dimension of Evangelization.” In Evangelii Gaudium: Voices of the Universal Church, edited by Klaus Krẳmer and Klaus Vellguth, 175-188. Philippines: Claretian Communications Foundation, 2015.
– Luciani, Rafael. Pope Francis and the Theology of the People. Trans. Phillip Berryman. Maryknoll, New York: Orbis Books, 2017.
– Pedrioli, Carlo A. Pope Francis, Poverty, and the Third Persona. Accessed May 31, 2019. https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3385076
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 124 (Tháng 5 & 6 năm 2021)
[1] Francis, Evangelii Gaudium: On the Proclamation of the Gospel in the Today’s World, 189. Trích dẫn về Tông huấn Evangelii Gaudium được lấy từ bản văn tiếng Anh của Tòa Thánh tại trang web http://www.vatican.va/content/francesco/en.
[2] ‘NGO’ là từ viết tắt của cụm từ ‘non-governmential organization, tên gọi chung cho các tổ chức phi chính phủ.
[3] Carlo A. Pedrioli, Pope Francis, Poverty and the Third Persona, 372, accessed May 31, 2019, https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_id=3385076.
[4] Olga Consuelo Vélez Caro, “The Social Dimension of Evangelization: An Incontrovertible Commitment,” in Evangelii Gaudium: Voices of the Universal Church, edited by Klaus Krămer and Klaus Vellguth (Philippines: Claretian Communications Foundation, 2015), 194.
[5] Carlo A. Pedrioli, Pope Francis, Poverty and the Third Persona, 372.
[6] Ibid., 383.
[7] Ibid., 383.
[8] Francis, Evangelii Gaudium , 212.
[9] Ibid., 210.
[10] Francis, Fratelli Tutti: On Fraternity and Social Friendship, 19. Trích dẫn về Thông điệp Fratelli Tutti được lấy từ bản văn tiếng Anh của Tòa Thánh tại trang web http://www.vatican.va/content/francesco/en.
[11] Francis, Querida Amazonia, 10. Trích dẫn về Tông huấn Querida Amazonia được lấy từ bản văn tiếng Anh của Tòa Thánh tại trang web http://www.vatican.va/content/francesco/en
[12] Francis, Evangelii Gaudium, 202.
[13] Ibid., 208.
[14] Rafael Luciani, Pope Francis and the Theology of the People, 40.
[15] Stan Chu Llo, Poverty and Economic Justice in Pope Francis, 44, accessed December 19, 2018, https://doi.org/10.1177/2396939318810698.
[16] Cha Rafael Luciani là một trong ba linh mục khởi xướng phong trào Thần học về con người (Theology of the People) tại Argentina.
[17] Rafael Luciani, Pope Francis and the Theology of the People, 65.
[18] Ibid., 65.
[19] Ibid., 65.
[20] Francis, Evangelii Gaudium, 198.
[21] George Gispert-Sauch, “The Social Dimension of Evangelization: A Reflection from India,” in Evangelii Gaudium: Voices of the Universal Church, edited by Klaus Kramer and Klaus Vellguth (Philippines: Claretian Communications Foundation, 2015), 169.
[22] Francis, Querida Amazonia, 63.
[23] Francis, Evangelii Gaudium, 186;198.
[24] Rafael Luciani, Pope Francis and the Theology of the People, 69.
[25] Francis, Address to representatives of Civil Society, Asuncion, Paraguay, in July 11, 2015. See Rafael Luciani, Pope Francis and the Theology of the People, 65.
[26] Francis, Evangelii Gaudium, 186.
[27] Francis, Fratelli Tutti, 85.
[28] Ibid., 74.
[29] Francis, Evangelii Gaudium, 197.
[30] Ibid., 197.
[31] Ibid., 197.
[32] Ibid., 198.
[33] Francis, Evangelii Gaudium, 198.
[34] Francis, Fratelli Tutti, 66.
[35] Ibid., 67.
[36] Ibid., 68.
[37] Ibid., 69.
[38] Ibid., 62.
[39] Ibid., 78.
[40] Ibid., 199.
[41] Francis, Evangelii Gaudium, 24.
[42] Francis, Evangelii Gaudium, 198.
[43] Francis, Evangelii Gaudium, 49.
[44] Stan Chu Llo, Poverty and Economic Justice in Pope Francis, 43.
[45] Francis, Fratelli Tutti, 30.
[46] Francis, Evangelii Gaudium, 24. Also see Francis, Fratelli Tutti, 276.
[47] Francis, Evangelii Gaudium, 24.
[48] Ibid., 191.
[49] Ibid., 194.
[50] Stan Chu Llo, Poverty and Economic Justice in Pope Francis, 43.
[51] Rafael Luciani, Pope Francis and the Theology of the People, 67.
[52] Francis, Evangelii Gaudium, 178.
[53] Francis, Fratelli Tutti, 35.
[54] Francis, Evangelii Gaudium, 180.
[55] Francis, Evangelii Gaudium, 180.
[56] Trong Tông huấn Evangelii Gaudium số 187, ĐTC viết: “Mỗi Kitô hữu và cộng đoàn đều được mời gọi để trở thành khí cụ của Thiên Chúa trong việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, ngõ hầu họ có thể gia nhập cách trọn vẹn vào xã hội”.
[57] Francis, Fratelli Tutti, 91.
[58] Ibid., 116.
[59] Francis, Querida Amazonia, 27.
[60] Francis, Evangelii Gaudium, 198.
[61] Ibid., 188.
[62] Rafael Luciani, Pope Francis and the Theology of the People, 70.
[63] Ibid., 70-71.
[64] Francis, Fratelli Tutti, 33.
[65] Jos Kuppens, “On the Social Dimension of Evangelization,” in Evangelii Gaudium: Voices of the Universal Church, edited by Klaus Kramer and Klaus Vellguth (Philippines: Claretian Communications Foundation, 2015), 181. And see Francis, Evangelii Gaudium 202.
[66] Francis, Evangelii Gaudium, 188.
[67] Francis, Evangelii Gaudium, 187.
[68] Ibid., 187.
[69] Rafael Luciani, Pope Francis and the Theology of the People, 76.
[70] Francis, Christus Vivit – to Young People and the Entire People of God, 170.
[71] Francis, Querida Amazonia, 64.
[72] Jos Kuppens, “On the Social Dimension of Evangelization,” 179.
[73] Siluvaipillai Johnson, “Encountering the Word-Event: The Realization of God’s Nearness and Newness in the Fragile World,” in Evangelii Gaudium: Voices of the Universal Church, edited by Klaus Kramer and Klaus Vellguth (Philippines: Claretian Communications Foundation, 2015), 144.
[74] Francis, Querida Amazonia, 52.
[75] Francis, Evangelii Gaudium, 53.
[76] Ibid., 53.
[77] Francis, Evangelii Gaudium, 53.
[78] Ibid., 58.
[79] Ibid., 58.
[80] Francis, Evangelii Gaudium, 203.
[81] Francis, Fratelli Tutti, 123.
[82] Ibid., 123.
[83] Ibid., 123.
[84] Francis, Evangelii Gaudium, 202.
[85] Ibid., 205.
[86] Ibid., 205.
[87] Francis, Laudato Si’, 16.
[88] Francis, Evangelii Gaudium, 189.
[89] Francis, Querida Amazonia, 12.
[90] Francis, Fratelli Tutti, 120.
[91] Francis, Laudato Si’, 49.
[92] Francis, Gaudete et Exsultate : On the Call to Holiness in Today’s World, 79. Trích dẫn về Tông huấn Gaudete et Exsultate được lấy từ bản văn tiếng Anh của Tòa Thánh tại trang web http://www.vatican.va/content/francesco/en.
[93] Carlo Pedrioli, Pope Francis, Poverty, and the Third Persona, 387.
[94] Francis, Laudato Sí, 30.
[95] Ibid., 30.
[96] Francis, Fratelli Tutti, 118.
[97] Francis, Laudato Si’, 30.
[98] Ibid., 30.
[99] Francis, Fratelli Tutti, 276.
[100] Francis, Fratelli Tutti, 276.
[101] Ibid., 276.
2021
Nghiệp quả từ góc nhìn của đức tin Công giáo
NGHIỆP QUẢ TỪ GÓC NHÌN CỦA ĐỨC TIN CÔNG GIÁO
Giuse Cao Gia An, S.J.
Câu hỏi:
Xin lỗi vì con theo Đạo Phật nên không biết nghiệp quả được hiểu như thế nào trong đạo Công Giáo. Làm sao để bớt nghiệp quả theo lối nhìn của Công Giáo?
Trả lời:
Đây là một câu hỏi chạm đến một khác biệt cốt lõi giữa hai tôn giáo lớn. Cần có những nghiên cứu đủ sâu và đủ rộng thì mới có thể trả lời thoả đáng những câu hỏi loại này. Trong khuôn khổ của bài viết ngắn ở đây, chúng ta thử tiếp cận câu hỏi này theo ba bước như sau. Thứ nhất, nên có một hiểu biết sơ lược về thuyết nghiệp quả của nhà Phật, nhận ra cái hay và những giá trị của thuyết ấy. Thứ hai, cần nhìn rộng hơn để thấy nghiệp quả là một thuyết phổ biến, hiện diện hầu như trong khắp mọi nền văn hoá và tôn giáo từ cổ đại cho đến hiện đại. Thứ ba, nhìn xem nội dung của lý thuyết nghiệp quả được hiểu như thế nào trong đạo Công Giáo.
Thuyết nghiệp quả theo nhà Phật
Chữ “nghiệp” (Karma) là một trong những thuật ngữ quan trọng trong giáo lý nhà Phật. Chữ ấy có thể được hiểu là một hành động có chủ ý trong tư tưởng, lời nói hay việc làm. Khi bạn làm một điều gì đó với đầy đủ chủ ý, bạn gieo một hạt nhân cho đời mình. Hạt nhân ấy chắc chắn sẽ thành cây và sinh quả. Gieo nhân loại nào, bạn sẽ gặt quả loại ấy. Nếu bạn gieo thiện nhân, bạn sẽ gặt thiện quả. Ngược lại, nếu bạn gieo ác nhân hay ác nghiệp, bạn sẽ gặt lại quả báo.
Theo giáo lý nhà Phật, nghiệp quả được hiểu như là một quy luật phổ quát. Không chỉ có tác dụng trong đời người, Luật ấy bao trùm vũ trụ vạn vật. Không chỉ giới hạn trong một đời người, Luật ấy có thể kéo dài từ đời này sang đời khác. Theo thuyết nghiệp quả, có những khổ đau của đời này được giải thích như là quả của những nghiệp ác đã được gieo từ kiếp trước. Cũng vậy, những nghiệp ác mà một người làm ở đời này, có thể người ấy sẽ còn phải trả trong cả kiếp sau.
Như thế, thuyết nghiệp quả dạy rằng cuộc sống của một người sướng hay khổ, vui hay buồn, thành công hay thất bại, thật ra đều phụ thuộc vào chính người ấy. Bạn được cứu rỗi hay trở nên hư mất đều phụ thuộc vào chính bạn, vào chính điều bạn đã làm và nghiệp bạn đã gieo. Sự cứu độ theo thuyết này thật ra là một sự “tự độ”. Mặt khác, thuyết nghiệp quả giả định rằng có một sự công bằng nhất định trong lối vận hành của vũ trụ vạn vật. Thuyết ấy cũng hàm chứa những bài học luân lý quý giá trong việc dạy dỗ con người: người ta phải biết tu thân tích đức và sống tốt để gặp điều thiện lương; ngược lại, người nào sống bất lương và bất chính, chắc chắn đến một lúc nào đó sẽ phải trả giá.
Thuyết nghiệp quả trong các nền văn hoá khác nhau
Không chỉ có trong nhà Phật, thuyết nghiệp quả còn hiện diện trong rất nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau. Trong những nền văn minh cổ đại của nhân loại như Ai-cập, Su-mer, A-cát, Ba-by-lon, Do-thái, Trung Hoa… luôn có một niềm tin vào nghiệp quả dựa trên nguyên tắc công bằng, cả ở cấp độ cá nhân lẫn cấp độ xã hội. Gieo nhân nào thì gặt quả đó. Gieo gió ắt gặp bão. Kẻ ác phải bị trừng trị và kẻ lành phải được tưởng thưởng. Một hôn quân vô đạo gieo nhiều nghiệp xấu, trước sau gì cũng phải gặt quả ác và làm cho vương quốc của mình sụp đổ. Một xã hội bất công và thối nát, tất sẽ đến hồi diệt vong. Một kẻ ác, có làm cách gì đi nữa cũng không thoát khỏi Luật trời. “Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu”. Lưới trời lồng lộng, thưa nhưng khó lọt.
Trong kho tàng văn hoá Việt Nam, thuyết nghiệp quả được cưu mang trong rất nhiều câu chuyện cổ tích. Cô Tấm hiền lành tốt bụng một đời nên cuối cùng được hạnh phúc. Hai mẹ con nhà Cám gian ác nên kết cục bị trừng phạt đích đáng. Thạch Sanh thiện lương và nghĩa hiệp nên cuối cùng được tưởng thưởng. Lý Thông gian manh xảo quyệt nên kết cục phải bị trời phạt, v.v…
Tóm lại, có thể nói rằng thuyết nghiệp quả dựa vào xác tín căn bản rằng trong đời này không có gì tự sinh ra cũng không có gì tự mất đi. Có một Luật nhân quả chi phối toàn bộ vũ trụ vạn vật và mọi thứ trong cuộc đời. Nhờ có Luật ấy, mọi thứ vận hành theo đúng với lẽ công bằng.
