2021
Linh đạo Inhã – Một cái nhìn tổng quan
Chuyển ngữ: Nam Văn
Hiệu đính: Trung Thu
Từ: ignatianspirituality.com
Linh đạo Inhã rất cụ thể. Đó là cách sống mối tương quan giữa ta với Chúa. Linh đạo ấy rất thực tế, không mơ hồ, là một lối sống hơn là một lối suy nghĩ hay niềm tin. Linh đạo Inhã được đặt theo tên thánh Inhaxio thành Loyola, một nhà quý tộc thế kỷ 16 và một thời đã từng là hiệp sĩ, người đã giúp xóa bỏ bức tường ngăn cách giữa những điều thánh thiêng và tất cả những điều khác mà ta làm. Hàng triệu người ngày nay sống theo linh đạo Inhã. Đó là con đường của sự độc đáo, duy nhất và một sự hiểu biết năng động về Thiên Chúa, về thế giới của Ngài cũng như về chính bản thân mình.
Linh đạo Inhã bắt nguồn từ Thiên Chúa. Thánh Inhã nhìn nhận Thiên Chúa là tình yêu vô tận, là Đấng trọn tốt trọn lành luôn ban phát ơn phúc. Thánh nhân viết: “Tình yêu Thiên Chúa chiếu sáng trên tôi tựa như những tia nắng mặt trời. Tình yêu Thiên Chúa đổ xuống đầy tràn như nguồn mạch trào ra suối nguồn vô tận.” (Linh thao, số 237). Thiên Chúa hành động cá vị với từng người trong chúng ta và ban cho mỗi người một khả năng riêng, các mối tương quan cũng như các nhiệm vụ để hoàn thành. Những điều này được ban cho mỗi người từ tình yêu cá vị của Thiên Chúa và mời gọi ta đáp trả tình yêu ấy cách cá vị.
Thiên Chúa luôn hoạt động và không ngừng lao tác trong thế giới này. Ngài trở nên con người nơi Đức Giêsu thành Nazareth và đảo lộn một cách sâu rộng và vĩnh viễn đời sống của chúng ta. Linh đạo Inhã cho rằng: “Nếu bạn đang tìm kiếm Thiên Chúa, hãy nhìn xung quanh bạn.”
Thiên Chúa tha thiết yêu mến thế gian, nhưng thế gian lại bị gãy đổ. Thánh Inhã quan sát mặt đất và nhận thấy nhiều người sống không mục đích, ơ hờ, ghen ghét và giết chóc, rất nhiều người thiếu ăn, bệnh tật và hấp hối, rất nhiều người sống chật vật và mù quáng với bất kỳ ý nghĩa nào.
Thánh Inhã hình dung ra Ba Ngôi Thiên Chúa đang chăm chú quan sát thế giới bị đổ vỡ của chúng ta và nói rằng: “Chúng ta hãy cùng cộng tác vào công cuộc cứu chuộc loài người, hãy đáp lại tiếng kêu than của mọi loài thụ tạo”. Chúa Giêsu đến thế gian để cứu chuộc, chữa lành, đem đến bình an, đời sống phong phú, niềm vui và sự hiệp nhất.
Trong cái nhìn của thánh Inhã: “Chúa Kitô công bố rằng: Ước muốn của tôi là chinh phục cả thế giới, là vượt qua sự dữ bằng những điều lành, là chôn vùi ghen ghét bằng tình yêu, là chinh phục tất cả quyền lực của sự chết.” (Linh thao, số 95).
Thế giới cần những con người có óc tưởng tượng, tầm nhìn và quyết tâm khắc phục những thương tổn gây ra bởi lòng tham và thù hận. Giờ đây, chúng ta trở thành tâm điểm cho ánh nhìn của Thiên Chúa. Ngài nói với chúng ta: “Ai muốn theo Ta trong sứ vụ này, phải lao khổ cùng Ta, để một khi đã cùng Ta trong đau khổ, cũng được chia sẻ với Ta trong vinh quang.” Nói cách khác, Chúa Kitô kêu mời ta phụng sự Ngài; Ngài cần ta. Chúng ta sẽ trở nên những tông đồ trong sứ vụ chữa lành và cứu chuộc. Nhu cầu của thế giới là vô hạn, vì thế, ta có thể phục vụ bằng nhiều hình thức khác nhau. Mỗi chúng ta có một vị trí riêng biệt trong sứ mạng này, tham gia vào việc giúp đỡ như thánh Inhã đã từng, hay như cha Pedro Arrupe, Bề trên Cả Dòng Tên sống vào thế kỷ 20, đã nói rằng: “Chúng ta là những người nam và người nữ sống cho người khác.”
Đặc nét này của linh đạo Inhã thực sự rất thu hút vì nó trả lời cho câu hỏi căn bản: Tôi phải làm gì với cuộc sống của mình? Mục đích không phải là trở nên giàu có, được thán phục, được vui vẻ, hay là được thỏa mãn. Mục đích là để hiểu biết, để yêu mến và phụng sự Thiên Chúa như việc chúng ta cộng tác vào công trình của Chúa để cứu độ và chữa lành thế giới.
Vì mỗi người chúng ta phải nhận ra vai trò của mình trong sứ mạng này, nên không có gì ngạc nhiên khi linh đạo Inhã đề cập nhiều đến việc thực hiện các lựa chọn tốt lành. Nhiệm vụ của chúng ta là thoát khỏi tình trạng mà thánh Inhã gọi là “quyến luyến lệch lạc”. Những thứ ta nghĩ mình phải có để được hạnh phúc như tiền bạc, tình dục, quyền lực, một chỗ đứng trong xã hội, những người bạn hào nhoáng và tự do cá nhân. Những điều này tự bản chất là không xấu, nhưng chúng trở thành vấn đề khi chúng kiểm soát ta và giới hạn tự do của ta trong việc đưa ra những lựa chọn thực sự đáp ứng những khát vọng sâu thẳm nhất của mình.
Phân định theo Inhã giúp chúng ta thoát khỏi những quyến luyến và chọn lựa điều thực sự đem đến cho ta niềm vui. Thánh nhân chỉ cho ta cách để đối diện với những cảm xúc và những khát vọng sâu thẳm mà Thiên Chúa đã đặt để trong con tim mình. Nhờ phân định theo Inhã, chúng ta nhạy bén với sứ mạng của Chúa và hiểu được phận vụ của mình trong sứ mạng ấy.
Phân định là một tiến trình lâu dài. Ta muốn mở cánh cửa ư? Hãy cho Chúa một chút thời gian và để mối thân tình với Ngài được lớn lên. Chúng ta dần dần nhận ra rằng, những kế hoạch của Thiên Chúa thì tốt đẹp hơn của chúng ta. Chúng ta đáp lại cách quảng đại hơn. Chúng ta trở nên có khả năng yêu mến và phụng sự trong mọi sự.
Một linh đạo như vậy, nghĩa là luôn ý thức sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống thường ngày và tập trung phục vụ người khác, thì rất thực tiễn. Nó hàm chứa những câu hỏi như: Làm thế nào tôi có thể trở nên một người bạn, một người yêu hay một người cha người mẹ tốt hơn? Làm thế nào để tôi có thể giúp đỡ những người xung quanh tôi nhiều hơn? Tôi nên đối diện với đau khổ như thế nào? Đó là một linh đạo bao gồm những câu hỏi sâu xa nhất trong cuộc sống.
Trong thực tế, linh đạo Inhã giúp bạn tìm thấy Chúa trong mọi sự. Mọi sự đều là một phần của đời sống thiêng liêng: bạn bè, gia đình, cầu nguyện, những thực hành đức tin, nghề nghiệp, mối quan hệ và công việc tình nguyện.
Có hai chiếc hộp: một chiếc dành cho những điều thiêng liêng, và chiếc kia dành cho những điều còn lại. Thay vào đó là một thế giới được Thiên Chúa yêu thương hoàn toàn. Nếu ta liên đới trọn vẹn với thế giới của Ngài thì ta cần luôn luôn tương tác với Ngài. Với thánh Inhã thì điều này có nghĩa là ta cần nuôi dưỡng tư duy phản tỉnh trong cuộc sống nhiều bề bộn. Ta sẽ trở nên chiêm niệm trong hoạt động, trở nên những con người vừa ý thức về Thiên Chúa vừa mau mắn đáp lại Ngài.
Thường xuyên cầu nguyện theo thánh Inhã giúp ta trở nên chiêm niệm trong hoạt động. Chiêm niệm trong hoạt động là những người sống trong sự tĩnh lặng, thanh bình, sâu lắng bên trong. Những hoạt động của họ xuất phát từ tâm điểm sâu xa này. Đây là một đặc nét của linh đạo Inhã hấp dẫn chúng ta cách đặc biệt. Ai chẳng muốn một phương cách để kết nối với Chúa sau một ngày bận rộn hay nhiều áp lực?
Thánh Inhã nhìn Thiên Chúa là Đấng ban phát ơn lành, nghĩa là cầu nguyện theo Inhã gắn liền với cảm thức biết ơn sâu xa, một lời tạ ơn chân thành cho những ơn ban cụ thể trong ngày sống. Nói theo thánh Inhã là: “Ta tạ ơn Chúa vì những ân huệ nhận được.”
Vì thế, linh đạo Inhã là một linh đạo của con tim. Đó là linh đạo về việc tìm kiếm điều ta thực sự khao khát, về việc cộng tác vào công trình vĩ đại của Chúa để chữa lành thế giới. Đó là linh đạo của lòng biết ơn, và niềm khao khát đáp trả lời mời gọi yêu thương của Chúa để biết Ngài. Đó là linh đạo của tình yêu.
Cha Pedro Arrupe đã nói về điều đó theo cách này:
“Không gì thiết thực hơn việc tìm kiếm Thiên Chúa, hơn việc yêu cách trọn hảo và dứt khoát.
Điều gì bạn yêu mến, điều gì chiếm hữu trí tưởng tượng của bạn, sẽ có ảnh hưởng trên tất cả. Nó sẽ quyết định
Điều sẽ đưa bạn ra khỏi giường vào buổi sáng, điều bạn làm vào buổi tối,
việc bạn dùng thời gian cuối tuần như thế nào, thứ bạn đọc, những người bạn biết, điều làm tan vỡ trái tim bạn, và điều làm bạn ngạc nhiên với niềm vui và lòng biết ơn.
Hãy yêu, rồi ở lại trong tình yêu,
Và nó sẽ quyết định tất cả.”
2021
Giáo hội như là Gia đình Thiên Chúa và Giáo hội tại gia
“Giáo hội là Gia đình của các gia đình, thường xuyên được làm phong phú bởi đời sống của tất cả các Giáo hội tại gia” (Amoris Laetitia, số 87).
1. DẪN NHẬP
Mạc khải Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta biết rằng từ nguyên thủy Thiên Chúa sáng tạo muôn vật muôn loài, đồng thời, sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, để họ được chia sẻ sự sống và tình yêu của Người. Tuy nhiên, bản tính và phẩm giá con người trên bình diện cá nhân cũng như gia đình đã bị hư tổn vì tội lỗi. Để thực hiện chương trình phục hồi và cứu độ con người, Thiên Chúa bắt đầu bằng việc chọn Dân Do-thái làm Dân Riêng của Người, đồng thời, Người cho họ biết Người là Cha của họ và là Cội Nguồn của muôn vật muôn loài. Từ Dân Riêng của Người, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã đến với gia đình nhân loại qua gia đình Na-da-rét.
Trong sứ mệnh ở trần gian, Đức Giêsu mạc khải rằng Thiên Chúa là Cha của Người Con Duy Nhất là chính Người, đồng thời, Người cũng mạc khải về Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu còn mạc khải về sự duy nhất của Chúa Cha, Chúa Thánh Thần và Người trong chương trình cứu độ nhân loại. Cùng với Chúa Cha, Người gửi Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ để tiếp tục chương trình của Thiên Chúa. Như vậy, theo mạc khải của Đức Giêsu, Thiên Chúa vừa là Một, vừa là Ba Ngôi, vừa là Duy Nhất, vừa là Gia Đình. Đồng thời, sự hiện diện của Đức Giêsu ở trần gian chính là sự hiện diện của Gia Đình Thiên Chúa. Các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại trong lịch sử diễn ra trong bối cảnh gia đình (gia đình A-đam, gia đình Nô-ê, gia đình Áp-ra-ham, gia đình Mô-sê, gia đình Đa-vít) là những hình ảnh báo trước giao ước mới giữa Gia Đình Thiên Chúa và gia đình nhân loại được thực hiện bởi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Trong sứ mệnh dương thế, Đức Giêsu Kitô đã thiết lập Giáo Hội, để Giáo Hội tiếp tục sự hiện diện của Người ở trần gian.
Chủ đề bài viết ‘Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa và Giáo hội tại gia’ là chủ đề rộng lớn, liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau từ thần học đến nhân loại học, từ xã hội học đến đạo đức học. Chúng ta giới hạn việc tìm hiểu chủ đề thông qua những điểm chính yếu thuộc nội dung đức tin Kitô Giáo, đồng thời, khai triển hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa và mối liên hệ mật thiết với gia đình, Giáo hội tại gia. Nội dung bài viết theo thứ tự như sau: (1) Khái niệm gia đình, (2) Gia Đình Thiên Chúa theo mạc khải Kinh Thánh, (3) Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa, và (4) Ưu điểm trong việc hiểu Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa.
2. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH
Là con người, ai cũng có kinh nghiệm về gia đình, tuy nhiên, sẽ không bao giờ có câu trả lời xác đáng cho câu hỏi ‘gia đình là gì?’, bởi vì, khái niệm này diễn tả thực thể (hay những thực thể) vừa tĩnh, vừa động, vừa cụ thể, vừa trừu tượng, vừa thuộc phạm trù văn hóa xã hội, vừa thuộc phạm trù kinh tế chính trị, vừa thuộc phạm trù triết học, vừa thuộc phạm trù thần học. Dạng thức chính yếu của gia đình, gia đình cơ bản, gia đình theo nghĩa thuần túy, gia đình như là tế bào của xã hội (cell of society) hay gia đình hạt nhân (nuclear family) là gia đình bao gồm một vợ một chồng (monogamous model) và con cái của họ chưa đến tuổi thành hôn. Đây là môi trường, nơi các đặc tính của con người như ngôi vị, tương quan, xã hội, văn hóa, truyền thống được đón nhận, sống và chuyển tải.
Gia đình mở rộng bao gồm gia đình cơ bản cùng với những người liên quan khác theo huyết tộc, chẳng hạn, ông, bà, cháu, chắt. Gia đình mở rộng cũng bao gồm những người họ hàng khác nữa, chẳng hạn, chú, bác, cậu, dì. Gia đình mở rộng còn có nghĩa là gia đình của những người thuộc cùng chủng tộc, bộ tộc hay thị tộc. Ngoài gia đình cơ bản, gia đình mở rộng, còn có gia đình hỗn hợp. Đây là hình thức gia đình mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai có những hôn nhân mới cùng với con cái và các thành phần trong gia đình chung sống với nhau. Một số dân tộc trên thế giới còn duy trì hình thức gia đình đa thê (polygamous family), là gia đình trong đó người chồng cùng lúc có nhiều người vợ hay đa phu (polyandrous family), là gia đình trong đó người vợ cùng lúc có nhiều người chồng.[1]
Trong những thập niên gần đây, nghĩa gia đình cơ bản truyền thống bị biến dạng, người ta hiểu và sống bầu khí gia đình theo cảm nhận tự do của mình. Ở một số nơi, pháp luật dân sự cho phép họ thực hiện điều đó nhân danh tự do, nhân quyền và dân quyền. Theo nghĩa này, gia đình không nhất thiết bao gồm cha mẹ và con cái chưa kết hôn mà còn bất cứ hình thức nào, có thể là gia đình của những người đồng ý sống với nhau và lìa bỏ nhau bất cứ lúc nào hay những người sống với nhau theo lối ‘hợp đồng’. Khi ly thân, họ có thể sống một mình hoặc nếu có con, họ trở thành cha đơn thân nuôi con (single daddy) hay mẹ đơn thân nuôi con (single mom). Xem ra, xã hội hiện đại dễ dàng cổ xúy cho các hình thức gia đình này.
Ngoài gia đình liên quan đến vợ chồng, con cái, người ta còn dùng khái niệm gia đình để chỉ những thực thể khác trong môi trường nhân loại. Chẳng hạn, gia đình gắn liền yếu tố địa lý, như gia đình của những người trong một thôn, một xã, một huyện, một tỉnh, một quốc gia, một châu lục, toàn thế giới (gia đình nhân loại). Người ta cũng thường dùng khái niệm gia đình để chỉ các hội đoàn, tổ chức, tôn giáo, chẳng hạn, gia đình những người trong giáo họ, giáo xứ, giáo phận, gia đình đại chủng viện, gia đình dòng tu. Mỗi hình thức gia đình này lại bao gồm nhiều ‘lớp gia đình’ khác nữa, chẳng hạn, gia đình các tu sĩ chiêm niệm, gia đình các tu sĩ ẩn tu, gia đình các tu sĩ lo việc bác ái tông đồ.[2]
Gia đình không chỉ mang tính sinh học, văn hóa, xã hội mà còn mang tính tâm linh và tôn giáo sâu sắc. Nhiều người, nhiều dân tộc trên thế giới xem mình là ‘hậu duệ của các thần minh’ và họ có tương quan mật thiết với các thần minh. Đời sống của họ mang đậm âm hưởng của các thần minh. Họ đón nhận, sống và chuyển tải những giá trị niềm tin, truyền thống và thực hành liên quan đến thần minh qua các thế hệ. Hình thức gia đình này có thể bao gồm những người cùng hay không cùng huyết tộc, bởi vì, sự liên kết giữa họ không dựa vào những gì thuộc thế giới khả giác mà thuộc thế giới thần minh. Những yếu tố thần minh này quan trọng hơn là những yếu tố huyết tộc hay bất cứ yếu tố nào trong thế giới khả giác.
Đối với họ, những người trong gia đình qua đời không đi vào cõi tiêu diệt, nhưng được vinh thăng cùng thế giới thần minh, thế giới đáng trân trọng và đáng sống hơn thế giới khả giác. Việc tưởng nhớ ông bà tổ tiên không phải là quay về với kỷ niệm xa xưa mà là hiện thực hóa sự liên kết giữa người sống và người qua đời trong cùng gia đình. Các thành phần của gia đình có thể vươn xa đến tận thủy tổ và kéo dài mãi trong dòng lịch sử. Chẳng hạn, việc tưởng nhớ ông bà tổ tiên của nhiều dân tộc Châu Á là dịp để mọi người tỏ lòng tri ân, báo hiếu thế hệ trước, đồng thời, xin sự bầu cử của thế hệ trước cho mình và các thế hệ mai sau. Sự suy vong hay phồn thịnh của thế hệ sau được xem là hệ quả của thế hệ trước hay sự bất xứng của thế hệ sau đối với thế hệ trước. Theo họ, gia đình hữu hình là tạm thời còn gia đình vô hình luôn bền vững.
Mạc khải Kitô giáo cho chúng ta biết gia đình là thể chế đầu tiên, xuất hiện ngay từ buổi đầu sáng tạo và là thể chế căn bản nhất của nhân loại. Gia đình là hình thức tập thể, hình thức cộng đoàn bền vững hơn bất cứ hình thức tập thể, hình thức cộng đoàn nào khác trong nhân loại. Gia đình được thiết lập, hiện diện, hoạt động và tiếp tục trong dòng lịch sử cho đến tận thế. Chúng ta có thể nói rằng ‘cũ như gia đình’ và cũng có thể nói ‘mới như gia đình’. Gia đình cũ vì ‘tuổi của gia đình’ nhiều hơn tuổi của bất cứ thể chế nào. Tương tự như thế, gia đình luôn mới vì tương lai của gia đình dài hơn bất cứ tương lai của thể chế nào. Khi gia đình suy vong cũng là khi nhân loại không còn tồn tại.
Nội dung đức tin Kitô giáo cho chúng ta biết gia đình được thiết lập để đón nhận, sống và chuyển tải mạc khải của Thiên Chúa. Mọi người trong gia đình bình đẳng với nhau về phẩm giá và được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc sáng tạo cũng như chăm sóc thế giới thụ tạo. Mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và toàn thể thụ tạo được diễn tả qua hình ảnh gia đình.
Con người không thể hiện diện mà không có gia đình. Con người không thể là mình đúng nghĩa nếu không có kinh nghiệm về gia đình. Con người không thể là thành phần của xã hội đúng nghĩa bao lâu chưa ý thức mình thuộc về gia đình và có trách nhiệm đối với gia đình. Theo Công Đồng Vatican II, “gia đình là một trường học phát triển nhân tính.”[3] Từ gia đình, nền tảng cấu trúc xã hội (social foundation), mỗi người được nuôi dưỡng, được học hành, được làm quen với chuẩn mực xã hội và được định hình về nhân cách cũng như những kinh nghiệm quý giá cho cuộc sống trong xã hội.[4] Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: “Chính trong gia đình, người ta học biết làm việc với sự nhẫn nại và niềm vui, yêu thương huynh đệ, quảng đại tha thứ luôn, nhất là phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và hy lễ đời sống.”[5] Gia đình là nơi con người nhận ra căn tính của mình như là thực tại có khả năng thể hiện tình yêu và cảm nhận tình yêu từ những người khác cách đúng nghĩa nhất.
Không nghi ngờ gì nữa, lịch sử gia đình nhân loại có được sự chuyển biến tích cực nhờ mạc khải Kitô Giáo. Quả thật, Kinh Thánh Kitô Giáo đặt nền tảng cho những khám phá, suy tư và thực hành đời sống gia đình cách đúng nghĩa nhất. Hơn ai hết, Đức Giêsu Kitô đã mạc khải về Gia Đình Thiên Chúa và đặt nền tảng vững chắc cho gia đình cơ bản cũng như các hình thức gia đình khác trên thế giới. Người thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian là Giáo Hội để phục vụ tất cả mọi người. Trong bối cảnh thế giới khủng hoảng về gia đình hay không có ý thức đủ về tầm quan trọng của gia đình, việc tìm hiểu nội dung đức tin Kitô Giáo cho phép chúng ta nhận thức đúng đắn hơn về căn tính, đời sống và sứ mệnh của các hình thức gia đình trong hành trình dương thế.
3. GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA THEO MẠC KHẢI KINH THÁNH
a. Gia Đình Thiên Chúa trong Cựu Ước
Theo Kinh Thánh Cựu Ước, trong buổi đầu sáng tạo, Thiên Chúa không nói rằng “ta hãy làm ra con người theo hình ảnh ta, giống như ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”, nhưng nói rằng “chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St 1,26). Ở đoạn khác trong sách Sáng Thế cũng tương tự như vậy, Thiên Chúa nói: “Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác” (St 3, 22). Chủ từ của hành động ‘nói’ là Thiên Chúa ở số nhiều (chúng ta). Các nhà chú giải tranh luận sôi nổi về những câu Kinh Thánh trong đó Thiên Chúa diễn tả chính mình ở số nhiều, ngôi thứ nhất. Những người muốn bảo vệ niềm tin độc thần cách nghiêm ngặt có thể cho rằng Thiên Chúa nói như vậy với các thiên thần trong tâm trí hoặc một số người khác có thể cho rằng tác giả sách Sáng Thế, cách nào đó, còn chịu ảnh hưởng của não trạng đa thần. Tuy nhiên, chúng ta có thể xem đây như là ‘những mạc khải sơ khởi’ về Gia Đình Thiên Chúa. Mạc khải này dần được biểu lộ trong các sách khác của Kinh Thánh Cựu Ước và rõ ràng hơn trong Biến Cố Đức Kitô của Tân Ước.
Chúng ta biết rằng từ ‘gia đình’ theo cách hiểu hiện đại không được dùng trong Kinh Thánh Cựu Ước, tuy nhiên, nghĩa ‘gia đình’ lại rất phổ biến, ngay từ những trang đầu của sách Sáng Thế.[6] ‘Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa’ được xem là mạc khải tột đỉnh về căn tính và phẩm giá con người theo Kinh Thánh Cựu Ước. Con người không phải là Thiên Chúa, nhưng cũng không xa lạ với Thiên Chúa. Con người là thụ tạo của Thiên Chúa, nhưng trổi vượt trên tất cả thụ tạo khác. Tác giả Thánh Vịnh đã thốt lên: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy” (Tv 8,6). Chúng ta có thể giải thích ‘hình ảnh Thiên Chúa’ ở đây không chỉ nói về những con người đơn lẻ, những cá nhân, những ngôi vị riêng biệt, mà còn là hình ảnh ‘con người tập thể’, ‘con người cộng đoàn’, con người trong tương quan, hiệp nhất, yêu thương, nói cách khác ‘con người gia đình’. Theo nghĩa này, chúng ta có thể suy luận rằng ‘Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa’, đồng thời, Người cũng ‘sáng tạo gia đình con người theo hình ảnh Gia Đình Thiên Chúa’.
Cả hai trình thuật Sáng Thế (St 1,1-2,4 và St 2,5-25) đều diễn tả gia đình đầu tiên, trong đó, trình thuật thứ nhất nói đến người nam và người nữ rằng: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27), còn trình thuật thứ hai nói đến ‘con người’ và ‘vợ mình’ rằng: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người” (St 2,22). Trình thuật thứ nhất nhấn mạnh đến sự phân biệt giữa nam và nữ, đồng thời, đề cao sự kết hợp của nam và nữ trong việc sinh hoa kết trái để làm cho gia đình nhân loại ngày càng phát triển. Trình thuật thứ hai nhấn mạnh đến sự bổ trợ cần thiết giữa nam và nữ vì ‘con người ở một mình thì không tốt’ (St 2, 18). Người nam cần người nữ và ngược lại, người nữ cần người nam. Họ trở nên ‘một xương một thịt’ nhằm làm cho đời sống họ được phong phú và cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình của Người.[7]
Trong khi chúng ta có ít kinh nghiệm về Gia Đình Thiên Chúa, chúng ta lại có nhiều kinh nghiệm về gia đình con người, bởi vì, tất cả chúng ta ai cũng là ‘con người của gia đình’. Sách Sáng Thế không dùng từ ‘gia đình’, tuy nhiên, nghĩa của gia đình thực sự đã được diễn tả cách cụ thể rằng: “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai thành một xương một thịt” (St 2, 24). Họ được mời gọi để tạo nên gia đình và “sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất… làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1, 28). Cấu trúc cơ bản của gia đình bao gồm cha mẹ và con cái đã được Thiên Chúa thiết lập và chúc phúc ngay từ buổi đầu sáng tạo và cấu trúc này tiếp tục trong hành trình lịch sử nhân loại cho đến tận thế.
Trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, muôn vật muôn loài không được tạo dựng như là những thực tại riêng lẻ, nhưng là những thực tại liên đới, lệ thuộc lẫn nhau và hiệp thông với nhau. Đối với con người, sự hiệp thông và phụ thuộc lẫn nhau được diễn tả qua bối cảnh gia đình của A-đam và E-và, gia đình đầu tiên của nhân loại. Gia đình này vừa là hình ảnh của gia đình cơ bản, gia đình hạt nhân, tế bào xã hội, vừa là hình ảnh của gia đình nhân loại rộng lớn. Nói cách khác, A-đam và E-và trở thành thủy tổ của nhân loại và những gì thuộc về A-đam và E-và cũng thuộc về toàn thể nhân loại trên bình diện cá nhân cũng như tập thể.
Câu chuyện A-đam và E-và, câu chuyện của gia đình đầu tiên vẫn còn nguyên giá trị đối với các hình thức gia đình trong nhân loại. Sự yếu đuối, tự do, phẩm giá và trách nhiệm của A-đam và E-và vẫn còn đó trong tâm tính của tất cả mọi người qua muôn thế hệ. Như A-đam và E-và, con người có thể chọn lựa giữa trung tín và bất tín, giữa tình yêu chân thực của Thiên Chúa và cám dỗ của ma quỷ, thế gian, xác thịt: Cám dỗ để khám phá, cám dỗ để khẳng định mình, cám dỗ để được tự lực tự cường, tự quyết định số mệnh của mình, cám dỗ để không còn bị ràng buộc nào, cám dỗ để thoát khỏi các tương quan lành mạnh.
Câu hỏi đặt ra ‘đâu là hình ảnh Thiên Chúa điển hình nhất trong nhân loại’? Thưa đó chính là tình yêu. Người nam và người nữ yêu thương nhau, bổ túc cho nhau. Tình yêu của họ trổ sinh bông hạt là con cái diễn tả rõ nét nhất tình yêu của Thiên Chúa. Cấu trúc gia đình bền vững và được Thiên Chúa đặt ở bậc ‘giao ước’ chứ không phải ở bậc ‘liên kết’, ‘hợp đồng’, ‘tương quan tạm thời’ hay bất cứ thứ bậc nào trong xã hội loài người. Mục đích của ‘giao ước’ là để người nam và người nữ trọn đời hiệp nhất yêu thương nhau, đồng thời, trở thành chỗ dựa vững chắc cho con cái. Như thế, hình ảnh người nam, người nữ và con cái họ được xem là hình ảnh rõ nhất cho phép chúng ta suy niệm và tiếp cận Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, ‘con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa’ chứ không phải ‘người nam (hay người nữ) được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa’.
Phần đầu sách Sáng Thế (St 1-11) trình bày việc sáng tạo muôn loài cũng như con người với những nhân vật như A-đam và E-và, Ca-in và A-ben, Nô-ê và con cháu ông cùng những người xây tháp Ba-ben mang nghĩa tiên trưng và ẩn dụ.[8] Phần kế tiếp của sách Sáng Thế trình bày lịch sử của dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn với người đại diện là Áp-ra-ham, trong đó Thiên Chúa diễn tả mình như người Cha, còn Áp-ra-ham và con cháu ông là Dân Người (St 12-50). Tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người là tương quan gia đình. Đây là điều mới mẻ của mạc khải Do-thái giáo so với các tôn giáo tồn tại trong lịch sử nhân loại trước đó hay cùng thời. Đối với đa số các tôn giáo quanh vùng Địa Trung Hải lúc bấy giờ, Hữu Thể Tối Cao, Thượng Đế, Thiên Chúa, Đấng Siêu Việt hoặc là quá xa xôi đối với con người hoặc mang những đặc tính như con người vậy, nghĩa là, có giận hờn, ghen ghét, tranh giành ảnh hưởng trong thế giới thụ tạo. Thiên Chúa của Dân Do-thái là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa của tương quan lành thánh, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp và ‘nhà Ít-ra-en’ là ‘nơi Thiên Chúa ngự’.
Kinh Thánh Cựu Ước còn cho chúng ta biết về Áp-ra-ham và vai trò của ông trong lịch sử của Thiên Chúa đối với Dân Do-thái. Hình ảnh Áp-ra-ham không phải là hình ảnh của một hoàng đế hay vua chúa. Hình ảnh của Áp-ra-ham cũng không phải là hình ảnh của người chỉ huy hay người lãnh đạo, không phải hình ảnh một tư tế hay ngôn sứ. Trước hết, hình ảnh Áp-ra-ham là hình ảnh của người cha trong gia đình. Hơn thế nữa, Áp-ra-ham không chỉ là hình ảnh của người cha trong một gia đình đơn lẻ, gia đình cơ bản, mà còn là người cha chung của muôn người (St 12, 3).
Thiên Chúa bày tỏ mục đích của Người đối với Áp-ra-ham: “Ta đã chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối của Đức Chúa mà thực hiện điều công minh chính trực” (St 18,19). Thiên Chúa yêu thương, kêu gọi và làm cho Áp-ra- ham trở thành cha của Dân Người, cha của tất cả những kẻ tin.[9] Như thế, chương trình của Thiên Chúa đối với Áp-ra-ham, đối với Dân Do-thái là chương trình gia đình trước bất cứ chương trình nào khác. Đến lượt mình, Áp-ra-ham ý thức điều đó, đồng thời, ông luôn vâng lệnh Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, ngay cả việc sát tế đứa con duy nhất nối dõi tông đường, để duy trì sự tồn tại và phát triển của gia đình, ông vẫn không chối từ.
Điều đáng để chúng ta quan tâm là gia đình Do-thái trong Cựu Ước được hiểu theo nghĩa gia đình mở rộng hơn là gia đình cơ bản, chẳng hạn, Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh 3,6). Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp không trực tiếp sinh ra Mô-sê, tuy nhiên, họ là cha của Mô-sê cũng như cha của toàn thể con cái Ít-ra-en cho dù khoảng cách giữa những con người này là hàng trăm năm lịch sử. Áp-ra-ham luôn được hiểu là tổ phụ của Dân Do-thái theo huyết thống và là tổ phụ của tất cả mọi người tin vào Thiên Chúa mà Áp-ra-ham và con cháu ông tin, nhờ Áp-ra-ham, muôn dân được phúc lành của Thiên Chúa.[10]
Khi đề cập đến các giới răn trong Cựu Ước, đặc biệt đối với Mô-sê, chúng ta thấy rằng lời của Mô-sê với Dân Do-thái được đặt trong bối cảnh gia đình mở rộng. Chẳng hạn, đối với giới răn quan trọng nhất, giới răn mến Chúa, Mô-sê nói: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng. Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Đnl 6,4-7). Mô-sê luôn quan tâm đến hiệu lực của giới răn Thiên Chúa trong đời sống của gia đình Dân Do-thái. Mô-sê hiểu rằng giới răn luôn đồng hành cùng gia đình Dân Do-thái trong khi các cá nhân lần lượt ra đi.
Kinh Thánh Cựu Ước còn dùng hình ảnh hôn nhân gia đình để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái. Hôn nhân giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái bền vững về phía Thiên Chúa, nhưng lại dễ bị tổn thương về phía Dân Do-thái. Người chồng yêu thương người vợ diễn tả Thiên Chúa yêu thương Dân Do-thái. Sự trung tín vợ chồng diễn tả sự trung tín của Dân Do-thái đối với Thiên Chúa. Tương tự như vậy, sự bất tín vợ chồng diễn tả sự bất tín của Dân Do-thái đối với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, Thiên Chúa sống tinh thần giao ước còn Dân Do-thái sống tinh thần hợp đồng. Thiên Chúa đề cao những giá trị vĩnh cửu, Dân Do-thái đề cao những giá trị tạm thời và chạy theo bóng dáng của những gì vinh hoa thế tục hão huyền. Trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Thiên Chúa nói: “Người đàn bà thất trung với bạn mình làm sao, thì, hỡi nhà Ít-ra-en, các ngươi cũng thất trung với Ta như vậy” (Gr 3,20). Tuy nhiên, lịch sử Cựu Ước cho chúng ta thấy rằng sự bất tín của Dân Do-thái nói riêng và toàn thể nhân loại nói chung không thể phá vỡ chương trình tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và thế giới thụ tạo. Gia đình nhân loại bị méo mó, băng hoại, tuy nhiên, không bị triệt tiêu, trái lại, được khôi phục nhờ tình yêu vô biên của Thiên Chúa, tình yêu vượt thắng tội lỗi nhân loại.
Dân Do-thái nhận thức rằng Thiên Chúa là Cha của dân tộc họ. Do đó, Thiên Chúa luôn yêu thương họ cho dù họ lắm phen ngỗ nghịch, bất xứng. Đối với họ, sự trở về với Thiên Chúa, sự trở về với Cha mình luôn là điều cần thiết để đón nhận sự tha thứ và phúc lành, bởi vì, càng xa rời Thiên Chúa bao nhiêu, họ càng lâm cảnh lầm than cơ cực bấy nhiêu. Hơn thế nữa, càng xa rời Thiên Chúa, họ càng dễ rơi vào tay của những thế lực ngoại bang và gần hơn với sự hủy diệt. Kinh nghiệm lịch sử dạy cho họ rằng Thiên Chúa luôn kiên nhẫn với họ và giữ lời hứa với cha ông họ qua muôn ngàn thế hệ.
b. Gia Đình Thiên Chúa trong Tân Ước
Như đã được đề cập ở trên, trong Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải là Cha của Dân Do-thái và là nguồn gốc của muôn vật muôn loài.[11] Những người thuộc Do-thái giáo và Kitô giáo đều tuyên xưng Thiên Chúa duy nhất, nhưng ý niệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chưa hề tồn tại trong Do-thái giáo. Hơn thế nữa, khi nói Thiên Chúa là gia đình và Đức Giêsu Kitô từ Gia Đình Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại để thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian thì lại càng xa lạ đối với những người Do-thái giáo. Thực ra, việc nhận thức Thiên Chúa là Gia Đình và Thiên Chúa thiết lập Gia Đình của Người trong môi trường nhân loại không phát xuất từ suy tư của con người, nhưng từ mạc khải căn bản của Tân Ước.
Chúng ta biết rằng tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái trong bối cảnh gia đình đạt tới đỉnh điểm trong Biến Cố Đức Kitô, khi thời gian tới hồi viên mãn. Với Biến Cố này, Thiên Chúa thiết lập Gia Đình Người ở trần gian để Gia Đình Người lớn mạnh và lan rộng khắp nơi. Gia Đình Thiên Chúa đã được tiên báo ngay từ buổi đầu sáng tạo (St 3,15), hiện diện trong lịch sử nhân loại, đặc biệt, lịch sử gia đình Dân Do-thái. Với Biến Cố Đức Kitô, Thiên Chúa mạc khải rằng Người không chỉ là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp và con cháu của họ, mà còn là Thiên Chúa của muôn dân muôn nước.
Với Gia Đình Thiên Chúa hiện diện ở trần gian, Thiên Chúa ‘không liên lạc với nhân loại từ xa’ như Người đã thực hiện qua những người lãnh đạo Do-thái hay các ngôn sứ trong Cựu Ước, nhưng qua Con của Người, Đức Giêsu Kitô. Nhờ Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa trở thành Thiên- Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Người hiện diện và hoạt động trong gia đình nhân loại để thông phần bấp bênh, bất hòa hợp và đau khổ của gia đình nhân loại trong hành trình tiến về Gia Đình Thiên Chúa sung mãn. Đức Giêsu Kitô mạc khải cho nhân loại biết gia đình nhân loại được hình thành, hiện diện và tiếp tục trong dòng lịch sử là nhờ Gia Đình Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng tỏ cho nhân loại biết Người là Con Thiên Chúa, Đấng là nguyên ủy và cứu cánh của mọi người cùng toàn thể thế giới thụ tạo. Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn mạc khải về Chúa Thánh Thần. Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16) và “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần phát xuất từ Thiên Chúa Cha và từ Đức Giêsu Kitô. Karl Rahner (1904-1984), nhà thần học xuất chúng thế kỷ XX, viết: “Chúa Ba Ngôi cứu độ chính là Chúa Ba Ngôi nội tại và ngược lại.”[12] Theo cách hiểu của Karl Rahner và với ngôn ngữ gia đình, chúng ta có thể nói rằng Gia Đình Chúa Ba Ngôi trong chương trình cứu độ cũng chính là Gia Đình Chúa Ba Ngôi nội tại. Như vậy, nhờ Đức Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa mạc khải cho nhân loại những điều mà với khả năng tự nhiên, nhân loại không thể nhận thức được. Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi, Thiên Chúa là một và là cộng đoàn các Ngôi Vị, Thiên Chúa là gia đình.
Từ muôn thuở, Đức Giêsu thuộc Gia Đình Thiên Chúa. Với Biến Cố Nhập Thể, Người cũng thuộc gia đình nhân loại và trở thành thành phần trong gia đình nhân loại.[13] Vốn dĩ thuộc về môi trường Thiên Chúa, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại về môi trường này, đồng thời, Người làm cho toàn thể mọi người trong gia đình nhân loại được nối kết với Gia Đình Thiên Chúa. Khi thuộc về môi trường gia đình nhân loại, Đức Giêsu đã học cho biết môi trường này. Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Với Người, gia đình nhân loại không còn phải bước đi trong cảnh mù tối của thế gian, của sự dữ, nhưng được bước đi trong ánh sáng ban sự sống của Người. Đồng thời, Đức Giêsu còn mở ra cho nhân loại hừng đông mới về Gia Đình Thiên Chúa viên mãn.