Đạo Công Giáo nhìn về thuyết nghiệp quả
Não trạng bình dân của một người Công Giáo ít nhiều tin vào thuyết nghiệp quả. Chẳng hạn, người ta thường tóm lược Giáo Lý Công Giáo trong lời dạy: làm lành lánh dữ. Làm lành để được hưởng phúc Thiên Đàng, lánh dữ để khỏi phải sa hoả ngục đời đời. Có rất nhiều câu Kinh Thánh dạy dỗ điều này: “Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được sống” (Tv 37,3). Những nhà lập pháp đầu tiên của dân Ít-ra-en khi dạy dân về Luật của Thiên Chúa cũng dựa vào khuôn mẫu vận hành theo kiểu nhân quả: ”Nếu anh em nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em mà đem ra thực hành tất cả những mệnh lệnh của người […] thì Đức Chúa sẽ cho anh em vượt mọi dân tộc trên mặt đất và mọi phúc lành sẽ đến với anh em […]” (Đnl 28,1-14); “Nhưng nếu anh em không nghe tiếng Đức Chúa [….], anh em sẽ bị nguyền rủa” (Đnl 28, 15-68). Thánh Phao-lô thì dạy rằng: “Ai gieo giống nào, thì sẽ gặt giống đó” (Gal 6,7), v.v.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng giữa niềm tin Công Giáo và niềm thuyết nghiệp quả có những khác biệt rất tận căn.
Thứ nhất, thuyết nghiệp quả theo nhà Phật là một Luật vận hành tuyệt đối. Không điều gì có thể thoát ra ngoài Luật ấy. Theo thuyết nghiệp quả của nhà Phật, không nhất thiết phải tin có một Đấng Tuyệt Đối nào. Trong khi đó, với niềm tin Công Giáo, điều tuyệt đối không phải là một Luật, nhưng là một Đấng làm chủ mọi Luật. Niềm tin Công Giáo không chỉ dạy người ta làm lành lánh dữ vì giá trị tuyệt đối của Luật nhân quả, nhưng là để xây dựng một tương quan cá nhân thiết thân và bền chặt giữa mình với Đấng Tuyệt Đối là Thiên Chúa của mình.
Mặt khác, niềm tin Công Giáo dạy rằng con người chỉ có một cuộc đời làm người để sống. Một người sống cuộc đời duy nhất của mình thế nào sẽ quyết định vận mệnh đời đời của người ấy. Nhưng sự quyết định này không nhất thiết hoàn toàn tuân theo Luật nghiệp quả. Trong hành trình cuộc đời của của mỗi con người, Thiên Chúa có một phương pháp sư phạm để dạy con người lớn lên. Sự lớn lên ấy có khi phải ngang qua những vấp ngã và thất bại, ngang qua những lỗi lầm và sai trái. Nhưng niềm tin Công Giáo dạy rằng nếu Thiên Chúa đối xử với con người theo luật nghiệp quả, khó một ai có thể đứng vững và được cứu thoát. “Ôi lại Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130,3). Không một con người nào thật sự có khả năng tự cứu mình, bởi có những yếu đuối bất khả vượt qua của thân phận con người. Thánh Phaolô, một vị tông đồ lừng danh về sự mạnh mẽ đã từng phải thốt lên: “Tôi không hiểu mình nữa, điều tốt tôi muốn thì tôi không làm. Điều xấu tôi không muốn tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Như thế, tự nền tảng, niềm tin Công Giáo dạy rằng mỗi người không phải và không thể là đấng cứu độ của riêng mình. Ai cũng cần một Đấng giải thoát, cần một trợ lực từ bên ngoài. Để được cứu, ai cũng cần đến sự đỡ nâng, cần tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Điều này khác biệt hoàn toàn với quan niệm “tự độ” của nhà Phật.
Hơn nữa, trong khi thuyết nghiệp quả của nhà Phật đề cao tuyệt đối trách nhiệm cá nhân và quan niệm rằng một người được cứu hay bị hư mất hoàn toàn phụ thuộc vào chính người ấy, đức tin Công Giáo dạy về sự liên đới và giá trị của chiều kích cộng đoàn đối với ơn cứu độ của từng cá nhân. Sự liên đới trong niềm tin là một giá trị đẹp của người Công Giáo. Đấy là lý do tại sao trong Giáo Hội Công Giáo thường có những buổi cầu nguyện cho những người đã qua đời, cầu nguyện cho những người đang gặp khó khăn hoạn nạn. Những lời cầu nguyện mà một người Công Giáo dâng lên Thiên Chúa thường không chỉ là cho riêng mình, nhưng cho rất nhiều người khác. Niềm tin nền tảng của việc thực hành ấy là thế này: người Công Giáo tin rằng Thiên Chúa có thể cứu rỗi một người nhờ vào lời khẩn nguyện của những người khác. Một người có thể được nâng đỡ và được cứu rỗi nhờ vào lời khẩn nguyện của cả cộng đoàn.
Quan trọng hơn hết đối với một người Công Giáo là những giáo huấn và gương sống cuộc đời của Đức Giê-su. Xuyên suốt các trang Tin Mừng, có thể thấy Đức Giê-su không cho rằng vận mệnh của một con người tuyệt đối bị khuôn định bởi Luật nhân quả. Ngài không dạy rằng một người đã gieo nhân nào thì đương nhiên sẽ nhận quả ấy. Đối tượng quan trọng mà Đức Giê-su chọn trong suốt cuộc đời rao giảng của mình là những người tội lỗi. Ấy là những người đã gieo nhân xấu trong đời mình. Ngài không rao giảng rằng họ sẽ phải nhận quả xấu. Ngài mời họ hoán cải, thay đổi đời sống để được cứu. Với Đức Giê-su, bất cứ một tội nhân nào cũng có một tương lai phía trước nếu họ biết từ bỏ đường tội lỗi, thay đổi cuộc đời để sống tốt và để làm người tốt. Có nhiều câu chuyện và dụ ngôn có thể minh hoạ rất tốt điều này.
Người ta bắt quả tang một người phạm tội ngoại tình (Ga 8,1-11). Chị đã gieo một nghiệp xấu trong đời mình là hành vi ngoại tình. Theo đúng lẽ đúng luật, chị phải gặt quả xấu là bị ném đá cho đến chết. Đức Giê-su không đi theo con đường đó. Nếu cứ phạm tội thì phải bị trừng phạt, liệu có một ai thoát khỏi án phạt không? Chuyện kể rằng khi Đức Giê-su đặt lại câu hỏi cho những kẻ chất vấn: “ai trong các ông không phạm tội, thì hãy ném đá người này trước đi” (Ga 8,7), những người kết án chị phụ nữ lần lượt bỏ đi, từ người lớn tuổi nhất. Câu chuyện Tin Mừng ấy dạy rằng ai cũng từng phạm tội. Ai cũng là kẻ có tội. Ai cũng từng ít nhiều gieo nhân xấu trong đời mình. Nếu cứ máy móc áp dụng theo luật nhân quả, liệu có ai là người sống sót được chăng? Liệu có ai đáng được cứu được chăng? Liệu có ai tự cứu mình được chăng? Càng thật lòng nhìn lại chính mình và thân phận làm người của mình, người ta càng có cơ hội nhận ra rằng mình cần đến lòng thương xót. Ai cũng cần đến sự tha thứ để có thể làm lại cuộc đời.
Đức Giê-su nhiều lần kể chuyện về lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa trong lời dạy của Đức Giê-su luôn là một người cha có trái tim nhân từ. Với người cha ấy, có khi chính đứa con hư hỏng và gieo nhiều ác nghiệp nhất lại là đứa con được quan tâm và lo lắng nhiều nhất. Có khi Thiên Chúa sẵn sàng đầu tư nhiều tâm huyết và kiên nhẫn nhất cho những con người bị coi là bất xứng nhất. Một thí dụ điển hình là dụ ngôn về đứa con hoang đàng (Lc 15,11-35). Đứa con ấy bỏ nhà cha của mình, thu gom hết của cải, ăn chơi phung phí cho đến khi tán gia bại sản thì mới quay trở về. Anh là người đã gieo nhân xấu. Lẽ ra quả mà anh gặt phải là bị kết án, bị ruồng bỏ, bị khinh miệt xa lánh. Nhưng không. Người Cha đón nhận anh bằng rất nhiều yêu thương và ưu đãi. Không phải vì anh ta xứng đáng. Chỉ đơn giản vì tình yêu của người Cha dành cho con mình luôn là như vậy. Anh có ra hư hỏng thế nào đi nữa, có gieo quả xấu thế nào đi nữa, cũng chẳng thể làm mai một tình yêu vô bờ mà người Cha dành cho anh. Tình yêu ấy vượt trên lẽ công bằng, vượt ra ngoài vòng khuôn định nhân quả. Tình yêu ấy không màng đến chuyện xứng đáng hay không xứng đáng. Chỉ đơn giản anh là người được yêu. Vì được yêu nên anh được tha thứ. Thiên Chúa không dùng luật nhân quả để phân loại và phán xử con người. Ngài dùng sự thương xót và tha thứ để cảm hoá lòng người, để mở ra một con đường mới cho con người có thể làm lại cuộc đời.
Như thế, niềm tin Công Giáo xác tín rằng trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, có những khung tiêu chuẩn khác quan trọng hơn và lý tưởng hơn là khung tiêu chuẩn công bằng theo kiểu nghiệp quả. Ấy là giá trị của tình yêu, của lòng thương xót và của sự tha thứ. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người không dựa trên bất cứ một quy luật nhân quả nào. Tình yêu của Thiên Chúa không phải là cái quả mà con người gặt được nhờ đã gieo nhân tốt. Thiên Chúa yêu thương con người không phải vì con người xứng đáng, không phải vì con người giỏi giang và đẹp đẽ, không phải như một cách để thưởng công cho con người. Chính tình yêu làm cho con người hoán cải để trở nên tốt hơn mỗi ngày, chứ không phải nhờ con người đã tốt nên con người mới được Thiên Chúa yêu thương. Trong tương quan tình yêu giữa Thiên Chúa và con người, chính Thiên Chúa là người đi bước trước, bất kể sự bất toàn bất xứng của con người. Cả khi con người bất trung và lầm lỗi, tình yêu mà Thiên Chúa đặt vào con người vẫn là không hề thay đổi. Đây là khác biệt tận căn giữa thuyết nghiệp quả và niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa.
Như thế, làm sao để giảm bớt “nghiệp quả”?
Khi nói về tình yêu nhưng không và vô điều kiện của Thiên Chúa, luôn có nguy cơ người ta sẽ lý luận kiểu này: được Chúa yêu như vậy, con người muốn làm trời làm đất gì thì làm, còn phải sợ gì nữa! Người chọn “làm trời làm đất” khi nhận ra mình được yêu thật ra là người không có trái tim. Người đó không biết trân trọng tình yêu được đặt vào đời mình. Người đó trước sau gì cũng tự mình làm mất tình yêu mà mình đang được hưởng nếm, và tự đánh mất chính mình. Vậy nên vẫn có trường hợp có những người được Thiên Chúa yêu thương vô cùng, nhưng cuối cùng vẫn ra hư mất. Người ấy phải gánh quả ác từ những cái nhân xấu mà mình đã gieo, nếu giải thích theo lối hiểu nhà Phật. Đơn giản, bởi vì người ấy tự do nhưng lại không muốn dùng tự do của mình để chọn con đường tốt mà chính Thiên Chúa đã mở ra cho mình.
Nhận ra tình yêu Thiên Chúa và cộng tác với tình yêu ấy là cách tốt nhất để “giảm bớt nghiệp quả”. Chính tình yêu Thiên Chúa luôn có khả năng gột sạch những “nghiệp” xấu mà con người đã gieo trong đời mình và mở ra cho con người con đường sống mới. Bước đi trong hành trình đức tin mỗi ngày, người Công Giáo học cách nhận ra mình là người được yêu. Học cách sống xứng đáng với tình yêu đặt vào đời mình, để cho tình yêu ấy trở thành đảm bảo và thành nguồn động lực giúp mình trở nên tốt hơn mỗi ngày.
Tóm lại, người Công Giáo đặt niềm tin tuyệt đối vào tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu ấy vượt lên trên mọi khuôn định của thuyết nghiệp quả.
Đọc thêm:
Bài 16: Tương thân tương ái
Bài 15: Áo giáp chống nạn Bài 14: Đức tin kiến tạo hòa bình và công bằng xã hội Bài 13: Vấn đề truyền giáo Bài 12: Thờ kính ông bà tổ tiên Bài 11: Truyền giáo cho người trẻ ngoại đạo Bài 10: Bền đỗ trong ơn gọi gia đình Bài 09: Vấn đề “theo đạo rồi mới cho cưới” Bài 08: Gieo suy nghĩ tốt Bài 07: Nhanh từ từ thôi Bài 06: Hiện tượng bóng ma Bài 05: Vượt qua khủng hoảng! Bài 04: Vấn đề rước Mình Máu Thánh Chúa Bài 03: Đừng cám dỗ nhau nhé! Bài 02: Sao lại kỳ thị người tu xuất? Bài 01: Nhận định ơn gọi cho cuộc đời |
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
2021
Sensus fidelium – Cảm thức đức tin: Một trình bày của một tín hữu từ Giáo hội tại Việt Nam
SENSUS FIDELIUM– CẢM THỨC ĐỨC TIN:
MỘT TRÌNH BÀY CỦA MỘT TÍN HỮU TỪ GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
Lm. Giuse Nguyễn Văn Am, S.D.B
Năm 2014, sau khóa họp 5 năm một lần, Ủy ban thần học quốc tế xuất bản hoa quả của mình liên quan đến cảm thức đức tin. Kết quả này được bộ Giáo lý đức tin ký nhận do Hồng y Gerhard L. Muller.
Tài liệu cho thấy ý nghĩa đích thực của cái gọi là “ý kiến của đa số” theo não trạng chính trị về dân chủ.[1] Chìm ngập trong bầu khí duy tục, người tín hữu dễ dàng suy nghĩ theo tiêu chuẩn “chân lý dựa theo số đông”. Các tín hữu cần phải bén nhạy trước những gì thuận với hay nghịch với chân lý Tin mừng, nhờ mối liên hệ với Thánh Thần Chân lý, như tài liệu này muốn nhắm đến.
Trong bài này tôi chỉ nhắm trình bày một số những nghĩ suy của mình khi đọc tài liệu này. Bài viết mang nhiều tính chất trình bày hơn là phê bình. Nó như một lời giới thiệu rằng tài liệu này thật đáng được tìm hiểu.[2] Vậy, tôi sẽ trình bày tổng quát văn kiện, rồi từ đó đi vào một vài khía cạnh nổi bật hơn của văn kiện.
I. TỔNG QUÁT VĂN KIỆN
1. Liên quan đến hình thức
Tài liệu này gồm 128 số, kể cả 2 số kết luận (127-128) và 6 số dẫn nhập (1-6). Nó được chia thành bốn chương. Chương I bàn đến cảm thức trong Kinh thánh (7-21) và truyền thống” (23-47), xác định nguồn gốc chân chính của cảm thức này. Chương II (số 49-65) đề cập đến “Sensus fidei fidelis trong đời sống cá nhân của người tín hữu”. Nó cho thấy người tín hữu được ban cho một “bản năng”, một “cảm thức” để bén nhạy trước đức tin chân chính. Chương III (số 67-86) trình bày “Sensus fidei fidelium trong đời sống của Giáo hội”, tức khía cạnh giáo hội, cộng đoàn của cảm thức đức tin.[3] Đối với tôi, có lẽ đây là chương quan trọng hơn cả. Nó nói đến cảm thức đức tin (sensus fidelium) và sự phát triển giáo lý và thực hành của Kitô giáo; nó tương quan với Huấn quyền, với thần học và với đại kết ra sao. Sau cùng là chương IV (số 88-126), thiên về áp dụng nhiều hơn. Chính tựa đề “Làm thế nào để phân định những biểu hiện chân chính của sensus fidei” đã cho thấy điều đó. Nó cho thấy cảm thức đức tin có tương quan ra sao với việc tham gia vào đời sống Giáo hội, với việc lắng nghe Lời Chúa, với sự rộng mở đối với lý trí, với sự gắn bó với Huấn quyền, với sự thánh thiện đầy khiêm nhường, tự do và vui tươi hòa với sự dựng xây giáo hội. Chương này cũng cho thấy mối liên hệ của cảm thức đức tin với tâm tình tôn giáo bình dân, với công luận, và cách tham khảo các tín hữu.
Ngoài ra, tài liệu luôn dành những số khởi đầu trong mỗi phần để giới thiệu nội dung chính của phần đó. Chẳng hạn, số 7 giới thiệu ý tưởng chính trong chương I về kinh thánh và lịch sử; số 22 khái quát về dòng lịch sử thần học liên quan đến sensus fidei; số 48 minh định tổng quát về bản tính cá nhân của sensus fidei đi liền với nhắc nhớ rằng không thể chia tách khía cạnh cá nhân và giáo hội của sensus fidei; còn số 66 giới thiệu sensus fidei sẽ được bàn ra sao dưới khía cạnh giáo hội, liên quan đến sự phát triển giáo lý và thực hành của Kitô giáo, đến mối tương quan với huấn quyền và thần học cũng như đại kết. Cũng vậy, số 87 tổng quát cả chương IV về chỗ đứng của cảm thức đức tin khi toàn thể Giáo hội tìm kiếm và phân định chân lý của Thiên Chúa giữa lòng lịch sử đầy xáo trộn của công luận.
2. Liên quan đến nội dung tổng quát của văn kiện
Con người, nhờ giác quan (senses), tự nhiên và tự phát phản ứng trước những kích thích để bảo vệ cũng như để tăng trưởng đời sống. Cũng thế, trong đời sống đức tin, người tín hữu cũng được ban một cảm thức (sense) đức tin, theo nghĩa cá nhân – sensus fidei fidelis, cũng như theo nghĩa Giáo hội – sensus fidei fidelium – để giữ họ đi trong chân lý đức tin cũng như để phát triển đức tin ấy (x. số 3). Tài liệu dùng nhiều hạn từ để chỉ thực tại này như bản năng đức tin… để các tín hữu không sai lầm trong đức tin và phong hóa. Thực tại này, được Thiên Chúa ban cho Giáo hội, được Chúa Giêsu đảm bảo, vì các tín hữu được xức dầu Thánh Thần; Chính Thánh Thần giữ gìn và đảm bảo cho tính bất khả ngộ của đức tin; có thể nói, Ngài làm mình trở thành như bản năng đức tin của họ. Thánh Thần-Chân Lý có thể nói là sợi chỉ xuyên suốt của tài liệu, đảm bảo cho chân lý được Giáo hội lưu truyền. Chính Thánh Thần giữ gìn và làm cho Giáo hội bất khả ngộ trong đức tin và phong hóa xuyên qua sự thống nhất hữu cơ của Giáo hội dạy dỗ (ecclesia docens) và giáo hội thụ huấn (ecclesia discens). Đức tin được Giáo hội sống và công bố cách bất khả ngộ là nhờ chính Thánh Thần- Chân Lý, luôn nhắc nhớ Giáo hội về Đức Kitô một cách sống động. Chính Thánh Thần là Ký Ức của Giáo hội soi đường cho Giáo hội vậy.[4] Rõ ràng, Thánh Thần, cảm thức đức tin và cách thức Giáo hội và các tín hữu sống chức vụ tiên tri liên kết chặt chẽ với nhau.
Như đã nói ở trên, bản năng đức tin này mang hai khía cạnh cá nhân và giáo hội, thì cũng không chỉ liên hệ đến tri thức mà cả đến thực hành, praxis, đến phong hóa. Nhờ cảm thức này, Giáo hội có được sự đồng qui về lãnh vực giáo lý và thực hành; nó đóng “vai trò sống động, là tiêu chuẩn (criterion) vững chắc để xác định một giáo lý hay thực hành đặc thù có thuộc về đức tin tông truyền hay không” (số 3). Chính Thánh Thần bất khả ngộ đưa dẫn tín hữu và toàn Giáo hội vào sâu trong mầu nhiệm Đức Kitô khi dạy họ cùng nhau phân định điều gì là lành mạnh hay nguy hại cho sự thánh thiện trong chân lý. Được Kinh thánh minh định và các Giáo phụ cùng các thần học gia quả quyết, cảm thức đức tin thuộc về toàn Giáo hội, chứ không phải của phẩm trật mà thôi. Chính vì thế, hố chia tách Giáo hội dạy dỗ (ecclesia docens) và Giáo hội thụ huấn (ecclesia discens), vốn một cách nào đó đã có trong Giáo hội, phải được lấp đầy. Trong sự duy nhất hữu cơ này, sensus fidelium có chỗ đứng độc đáo trong việc phát triển giáo lý và thực hành Kitô hữu, rồi đến mối liên hệ của nó với huấn quyền và thần học, và cả đến tầm quan trọng trong đối thoại đại kết”(số 6), như Chân Phước Henry Newman đã minh chứng. Không những thế, cảm thức đức tin thúc đẩy người tín hữu tham gia sống động vào Giáo hội, tạo thành tiêu chuẩn phân định về đức tin chân thật. Vatican II nói: ” Toàn thể tín hữu được Đấng Thánh xức dầu (x. 1 Ga 2,20 và 27) nên không thể sai lầm trong đức tin, họ biểu lộ thuộc tính đặc biệt này qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể Dân Chúa, khi “từ các Giám mục đến những người bé mọn nhất trong các tín hữu”[5]8 đều đồng thuận về những điều liên quan đến đức tin và phong hoá.” (LG 12). Nhưng cảm thức đức tin, cá nhân cũng như Giáo hội, đòi hỏi những dự thế cần thiết: tham gia vào đời sống Giáo hội, lắng nghe Lời Chúa, rộng mở trước lý trí, gắn kết với Huấn quyền, sự tự do và vui tươi trong thánh thiện và khiêm nhường. Những dự thế này có thể tóm gọn vào một điều: Tính giáo hội (ecclesiality) chân chính tạo thành tiêu chuẩn để phân định về sensus fidei chân chính (x. số 6).
Thế nhưng, cảm thức đức tin phải chăng chỉ mang tính chất giữ cho giáo hội khỏi sai lầm? Chúng ta đừng quên rằng cảm thức đức tin còn góp phần của mình trong việc phát triển giáo lý. Nó có khía cạnh hướng tới tương lai. Chính vì thế, phần kết luận hướng độc giả tới một chân trời lớn hơn:
“Nhờ sensus fidei, các tín hữu không chỉ có thể nhận biết điều gì phù hợp với Tin mừng và điều gì nghịch lại nó, nhưng còn cảm nhận điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô gọi là “những con đường mới cho hành trình trong đức tin của toàn dân lữ hành” (số 127).
Cảm thức đức tin liên hệ tới cuộc lữ hành của toàn dân Thiên Chúa. Một đàng, Giáo hội- Dân Chúa không bị lạc lối khi tiến bước trong lịch sử, nhờ “bản năng” đức tin. Đàng khác, cảm thức đó giúp cho việc loan báo tin mừng khi các tín hữu, cá nhân và tập thể, “nghĩ suy với Giáo hội, chia sẻ một đức tin và một mục đích. Nó hiệp nhất mục tử và đoàn dân, và làm cho cuộc đối thoại giữa họ, nên cốt yếu và hiệu quả cho Giáo hội, dựa trên những tặng phẩm và ơn gọi tương ứng” (số 128).
II. NHỮNG Ý TƯỞNG CHỦ ĐẠO
Sau khi đã trình bày một cách khái quát, nay tôi tìm hiểu văn kiện theo một số góc cạnh chuyên biệt hơn.
1. Sensus fidei trong Thánh kinh và trong truyền thống Giáo hội
Điều phải khẳng định ngay từ đầu là thuật ngữ “cảm thức đức tin” không có trong kinh thánh và lời dạy dỗ chính thức của giáo hội cho đến Vatican II (x. 7). Tuy nhiên, chân lý mà thuật ngữ ấy muốn diễn đạt thì lại ngập tràn trong Kinh thánh. Thật vậy, Thiên Chúa phán và Lời Ngài thì chân thật. Chúa Giêsu, Lời Thiên Chúa, là sự thật và sự sống. Lời rao giảng của Người không thể qua đi. Như Abraham, con người tin vào Thiên Chúa, vào Lời hứa của Ngài. Đức tin là lời đáp trả tự do của con người, nhờ sức mạnh của chính Thiên Chúa (x. số 9). SỨ ĐIỆP-LỜI không phải chỉ là một thông tin; Đúng hơn, đó là NGÔI VỊ ĐỨC GIÊSU KITÔ, luôn chân thật, HÔM QUA, HÔM NAY VÀ CHO ĐẾN MUÔN ĐỜI.[6] Tin mừng ấy đòi hỏi đức tin, sự đáp trả “hết lòng, hết sức, hết trí khôn” của toàn thể con người; đức tin ấy “đảm bảo cho những gì ta hy vọng và sự vững chắc cho những gì chúng ta không thấy” (Hr 11:1).[7] Như thế, đức tin vừa là một hành vi (fides qua) vừa là điều được tin và tuyên xưng (fides quae), nhờ đó ta phụng sự Thiên Chúa hết lòng chứ không phải trên môi miệng mà thôi (x. số 10).
Thiên Chúa không cứu độ từng người riêng rẽ. Ngài quy tụ tất cả trong vương quốc sự thật và bình an của ngài. Ngài kết hiệp họ thành thân mình Đức Kitô cũng như ban cho họ một vai trò để xây dựng Giáo hội, vương quốc TC trong hạt mầm. Do đó, đức tin luôn mang chiều kích cá nhân và cộng đoàn. Đức tin có thể nói là một thực tại gồm (1) sự hoán cải, nhìn nhận tội lỗi để bước vào đời sống mới trong cộng đoàn của Thiên Chúa; đức tin tỏ lộ trong (2) sự thờ phượng (leiturgia), mà (3) lý trí suy phục chân lý. Đức tin gắn liền với (4) sự tuyên xưng (marturia) chân thật tới độ (5) tín thác toàn vẹn vào lời hứa của Thiên Chúa. Đức tin ấy (6) kéo theo sự phục vụ (diakonia) trong đức ái. (x. số 12) Như thế, rõ ràng đức tin đối thần vượt xa những niềm tin tôn giáo, vì nó chạm đến không chỉ một vài chân lý của Thiên Chúa, nhưng đến chính Thiên Chúa là CHÂN LÝ.
Trong đức tin, Thánh Thần giữ các tín hữu trong chân lý của Đức Kitô, ban cho các tín hữu khả năng biết và làm chứng cho chân lý. Thông phần vào Thánh Thần chân lý, các tín hữu có thể “minh chứng thế gian sai lầm về tội, về sự công chính và về phán xử” (Ga 16:8). Tài liệu xác định: Thánh Thần ban cho họ “một cảm thức được linh hứng về chân lý luôn hiện thực của Lời Thiên Chúa nhập thể trong Đức Giêsu và ý nghĩa của nó cho ngày hôm nay” (số 14).