Đức Giêsu sinh ra và lớn lên trong gia đình Na-da-rét. Dưới nhãn quan những người đương thời, Người có bố làm nghề thợ mộc, tên là Giuse, mẹ là Maria, anh chị em họ hàng của Người là Gia- cô-bê, Giô-xếp, Si-môn, Giu-đa (Mt 13, 55). Đức Giêsu lịch sử hiện diện ở trần gian 33 năm thì 30 năm sống với gia đình.[14] Người sinh ra và lớn lên trong bối cảnh tôn giáo và văn hóa Do-thái. Người được giáo dục để tuân giữ và thực hành các tập tục Do-thái. Thánh Giuse và Đức Maria thi hành đầy đủ các bổn phận của những người Do- thái đối với bản thân mình cũng như đối với Đức Giêsu. Khi trưởng thành, Đức Giêsu vào đền thờ trong những ngày Sa-bát. Người tuân giữ và khuyến khích người khác tuân giữ luật Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Đức Giêsu chỉ cho mọi người biết đâu là điểm căn bản trong việc tuân giữ lề luật Thiên Chúa (Mt 5, 17-48).
Đức Giêsu cho chúng ta biết sự liên kết giữa Người và Chúa Cha sâu thẳm đến nỗi Người với Chúa Cha là một (Ga 10, 30; Ga 17,22). Người cũng muốn rằng tất cả nhân loại, cùng với Người, trở nên một trong Chúa Cha. Sự liên kết này bền vững và sâu nhiệm hơn bất cứ sự liên kết gia đình nào mà chúng ta có thể cảm nhận được. Đó là lý do tại sao Người nói: “Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt 23,9). Chúng ta đạt được sự liên kết này khi chúng ta thực thi giới răn mới của Người (Ga 13,34-35; Ga 15,15). Người dạy các môn đệ cũng như những ai theo Người qua muôn thế hệ cầu nguyện với câu mở đầu thân thương: ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời’. Câu mở đầu này gợi lên hai điểm chính: (1) Thiên Chúa là Cha của tất cả mọi người và (2) mọi người là anh chị em của nhau. Như thế, mỗi người trong nhân loại vừa là con cái của một gia đình cá biệt nào đó hay thuộc về những hình thức gia đình mở rộng nào đó, vừa là con cái của Gia Đình Thiên Chúa.
Tương quan giữa nhân loại và Thiên Chúa là tương quan Cha con, tương quan gia đình chứ không phải là tương quan của những người trong một hội đoàn hay tổ chức văn hóa xã hội nào đó, cũng không phải là tương quan giữa vua chúa với thần dân, cũng không phải tương quan giữa những người lãnh đạo và thuộc cấp của mình. Do đó, khi nói sự yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại cần được hiểu là sự yêu thương được diễn tả qua hình ảnh của người cha hay người mẹ đối với con cái chứ không phải là sự yêu thương theo một hình thức nào khác. Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy, cần được hiểu qua hình ảnh sự tha thứ của người cha hay người mẹ đối với con cái mình, chứ không phải là sự tha thứ nào khác.
Dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu (Lc 15,11-32) kể về sự bất xứng ‘hết thuốc chữa’ của người con và lòng nhân từ ‘không thể hơn nữa’ của người cha. Người con nhận ra sự bất xứng của mình đến nỗi không dám nhận mình là con của người cha. Trong khi đó, tâm trí người cha không bao giờ vắng bóng người con, hình ảnh người con vẫn còn đó cho dù người con bất tuân và ngỗ nghịch tột độ. Người con đánh mất phẩm giá của mình vì sự tự do ích kỷ, còn người cha hồi phục phẩm giá cho người con theo cách mà người con không bao giờ nghĩ tới.
Dụ ngôn này cho phép chúng ta suy tư về A-đam, người con hoang đàng trong buổi đầu sáng tạo, về Dân Do-thái và toàn thể nhân loại trong dòng lịch sử, hiện tại cũng như tương lai. Thiên Chúa
chính là người Cha nhân hậu luôn kiên nhẫn chờ đợi sự trở về của những người con, những người con xa lánh người Cha vì tội Nguyên Tổ, tội cá nhân, tội tập thể. Gia đình của người cha còn trống trải, còn giá lạnh bao lâu những người con hoang đàng chưa trở về đoàn tụ. Hình ảnh người con hoang đàng là hình ảnh của tất cả chúng ta. Bởi vì, không ai trong chúng ta lại miễn nhiễm tính cách của người con hoang đàng trong dụ ngôn Đức Giêsu trình bày.
Với dụ ngôn này, Đức Giêsu cho chúng ta biết tình yêu Thiên Chúa đối với con người không phải là thứ tình yêu trừu tượng, tình yêu xa lạ, nhưng là tình yêu mà con người có thể cảm nghiệm được. Bởi vì, ai cũng có kinh nghiệm về tình yêu của những người trong gia đình, đặc biệt là tình yêu giữa cha mẹ và con cái. Trong bối cảnh văn hóa Do-thái, Đức Giêsu dùng hình ảnh tình yêu giữa người cha đối với người con để diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Điều này không ngăn cản chúng ta hiểu cách tương tự rằng tình yêu giữa người mẹ và người con cũng là hình ảnh diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Với dụ ngôn này cùng nhiều hình ảnh hay biểu tượng khác, Đức Giêsu mở ra cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với con người, tình yêu tha thứ vô điều kiện.
Tân Ước mạc khải rằng Thiên Chúa đã ban cho thế gian chính Con của Người để mọi người có thể trở thành con Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu ở tuổi mười hai, lần đầu tiên lên Giê-ru-sa-lem, Người mạc khải chính mình là Con Thiên Chúa trước sự ngỡ ngàng của Đức Maria và thánh Giuse (Lc 2,41-52). Đức Giêsu đã nói với Đức Maria và thánh Giuse: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49). Tuy nhiên, cha mẹ Đức Giêsu đã không hiểu được những lời Người vừa nói. Chúng ta biết trong khi Đức Maria và thánh Giuse chỉ để tâm đến Đức Giêsu là con của mình mà chưa ý thức đủ rằng, trước hết, Người là Con Thiên Chúa và cần thi hành bổn phận Gia Đình Thiên Chúa, còn bổn phận gia đình Na-da-rét là hiệu quả của bổn phận Gia Đình Thiên Chúa.
Thánh Mác-cô kể lại rằng, khi đám đông đang ngồi chung quanh Đức Giêsu thì có mẹ và anh em của Người đứng ở ngoài báo tin về sự hiện diện của họ, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (Mc 3,33). Sau đó, Người nói với những người chung quanh: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,35). Chúng ta biết rằng Đức Giêsu không hề xem nhẹ gia đình tự nhiên, Người không hề nói rằng Đức Maria không phải là mẹ mình hoặc người mẹ tự nhiên không quan trọng bằng người mẹ siêu nhiên. Thực ra, Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết ngoài gia đình tự nhiên còn có gia đình siêu nhiên. Trong khi gia đình tự nhiên bị giới hạn bởi không gian, thời gian, huyết tộc và nhiều yếu tố khác nữa thì gia đình siêu nhiên là gia đình không biên giới; gia đình siêu việt không gian, thời gian; gia đình bao gồm người sống, kẻ chết, người thánh thiện, kẻ bất lương; gia đình mà không một chuẩn mực nào trong thế giới thụ tạo có thể đo lường được. Dù vậy, theo một nghĩa nào đó, Tân Ước cho chúng ta biết dường như có sự căng thẳng giữa gia đình theo nghĩa hẹp là gia đình tự nhiên và gia đình theo nghĩa rộng là gia đình siêu nhiên mà Đức Giêsu mời gọi mọi người quan tâm.
Trong sứ mệnh của mình, Đức Giêsu quan tâm đặc biệt tới những nạn nhân của gia đình đổ vỡ, những người ‘bên lề’ của gia đình chính thống hay những người bị loại bỏ, khinh chê. Chẳng hạn, Đức Giêsu thăm nhà ông Gia-kêu, ở lại ăn uống với mọi người trong gia đình ông. Người quan tâm đến những người đầu đường xó chợ, những người lang thang phiêu bạt, những người nghèo khổ không có nhà đúng nghĩa. Cuộc sống của Đức Giêsu trong thời gian rao giảng cũng là ‘cuộc sống không nhà’. Chính Người nói: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20). Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm cuộc sống không nhà để dạy cho mọi người ngôi nhà đúng nghĩa nhất là Nhà Thiên Chúa. Đồng thời, Người dạy các môn đệ của mình xưa kia cũng như tất cả mọi người trong dòng lịch sử biết mở rộng tâm hồn đón nhận gia đình của Người.
Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên khi họ đang thi hành công việc gia đình mình (Mc 1,16-20; Mt 4,18-22; Lc 5,1-11). Người ở với họ để dạy dỗ, hướng dẫn và trao ban sứ mệnh tiếp tục chương trình của Người ở trần gian. Đức Giêsu cũng quan tâm đặc biệt tới gia đình của họ, chẳng hạn, Người đến thăm gia đình mẹ vợ Phêrô (Mt 8,14-15). Người yêu mến mọi người trong gia đình Maria, Mác- ta và La-da-rô (Ga 11,1-44). Chúng ta nhận thức rằng tương quan gia đình trong cộng đoàn của Đức Giêsu là tương quan chiếm ưu thế so với các tương quan khác, chẳng hạn, tương quan giữa thầy và trò, tương quan giữa người đứng đầu và những người còn lại trong cộng đoàn. Đây được xem là giai đoạn khởi đầu của việc Đức Giêsu thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian. Đối với Đức Giêsu, Gia Đình Thiên Chúa siêu việt trên tất cả các biên giới và rào cản của gia đình nhân loại: biên giới huyết tộc, bộ tộc, dân tộc, quốc gia, châu lục, phái tính, đẳng cấp trong xã hội loài người. Các thành phần của Gia Đình Thiên Chúa cần mở rộng tâm hồn đối với gia đình này, đồng thời, trung tín với gia đình này trong cuộc sống và ơn gọi của họ.
Theo tường thuật của thánh Gioan, dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu thực hiện trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng là làm cho nước trở nên rượu tại tiệc cưới Cana (Ga 2,1-12). Chính Đức Maria là người nhận ra sự khó xử của gia chủ tổ chức đám cưới đối với khách tới dự. Nhờ Đức Maria, dấu lạ nước trở nên rượu được thực hiện và đem lại niềm vui cho cả gia chủ lẫn thực khách. Kinh nghiệm dấu lạ này là động lực thúc đẩy mọi người tham dự tiệc cưới Cana xưa kia cũng như tất cả chúng ta hôm nay quan tâm hơn đến những khó khăn trong đời sống gia đình và sự cần thiết nâng đỡ nhau để có thể vượt qua những khó khăn này. Cũng trong tiệc cưới Cana, Đức Giêsu gọi Đức Maria là ‘bà’. Người muốn mạc khải rằng gia đình của Người siêu việt trên tất cả các gia đình huyết thống hay các hình thức gia đình mở rộng theo nghĩa nhân học.
Chúng ta tìm được khá nhiều trình thuật trong Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến việc tất cả mọi người được mời gọi trở thành con cái trong Gia Đình Thiên Chúa. Chẳng hạn, Đức Giêsu nói: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Thánh Gioan Tông Đồ thì viết: “Những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người [Đức Giêsu], thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Thánh nhân cũng viết cho các tín hữu: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1). Thánh Phao-lô thì khẳng định: “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô” (Gl 3,26). Thánh nhân cũng đề cập đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc làm cho các môn đệ của Đức Giêsu trở thành con cái của Thiên Chúa: “Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,14) hay “chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,16). Những trích đoạn này giúp chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa luôn yêu thương toàn thể mọi người. Vấn đề còn lại là sự đáp trả của mỗi người đối với tình yêu của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Đức Giêsu là để “quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52). Như vậy, khi so sánh mạc khải Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta biết rằng mạc khải con người là ‘con Thiên Chúa’, ‘em Đức Giêsu Kitô’, ‘bạn Đức Giêsu Kitô’ của Tân Ước trổi vượt hơn mạc khải ‘con người là hình ảnh của Thiên Chúa’ trong Cựu Ước.[15]
Bữa Tiệc Ly của Đức Giêsu và các môn đệ Người chính là bữa ăn gia đình xét trên bình diện tự nhiên cũng như siêu nhiên. Trên bình diện tự nhiên, đây cũng tương tự như bao bữa ăn khác trong các gia đình. Trên bình diện siêu nhiên, đây là bữa ăn trước khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, bữa ăn này không chỉ ‘ăn để nuôi sống thể xác’ mà còn ‘ăn để nuôi sống tâm hồn’. Hơn nữa, Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ: ‘Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy’. Đây chính là bữa ăn tưởng nhớ Biến Cố Đức Kitô, bữa ăn quá khứ, bữa ăn hiện tại, bữa ăn tương lai, bữa ăn cánh chung. Đức Giêsu nói với các môn đệ Người rằng trong khi họ ăn nhiều thứ trong cuộc sống, họ cần ‘ăn chính Người’ để được sống đời đời.[16] Bữa ăn này nối kết trời với đất, nối kết tất cả mọi người với nhau trong quá khứ, hiện tại và tương lai, đồng thời, định dạng căn tính, đời sống và sứ mệnh của những người ăn trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Bữa ăn này diễn tả sứ mệnh của Đức Giêsu Kitô là “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái diễn tả Đức Giêsu Kitô là ‘con đầu của nhà Thiên Chúa’ (Dt 3,6). Ở nơi khác, Đức Giêsu Kitô được giới thiệu là ‘tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa’ (Dt 10,21). Thánh Phao-lô viết về tương quan giữa Đức Giêsu Kitô và các tín hữu: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Thánh nhân còn diễn tả cách rõ ràng hơn về Gia Đình Giáo Hội, cộng đoàn được Đức Giêsu Kitô thiết lập: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự Người đứng hàng đầu” (Cl 1,18). Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đức Giêsu cũng là người của gia đình, Gia Đình Thiên Chúa vĩnh cửu và Gia Đình Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại là chính Giáo Hội để qua Giáo Hội, Người tiếp tục chương trình cứu độ của Thiên Chúa cho đến tận thế.