Trong Cựu ước Thiên Chúa hứa ban cho toàn Dân của Ngài được đầy Thần khí sự thật, để công bố những kỳ công của Thiên Chúa. Lời hứa ấy được hiện thực cách sống động và cụ thể trong cộng đoàn Giáo hội Chúa Kitô. Thần khí sự thật đốt nóng cộng đoàn này để công bố tình yêu trung tín của Thiên Chúa cho muôn dân. Cộng đoàn ấy được gìn giữ gắn bó với giáo lý của các tông đồ, hiệp thông, tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện. Đồng thời, cộng đoàn ấy cũng phát triển và lớn mạnh nhờ Thánh Thần. Như một cộng đoàn đức tin lữ hành về Vương quốc trong khi phải đối diện với những thử thách mới, cộng đoàn cùng quy tụ lại để tìm ý Chúa. Trong công đồng Giêrusalem đầu tiên, đoàn tín hữu quy tụ quanh các tông đồ cùng nhau hiệp nhất tìm kiếm ý Thiên Chúa và đi tới những quyết định với sự đồng thuận của toàn Giáo hội trong Thánh Thần: “Thánh Thần và chúng tôi quyết định…” (Cv 15:28). Thực hành này quả là quan trọng và quyết định; nó đã trở thành nguyên lý hướng dẫn Giáo hội. Nhờ đó, các tông đồ có thể mở rộng chân trời mục vụ, và các tín hữu tham gia sống động. Như vậy, cộng đoàn Giáo hội có được “tâm trí của Đức Kitô” (1 Cr 2:16). Chính vì thế, thánh Phaolô luôn “coi đức tin của cộng đoàn như điểm quy chiếu cho lời dạy dỗ của mình và là tiêu điểm cho sự phục vụ mục vụ của ngài, nêu lên sự trao đổi hữu ích lẫn nhau giữa ngài và các cộng đoàn” (số 19). Thư Gioan cho thấy việc xức dầu Thánh Thần mà người tín hữu nhận lãnh giữ họ vững chắc trong chân lý. “Những môn đệ có được một cảm thức được linh hứng đối với chân lý luôn hiện thực của Lời nhập thể của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và ý nghĩa của nó cho ngày hôm nay” (số 14). Họ không đi trong sai lầm, nếu họ luôn lắng nghe điều Thần khí phán cho các Giáo hội. “Nhờ vâng phục đức tin, một tặng phẩm của Thần khí, mà các tín hữu có thể nhận biết lời dạy dỗ họ nhận được thật sự là lời dạy dỗ của cùng một Thần khí, và đáp lại những lời dạy dỗ họ được ban tặng” (số 21). Như vậy, ở đây, ta phải nắm vững lối nhìn toàn diện về lời đáp trả của đức tin trước chân lý mặc khải của Thiên Chúa, như Serge-Thomas Bonino, O.P, thành viên của Ủy ban Thần học thế giới, lưu ý.[8] Lối nhìn ấy làm nổi bật vai trò duy nhất của Đức Giêsu là CHÂN LÝ của Thiên Chúa.
2. Cảm thức đức tin theo dòng suy tư của Giáo hội trong lịch sử
Khi tiến vào những nền văn hóa ngoài Do thái, Giáo hội không có những giải pháp làm sẵn. Giáo hội dò dẫm những nẻo đường mới. Trong cuộc lữ hành đức tin ấy, điều đảm bảo cho Giáo hội không gì khác hơn là sự trung tín của Thiên Chúa cũng như một tình yêu chuyên nhất và trung thành dành cho Đức Lang quân. Cắm neo trong Thánh Thần, Tình yêu đó ban cho Giáo hội một thứ bản năng thiêng liêng để biết phải tiến bước như thế nào.[9] Rõ ràng, sự nhận thức siêu nhiên của đức tin vừa mang khía cạnh phản hồi (reactive), xét như một phương thế nhận biết chân lý khi được rao giảng, vừa có khía cạnh chủ động (proactive), tức làm cho các tín hữu đào sâu, hiểu rõ, áp dụng và làm chứng đức tin ấy.[10] Bằng nhiều cách các Giáo phụ xác định tính bất khả ngộ của “toàn Giáo hội, từ các giám mục tới người tín hữu nhỏ bé nhất làm chứng cho đức tin tông truyền”. Với các ngài, sự đồng thuận phổ quát của các tín hữu là luận chứng mạnh mẽ để bác bỏ những người lạc giáo. Một số Giáo phụ nhấn mạnh “khả năng chủ quan” của các tín hữu để giữ giáo lý chân thật. Tuy nhiên, đa số các ngài nhấn mạnh rằng toàn thể Giáo hội, chứ không phải chỉ các mục tử, được trang bị để phân định chân lý. Giáo hội có được vị THÀY nội tâm không phải chỉ để thu nhận chân lý mặc khải song cũng phê chuẩn và chuyển giao nó. Giáo hội sơ khai đi theo nguyên lý “đức tin được mọi người mọi chốn luôn luôn nắm giữ” [quod ubique, quod semper, quod ab omnibus creditum est] (số 23). Do đó, điều đáng nói trong thời kỳ này là ngay cả khi các giám mục không tuyên xưng đức tin, thì “các tín hữu hơn là hàng giám mục công bố và giữ gìn truyền thống thần linh được ký thác cho Giáo hội bất khả ngộ” (số 26). Tại sao? Vì đối với các giáo phụ, “chứng từ có tính tiên tri của Dân Chúa như một toàn thể, là một điều có đặc tính khách quan chắc chắn. Toàn thể dân tín hữu không thể sai lầm trong những vấn đề đức tin” bởi nhận được Dầu Thánh Thần được hứa ban từ Đức Kitô, Dầu đó trang bị họ biết phân định đức tin (x. số 25). Rõ ràng, vai trò của Thánh Thần chân lý là thiết yếu tuyệt đối cho cảm thức đức tin nơi tín hữu, cá nhân cũng như Giáo hội. Điều này làm nền cho việc Giáo hội xác định, chẳng hạn, quy điển kinh thánh, hay trong định tín quan trọng về Đức Kitô, về Đức Maria (x. số 26).
Thời Trung cổ Đức Giáo hoàng Bênêđictô XII cũng dựa trên sự đồng thuận của các tín hữu, consensus fidelium, để xác định những giáo lý về hưởng kiến, luyện ngục và trước ngày phán xét. Trong thời Trung cổ các tín hữu cùng nhau tuyên xưng Đức Maria Trinh Nữ vương, bất chấp sự chống đối của một số thần học gia. Vì thế, các tiến sĩ Kinh viện thừa nhận nguyên lý “Giáo hội, congregatio fidelium, không thể sai lầm trong những vấn đề đức tin bởi vì được Thiên Chúa dạy dỗ, được kết hiệp với Đức Kitô Đầu của mình, và được Thánh Thần cư ngụ” (số 28). Đối với thánh Toma, theo nhận xét của Sara Butler, “Như một phẩm tính của đức tin và như một thứ bản năng thiêng liêng, cảm thức đức tin xuất phát từ một đồng cảm tính (affective connaturality) hay một ái lực (affinity) giữa người Kitô hữu biết và yêu đức tin của mình và các sự thật của đức tin”.[11]
Trong thời Cải cách, anh chị em Tin lành đã dành chỗ tối thượng, nhưng có tính loại trừ, cho Lời Chúa, khi coi nhẹ TRUYỀN THỐNG ĐỨC TIN và HUẤN QUYỀN; chính Thánh Thần cho cá nhân người tín hữu khả năng giải thích Lời Chúa do chính mình và cho chính mình. Do đó, Truyền thống hay Huấn quyền trở nên thừa thãi. Trước lập trường đó, Giáo hội Công giáo xác định toàn Giáo hội, gồm giáo dân và giáo sĩ, thì bất khả ngộ in credendo (x. số 30). Các thần học gia Công giáo xác định “sự đồng thuận chung của các tín hữu là một trong bốn chuẩn mực để xác định một giáo lý hay thực hành thuộc về truyền thông tông đồ hay không” (số 31). Toàn Giáo hội, được tỏ lộ nơi các công đồng, có “consensus Ecclesiae universalis” (số 32). Tuy nhiên trong thời này, bắt đầu có sự chia tách giữa Giáo hội dạy dỗ (Eccclesia docens) và Giáo hội thụ huấn (Ecclesia discens) mà chỉ có một sự bất khả ngộ “thụ động” thôi.[12] Đứng trước những thách đố và vấn nạn mới như thế, cảm thức đức tin lần đầu tiên, có thể nói như thế, được tìm hiểu một cách hệ thống.[13]
Sang thế kỷ 19, cảm thức đức tin được đào sâu hơn, cách riêng trong trường phái Tubingen. Johann Adam Mohler cho thấy rằng Thánh Thần sinh động, hướng dẫn, và hiệp nhất các tín hữu thành một cộng đoàn trong Đức Kitô, thực hiện nơi họ một “ý thức” đức tin về Giáo hội (x. số 35). Chân Phước Henry Newman nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của các tín hữu trong việc bảo tồn và chuyển giao đức tin (x. số 39). Chính ngài đã coi sensus fidei fidelium là locus theologicus (x. số 34), để giải thích Thánh Thần đã gìn giữ Giáo hội trong chân lý như thế nào. Quả vậy, cảm thức đức tin của toàn giáo hội biểu lộ ra nhiều cách khác nhau trong những thời đại khác nhau: hàng giám mục, các vị tiến sĩ, dân chúa, phụng vụ, nghi thức, lễ nghi và phong tục….(x. số 39). Như thế, chiều kích chủ quan của sensus fidei phải nhất thiết gắn bó với yếu tố khách quan là lời dạy dỗ của Giáo hội, bởi lẽ “cảm thức” Kitô hữu của người tín hữu không bao giờ được tách khỏi nội dung của nó (x. số 35). Nhờ vào cảm thức của Giáo hội liên hợp với Kinh thánh, Truyền thống đáng kính, sự đồng thuận của các Giám mục và tín hữu, Đức Piô IX đã tuyên bố tín điều Mẹ Vô Nhiễm một cách bất khả ngộ (x. số 38). Theo ánh sáng này, xác quyết của Vatican I về tính bất khả ngộ của giáo hoàng phải giả định cảm thức này. Chính vì thế, khi Pastor aeternis xác quyết “tự chúng những định tín ex cathedra của Giáo hoàng về đức tin và phong hóa là bất khả ngộ chứ không phải từ sự đồng thuận của giáo hội” (ex sese non autem ex consensu ecclesiae), thì ta phải hiểu rằng sự đồng thuận này, trước hay sau, như là một điều kiện cho để những giáo huấn ấy có thẩm quyền (x. số 40).
Thế kỷ 20 chứng kiến một sự canh tân về cảm thức đức tin khi suy tư về mầu nhiệm Giáo hội cũng như phát triển nền thần học giáo dân. Những suy tư này trả lại “vai trò tích cực của giáo dân trong việc trao truyền đức tin” (số 41). Chúng cho thấy rõ các tín hữu không thụ động.[14] Yves Congar làm sáng tỏ mối liên hệ chặt chẽ của cảm thức đức tin của giáo hội với chức năng tiên tri của các tín hữu. Giữa Ecclesia docens và Ecclesia discens có tính duy nhất hữu cơ (x. số 38). Hố chia tách này trong quá khứ đang dần được lấp lại, vì chính Giáo hội dạy dỗ trước tiên phải là Giáo hội thụ huấn. Phẩm trật buộc phải lắng nghe chân lý của Thiên Chúa. Và phẩm trật giáo hội dạy dỗ nhằm phục vụ sự hiệp thông. “Giáo hội yêu mến và tin tưởng, nghĩa là thân mình của các tín hữu thì bất khả ngộ khi sở hữu đức tin cách sống động, chứ không phải trong một hành vi hay phán đoán đặc thù nào” (số 43). Công đồng Vatican II tiếp nối nhãn quan này khi xác quyết “Thần khí sự thật khơi lên và nâng đỡ một nhận thức siêu nhiên của đức tin, đảm bảo Giáo hội như toàn thể không thể sai lầm trong vấn đề đức tin” (số 44). Cảm thức đức tin được nhìn như một nhận thức siêu nhiên,[15] cảm thức thâm sâu về những thực tại siêu nhiên,[16] một bản năng thiêng liêng,[17] một trực giác siêu nhiên,[18] một khả năng tích cực (capacity) hay sự bén nhạy nhờ đó họ có thể tiếp nhận và hiểu “đức tin được ban cho các thánh một lần là xong” và được áp dụng trong đời sống hằng ngày(x. số 44). Tính cách phản hồi và chủ động của cảm thức đức tin lại được thấy rõ ở nhận định trên. Tuy nhiên, ta không được hiểu cảm thức đức tin hay sự đồng thuận (consensus) của các tín hữu theo nghĩa xã hội học hay thống kê học (x. số 47). Không phải số đông sẽ quyết định chân lý của Thiên Chúa. Trái lại, cảm thức đức tin này đi vào mọi lãnh vực hiện sinh của người tín hữu trong xã hội và gia đình (x. số 45), là tặng phẩm của Đức Kitô cho người tín hữu nhờ đó họ hiểu, sống và công bố những chân lý mặc khải, cảm thức đức tin cũng là “nền tảng cho công việc loan báo tin mừng của họ” (số 45).
3. Chiều kích cá nhân của cảm thức đức tin
Sự thích hợp của cá nhân tín hữu để phân định đúng trong vấn đề đức tin.[19]
Những tìm hiểu ở trên cho thấy rõ cảm thức đức tin mang lấy hai khía cạnh cá nhân và cộng đoàn giáo hội. Nay ta muốn nói tới cảm thức đức tin dưới góc cạnh cá nhân người tín hữu, sensus fidei fidelis. Đức tin không phải là một thứ trang hoàng nhưng thấm sâu và tác động đến tâm hồn, lương tâm của người tín hữu khiến họ nhạy cảm phân định những điều phù hợp hay không phù hợp với đức tin ấy.
Quả thế, chính Thánh Thần giữ cho đôi chân tín hữu bước đi vững chắc trong đàng đức tin. Dưới chiều kích cá nhân, cảm thức đức tin của người tín hữu là “một thứ bản năng thiêng liêng làm cho người tín hữu phán đoán cách tự phát xem một giáo lý hay thực hành đặc thù nào đó hợp hay không hợp với Tin mừng và đức tin tông truyền” (số 49). Điểm nổi bật văn kiện nhấn mạnh khi bàn đến khía cạnh cá nhân này chính là mối tương giao của chủ thể tin với chính Đức Giêsu. Mối tương giao này mạnh mẽ đến nỗi văn kiện nói đến một thứ “đồng bản tính” (connaturality) mà người tín hữu được thông phần với Chúa Giêsu. Điều này là kết quả của đức tin (x. số 50). Nó là một hình thức của tri thức tự phát và tự nhiên, một thứ tri nhận, aisthesis (perception). Tri thức này thuộc về một trật tự khác với tri thức khách quan liên kết với khái niệm và lý luận. Nó là “tri thức do sự thấu cảm (empathy), tri thức của cõi lòng” (số 50). Vì có sự đồng bản tính (connaturality) với nhân đức tin (x. số 50), cảm thức đức tin nơi người tín hữu một cách tự nhiên “hướng chiều chủ thể tới một đối tượng và một cách tự phát làm họ xa khỏi bất kỳ điều gì nghịch với đối tượng” (số 52). Chỗ khác, tài liệu xác định “Đức tin như nhân đức đối thần làm người tín hữu tham dự vào tri thức mà Thiên Chúa có về chính mình và về mọi sự” (số 53). Tài liệu triển khai khá nhiều ý tưởng cảm thức đức tin nơi người tín hữu như một bản năng, theo nhiều kiểu diễn đạt:
“nhờ ân sủng và những nhân đức đối thần, người tín hữu trở thành “kẻ thông phần vào bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1:4) và một cách nào đó, được đồng bản tính (connaturalised) với Thiên Chúa. Và do đó họ phản ứng một cách tự phát trên nền tảng của bản tính Thiên Chúa được thông phần đó, theo cùng một cách thức mà theo bản năng những sinh vật phản ứng lại điều hợp hay không hợp với bản tính chúng”.[20]
Hay
“Như tên gọi (sensus) của nó chỉ ra, nó khá giống với một phản ứng tự phát, tức thời và tự nhiên, và có thể so sánh với một bản năng sinh tử hay một thứ “thiên bẩm” nhờ đó người tín hữu tự phát bám vào điều gì phù hợp và xa tránh điều gì không phù hợp với với chân lý đức tin”.[21]
Và
“Cảm thức đức tin của người tín hữu xuất từ nhân đức tin đối thần. Nhân đức đó là một dự thế nội tâm, được tình yêu thúc đẩy, để gắn bó tuyệt đối với toàn thể chân lý được Thiên Chúa mặc khải ngay khi nó được tri nhận là đúng như thế”.[22]
Những trích dẫn trên hẳn nhiên cho thấy cảm thức đức tin khác xa với thần học như là kiến thức về đức tin (x. số 55). Cảm thức đức tin “tự nó là bất khả ngộ về đối tượng của mình là đức tin chân thật” (số 55). Nó liên hệ rất mật thiết với nhân đức tin. Chúng ta biết rõ “Nhân đức tin càng đâm rễ trong cõi lòng và tinh thần của người tín hữu và hình thành cuộc sống hằng ngày của họ thì sensus fidei fidelis càng phát triển và kiện cường trong họ” (số 57). Nói khác đi nó tỷ lệ thuận với sự thánh thiện của người tín hữu (x. số 57). Nhận xét này quan trọng để cho thấy rằng một tín hữu thánh thiện có thể nhạy bén trong đức tin hơn cả một thần học gia.[23]
Hơn nữa, nếu đời sống đức tin được đức ái sinh động, thì cảm thức đức tin không thể không liên hệ với đức ái. Tài liệu khẳng định:
“Như Thần khí tình yêu, Đấng truyền tình yêu vào lòng người, Thánh Thần làm người tín hữu rộng mở ra để có thể đạt được một tri thức sâu xa hơn và mật thiết hơn với Đức Kitô là chân lý, trên nền tảng của một sự kết hiệp của đức ái” (số 57).
Rõ ràng, tài liệu muốn nói rằng cảm thức đức tin nơi người tín hữu dẫn lối họ sống đức tin trong những bối cảnh khác nhau của đời sống cá nhân. Càng nỗ lực thực thi đức tin trong thực tại hiện sinh của gia đình, nghề nghiệp, xã hội, người tín hữu sẽ làm giàu kinh nghiệm đức tin của mình (x. số 59).
Như thế, cảm thức đức tin nơi người tín hữu có chức năng phân định giáo lý và thực hành phù hợp với đức tin, phân định điều cốt yếu và điều thứ phụ trong những gì được rao giảng và quyết liệt làm chứng cho Đức Giêsu trong bối cảnh lịch sử và văn hóa đặc thù họ sống (x. số 60). Nhờ cảm thức đức tin nơi người tín hữu, người tín hữu bén nhạy trước những gì nghịch với đức tin, thậm chí có khi chúng đến từ các chủ chăn hợp pháp.[24] Họ phân định được cái gì là cốt yếu và cái gì là thứ phụ trong những gì được rao giảng. Nhờ đó, người Kitô hữu được tự do và đức tin của họ được thanh luyện (x. số 65).
Nếu vậy, rõ ràng cảm thức đức tin nơi người tín hữu dẫn họ vào một đời sống đức tin tích cực, cả trong tâm trí lẫn thực hành. Cảm thức ấy khiến họ tuân theo truyền thống tông truyền, tham gia tích cực vào đời sống Giáo hội, gắn bó với huấn quyền, khiêm nhường và thánh thiện, vui tươi và tự do. Đó là những thái độ cơ bản của những tín hữu với cảm thức đức tin mạnh mẽ. Hiển nhiên sẽ không thể lấy nê cảm thức đức tin để chống báng Giáo hội.[25]
4. Sensus fidei fidelium trong đời sống giáo hội
Sensus fidei fidelium trong đời sống giáo hội hay chiều kích giáo hội của sensus fidei: Bản năng đức tin của chính Giáo hội.[26]
Sẽ không thể đầy đủ nếu không bàn đến khía cạnh cộng đoàn của sensus fidei fidelium, cảm thức đức tin của cộng đoàn tín hữu. Như một toàn thể hiệp nhất, Giáo hội-Hiền thê, Giáo hội-Thân mình Đức Kitô, Giáo hội-Dân Thiên Chúa có được bản năng của đức tin, nếu có thể nói như thế, để bước đi không sai lầm trong thế giới. Tính bất khả ngộ của cảm thức đức tin của giáo hội không đến từ chính Giáo hội, nhưng đến từ Thiên Chùa mà thôi. Ta cũng cần nhấn mạnh đến tính duy nhất hữu cơ của cảm thức đức tin, dù phân biệt hai khía cạnh cá nhân và giáo hội để tìm hiểu.[27] Ghi nhớ điều đó, ta hiểu ra khía cạnh hồi tố và khía cạnh tương lai nơi cảm thức đức tin của Giáo hội. Thực thế, nhờ cảm thức đức tin, Giáo hội luôn được Thánh Thần làm mới lại những cảm nghiệm về Đức Giêsu chết và phục sinh mà Giáo hội công bố nhờ vào Kinh thánh và những chứng nhân. Thánh Thần luôn nhắc cho Giáo hội những gì Đức Giêsu đã nói và đã hiện thực (x. số 68). Giáo hội gắn kết trung thành với Tin mừng của Đức Giêsu Nadarét (x. Gl 1:6-9; 1 Cr 15:1-4). Nhưng cảm thức đức tin của Giáo hội cũng làm Giáo hội tiền dự vào tương lai của Đức Kitô, Đấng đang đến; nhờ cảm thức đức tin, Giáo hội thưởng nếm trước một cách không sai lầm Vương quốc đang trên đường hoàn tất. Dựa trên nền tảng này, cảm thức đức tin của Giáo hội dám tiến vào những hoàn cảnh mới với những thách đố của thời đại một cách bạo dạn, can đảm và sáng tạo trong mục vụ. Ta cần xác tín sự tương tác không thể phân chia giữa khía cạnh hồi tố và khía cạnh tương lai này trong cảm thức đức tin của Giáo hội.
Dựa trên cùng một Dầu Thánh Thần, cùng một đức tin và một phép Rửa, cảm thức đức tin của Giáo hội được sống theo từng vai trò biệt loại trong Giáo hội-Thân mình Đức Kitô, luôn muốn đạt tới consensus fidelium, conspiratio pastorum et fidelium (x. số 71). Theo ánh sáng này, không thể loại bỏ sự đóng góp của giáo dân, vì ơn gọi đặt họ vào giữa lòng thế giới và rất sống động.[28] Quả thế, giáo dân đóng góp nhiều trong những vấn đề luân lý mới đây của Giáo hội mà ta có thể thấy dấu vết trong Rerum Novarum (Lêô XIII, 1896), Dignitatis humanae (Vatican II, 1965), Humanae vitae (1968), Evangelium vitae (1995), Caritas in veritate (2009). Sự chia tách ecclesia docens và ecclesia discens làm lu mờ vai trò tích cực của giáo dân, thì trái lại, mối tương tác giữa khía cạnh cá nhân và cộng đoàn của cảm thức đức tin luôn sinh lợi cho Giáo hội lữ hành. Tuy nhiên, tài liệu cũng khẳng định rõ ràng, phụng vụ, cách riêng phụng vụ Thánh Thể, là nơi chốn đặc trưng và ưu tuyển biểu lộ sự tương tác này. Nơi đây, chủ chăn và tín hữu chỉ làm thành một thân mình hiệp nhất, dấu chỉ và phương thế hữu hiệu của ơn cứu độ cho thế giới. (x. LG 24) Sự tương tác mật thiết giữa tín hữu và chủ chăn trong phụng vụ làm thành một sự vững chắc đức tin được diễn đạt trong châm ngôn lex orandi, lex credendi.
Tài liệu bàn đến mối tương quan sống động của cảm thức đức tin trong Giáo hội với huấn quyền. Không có đối kháng gì ở đây. Đức tin của Dân Chúa không thụ động. Dân Chúa nhận được dầu Thánh Thần và được ban những đặc sủng vì lợi ích của toàn Giáo hội. Hơn nữa, Huấn quyền cũng phải sống cùng một đức tin của Dân Chúa. “Huấn quyền phải quy chiếu tới cảm thức đức tin của toàn Giáo hội”,[29] vì không phải một mình Huấn quyền chịu trách nhiệm về đức tin.[30] Thế nhưng, cảm thức đức tin cũng phải được huấn quyền nuôi dưỡng, phân định và phán đoán. Huấn quyền phải phán đoán về sự chân chính của cảm thức đức tin giữa nhiều ý kiến hay suy nghĩ của các tín hữu (số 77). Vì thế, các tín hữu hãy tiếp nhận lời dạy dỗ của huấn quyền vì “như một vấn đề nguyên lý, sự chống cưỡng lại lời dạy dỗ của huấn quyền không tương hợp với cảm thức đức tin chân chính” (số 80). Tài liệu xác quyết mạnh mẽ: “phán đoán về tính chân thực của sensus fidelium một cách tối hậu không thuộc về các tín hữu, cũng không thuộc về thần học, nhưng thuộc về huấn quyền” (số 77). Phân định mà thôi không đủ. Nhất thiết, toàn Giáo hội đi tới tiến trình tiếp nhận như là thiết yếu cho dân tộc lữ hành để bước đi mạnh mẽ trong lịch sử hướng về vương quốc (x. số 78), bởi lẽ điều ấy được tặng phẩm Thánh Thần xác định.
Trong ánh sáng đối thoại, tài liệu cũng cho thấy mối tương giao giữa cảm thức đức tin của Giáo hội và thần học. Như một tín hữu, thần học gia “lệ thuộc vào cảm thức đức tin ấy” (số 81), bởi vì họ phải học hỏi và làm thần học dựa trên đức tin của Dân Thiên Chúa. Thần học gia phải sống trong đức tin Giáo hội trước khi làm thần học. Và họ chỉ là thần học gia chân chính bao lâu họ ở trong đức tin không sai lầm của Giáo hội. Thực vậy, thần học được nuôi dưỡng trong đức tin chân chính của dân Thiên Chúa cũng như phục vụ cho đức tin ấy.
“Thần học gia cần phải tham gia cách hiện thực vào đời sống và phụng vụ của Giáo hội địa phương, để có thể nắm bắt một cách sâu xa, không chỉ bằng đầu óc nhưng còn bằng tấm lòng, bối cảnh thực sự, lịch sử và văn hóa trong đó giáo hội và các tín hữu đang nỗ lực sống đức tin và làm chứng cho Đức Kitô trong thế giới hôm nay” (số 82).