4. GIÁO HỘI NHƯ LÀ GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA
a. Nền tảng thần học và đặc tính Gia Đình Giáo Hội
Như đã được đề cập ở trên, Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta biết các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại dễ bị tổn thương do sự bất tín của nhân loại. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và nhân loại nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Thông thường, các giao ước trong xã hội nhân loại được thiết lập giữa các bên tương đương về phẩm giá, quyền lợi và trách nhiệm. Các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại được diễn tả trong Kinh Thánh không theo thể thức đó, nhưng là do Thiên Chúa khởi xướng với tư cách và phẩm vị trổi vượt ngàn trùng. Điều đáng để chúng ta quan tâm là các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại luôn diễn ra trong bối cảnh gia đình.
Các giao ước này gắn liền với Lời của Thiên Chúa: Lời sáng tạo, Lời sự sống, Lời phục hồi, Lời hy vọng, Lời cứu chuộc, Lời thánh hóa. Thiên Chúa tạo dựng muôn loài bằng Lời của Người, Thiên Chúa đối thoại với nhân loại bằng Lời của Người và Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại cũng bằng chính Lời của Người, Lời Nhập Thể. Ở đây, chúng ta để ý đến ‘năm Lời’ quan trọng trong Kinh Thánh, cả năm Lời đều thực hiện qua gia đình. Lời thứ nhất liên quan đến việc khởi đầu gia đình nhân loại: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta” (St 1,26). Lời thứ hai liên quan đến gia đình Nô-ê: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 9,1). Lời thứ ba liên quan đến gia đình Áp-ra-ham: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12,1). Lời thứ tư liên quan đến gia đình Đức Giêsu, được ngôn sứ I-sai-a tiên báo: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta’» (Mt 1,23; Is 7,14).[17] Lời thứ năm là chính Lời của Đức Giêsu liên quan đến Gia Đình thiêng liêng, gia đình mở rộng của Người: “Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19,26).
Lời thứ năm được hiểu là Lời thiết lập Gia Đình Giáo Hội, để qua Giáo Hội, Gia Đình Thiên Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động giữa trần gian nhằm phục hồi căn tính và phẩm giá gia đình nhân loại bị biến dạng và hư hoại bởi tội Nguyên Tổ và hệ lụy của tội này. Lời thứ năm được Đức Giêsu thốt ra trong bối cảnh dưới chân thập giá khi Người trao phó Đức Maria cho thánh Gioan và thánh Gioan cho Đức Maria, để từ đây gia đình Đức Giêsu cũng chính là gia đình của Đức Maria và thánh Gioan cùng tất cả những ai nhận là môn đệ của Đức Giêsu qua muôn thế hệ. Sau lời trăng trối này, Đức Giêsu lịch sử thuộc gia đình Na-da-rét hoàn thành sứ mệnh của mình và nói: “Thế là đã hoàn tất! Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,30). Từ đây, Chúa Thánh Thần tiếp tục công việc của Đức Giêsu qua Giáo Hội mà Đức Giêsu thiết lập. Chúa Thánh Thần trở thành ‘linh hồn’ của gia đình này và làm cho gia đình này luôn sống động giữa lòng thế giới.
Trong Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Matthêu, việc thiết lập Giáo Hội như là gia đình còn được hiểu qua sự kiện Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?”. Thánh Phêrô được Thiên Chúa linh ứng và trả lời: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đây chính là lời tuyên xưng về gia đình Đức Giêsu. Thánh Phêrô biết rõ Đức Giêsu thuộc gia đình Na-da-rét, Người là con Đức Maria và thánh Giuse. Tuy nhiên, thánh Phêrô nhận được linh ứng quan trọng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, ‘Con Thiên Chúa’ và thuộc về Gia Đình Thiên Chúa. Đó là lý do giải thích tại sao sau lời tuyên xưng của thánh Phêrô, Đức Giêsu nói: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16,17-18). Như thế, Đức Giêsu thiết lập Giáo Hội trên nền tảng thánh Phêrô, nền tảng thể hiện qua lời tuyên xưng của thánh Phêrô rằng Đức Giêsu chính là Đấng Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, Đấng là Con Thiên Chúa đến mạc khải cho nhân loại về Gia Đình Thiên Chúa, đồng thời, là Đấng thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian này.
Chúng ta cũng nhận thức rằng hình ảnh Giáo Hội như là gia đình không phải là hình ảnh mới mẻ, mà là hình ảnh bén rễ sâu trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa. Theo Công Đồng Vatican II, “trong Cựu Ước, việc mạc khải Nước Thiên Chúa thường được trình bày bằng hình bóng; cũng thế, ngày nay bản tính thâm sâu của Giáo Hội được diễn tả bằng nhiều hình ảnh lấy từ đời sống du mục, canh nông, kiến trúc, hoặc gia đình và hôn lễ.”[18] Đồng thời, Công Đồng cũng chỉ ra: “Giáo Hội cũng thường được gọi là tòa nhà của Thiên Chúa (1 Cr 3,9). Chúa Kitô đã tự ví Người như viên đá mà các thợ xây loại bỏ, nhưng đã trở thành viên đá góc (Mt 21,42). Trên nền móng này, các Tông Đồ đã xây dựng Giáo Hội (1 Cr 3,11) và Giáo Hội được bền vững, liên kết nhờ nền móng đó. Tòa nhà này còn được gọi bằng nhiều tên khác: Nhà Thiên Chúa (1 Tm 3,15), nơi Gia Đình Người cư ngụ.”[19] Việc đào sâu và diễn tả Giáo Hội như là Nhà Thiên Chúa hay Gia Đình Thiên Chúa được các Giáo Phụ cũng như truyền thống Giáo Hội quan tâm qua dòng thế kỷ.[20]
Hình ảnh Giáo Hội như là gia đình được quảng diễn cách mạnh mẽ trong 4 thế kỷ đầu của Kitô Giáo, đặc biệt, trong những thập niên đầu khi Giáo Hội vừa khai sinh. Dần dần, Giáo Hội được ‘xã hội hóa’ hay ‘luật hóa’ và trở thành tổ chức quy củ như các tổ chức khác giữa lòng nhân loại để có thể diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh đích thực của mình.[21] Tuy nhiên, chúng ta biết rằng những yếu tố bên ngoài của Giáo Hội, hay nói cách khác, chiều kích hữu hình của Giáo Hội như là một ‘xã hội có phẩm trật’ không thể che khuất tính gia đình của Giáo Hội. Những yếu tố xã hội hay những yếu tố bên ngoài phát sinh trong sự tiến triển của Giáo Hội nhằm làm cho Giáo Hội có thể phục vụ nhân loại cách xứng hợp hơn. Giáo Hội có được kinh nghiệm rằng khi Giáo Hội dựa vào cấu trúc và coi cấu trúc là căn bản, Giáo Hội gặp muôn vàn khó khăn. Chúng ta tiếp tục khai triển thêm để trả lời cho câu hỏi: ‘Đâu là nền tảng của Gia Đình Giáo Hội?’.
Ngày 28 tháng 1 năm 1979, trong bài giảng tại Đại Chủng Viện Palafox, Puebla de Los Angeles (Mexico), thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II nói rằng trong mầu nhiệm sâu thẳm nhất, Thiên Chúa không phải là Đấng cô độc, nhưng là Gia Đình. Đồng thời, ngài cũng nhấn mạnh rằng căn tính Gia Đình Thiên Chúa là tình yêu. Giáo lý Chúa Ba Ngôi của Kitô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng trong Gia Đình Thiên Chúa, không Ngôi nào hơn, không Ngôi nào kém: Ba Ngôi cùng một bản tính, phẩm giá, phân biệt về Ngôi Vị, đồng thời, Ba Ngôi luôn hiệp thông, luôn mở ra và luôn trao ban tình yêu vô tận. Chúa Cha chỉ có thể là mình đúng nghĩa trong sự hiệp thông với Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Con chỉ có thể là mình đúng nghĩa trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tương tự như thế, Chúa Thánh Thần chỉ có thể là mình đúng nghĩa trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con. Gia Đình Chúa Ba Ngôi là khởi nguyên của gia đình thế giới thụ tạo, tuy nhiên, gia đình thế giới thụ tạo bị biến dạng và bất hòa hợp do sự bất tuân và lạm dụng tự do của con người. Niềm hy vọng của toàn thể nhân loại cũng như thế giới thụ tạo đạt đỉnh điểm trong Biến Cố Đức Kitô, Biến Cố bởi đó Gia Đình Chúa Ba Ngôi hiện diện và tiếp tục trong Giáo Hội.
Tại hội nghị đặc biệt năm 1994, các Giám Mục Châu Phi nói rằng Gia Đình Giáo Hội có nguồn gốc từ Chúa Ba Ngôi và Chúa Thánh Thần là mối dây hiệp thông trong Giáo Hội. Vì Giáo Hội như là gia đình, Chúa Cha đã đi bước trước trong việc tạo dựng A-đam. Vì Giáo Hội như là gia đình, Đức Kitô, A-đam Mới và Người Thừa Kế các dân tộc, thiết lập Giáo Hội bởi Mình và Máu Người. Vì Giáo Hội như là gia đình biểu lộ giữa lòng thế giới, Chúa Thánh Thần được Chúa Con gửi tới từ Chúa Cha để tất cả được thông hiệp với nhau.[22] Những ý tưởng của các Giám Mục Châu Phi gợi lên trong chúng ta căn tính, đời sống và vai trò của Giáo Hội trong việc diễn tả kinh nghiệm của mình về Gia Đình Chúa Ba Ngôi cho toàn thể nhân loại. [23]
Là hình ảnh của Gia Đình Chúa Ba Ngôi, Gia Đình Thiên Chúa, Giáo Hội giúp mọi người nhận thức rằng tương quan của tất cả mọi người trong nhân loại với Thiên Chúa không phải là tương quan được diễn tả bằng ngôn ngữ triết lý, trừu tượng, chẳng hạn, tương quan giữa con người với Đấng Tuyệt Đối, Đấng Tối Cao, Đấng Toàn Năng, nhưng là tương quan giữa con cái với Cha mình. Mạc khải Thiên Chúa là Cha đối với Dân Do-thái trong Cựu Ước và Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô và là Cha của tất cả mọi người trong Tân Ước là trọng tâm của nội dung đức tin Kitô Giáo mà Giáo Hội diễn tả, sống và loan truyền. Hành trình của Gia Đình Giáo Hội cũng chính là hành trình của Gia Đình Thiên Chúa đối với Dân Mới, Dân được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính Máu châu báu của mình.
Sự duy nhất và đa dạng của Chúa Ba Ngôi chính là nguồn gốc và khuôn mẫu cho sự duy nhất và đa dạng của Giáo Hội. Hiển nhiên, sự duy nhất và đa dạng của Chúa Ba Ngôi là sự duy nhất và đa dạng hoàn hảo, còn sự duy nhất và đa dạng của Giáo Hội là sự duy nhất và đa dạng được định hướng về sự hoàn hảo trong Chúa Ba Ngôi. Bao lâu, Giáo Hội còn trên đường lữ hành trần thế, bấy lâu Giáo Hội cần đến sự nâng đỡ của Chúa Ba Ngôi trong việc duy trì cách hòa hợp giữa tính duy nhất và đa dạng để Giáo Hội có thể thánh hóa nhân loại cũng như các thực thể trong thế giới thụ tạo.
Về mặt thực hành, Giáo Hội luôn ý thức rằng trong trường hợp có sự xung khắc giữa ‘duy nhất’ và ‘đa dạng’ thì ưu tiên hướng về duy nhất. Chẳng hạn, sự duy nhất về giáo lý phải là ưu tiên so với sự đa dạng trong cách hiểu giáo lý đó, bằng không, tính công giáo (catholicity) và tính toàn thể (universality) của giáo lý Giáo Hội Công Giáo sẽ bị phương hại. Đó cũng là lý do giúp chúng ta hiểu tại sao trong Kinh Tin Kính không có câu ‘Giáo Hội đa dạng’. Mặc dù không đề cập đến tính đa dạng trong Kinh Tin Kính, ai cũng nhận thức và kinh nghiệm thực trạng này của Giáo Hội. Giáo Hội luôn duy nhất trong đa dạng, do đó, vấn đề đặt ra không phải là Giáo Hội hoặc là duy nhất hoặc là đa dạng.