Đoạn văn xác định rõ ràng sự tham gia của thần học gia vào đời sống đức tin của toàn Giáo hội mới làm cho ông bén nhạy trước những chiều sâu thẳm của đức tin mà ông phục vụ.
Đàng khác, thần học, nhờ phương pháp phê bình cũng giúp để cho thấy và minh định nội dung của sensus fidelium. Thần học giúp tinh luyện đạo đức bình dân trước những trào lưu tư tưởng và phong trào mới, vì “sự trung thành với truyền thống tông đồ” (số 83). Nhờ thần học, cảm thức đức tin của Giáo hội tránh được những sai lệch hay lộn xộn (x. số 81), khi cho thấy ý nghĩa chân chính của Kinh thánh, của các định tín, của những nội dung Truyền thống với sự chính xác và rõ ràng hơn (x. số 84).
Trong ánh sáng này, cảm thức đức tin cũng có chỗ đứng trong cuộc đối thoại đại kết. Trước hết, khi các khái niệm sensus fidei, sensus fidelium và consensus fidelium được tìm hiểu kỹ càng, nhiều cộng đoàn giáo hội thấy rõ hơn rằng “một số phần tử của Giáo hội có một trách nhiệm đặc biệt để dạy dỗ và giám sát, với sự cộng tác của các tín hữu” (số 85). Tài liệu nêu ra hai câu hỏi vẫn đang tìm tòi: (1) “Có phải chỉ những giáo lý có được sự đồng thuận chung của tất cả Kitô hữu mới được coi như diễn đạt sensus fidelium và vì thế là chân thật và trói buộc không?” và (2) “Những Kitô hữu ly khai có nên được hiểu là tham gia và đóng góp vào sensus fidelium một cách nào đó không?”
5. Những biểu hiện chân chính của sensus fidei
Khi đã nắm vững những khía cạnh cá nhân và Giáo hội của cảm thức đức tin, chúng ta thấy rõ từng cá nhân tín hữu được thông phần vào sự chắc chắn của đức tin. Việc này đòi hỏi người tín hữu phải trau dồi nơi mình một toàn bộ những dự thế nội tâm gồm những yếu tố Giáo hội, thiêng liêng và đạo đức (số 58). Ta đã rõ đức tin đòi phải được sống. Đức tin được lớn lên bằng việc thực hành đức tin. Đức tin phải được sinh động bằng đức ái. Như thế, sự bén nhạy của đức tin tùy thuộc nhiều vào sự tham gia tích cực vào đời sống Giáo hội. Chỉ mang danh Kitô hữu thì không đủ. Càng nỗ lực trong đời sống cầu nguyện liên lỷ, hiệp thông vào Thánh Thể, tham dự sống động và tích cực trong phụng vụ, sẵn lòng đón nhận và thực thi những giáo huấn của Chúa; tất cả điều đó bộc lộ sự đồng cảm với Giáo hội, sentire cum ecclesia, tạo thành dự thế trước hết và nền tảng. Thái độ sống này khiến người tín hữu lắng nghe Lời Chúa cách chăm chú và sâu xa, không phải trước tiên như một người học thuật, cho bằng với một tâm hồn thuần thục dẫn tới tạ ơn. Chính vì thế, “tham dự phụng vụ là chìa khóa cho sự tham gia vào Truyền thống sống động của giáo hội cũng như tình liên đới với những người nghèo và thiếu thốn mở rộng tâm hồn để nhận biết sự hiện diện và tiếng nói của Đức Kitô” (số 93). Thái độ này không thể đưa tới một lý trí thụ động. Trái lại, nó luôn dành một chỗ đứng cho lý trí trong tương quan với đức tin. Thật vậy, “đức tin thanh lọc lý trí và mở rộng tầm nhìn của nó, song lý trí thanh lọc đức tin và minh định tính nhất quán của nó” (số 93). Phụng vụ không bao giờ là một sự thờ phượng vô lý, song luôn cho thấy lý trí được biến đổi và được canh tân (x. số 93). Thái độ thứ ba là sự gắn bó với huấn quyền. Thái độ chống đối hay coi thường Huấn quyền nghịch hẳn với cảm thức đức tin, vốn từng biết rõ Đức Giêsu đã cho tiếng nói của các Tông đồ một địa vị dứt khoát trong đời sống đức tin (Lc 10:16). Huấn quyền liên kết với Kinh thánh và Truyền thống tận bên trong: ba thực tại này cùng sống hay cùng chết mà thôi (x. số 97). Hai thái độ nội tâm khác chính là niềm vui thánh thiện của tâm hồn khiêm cung tìm kiếm Thiên Chúa trong xây dựng Giáo hội. Quả thế, sự bén nhạy của sensus fidei liên kết chặt chẽ với sự thánh thiện. Tài liệu mạnh mẽ khẳng định:
“Các thánh là những người mang ánh sáng của sensus fidei…Đối với Giáo hội, Đức Maria và tất cả những người thánh thiện, với cầu nguyện và đam mê của họ, là những chứng nhân nổi bật về sensus fidei trong thời đại của họ và cho mọi thời, trong nơi chốn của họ và cho mọi nơi chốn” (số 100).
Như vậy, các thánh không phải chỉ có giá trị cho một thời đại đặc thù nào đó. Các ngài có chỗ đứng dứt khoát cho mọi thời đại. Bởi lẽ, nơi các thánh, “Thánh Thần làm chuyển động tâm hồn và quy nó về Thiên Chúa, mở con mắt tâm trí và ban niềm an vui cho mọi người trong việc thuận theo và tin theo chân lý” (số 102). Được Thánh Thần chuyển động, người tín hữu với cảm thức đức tin mạnh mẽ, sẽ góp phần xây dựng Giáo hội trong sự hiệp nhất (x. số 104).
Với toàn bộ dự thế nội tâm như thế, cảm thức đức tin liên hệ với “lòng đạo bình dân” (popular religiosity). Hẳn nhiên, lòng đạo hay tính tôn giáo (religiosity) là điều tự nhiên đối với con người. Ai ai cũng có những tâm tình tôn giáo. Tuy nhiên, ở đây “lòng đạo bình dân” được hiểu theo một ý nghĩa biệt loại khác; nó “qui chiếu đến sự khôn ngoan của Dân Công giáo” (số 108). Lòng đạo đức bình dân này diễn đạt ra trong nhiều cách thức (x. số 108).
“Sự khôn ngoan đó một cách sáng tạo nối kết điều thần linh và nhân loại, Đức Kitô và Đức Maria, tinh thần và thể xác, hiệp thông và thể chế, con người và cộng đoàn, đức tin và quê mẹ, lý trí và tình cảm và nó cũng là một nguyên lý phân định và một bản năng tin mừng qua đó họ tự phát cảm nhận khi Tin mừng được phục vụ trong Giáo hội và khi nội dung đó bị làm rỗng đi và bị ngột ngạt vì những lợi lộc khác” (số 108).
Lòng đạo bình dân theo văn kiện là “sự tỏ lộ một đời sống đối thần được nuôi dưỡng bằng chính hoạt động của Thánh Thần được đổ vào lòng chúng ta” (số 109). Lòng đạo bình dân, xét như nguyên lý hay bản năng và như một sự phong nhiêu của thực hành Kitô hữu, nảy sinh từ cảm thức đức tin và làm cho cảm thức ấy thêm sáng tỏ. Nó bộc lộ trong nhiều hình thức phượng tự như hành hương, rước kiệu, sùng kính… Hơn nữa, tài liệu còn cho thấy lòng đạo đức bình dân này chính là “một sự hội nhập đức tin vào văn hóa” vậy (số 110). Điểm nổi bật mà tài liệu nêu lên ở đây là mối liên kết giữa cảm thức đức tin và tư cách linh mục cộng đồng thánh thiện của dân Thiên Chúa, một thiên chức có rất nhiều hình thức biểu lộ (x. số 110). Chắc chắn, lòng đạo bình dân vẫn luôn cần được tin mừng hóa một ngày một hơn, thì nó vẫn “biểu lộ nỗi khát khao Thiên Chúa mà chỉ những người đơn sơ và nghèo khó mới có thể biết được” (số 111), như chính Đức Phaolô VI và Đức Phanxicô xác quyết.[31] Như vậy, nguyên tắc này được sáng tỏ lên: tính chất giáo hội của lòng đạo bình dân. Tài liệu viết:
“Mang tính giáo hội có nghĩa là được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa, không bị chính trị hóa hay rơi vào bẫy của những ý thức hệ, hiệp thông mạnh mẽ với cả giáo hội địa phương và phổ quát, với các vị mục tử của Giáo hội và với huấn quyền, và mang tính chất truyền giáo mãnh liệt” (số 112).
Như thế, cảm thức đức tin không phải là thứ công luận dân chủ theo nghĩa xã hội và chính trị (x. số 113). Giáo hội không phải là một thực thể chính trị, không phải là một thứ NGO, vì Giáo hội nhận được cấu trúc bên trong và những nguyên lý cai quản của mình từ Đức Kitô (x. số 114). Giáo hội vẫn kính trọng công luận; nhưng cũng rõ, công luận không phải đều là chân lý, và hơn nữa, là chân lý mà Giáo hội phải theo (x. số 115). Giáo hội biết rõ “có những áp lực để làm giảm thiểu vai trò của đức tin trong tranh cãi công cộng hay làm cho giáo lý truyền thống Kitô giáo thỏa hiệp với những quan tâm và ý kiến tân tiến” (số 117). Tài liệu cho thấy nét khác biệt cơ bản giữa ý kiến hay công luận và chân lý đức tin như sau.
“Ý kiến chỉ là một diễn đạt, thường thay đổi và mau qua của dạng thái hay những ước muốn của một nhóm hay văn hóa nào đó, đang khi đó đức tin là âm vang của một Tin mừng có giá trị cho mọi nơi chốn và thời đại” (số 118).
Phân biệt ngắn gọn nhưng rõ ràng. Hơn nữa, trong lịch sử giáo hội, rất nhiều khi sự canh tân đến từ một nhóm thiểu số sống và làm chứng đức tin cách mãnh liệt. Ta phải nhớ rất kỹ:
“Toàn thể Dân Thiên Chúa trong sự hiệp nhất bên trong tuyên xưng và sống đức tin chân thật. Huấn quyền và thần học phải liên lỷ làm việc để canh tân sự trình bày đức tin trong những hoàn cảnh khác nhau, đối diện nếu cần với những ý niệm chủ trị của chân lý Kitô giáo với chân lý thực sự của Tin mừng” (số 119).
Ta ghi nhớ rằng kinh nghiệm của Giáo hội cho thấy rằng đôi khi chân lý đức tin được bảo tồn không phải do những nỗ lực của các thần học gia hay lời dạy của đa số các giám mục, nhưng trong tâm hồn của các tín hữu (x. số 119).
Như vậy, cần thiết biết bao để tham khảo được những trực giác đức tin của các tín hữu. Trong lịch sử, chẳng hạn như trong việc chuẩn bị công đồng Vatican II, Giáo hội đề ra nhiều hình thức tham khảo vì “các tín hữu có quyền lợi, và đôi khi có bổn phận, theo hiểu biết, uy tín và địa vị của mình, để tỏ cho các vị mục tử quan điểm của mình về những gì liên quan đến thiện ích của Giáo hội” (số 120). Quy luật “điều tác động đến mọi người, nên được mọi người thảo luận và phê chuẩn” (số 112) cần tìm được nhiều phương thức thực hành và sẽ đem lại nhiều thiện ích cho mọi người. Tuy nhiên, điều Giáo hội đang phải đối diện lại ở một chỗ khác. Do bởi đức tin yếu kém có khi đa số tín hữu lại tỏ ra dửng dưng hay ít chấp nhận những quyết định của huấn quyền về giáo lý và luân lý. Dĩ nhiên, ta không chối bỏ có một số trường hợp tỏ ra thiếu tham khảo đầy đủ toàn giáo hội (x. 123). Chắc chắn còn có thể có nhiều hình thức tham khảo được phát sinh. Nhưng điều quan trọng hơn chính là các mục tử và tín hữu cần kính trọng những đặc sủng của nhau và lắng nghe những kinh nghiệm và quan tâm của nhau. “Khiêm tốn lắng nghe ở mọi bình diện và tham khảo thích đáng những người liên hệ là những khía cạnh toàn vẹn của một giáo hội sống động và linh hoạt” (số 126).
III. KẾT LUẬN
Tài liệu mang tính học thuật này mời gọi các Kitô hữu tìm hiểu để đức tin cả dưới khía cạnh cá nhân lẫn giáo hội được lớn lên. Nó sẽ giúp chúng ta không bị tròng trành theo những trào lưu thế tục. Nó sẽ giúp chúng ta trân quý hơn đức tin mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Tài liệu mời gọi chúng ta đừng tạo ra một thứ nhị nguyên sai lạc khi coi rằng trong Giáo hội có hai thứ bất khả ngộ, một của huấn quyền, một của dân Chúa. Chỉ có một sự bất khả ngộ của đức tin được Thánh Thần đảm bảo, và huấn quyền có sứ mệnh phục vụ đức tin không thể sai lầm đó. Không chút hồ nghi, đức tin không bao giờ sai lầm; người tín hữu được xức dầu Thánh Thần thông phần vào sự không sai lầm đó bằng một cảm thức đức tin. Cả cộng đoàn dân Chúa cũng như từng cá nhân tín hữu, với sự chân thành sống và thực hành đức tin, đều có khả năng phân định những gì hợp hay trái nghịch với Tin mừng. Hồng ân này khiến cho Giáo hội bước đi vững vàng trong sứ vụ tân phúc âm hóa ngày nay. Cảm thức đức tin giữ người tín hữu luôn trung thành với đức tin tông truyền, song cũng thúc đẩy họ phát triển đức tin ấy để mang lại những giải đáp mới của Tin mừng cho những vấn đề của Dân Chúa đang lữ hành.[32] Thật vậy, cảm thức đức tin của tín hữu sẽ nên tinh ròng hơn khi họ tích cực tham gia vào đời sống Giáo hội. Rõ ràng, cảm thức đức tin là một tặng ân song cũng là một trách vụ để Giáo hội phát triển kho tàng đức tin vì phần ích của nhân loại đang hướng về Nước Thiên Chúa. Đức tin không thể sai lầm của các tín hữu làm chứng về điều thế giới cần thiết nhất để có thể tiến bước vững vàng vào phía trước của lịch sử: ĐỨC GIÊSU KITÔ (x. Cv 3:6-9).
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 84 (Tháng 9 & 10 năm 2014)
[1] X. Serge-Thomas Bonino, O.P. “The Sense of Faith”, Observatore Romano, english edition, ngày 4 tháng Bảy, 2014, p.1.
[2] X. Michael Sean Winters, The Sensus Fidei, ngày 30 tháng Sáu, 2014.
[3] Chúng ta thường đánh đồng thành một cảm thức đức tin. Nhưng, tài liệu này phân định rõ hơn khi nói tới chiều kích cá nhân, với hạn từ “sensus fidei fidelis” và chiều kích cộng đoàn, giáo hội với hạn từ sensus fidei fidelium”, dĩ nhiên tài liệu vẫn luôn cho thấy mối liên hệ hữu cơ giữa chúng.
[4] x. Gioan Phaolô II, Dominum et vivificantem: On the Holy Spirit in the Life of the Church
and the World; Redemptoris Missio.
[5] x. T. Augustinô, De Pr„d Sanct. 14, 27: PL 44, 980.
[6] Đức Phanxicô, Lumen fidei.
[7] x. số 9.
[8] x. Serge-Thomas Bonino, O.P, Như trên.
[9] x. Số 50, 51, 52, 54, 62; x. Sara Butler, MSBT, “The Instinct that guides the Church”, Obser. Rom. 4 July 2014, p.15.
[10] X. Paul McPartlan, thành viên của ITC, “The Sensus fidei: a vital resource for the Church”.
[11] Sara Butler, MSBT, Như trên.
[12] X. Số 33, 40.
[13] X. Sara Butler, Như trên.
[14] X. Paul McParlant, như trên.
[15] x. Số 44, 46.
[16] x. Số 46.
[17] x. Số 49.
[18] x. Số 46.
[19] X. Số 3.
[20] Số 53.
[21] Số 54.
[22] Số 56.
[23] x. Số 2; Serge-Thomas Bonino, O.P, Như trên.
[24] x. Số 63. Cũng x. Michael Sean Winters, trong “The Sensus Fidei” viết: [The sensus fidei fidelis enables individual believers: 1) to discern whether or not a particular teaching or practice that they actually encounter in the Church is coherent with the true faith by which they live in the communion of the Church (see below, §§61-63); 2) to distinguish in what is preached between the essential and the secondary (§64); and 3) to determine and put into practice the witness to Jesus Christ that they should give in the particular historical and cultural context in which they live (§65)] Ngày 30 tháng Sáu, 2014.
[25] Serge-Thomas Bonino, O.P, Như trên.
[26] Số 3.
[27] x. Số 43, 66.
[28] x. Số 74; cũng x. LG chương IV.
[29] Số 74.
[30] x. Số 74.
[31] x. Số 111.
[32] x. Số 127-128.
2021
Tương thân tương ái
TƯƠNG THÂN TƯƠNG ÁI
- Nguyễn Ngọc Thế SJ
Câu hỏi:
Tôi thấy nhiều người giàu sẵn sàng chi tiêu thoải mái, tiếc là tại sao họ không bớt chút tiền dư bạc thừa để giúp đỡ những người nghèo?
Trả lời:
Giàu có là điều đa số con người khao khát và theo đuổi. Đơn giản vì khi giàu có thì được tôn trọng, được sống sung sướng, muốn gì được đó. Thói đời vẫn nói: “Có tiền mua tiên cũng được”. Nhìn vào trong xã hội, chúng ta nhận ra khuynh hướng sống chạy theo đồng tiền và giàu sang rất mạnh mẽ, sôi nổi và nóng bỏng, đến nỗi không có bất cứ nơi nào không “dành chỗ” trân trọng, hay nói khác đi “chỗ VIP” cho đồng tiền và giàu sang. Thực tế, có tiền bạc và là người giàu sang đâu phải là tội lỗi gì.
Nhưng điều làm cho mọi người phải suy đi gẫm lại là: Tôi trở nên giàu có bằng cách thức nào? Khi là người giàu có tôi sống thế nào, để sự giàu có và đồng tiền không là ông chủ và tôi là nô lệ, nhưng đồng tiền và sự giàu sang là phương tiện tốt để đưa lại ý nghĩa và giá trị làm người cao quý cho tôi? Phải chăng của cải và tiền bạc tôi kiếm được dù bất nhân hay với nỗ lực của bản thân là của tôi 100%, quyền tư hữu của tôi chẳng dính dáng gì đến người khác, chẳng liên hệ gì với xã hội bên ngoài?
- Hỡi thế gian, tiền là gì?
Trở nên giàu có bằng cách thức nào là một câu hỏi liên hệ đến giá trị của người giàu có. Kẻ cướp nhà băng để trở nên giàu có, người ăn hối lộ để trở nên giàu sụ, kẻ giàu có qua dối trá và giành giật tất cả mọi phần thừa kế cho bản thân mà chẳng màng đến tình máu mủ và còn sẵn sàng giở trò “lưu manh và bạo lực”… Thử hỏi trở nên giàu sang, trở nên đại gia theo những kiểu như vậy có làm cho đời người có giá trị và ý nghĩa đích thật không? Lương tâm dù “có răng hay mất răng” rồi cũng sẽ lên tiếng và trả lời cho những phận người giàu sang theo kiểu bất nhân như thế.
Ngược lại, có những cách trở nên giàu có tích cực, đó là qua cố gắng nỗ lực và hy sinh của bản thân trong công việc hằng ngày, qua tài năng và học vấn được trau dồi bao nhiêu năm với hương vị của “đổ mồ hôi sôi nước mắt”, hay qua sự thừa kế hợp lý và hợp tình với cơ hội may mắn của phận người. Đó là những cách thức giàu sang theo kiểu “đồng tiền liền khúc ruột”, nghĩa là làm ra tiền là một quá trình, do vậy khi xài tiền thì người ta biết trân trọng, và luôn ý thức phải sử dụng sao cho hợp lý, không hoang phí và đưa lại ý nghĩa và giá trị của cuộc sống.
Có tiền rồi, giàu sang rồi, là đại gia rồi, giờ đây đứng trước một thử thách không hề dễ dàng: Làm sao để tôi luôn ý thức không trở nên “kẻ nô lệ” cho đồng tiền và giàu sang. Ngược lại, đồng tiền và giàu có phải luôn đóng đúng vai trò của nó; nghĩa là, nó phải là phương tiện để tôi có thể tìm thấy được ý nghĩa và giá trị đích thực cho cuộc sống. Là con người ai cũng biết tiền bạc luôn là con dao hai lưỡi. Một đàng, tiền bạc giúp con người sống dồi dào và phong phú; đàng khác tiền bạc có thể điều khiển con người và gây ra biết bao nhiêu đổ vỡ và khổ đau.
“Tiền bạc là tên đầy tớ tốt, nhưng là ông chủ xấu”. Thật vậy, tiền bạc có sự hấp dẫn mạnh mẽ, thế lực tiềm ẩn nhưng rất nguy hiểm, nếu người ta trở nên nô lệ cho đồng tiền, nếu người ta không biết dùng đồng tiền cách tốt đẹp nhất. Chúa Giê-su đã khuyến cáo và kêu gọi thật mạnh mẽ: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16,13). Chúa không cấm chúng ta làm ra tiền. Chúa cũng không cấm chúng ta để dành tiền của trong ngân hàng, mà Chúa nhắc nhớ Ki-tô hữu cần ý thức không được trở nên nô lệ của tiền bạc. Lời của Chúa nói như là một chân lý bất di bất dịch. Chúa cũng mời gọi Ki-tô hữu với sự tự do của mình có một quyết định đúng đắn và luôn ý thức trong phân định, để khôn ngoan chọn lựa và làm tôi của Thiên Chúa, nghĩa là thuộc trọn vẹn về Thiên Chúa.
Khi đã chọn Chúa là chủ của mình, người Ki-tô hữu luôn ý thức và cẩn trọng trong tâm hồn của mình, để tiền bạc không chiếm chỗ thượng phong, chỗ ưu tiên trong trái tim của mình. Khi người Ki-tô hữu đã có Chúa trong trái tim mình, thì luôn ý thức tỉnh táo trước cám dỗ của tiền bạc và sự ảo tưởng hão huyền của tiền bạc hứa hẹn sẽ đưa lại:
“Anh em phải coi chừng, phải giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.” (Lc 12,15).
- Ông nhà giàu và anh chàng nghèo
Lòng tham thì vô đáy. Chúa Giê-su biết rõ tâm trạng và lòng người mềm yếu dễ đi theo khuynh hướng “tham lam”, “gom góp” và “tích trữ”. Tham lam là một trong bảy mối tội đầu. Có nhiều kiểu tham và trong đó nổi bật là kiểu tham lam tiền bạc vật chất. Đi đôi với tham lam là keo kiệt, hà tiện và bủn xỉn. Đó là cách sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân và không bao giờ muốn chia sẻ với người khác. Đó là cách sống của người phú hộ. Người giàu sang sẵn sàng chi tiêu thoải mái cho bản thân, nhưng không bao giờ bớt chút tiền dư bạc thừa để giúp đỡ những người nghèo.
Người giàu có tham lam với kho tàng kếch sù, luôn muốn sống trong nhung lụa giàu sang dư giả, lại còn ích kỷ sống trong vỏ bọc an toàn của “kho lẫm” đã được tích trữ. Đó là hình ảnh của một người phú hộ giàu có (đại gia) mà Luca diễn tả:
“Hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12,18-19).
Theo lẽ thường tình, thì đại gia này làm rất ok và mọi người thấy chắc là sẽ khen ông ta khôn ngoan, biết hưởng thụ ở hiện tại và biết lo xa cho tương lai. Nhưng truyện đâu có kết thúc ở “cái đầu khôn ngoan” của con người giàu có. Dụ ngôn kể tiếp với lời của chính Chúa nói với “đại gia” tự cho mình là khôn ngoan:
“Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế” (Lc 12,20-21).
Trong dụ ngôn, chúng ta thấy tên của đại gia, của người phú hộ không được nhắc đến. Hay ông ta không có tên? Cha Pierre Cardon de Lichtbuer nói rằng: Người giàu không có tên! Thực chất dụ ngôn nói về một người đã mất linh hồn và tên của mình. Trong Tân Ước những người giàu có xấu xa không có tên. Đó hầu như chỉ là biểu tượng; người giàu có gắn bó với của cải vật chất của mình đến nỗi chính mình trở thành một đồ vật; người ấy đã mất nhân cách của mình. Ôi buồn thay, đại gia không tên! Dù đại gia không có tên, nhưng Thiên Chúa vẫn tìm đến được nơi ông ta sống và “đòi lại mạng” của ông ta, ngay trong đêm “đại gia” tưởng rằng an toàn thư thái hưởng thụ cuộc đời.
Rồi khi đại gia tham lam, ích kỷ và bất nhân chết đi, phận người giàu sang sẽ ra sao? Đọc lại dụ ngôn ông nhà giàu (x. Lc 16,19-31) mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình, nhưng lại ích kỷ không màng tới người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông ta, và mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta, chúng ta nhận ra kết quả của người giàu nhận được sau cái chết. Âm phủ với bao cực hình là chỗ ở của người nhà giàu keo kiệt ích kỷ chỉ sống cho mình, trong khi đó anh La-da-rô nghèo khó đang được nằm trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham. Hai bên lại có một vực thẳm thật sâu. Vực thẳm “ngăn chặn” mọi tương quan giữa người bên này với người bên kia. Sự thông tri, thông thương và liên lạc bị ngăn trở hoàn toàn.
Giữa hai bờ vực không có chiếc cầu được xây và bắc qua. Vực thẳm quá lớn, đến nỗi không ai có thể tự mình từ bên này để qua bên kia được. Vực thẳm lớn này được quy định rõ rệt và không ai có thể thay đổi. Như thế, không còn sự thông thương giữa hai bên và anh La-da-rô không thể giúp đỡ người giàu có kia được. Điều này là một sự nghiệt ngã đối với anh nhà giàu. Không biết, đến ngày cánh chung, anh nhà giàu sẽ như thế nào?
- Dùng tiền mua lấy Nước Trời
Thánh Phaolô chia sẻ: “Cái gì chúng ta đem vào thế giới này? Chẳng có gì. Cái gì chúng ta đem ra khỏi thế giới này? Cũng chẳng có gì!” (1Tm 6,7). Như thế, khoảnh khắc được vào đời và khoảnh khắc phải lìa đời “thắm thiết ôm nhau” trong vòng tay của chữ KHÔNG. Chẳng có kho tàng nào của tiền bạc và vật chất có thể “đưa tang” và “đồng hành” với người có của, với đại gia của cuộc đời bước vào cõi chết cả. Vì thế, thật quan trọng và khẩn thiết, để cập nhật hoá, để update lại giá trị cuộc sống và kho tàng đời người, để không mắc sai lầm của người phú hộ và người giàu sang cứ yến tiệc linh đình đến nỗi vô cảm chẳng màng tới người nghèo.