Giáo Hội diễn tả chính mình là Ít-ra-en Mới, là Dân Mới của Thiên Chúa. Ít-ra-en hay Dân Thiên Chúa cũ được thiết lập trên nền tảng đức tin của gia đình Áp-ra-ham với hậu duệ là mười hai chi tộc và toàn bộ con cái huyết tộc Ít-ra-en. Giáo Hội, Dân Thiên Chúa mới, được thiết lập trên nền tảng Đức Giêsu với hậu duệ là mười hai tông đồ và tất cả những ai đón nhận Đức Giêsu và thực thi giáo huấn của Người. Dân của Gia Đình Giáo Hội, Dân Thiên Chúa là tất cả những ai được sinh lại bởi bí tích Rửa Tội nhân danh Chúa Ba Ngôi.[24] Dân này cùng tuyên xưng: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,4-6).[25]
Như đã được đề cập ở trên, trong sứ mệnh của mình, Đức Giêsu bày tỏ cho các môn đệ rằng họ không chỉ là con cái của những gia đình đơn lẻ ở trần gian, mà còn là con cái của cùng một Cha ở trên trời. Điều này được Đức Giêsu minh chứng và thực hiện trong hành trình rao giảng của Người. Các môn đệ sống với gia đình mới của Đức Giêsu như là những anh em trong một nhà. Họ cũng nhận thức sự khác biệt giữa họ và Đức Giêsu so với những phe nhóm, tổ chức hay các hội đoàn đương thời. Họ được Đức Giêsu mạc khải: Người là Thầy, là Chúa, là Bạn Hữu của họ (Ga 13,13; Ga 15,15). Những lời trăng trối của Đức Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn biểu lộ tình yêu tận cùng của Người đối với họ hơn cả tình yêu của người trong gia đình đối với thân quyến trước khi đi xa.
Đức Giêsu đi vào lịch sử để con người làm quen với Thiên Chúa và Người thiết lập Gia Đình Giáo Hội để con người làm quen với Gia Đình Thiên Chúa. Hoa trái của Biến Cố Đức Kitô là chính Giáo Hội, gia đình được tái tạo. Trong nhãn quan của thánh Phao-lô, Đức Giêsu thiết lập Gia Đình Giáo Hội để đón nhận mạc khải, sống mạc khải và chuyển tải mạc khải đến với tất cả mọi người. Giáo Hội tiếp tục sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa ở trần gian. Giáo Hội minh chứng rằng Con Thiên Chúa sinh ra từ gia đình, sống trong bầu khí gia đình, chết trong bầu khí gia đình, Phục Sinh trong bầu khí gia đình và thiết lập Giáo Hội như là gia đình để tiếp tục công trình cứu độ của Người. Như thế, ‘dấu ấn gia đình’ không khi nào vắng bóng hay đứt quãng trong Biến Cố Đức Kitô giữa lòng nhân loại từ Nhập Thể tới Phục Sinh. Gia đình Thiên Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động giữa lòng nhân thế trong Gia Đình Giáo Hội.[26]
Gia Đình Giáo Hội vừa đề cao tương quan cá nhân, vừa đề cao tương quan cộng đoàn. Trên bình diện cá nhân, các tín hữu được mời gọi đi vào sự hiệp thông thân tình với Thiên Chúa. Mối tương quan giữa họ với Thiên Chúa là mối tương quan liên vị. Trên bình diện cộng đoàn, gia đình Đức Giêsu thiết lập đòi hỏi mọi người chung tay xây dựng đời sống cộng đoàn. Các thành phần trong cộng đoàn được liên kết với nhau chặt chẽ hơn các thành phần trong các tổ chức hay hội đoàn khác. Các thành phần trong cộng đoàn làm nên Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Kitô mà mỗi người là chi thể. Các chi thể cần cho nhau như các bộ phận trong một thân thể cần cho nhau vậy. Trong thân thể này, Đức Giêsu vừa là đầu, vừa là toàn thể. Điều này được thánh Phao-lô diễn tả mạch lạc: “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18) và “Cũng như trong một thân thể, chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” (Rm 12,4-5). Chính Đức Giêsu Kitô trao ban, nuôi dưỡng và làm tăng trưởng sự sống của các thành phần trong thân thể Người.
Ngôn ngữ Giáo Hội là ngôn ngữ gia đình. Do đó, nói rằng ‘chúng ta là con cái trong Gia Đình Giáo Hội’ xem ra phù hợp với kinh nghiệm của chúng ta hơn nói rằng ‘chúng ta là những người trong cộng đoàn Giáo Hội’. Nói rằng ‘chúng ta là con cái Thiên Chúa’ xem ra phù hợp với kinh nghiệm chúng ta hơn nói rằng ‘chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng’. Nói rằng ‘chúng ta là em của Đức Giêsu ‘ xem ra phù hợp hơn nói rằng ‘Đức Giêsu là Vua chúng ta’. Tương tự như thế, nói rằng ‘toàn thể gia đình thế giới thụ tạo ngóng trông sự hòa nhập trong Gia Đình Thiên Chúa’ xem ra phù hợp hơn nói rằng ‘vũ trụ sẽ được biến đổi trọn vẹn bởi Thiên Chúa trong thời cánh chung’.
Mầu nhiệm gia đình Na-da-rét cũng chính là mầu nhiệm của Gia Đình Giáo Hội. Điều này có nghĩa là những khó khăn, trăn trở của những người trong gia đình Na-da-rét cách đây hơn hai ngàn năm cũng chính là những khó khăn, trăn trở của con cái Giáo Hội trong thế giới hôm nay, có khác chăng cũng chỉ là hình thức và mức độ. Như thế, bao lâu Giáo Hội còn trên đường lữ hành, bấy lâu Giáo Hội còn đương đầu với nhiều gian truân, bất cập, thách đố. Quãng đường từ làng quê Na-da-rét tới kinh thành Giê-ru-sa-lem không xa xôi lắm, tuy nhiên, hành trình của Đức Giêsu lên Giê-ru-sa-lem là hành trình khó khăn, đau khổ: Hành trình đúc kết lịch sử mỗi cá nhân, lịch sử Giáo Hội của Người, lịch sử nhân loại, lịch sử vũ trụ từ đau khổ tới vinh quang trong Nước Thiên Chúa viên mãn.
Gia Đình Giáo Hội chính là Nước Thiên Chúa ở trần gian, Nước gắn liền với Biến Cố Đức Kitô và tiếp tục hiện diện giữa lòng nhân loại. Nước Thiên Chúa không thể hiện bằng trương độ nhưng bằng những giá trị vĩnh cửu. Đức Giêsu nói rằng người ta không thể chỉ Nước Thiên Chúa ở đây hay ở kia, nhưng những ai đón nhận Người và sống theo giáo huấn của Người thì trở thành công dân của Nước này. Khi những người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Nước Thiên Chúa đến thì Người trả lời: “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. Và người ta sẽ không nói: ‘Ở đây này!’ hay ‘Ở kia kìa!’, vì này Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17,19-21). Nước Thiên Chúa ở giữa nhân loại, nhưng câu hỏi đặt ra: ‘Có chăng toàn thể mọi người trong nhân loại ở trong Nước Thiên Chúa?’ Đây là câu hỏi lớn cho Giáo Hội cũng như con cái Giáo Hội.
Như là Gia Đình Thiên Chúa hay Nước Thiên Chúa ở trần gian, Giáo Hội luôn là thực thể năng động và tiến triển giữa những mưu mô ác độc của ma quỷ và thế lực sự dữ. Ý thức mình là dấu chỉ và khí cụ của Nước Thiên Chúa, Giáo Hội không bao giờ dừng lại để ‘chiêm ngắm mình’ nhưng là chiêm ngắm Nước Thiên Chúa. Bao lâu Giáo Hội trên đường lữ hành cùng với các thực thể khác trong thế giới thụ tạo, bấy lâu Giáo Hội không đánh mất ý thức sự cần thiết của ơn lành từ Thiên Chúa. Do đó, Giáo Hội không ngừng dạy bảo con cái mình luôn tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa. Giáo Hội không ngừng giúp con cái mình biết hướng về phía trước, biết nhìn xa trông rộng hơn những gì hiện tại và biết mở rộng cửa lòng cho sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa.
Giáo Hội vừa như là Gia Đình Thiên Chúa giữa thế gian, vừa là Mẹ và là Hiền Thê của Đức Kitô. Do đó, Giáo Hội hoàn toàn lệ thuộc vào Đức Kitô. Ánh mắt, con tim và toàn bộ cuộc sống của Giáo Hội dõi theo Đức Kitô để nhờ Đức Kitô hướng dẫn, Giáo Hội có đủ năng lực để tồn tại và phát triển bền vững giữa thế gian. Gia sản của Giáo Hội thuộc Gia Đình Thiên Chúa, do đó, Giáo Hội không thể tầm thường hóa mình trong những gì thuộc về thế gian. Điều này được Đức Giêsu tỏ bày cách thân thương và sâu nhiệm cùng Chúa Cha trong những giây phút cuối cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn (Ga 17,12-19). Trên đường lữ hành, Giáo Hội diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội cho tất cả mọi người trong khi vẫn luôn thi hành đầy đủ bổn phận đối với con cái mình.
b. Gia Đình Giáo Hội thông ban sự sống và nuôi dưỡng con cái mình
Giáo Hội được mời gọi để thông ban sự sống, phục vụ sự sống và mở ra cho sự sống.[27] Như đã được đề cập ở trên, Gia Đình Giáo Hội được hình thành với Biến Cố Thập Giá khi người lính lấy lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn Đức Giêsu, máu và nước chảy ra trước sự chứng kiến của Đức Maria và người môn đệ Chúa yêu. Hình ảnh nước và máu là hình ảnh của bí tích Rửa Tội và bí tích Thánh Thể, trong đó, bí tích Rửa Tội là bí tích nhờ đó người lãnh nhận trở thành con cái trong Gia Đình Giáo Hội, còn bí tích Thánh Thể là bí tích nhờ đó con cái Gia Đình Giáo Hội được nuôi dưỡng bằng chính Mình và Máu Đức Giêsu Kitô. Cả hai bí tích này diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, tình yêu Thiên Chúa tha thứ tội lỗi và tình yêu nuôi dưỡng con người bằng của ăn thiêng liêng.[28]
Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến việc cần thiết của bí tích Rửa Tội để trở thành con cái trong Gia Đình Giáo Hội. Thánh Matthêu trình bày lời của Đức Giêsu căn dặn các môn đệ mình sau khi Phục Sinh: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Còn thánh Gioan trình thuật về việc thánh Gioan Tẩy Giả thực hành Phép Rửa kêu gọi sự ăn năn thống hối (Ga 1,24-28; Ga 3,22-23; Ga 10,40-41). Thánh Gioan Tẩy Giả cũng đề cập đến việc Đức Giêsu làm Phép Rửa trong Thánh Thần (Ga 1,33). Đặc biệt, trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giêsu khẳng định việc ‘sinh ra một lần nữa bởi ơn trên’, ‘sinh ra bởi nước và Thần Khí’ (Ga 3,2-8).
Trong sứ mệnh của mình, ngay từ buổi sơ khai, các Tông Đồ Đức Giêsu đã thực hành việc thông ban sự sống thần linh cho những người gia nhập Gia Đình Giáo Hội qua việc cử hành bí tích Rửa Tội. Thánh Phêrô viết cho các tín hữu sơ khai về hình ảnh gia đình ông Nô-ê được cứu thoát khỏi nước lũ: “Nước đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 3,21). Chúng ta gặp nhiều trình thuật về việc các môn đệ Đức Giêsu cử hành bí tích Rửa Tội (Cv 3,28; Cv 8,12; 1 Cr 12,13; Tt 3,5). Như thế, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội đã ý thức về sự cần thiết của bí tích Rửa Tội trong việc thông ban sự sống cho con cái mình. Giáo Hội ý thức rằng nhờ bí tích Rửa Tội, người lãnh nhận được tháp nhập vào Gia Đình Giáo Hội. Họ trở thành thành phần của Giáo Hội và góp phần mình cho sự tăng trưởng của Giáo Hội về mọi mặt.
Việc cử hành bí tích này đặt nền tảng trên sự nhận thức rằng mỗi người sinh ra ở trần gian này đều mang tội lỗi của gia đình đầu tiên, gia đình A-đam và E-và. Để gia nhập gia đình mới, Gia Đình Giáo Hội, Gia Đình Thiên Chúa, họ phải được tẩy rửa tội lỗi để trở nên những thụ tạo mới. Giáo Hội cho con cái mình biết rằng mỗi người sinh ra trong trần gian này là hồng ân cao quý, tuy nhiên, được tái sinh trong Gia Đình Giáo Hội lại là hồng ân cao quý hơn. Người lãnh nhận bí tích Rửa Tội thuộc về Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian là chính Giáo Hội, trong khi vẫn thuộc gia đình huyết thống của mình. Nhờ bí tích Rửa Tội, cuộc sống của họ được sung mãn hơn vì được thông phần ân sủng dồi dào của Thiên Chúa qua Gia Đình Giáo Hội.
Là thành phần trong gia đình của Dân Thiên Chúa mới, những người lãnh nhận bí tích Rửa Tội được hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với anh chị em mình. Đồng thời, họ được trở nên thành phần trong Nhiệm Thể Đức Kitô và Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Họ cùng nhau tham dự các buổi cầu nguyện, cử hành phụng vụ để diễn tả căn tính và đời sống mình. Đặc biệt, họ cùng nhau cử hành các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể để lãnh nhận của ăn thiêng liêng nuôi sống họ trên đường lữ hành. Ở đâu bí tích Thánh Thể được cử hành, ở đó có Gia Đình Giáo Hội, ở đâu có Gia Đình Giáo Hội, ở đó có Gia Đình Thiên Chúa. Như thế, Gia Đình Giáo Hội, Gia Đình Thiên Chúa không còn lệ thuộc vào điều kiện địa lý hay xã hội, nhưng hiện diện bất cứ nơi đâu bí tích Thánh Thể được cử hành.
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều trình bày việc Đức Giêsu lập bí tích Thánh Thể trong bối cảnh gia đình, trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn (Mt 26,25-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20). Thánh Phao-lô cũng tường thuật cách cặn kẽ việc Đức Giêsu thiết lập bí tích này (1 Cr 11,23-25). Thánh Gioan không trình bày việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể như các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm. Theo ý kiến của một số nhà chú giải Kinh Thánh, thánh Gioan viết Tin Mừng vào những năm cuối thế kỷ thứ nhất, sau khi đã có các bản văn của Tin Mừng Nhất Lãm, ưu tiên của thánh Gioan là những điều mới mẻ khởi đi từ suy tư và kinh nghiệm của mình, người môn đệ Chúa yêu. Vào thời điểm thánh nhân viết Tin Mừng, các tín hữu đã làm quen với việc cử hành bí tích Thánh Thể. Điều đáng để chúng ta quan tâm về bí tích Thánh Thể theo thánh Gioan là trình thuật của thánh nhân trong ‘Diễn Từ Bánh Trường Sinh’ (Ga 6,1-15.22-66). Chẳng hạn, “ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy… Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời» (Ga 6,54-58). Trong diễn từ này, Đức Giêsu bày tỏ mình như là Mô-sê mới và chính Người là Man-na mới, Man-na đích thực, Man-na vĩnh cửu của Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian. Người cũng là Đấng ‘khơi nguồn sự sống’, đồng thời, là Đấng nuôi sống muôn người (Cv 3,15).
Thánh Gioan không trình thuật việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa ăn tối, bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giêsu và các môn đệ Người như các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm. Thay vào đó, ngài trình thuật tinh thần phục vụ lẫn nhau trong gia đình của những người theo Đức Giêsu Kitô. Chính trong bữa ăn cuối cùng này, Đức Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đồng thời, Người mạc khải cho họ ‘giới răn mới’ là “anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Hai bài học quan trọng cho những ai thuộc gia đình Đức Giêsu Kitô và được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu của Người là (1) khiêm nhường phục vụ anh chị em mình và (2) thương yêu anh chị em mình như chính Đức Giêsu đã yêu thương. Trong thực tế, chúng ta nhận thấy ai trong chúng ta cũng có thể thực hiện được một số cử chỉ khiêm nhường. Tuy nhiên, khiêm nhường như Đức Giêsu, Vị Thiên Chúa cúi xuống rửa chân cho môn đệ mình là điều không ai có thể tưởng tượng được. Tương tự như thế, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tình yêu, nhưng yêu như Đức Giêsu yêu, yêu đến nỗi hy sinh mạng sống vì người mình yêu là điều vượt quá khả năng chúng ta. Khiêm nhường và yêu thương như Đức Giêsu luôn là khuôn mẫu tối thượng cho tất cả con cái trong Gia Đình Giáo Hội cũng như toàn thể nhân loại qua muôn thế hệ. Ai khiêm nhường như Đức Giêsu, thì cũng yêu thương như Người và ngược lại, ai yêu thương như Đức Giêsu thì cũng khiêm nhường như Người. Đối với Đức Giêsu, khiêm nhường và yêu thương trở nên một. Mục đích của việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể là cho tất cả mọi người trong Gia Đình Giáo Hội không chỉ lãnh nhận những ân sủng do Người ban tặng mà còn lãnh nhận chính mình Người để ngày càng được Người biến đổi nhiều hơn.
Với bí tích Thánh Thể, tình yêu của Đức Giêsu Kitô, Đấng hôm qua, hôm nay và luôn mãi được biểu lộ.[29] Đức Giêsu ban tặng chính mình Người cho tất cả con cái Gia Đình Giáo Hội. Bí tích này lôi kéo tất cả mọi người trong Gia Đình Giáo Hội đến với Người và đến với nhau, đồng thời, nhắc nhở mọi người về lối sống gia đình phải là lối sống ưu tiên hơn các lối sống khác trong xã hội loài người. Các thành phần trong Gia Đình Giáo Hội chỉ có thể là mình khi biết ‘ra khỏi mình’ để sống cho người khác theo khuôn mẫu của các Ngôi Vị Thiên Chúa. Giáo Hội xét như là một gia đình chỉ có thể là mình thực thụ khi biết trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa và khi mọi người sống với nhau và cho nhau trong tình anh em.
Vương Quốc Thiên Chúa được trình bày qua hình ảnh tất cả mọi người đều chung nhau trong bữa tiệc cánh chung, bữa tiệc gia đình.[30] Như đã được đề cập ở trên, khởi thủy của bí tích Thánh Thể chính là bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giêsu và các môn đệ của Người, trước khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn. Chính bí tích Thánh Thể là bữa tiệc của Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, trong đó, mọi người được nếm thử bữa tiệc vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa, bởi vì, họ được nhận lấy Đức Giêsu, được liên kết với Người và anh chị em mình một cách mật thiết nhất. Đồng thời, họ cùng nhau chia sẻ niềm hy vọng vào ‘bữa tiệc vĩnh cửu’ trong trời mới đất mới khi Thiên Chúa quy tụ và đổi mới muôn vật muôn loài trong Con yêu dấu của Người, Đức Giêsu Kitô.
Như thế, dấu chỉ rõ nét nhất của Giáo Hội như là gia đình được thể hiện qua việc cử hành bí tích Thánh Thể. Các thành phần trong Gia Đình Giáo Hội cùng nhau quy tụ trong tinh thần cầu nguyện, đọc Lời Chúa và suy niệm Lời Chúa. Họ hiệp thông, chia sẻ với nhau trong cùng một Bánh và một Chén, chính là Mình và Máu Đức Giêsu Kitô. Trong bí tích Thánh Thể, họ được rước lấy Đức Giêsu Kitô, cũng chính là rước lấy Gia Đình Giáo Hội trong đó mình là thành phần. Ở đây, Giao Ước Sự Sống Vĩnh Cửu được cử hành, được chia sẻ, được lãnh nhận. Hơn thế nữa, cộng đoàn cử hành bí tích Thánh Thể cũng là cộng đoàn sống hiệu quả của bí tích này cách đầy đủ nhất. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ viết: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai, của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,44-47).
Giáo Hội cho con cái mình biết rằng hơn cả các thành phần trong gia đình nữa, họ là các bộ phận của cùng thân thể hay nói như thánh Phao-lô rằng các Kitô hữu ‘là phần thân thể của nhau’ (Ep 4,25).[31] Do đó, bổn phận của họ là nâng đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Về phần mình, Giáo Hội luôn quan tâm đến mọi người trong gia đình mình, đặc biệt những người khó khăn, thiếu thốn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần. Theo Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, trong khi thi hành tác vụ diễn tả tình yêu hoàn vũ của Thiên Chúa, Giáo Hội đặc biệt quan tâm đến các thành phần con cái mình và không để bất cứ ai trong con cái mình phải túng thiếu. Để diễn tả rõ hơn điều này, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI trích dẫn thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ga-lát: “Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,10).[32] Như thế, việc cử hành bí tích Thánh Thể đi đôi với việc thực thi công lý, công bình và bác ái.
Giáo Hội vừa như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, vừa là Thầy và là Mẹ đối với toàn thể con cái mình.[33] Trong tư cách là Thầy, Giáo Hội không ngừng dạy bảo con cái mình dựa trên nội dung đức tin đã được Thiên Chúa ủy thác để suy tư, khai triển và áp dụng. Giáo Hội chỉ cho con cái mình đâu là những hiểm nguy tiềm tàng có thể phương hại đức tin chân chính của họ. Giáo Hội luôn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thi hành sứ vụ của mình cách trung tín nhất. Trong tư cách là Mẹ, Giáo Hội luôn gần gũi con cái mình để nhận biết, để cảm thông, để đồng hành, để nâng đỡ con cái mình trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt, trong những lúc con cái mình gặp khó khăn thiếu thốn. Giáo Hội, người Mẹ khôn ngoan và dồi dào kinh nghiệm biết trao ban những gì tốt đẹp nhất nhằm làm cho cuộc sống con cái mình luôn được bình an giữa những khó khăn của cuộc sống hằng ngày.
Giáo Hội là nơi con cái mình cùng chia sẻ những buồn vui và hy vọng. Giáo Hội cũng là nơi con cái mình nhận thức tầm quan trọng của bản thân và tầm quan trọng của người khác cũng như sẵn sàng nâng đỡ nhau trong cuộc sống. Giáo Hội luôn ý thức về căn tính và phẩm giá của con cái mình. Đồng thời, Giáo Hội cũng biết con cái mình là những người yếu đuối, lầm lỡ và tội lỗi cần được sửa dạy. Giáo Hội hiểu rằng những vấn đề nảy sinh liên quan đến con cái mình không chỉ được giải quyết dựa vào ngôn ngữ Giáo Luật, mà còn dựa vào ngôn ngữ Kinh Thánh, ngôn ngữ mục vụ và đặc biệt là ngôn ngữ gia đình nữa. Chúng ta có kinh nghiệm rằng ưu tiên trong hành động của cha mẹ đối với con cái là yêu thương. Do đó, khi con cái lầm lỗi, bổn phận của cha mẹ là đưa con cái trở về ‘đường ngay nẻo chính’ hơn là dựa vào những luật lệ định sẵn để áp dụng cho con cái hay phó thác con cái cho pháp luật dân sự hay bất cứ hình thức pháp luật nào khác. Đây cũng là phương cách mà Thiên Chúa đã áp dụng với Dân Người trong Cựu Ước, trong đó, Thiên Chúa không phó thác Dân Người cho các thế lực bên ngoài, nhưng rộng lòng tha thứ và đón nhận Dân Người trở về quỹ đạo yêu thương của Người.
Trong khi sinh hạ con cái mình nhờ bí tích Rửa Tội, nuôi dưỡng con cái mình nhờ bí tích Thánh Thể và thánh hóa con cái mình qua các bí tích khác, Giáo Hội đồng hành với con cái mình trên mọi nẻo đường. Giáo Hội luôn ý thức rằng mình được mời gọi để không ngừng trao ban sự sống cho tất cả mọi người. Dĩ nhiên, đây không phải là sự sống tự thân, nghĩa là sự sống bởi chính Giáo Hội mà là sự sống của Thiên Chúa được trao ban cho nhân loại thông qua Giáo Hội. Trong khi thi hành các tác vụ giảng dạy, quản trị và thánh hóa, Giáo Hội đặc biệt quan tâm đến gia đình của con cái mình, bởi vì, gia đình con cái mình chính là môi trường diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội cách cụ thể nhất.
c. Gia Đình Giáo Hội chăm sóc mục vụ gia đình con cái mình
Như đã được đề cập ở trên, Giáo Hội nhận thức rằng theo mạc khải Kinh Thánh khi nam nữ kết hợp với nhau, họ không chỉ nên một xương một thịt mà còn nên một gia đình.[34] Giáo Hội vừa đóng vai trò quan trọng trong việc khai sinh gia đình con cái mình nhờ bí tích Hôn Nhân, vừa phục vụ gia đình con cái mình trong suốt hành trình sống của họ. Phục vụ gia đình con cái mình luôn là ưu tiên trong đời sống Giáo Hội, bởi vì, gia đình con cái mình diễn tả tình yêu Thiên Chúa cách cụ thể trong môi trường thụ tạo.
Trong Tông Huấn Familiaris Consortio, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: “Gia đình có sứ mệnh gìn giữ, biểu lộ, thông truyền tình yêu và đây là sự phản chiếu sinh động và chia sẻ đích thực tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại và tình yêu của Đức Kitô cho Giáo Hội, Hiền Thê của Người.”[35] Với Thông Điệp Deus Caritas Est, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI diễn tả cách khúc chiết rằng tình yêu mang nhiều hình thức khác nhau, tuy nhiên, tình yêu giữa người nam và người nữ khi hồn xác của họ liên kết với nhau bất khả phân ly trở thành mẫu hình cho các hình thức tình yêu khác.[36] Cũng trong Thông Điệp này, Đức Giáo Hoàng viết: “Hôn nhân đặt nền tảng trên tình yêu đơn nhất và dứt khoát trở thành hình ảnh của tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người và ngược lại. Cách thức Thiên Chúa yêu thương trở thành tiêu chuẩn cho tình yêu nhân loại.”[37]
Giáo Hội không ngừng dạy bảo con cái mình rằng, vì tình yêu, Thiên Chúa tạo dựng gia đình nhân loại. Cộng đoàn đầu tiên này là cộng đoàn thông hiệp sự sống của Thiên Chúa và được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc trao ban sự sống, trao ban tình yêu. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II khẳng định: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người vẫn là hữu thể không hiểu được đối với chính mình, cuộc sống con người vô nghĩa, nếu con người không nhận được mạc khải tình yêu, nếu con người không gặp gỡ tình yêu, nếu con người không kinh nghiệm tình yêu và sở đắc tình yêu, nếu con người không tham dự cách mật thiết vào tình yêu.”[38] Tình yêu mà thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II nói ở đây là tình yêu Thiên Chúa, tình yêu vĩnh cửu, tình yêu sáng tạo, tình yêu mà con người vừa có thể cảm nghiệm được, vừa luôn khao khát trong hành trình trần thế của mình.
Giáo Hội, hình ảnh Chúa Ba Ngôi có hình thức cụ thể nơi gia đình con cái mình. Điều này đã được thể hiện qua giáo huấn của Giáo Hội cùng những khai triển của nhiều thần học gia. Trong Tông Huấn Giáo Hội Châu Đại Dương Ecclesia in Oceania, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II nhấn mạnh rằng gia đình là hình ảnh sự hiệp thông khôn dò của Chúa Ba Ngôi.[39] Như đã được đề cập ở trên: Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa không chỉ trên bình diện cá nhân, mà còn trên bình diện cộng đoàn, bình diện gia đình nữa. Gia đình mang trong mình dấu ấn của Đấng Sáng Tạo và là hình ảnh yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Các cá nhân riêng lẻ trong gia đình không thể diễn tả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cách đầy đủ bằng sự kết hợp giữa họ. Cũng như Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con, con cái là tình yêu của người chồng và người vợ. Chúa Thánh Thần liên kết Chúa Cha và Chúa Con, con cái liên kết người chồng và người vợ. Gia đình được xem là hình ảnh tốt nhất cho phép chúng ta tiếp cận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm của sự duy nhất trong đa dạng trọn hảo.