“Không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu”. Đây chính là lời cảnh báo rõ rệt của Chúa Giê-su. Sự bảo đảm cho cuộc sống ai cũng muốn. Nhưng đâu là chỗ để chúng ta có thể dựa vào, để chúng ta có thể tìm sự bảo đảm và an toàn? Hơn nữa, giá trị của con người không nằm ở giá trị của những gì người ấy sở hữu, nhưng ở chỗ người ấy là ai và sống như thế nào. Con người không được đánh giá bằng những gì người ấy có trong tài khoản ngân hàng, nhưng bằng giá trị của trái tim, cuộc sống, các hành vi, các quan hệ với các người thân và với những người đồng loại của mình. Với người Ki-tô hữu, giá trị thật của con người, chính là biết mình được tạo dựng, biết mình là con cái của Thiên Chúa và ý thức tập sống đúng theo tinh thần Chúa dạy.
Tinh thần Chúa dạy dành cho người giàu thì rõ lắm. Dụ ngôn về người giàu có được nhắc ở trên đã đưa ra tinh thần Chúa dạy rồi. Câu truyện người thanh niên giàu có ao ước có sự sống đời đời làm gia nghiệp đến gặp Chúa Giê-su đưa lại một sứ điệp thật rõ ràng. Anh vừa giàu, vừa đạo đức, đến nỗi Chúa thấy và đem lòng yêu mến anh. Nhưng giàu và đạo đức theo chuẩn mực luân lý của người Ít-ra-en thời đó chưa đủ trong đôi mắt của Chúa. Điều quan trọng cuối cùng người thanh niên giàu có kia cần làm là:
“Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc 10,21).
Chúa đã đặt người thanh niên giàu có trước một thử thách lớn: “Hãy đi bán” của cải vật chất sở hữu. “Hãy cho người nghèo” khổ những gì mình có. Rồi “hãy theo Chúa”. Ba chữ “hãy” giải thoát của Chúa Giê-su dành cho người giàu sang phú quý, dành cho những đại gia của cuộc đời. Nhưng người thanh niên giàu có đã quyết định ra sao?
Ai trong chúng ta cũng biết cái kết của câu truyện là chàng thanh niên giàu có kia đã từ chối ba chữ “hãy” của Chúa, anh ta đã bỏ Chúa Giê-su và về lại với khối tài sản giàu sụ của mình. Không mở lòng thực sự thì hầu bao cũng đóng chặt. Dù đạo đức và dù đã lọt vào đôi mắt tình yêu của Chúa, nhưng người thanh niên kia vẫn không thể vượt qua được thân phận nô lệ của mình: một phận nô lệ cho tiền bạc và vật chất. Điểm tựa an toàn của anh chính là kho tàng kếch xù của anh.
Người thanh niên ra về và anh sa sầm nét mặt. Niềm vui đã tan biến. Khát vọng chân thật mà người thanh niên bộc lộ lúc ban đầu gặp Chúa, bây giờ tàn lụi, tắt ngấm. Nó không còn có thể làm nảy sinh niềm vui đến từ lòng khát vọng sống động. Trình thuật này được viết ra không phải để chúng ta buồn lòng về trường hợp người thanh niên ấy, nhưng để Lời Chúa đánh động tâm hồn ta. Lời Chúa cũng muốn vươn tới khát vọng chân thật của ta, cũng muốn khơi dậy đức tin chân thật nơi ta, cũng muốn đưa ta vào con đường khôn ngoan chân thật, đó là Khôn Ngoan của Thiên Chúa.
Khôn ngoan của Thiên Chúa dành cho người giàu có là biết dùng của cải vật chất để cho đi. Ai càng giàu mà càng cố gắng “xuất hành” ra khỏi cái tôi ích kỷ, ra khỏi đống tiền bạc lớn lao, để rảo bước đến với người nghèo, để chia sẻ lòng thương xót với họ, thì người đó đang trên đường trở thành người khôn ngoan.
Hơn nữa, tất cả những gì người giàu có làm cho người nghèo khó là làm cho chính Chúa nữa, vì người nghèo là hiện thân của Chúa đó mà (x.Mt 25,40). Khi sống được như thế, thì tới ngày Cánh Chung, sự sống đời đời chắc chắn dành cho “con chiên giàu có đạo đức”, đã ý thức sống chia sẻ với những anh chị em nghèo và bất hạnh. Nói khác đi, nếu chàng thanh niên này sống đúng như lời Chúa dạy, thì anh đã đạt được sự sống đời đời. Vâng, vật đặt cược chính là sự sống đời đời. Và cái khó ở đây là phải ưu tiên cho cái vô hình trước cái hữu hình ta đang có. Hơn nữa, sự khôn ngoan của Thiên Chúa dành cho người giàu còn nằm ở tại cửa Thiên Đàng, nơi Chúa sẽ hỏi phận người giàu có về chính tài sản mà Chúa đã trao cho họ để quản lý.
Charles Peguy từng nói rằng khi tiến đến cổng thiên đàng, chúng ta đều sẽ bị hỏi: “Nhưng những người khác đâu? – Mais où sont les autres?” Với Rolheiser, câu hỏi này dành cho cả tính nhân văn và đức tin của chúng ta. Nhưng những người khác đâu? Thật là ảo tưởng và sai lầm khi nghĩ rằng mọi thứ người giàu sang sở hữu do lao công thì phải là của mình. Nghĩ như thế là phải xem lại đời mình. Thân sinh của ông Bill Gates, cách đây hơn 15 năm, đã viết trên tờ Sojourners thách thức không chỉ người con nổi tiếng của mình, mà cả chúng ta nữa, với những lời này:
“Xã hội có quyền rất lớn trên tài sản của người giàu. Điều này không chỉ bắt rễ trong các truyền thống tôn giáo, mà còn trong việc thành thật tính đến sự đầu tư trọng yếu của xã hội để tạo nền tảng màu mỡ cho sự sinh sản của cải. Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo đều xác nhận quyền sở hữu riêng và tài sản riêng, nhưng đặt ra các giới hạn luân lý về quyền sở hữu tuyệt đối. Mỗi truyền thống đều khẳng định chúng ta không phải là cá thể đơn độc mà là những thành phần trong cộng đồng, một cộng đồng có quyền trên chúng ta. Khái niệm ‘cái này hoàn toàn là của tôi’ là một sự vi phạm những lời dạy và truyền thống này.” (Sojourners, tháng 1 đến tháng 2, 2003).
Như thế, phải công nhận rằng điều mỗi người tích lũy được là kết quả không chỉ nhờ lao công của bản thân, mà còn nhờ cơ sở hạ tầng của toàn xã hội mà người đó sống. Do đó, những gì người ta tích lũy được không hoàn toàn là của họ!
Trong kinh Lạy Cha, chúng ta đọc: “xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Chúng ta nhận ra đây là một lời kinh ở số nhiều. Điều này có nghĩa gì vậy? Theo Hamman, điều đó muốn dạy ta phải cầu nguyện chung với những người thiếu thốn lương thực hằng ngày, cũng như phải cầu nguyện cho những người ấy. Đừng quên rằng phân nửa thế giới ở trong tình trạng kém dinh dưỡng.
Lời cầu xin này vừa là lời cầu cứu Thiên Chúa, vừa là tiếng gọi những ai đang nắm giữ độc quyền của cải trần gian, vì Thiên Chúa ban cho của cải ấy là ban cho hết mọi người. Đó là lời nhắc nhở những người có của, những nước giàu rằng họ chỉ là người quản lý của Thiên Chúa, họ phải chịu trách nhiệm phân phối của cải sao cho công bình…Khi cầu xin lương thực như thế, người Ki-tô hữu càng đi sâu vào giữa lòng nhân loại hôm nay. Vì thế, với người Ki-tô hữu cần giới thiệu cho mọi người thấy khuôn mặt của Đức Ki-tô, Người là Đấng có đủ mọi sự giàu sang mà lại chấp nhận trở nên nghèo nàn.
Đến đây, có thể người tín hữu giàu sang thấy được chút tinh thần cần sống thế nào, để đời mình có được ý nghĩa. Tuy vậy, có thể họ sẽ lên tiếng:
“Là một doanh nhân có niềm tin vào Chúa, tôi cũng đến với Chúa thường xuyên trong Thánh Lễ Chúa Nhật, vẫn đi hành hương Đức Mẹ Tà Pao mỗi tháng, hành hương Đức Mẹ Bình Triệu mỗi tuần và mỗi năm ít nhất hai lần đến cầu nguyện với cha Trương Bửu Diệp nữa. Rồi cha xứ, Đức Giám Mục hay nhà dòng nào kêu gọi, tôi đều sẵn sàng đóng góp. Nhìn kìa bạn, khi công phúc treo gần đầy một bức tường trong phòng khách. Như vậy chưa đủ sao?”
Ôi đẹp biết bao nhiêu và tốt lành biết chừng nào! Mong sao các tín hữu là đại gia tiếp tục như vậy nhé! Nhưng không chỉ vậy. Chúa còn đòi hỏi hơn nhiều: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ” (Mt 12,8).
Lời của Chúa làm chúng ta nhớ lại tinh thần của Đức Khổng Tử: “Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử? Người quân tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân, dù trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân” (Luận Ngữ, IV, 5). Như thế, trong năm đức tính (ngũ thường) người quân tử cần có, theo Khổng Tử, thì lòng nhân đứng hàng đầu.
Trong dòng chảy của cuộc đời, trong hàng hàng lối lối của những chiếc xe sang đưa của lễ đến dâng cho Thiên Chúa, cho Mẹ Maria, con chiên giàu sang của Chúa cần thành tâm và ý thức tự chất vấn mình dưới ánh sáng của Lời Chúa: “Tôi đi hành hương để làm gì? Có phải để tôi xin được bình an, mạnh khoẻ, làm ăn được khấm khá và xuôi chảy, để hầu bao của tôi mỗi ngày thêm ‘phồng to’? Trong chuyến hành hương này tôi sẽ kể cho Chúa nghe về những công phúc tôi đã làm cho các nhà thờ, cho các nhà dòng và chắc là Chúa sẽ phải trả công cho tôi? Tinh thần thờ lạy Chúa có trong cuộc hành hương của tôi không?
Giới răn đầu tiên trong 10 giới răn: ‘Thứ nhất thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự’ tôi thuộc nằm lòng, nhưng giới răn đó có đang cùng hoà nhịp cách sống động với trái tim và đôi tay của tôi không? Nhìn đến của lễ tôi chuẩn bị đang ở trong xe sang của tôi, tôi có thấy lòng nhân của tôi ở trong của lễ không? Thiên Chúa cần đến của lễ giàu sang này hay Người cần gì ở nơi tôi, một người giàu sang có nhiều của cải? Khi tôi dâng của lễ, Thiên Chúa sẽ hỏi tôi điều gì? Khi tôi đóng góp ‘tiền tỉ’ cho nhà thờ và nhà dòng, tôi đang đi tìm gì? Tìm một bản công phúc treo tường cho oai? Tìm một danh tiếng thơm làm cho ‘giá trị’ đại gia được thêm ‘lộng lẫy’? Trước những công phúc tôi làm và trước của lễ sang trọng tôi dâng Chúa, Ngài sẽ cám ơn tôi hay Ngài sẽ đặt lại với tôi những câu hỏi về chính đời sống của tôi có hương vị của tình yêu, của lòng thương xót hay không?”
Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng: “Vào xế chiều cuộc sống này, bạn được phán xét về tình yêu”. Vì thế, thật đẹp khi của lễ dâng Chúa và Mẹ Maria của người giàu sang, lúc còn sống ở đời này, mang hương vị của Lòng Thương Xót, của chữ nhân từ là nét đẹp của chính Thiên Chúa và của con cái Người: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).
Kết
Cám ơn bạn đã đặt câu hỏi thú vị trên. Đó là cơ hội, là động lực thúc đẩy người Ki-tô hữu giàu có của cải vật chất cần ý thức hơn để sống trong sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Đó là sống thanh thoát với tiền bạc vật chất, sống không làm “nô lệ” cho của cải và giàu sang. Sống ý thức trong việc quản lý của cải vật chất mình sở hữu, bằng cách biết dùng của cải và giàu sang không chỉ cho sự sung túc của bản thân, mà còn ý thức hướng về người nghèo khó. Đó là con đường chắc chắn dẫn tới Nước Trời. Ở cửa Nước Trời, mỗi người Ki-tô hữu giàu sang sẽ được Chúa hỏi: “Nhưng những người khác đâu?”
Đọc thêm:
Bài 15: Áo giáp chống nạn Bài 14: Đức tin kiến tạo hòa bình và công bằng xã hội Bài 13: Vấn đề truyền giáo Bài 12: Thờ kính ông bà tổ tiên Bài 11: Truyền giáo cho người trẻ ngoại đạo Bài 10: Bền đỗ trong ơn gọi gia đình Bài 09: Vấn đề “theo đạo rồi mới cho cưới” Bài 08: Gieo suy nghĩ tốt Bài 07: Nhanh từ từ thôi Bài 06: Hiện tượng bóng ma Bài 05: Vượt qua khủng hoảng! Bài 04: Vấn đề rước Mình Máu Thánh Chúa Bài 03: Đừng cám dỗ nhau nhé! Bài 02: Sao lại kỳ thị người tu xuất? Bài 01: Nhận định ơn gọi cho cuộc đời |