Sự nên một của A-đam và E-và, sự nên một của Đức Kitô và Giáo Hội cùng với sự nên một của chồng và vợ trong gia đình liên kết chặt chẽ với nhau để trao ban sự sống, tình yêu và hy vọng. Giáo Hội ý thức rằng người nam và người nữ là những người phân biệt nhau, nhưng trong bối cảnh gia đình, họ là chồng, là vợ, họ trở nên một thân xác, cái ‘tôi’ của mỗi người tìm được trong cái ‘chúng ta’ của gia đình. Khi trở thành ‘chúng ta’, thực thể này trổ sinh hoa trái và cùng với con cái, ‘chúng ta’ của gia đình ngày càng lớn mạnh hơn. Những ‘người khác’ trong gia đình phân biệt với những ‘người khác’ trong các tổ chức dân sự, chính trị, xã hội. Tình liên đới, tình yêu thương của các thành phần trong gia đình phân biệt với tình liên đới, tình yêu thương của những ‘người khác’ không thuộc gia đình.
Tầm quan trọng của gia đình luôn được Giáo Hội đề cao và bảo vệ. Trong Thông Điệp Centesimus Annus, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: “Thật là cần thiết để nhìn nhận gia đình như là cung thánh của sự sống. Gia đình thực sự là thánh thiêng: Đó là nơi mà sự sống – quà tặng của Thiên Chúa – có thể được đón nhận cách đúng đắn cũng như được bảo vệ khỏi những cuộc tấn công phá hủy và có thể phát triển phù hợp nhằm làm cho con người trưởng thành đích thực. Đối diện với văn hóa sự chết, gia đình là trung tâm văn hóa sự sống.”[40] Với Giáo Hội, bảo vệ sự toàn vẹn gia đình theo mạc khải Kitô giáo như là bảo vệ chính Giáo Hội vậy, bởi vì, như đã được đề cập ở trên: Căn tính, đời sống và sứ mệnh của Gia Đình Giáo Hội thể hiện nơi căn tính, đời sống và sứ mệnh của gia đình con cái mình.
Tân Ước cho chúng ta biết gia đình chính là thực tại đầu tiên, địa chỉ đầu tiên của Đấng Em-ma-nu-en, Con Thiên Chúa Nhập Thể, Đức Giêsu Kitô. Gia đình con cái Giáo Hội là địa chỉ đầu tiên đón nhận, sống và diễn tả các giá trị Tin Mừng cũng như công bố nội dung đức tin của Giáo Hội. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ viết: “Mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu ” (Cv 5,42). Thánh Phao-lô giãi bày với các Kitô hữu sơ khai: “Anh em biết tôi đã không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em; trái lại tôi đã giảng cho anh em và dạy anh em ở nơi công cộng cũng như tại chốn tư gia” (Cv 20,20) hay “tôi còn làm phép rửa cho gia đình Tê-pha-na nữa. Ngoài ra, tôi không biết có làm phép rửa cho ai khác nữa hay chăng” (1 Cr 1,16). Thánh Phao-lô còn quan tâm đến từng cá nhân trong các gia đình, chẳng hạn, “các Hội Thánh A-xi-a gửi lời chào anh em. A-qui-la và Pơ-rít-ca cùng với Hội Thánh họp tại nhà họ gửi lời chào anh em trong Chúa” (1 Cr 16,19) hay “Phao-lô, kẻ bị tù vì Đức Kitô Giêsu, cùng với người anh em là Ti-mô-thê, gửi anh Phi-lê-môn, cộng sự viên thân mến của chúng tôi, cùng chị Áp-phi-a và anh Ác-khíp-pô, chiến hữu của chúng tôi, đồng thời kính gửi Hội Thánh họp tại nhà anh” (Plm 1-2). Một lần nữa, chúng ta cần lặp lại: Mô hình chính yếu của Giáo Hội sơ khai là gia đình chứ không là gì khác. Mô hình gia đình này không chỉ hiện diện ở Pa-lét-tin mà còn nhiều nơi quanh vùng Địa Trung Hải.[41]
Theo Công Đồng Vatican II, “chính gia đình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa sứ mệnh trở nên tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình sẽ chu toàn được sứ mệnh đó nếu gia đình tỏ ra như một đền thờ của Giáo Hội trong nhà mình nhờ yêu thương nhau và cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa.”[42] Trong Tông Huấn Ecclesia in Asia, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II quả quyết rằng gia đình là nơi sự thật của Tin Mừng trở thành chuẩn mực cho đời sống của những người trong đó. Cũng theo Tông Huấn Ecclesia in Asia, gia đình không chỉ là đối tượng của việc truyền giáo, tái truyền giáo, chăm sóc mục vụ của Giáo Hội mà còn là nhân tố của việc truyền giáo. Những người trong gia đình được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng giữa những khó khăn của cuộc sống.[43] Gia đình làm cho Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người được tiếp cận, được lắng nghe, được suy niệm, được thực hành trong những hoàn cảnh cụ thể.[44]
Lịch sử Giáo Hội luôn đề cao vai trò của gia đình, bởi vì, như Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: ‘Gia đình như một Giáo Hội nhỏ’, Giáo Hội tại gia (ecclesia domestica).[45] Giáo Hội và gia đình định dạng lẫn nhau. Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi Giáo Hội tại gia và làm cho Giáo Hội tại gia trở thành những viên đá sống động xây nên Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa. Giáo hội tại gia ý thức rằng căn tính và đời sống của mình được diễn tả đúng nghĩa chỉ khi hiệp thông với Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa. Nói cách rõ hơn, Giáo Hội tại gia không phải là thực thể độc lập, nhưng là thực thể liên đới và hiệp thông với Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa, Gia Đình Giáo Hội hoàn vũ.[46] Gần đây hơn, trong Tông huấn Amoris Laetitia, Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô viết: “Giáo Hội là Gia đình của các gia đình, thường xuyên được làm phong phú bởi đời sống của tất cả các Giáo hội tại gia. Bởi thế, nhờ Bí tích Hôn Phối, mỗi gia đình thực sự trở thành một thiện ích cho Giáo Hội. Trong viễn ảnh này, việc xem xét mối tương tác giữa gia đình và Giáo Hội chắc chắn sẽ là một ơn ban quý giá cho Giáo Hội ngày nay: Giáo Hội là phúc lành cho gia đình, và gia đình là phúc lành cho Giáo Hội. Việc gìn giữ hồng ân bí tích của Chúa không chỉ liên hệ đến các gia đình riêng lẻ, nhưng còn đến chính cộng đoàn Kitô hữu” (số 87).
Trong bối cảnh thế giới hôm nay, giữa những bão táp phương hại đến căn tính hôn nhân gia đình, Giáo Hội khẳng định sự bất khả phân ly vợ chồng theo giáo huấn Đức Giêsu. Khi những người Pha- ri-sêu hỏi Đức Giêsu về sự ly dị, Người trả lời họ rằng vợ chồng trong giao ước hôn nhân trở nên ‘một xương một thịt (Mt 19,5) và rằng ‘sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly’ (Mt 19,6). Những người Pha-ri-sêu viện cớ Mô-sê cho phép ly dị để bắt bẻ Đức Giêsu và Người trả lời: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu” (Mt 19,8). Đối với thánh Phao-lô, gia đình Kitô giáo đặt nền tảng yêu thương trên khuôn mẫu yêu thương giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Theo thánh nhân, chồng ‘hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh’, hay ‘chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình’ (Ep 5,25-32). Con cái ‘hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa’; cha mẹ ‘hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy’ (Ep 6,1-4).
Như thế, trong gia đình, người vợ là hình ảnh của Giáo Hội, người chồng là hình ảnh Đức Kitô. Vợ chồng cùng phẩm giá, tuy nhiên, trật tự giữa vợ và chồng vẫn luôn tồn tại, dựa trên khuôn mẫu Đức Kitô và Giáo Hội. Trong gia đình, hình ảnh của người vợ là hình ảnh của sự bao dung, nhẹ nhàng để chăm sóc con cái, còn hình ảnh người chồng là hình ảnh mạnh mẽ, quyết đoán để hướng dẫn và bảo đảm sự an toàn cho tất cả các thành phần. Ở nhiều dân tộc trên thế giới, thông thường, người vợ đảm đương những việc nhẹ nhàng ở nhà, còn người chồng đảm đương những việc nặng nhọc khác để lo cuộc sống cho các thành phần trong gia đình. Sự tương đồng về quyền và phẩm giá của người chồng và người vợ không làm phương hại tính đặc thù của người chồng và người vợ trong gia đình, nghĩa là người chồng và người vợ không nhất thiết phải có chức năng giống nhau trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Giáo Hội ý thức sự phân công lao động phù hợp giữa chồng và vợ, đồng thời, chống lại sự phân biệt đối xử bất công giữa họ.
Khi chăm sóc mục vụ, Giáo Hội ý thức về những khó khăn trong các gia đình con cái mình giữa trào lưu và những quan niệm sai lạc về hôn nhân gia đình, chẳng hạn, ly dị, tái hôn, gia đình đơn lẻ.[47] Trong thế giới hôm nay, nhiều người xem hôn nhân như là một khế ước cá nhân, họ không màng sự chứng nhận của bất cứ thẩm quyền nào. Có những người xem hôn nhân như là bản hợp đồng (contract) chứ không như là giao ước (covenant) được Thiên Chúa thiết lập và chúc phúc. Có những người xem hôn nhân như là sự biểu lộ cảm tính, khi không còn nữa thì có thể bỏ nhau bất cứ lúc nào, bởi vì, cảm tính thay đổi tùy theo lứa tuổi cũng như những bấp bênh trong đời sống cá nhân, xã hội. Lại có những người chủ trương hôn nhân một vợ một chồng xem ra chỉ đúng cho quá khứ, không đúng cho thế giới hiện đại nữa. Hôn nhân được xem như một công việc (job) toàn thời hoặc bán thời chứ không phải là ơn gọi (vocation) yêu thương, chung thủy, duy nhất và trọn đời.
Như đã được đề cập ở trên, Đức Giêsu Kitô quan tâm cách đặc biệt đến các gia đình trong sứ mệnh lịch sử của mình. Từ Biến Cố Nhập Thể đến Biến Cố Phục Sinh, tất cả những gì liên quan đến Đức Giêsu đều gắn liền với gia đình. Do đó, chăm sóc mục vụ gia đình luôn là bổn phận của Giáo Hội, bí tích của Đức Giêsu Kitô. Đây không phải là bổn phận tạm thời hay bán thời mà là bổn phận gắn liền với căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội. Do đó, bao lâu Giáo Hội trên đường lữ hành, bấy lâu Giáo Hội chăm sóc mục vụ gia đình cách chu đáo theo gương Đức Giêsu Kitô. Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết Đức Giêsu Kitô không đến để gặp gỡ và quy tụ những người khác như gặp gỡ và quy tụ một đám đông, nhưng là đến với họ cách mật thiết, quan tâm đến gia đình của họ, đồng thời, cho họ biết họ được mời gọi để sống những giá trị của Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian.
Kinh nghiệm lịch sử cho Giáo Hội nhận thức rằng gia đình con cái Giáo Hội không chỉ mong muốn Giáo Hội thi hành vai trò lãnh đạo, mà cần thiết hơn là vai trò đồng hành. Có như thế, Giáo Hội thực sự là Giáo Hội lữ hành cùng với gia đình, nghĩa là những biến cố xảy ra trong đời sống gia đình đều có sự hiện diện và nâng đỡ của Giáo Hội. Những khó khăn hay thuận lợi trong gia đình cũng chính là những khó khăn hay thuận lợi của Giáo Hội. Sự cảm thông chia sẻ của Giáo Hội đối với những thách đố của gia đình giúp Giáo Hội một mặt thể hiện ‘lòng thương xót’ của Chúa đối với gia đình, mặt khác, giúp Giáo Hội có được những kinh nghiệm quý báu để phục vụ gia đình cách tốt đẹp hơn.
Như đã được đề cập ở trên, Giáo Hội ý thức rằng gia đình con cái mình là hình ảnh Gia Đình Thiên Chúa. Tuy nhiên, gia đình con cái mình dễ bị tổn thương vì chính tội lỗi của các thành phần trong gia đình cũng như trong môi trường nhân loại. Giáo Hội mời gọi những người trong gia đình sống giá trị Tin Mừng giữa muôn vàn khó khăn nảy sinh từ những quan niệm lệch lạc về phái tính hay những sai lầm khác không chỉ theo nghĩa đạo đức, luân lý mà còn theo nghĩa tự nhiên, tâm lý, bệnh hoạn. Gia Đình Giáo Hội cũng như gia đình con cái mình không ngừng hướng về Gia Đình Thiên Chúa để kín múc ‘năng lượng’ cần thiết cho cuộc sống hằng ngày.
Trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người Redemptor Hominis (1979), thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: Con người là con đường của Giáo Hội.[48] Cách tương tự, trong Thư Gửi Các Gia Đình, ngài viết: Gia đình là con đường của Giáo Hội.[49] Quả thật, con người là con đường của Giáo Hội, tuy nhiên, con người được sinh ra và trưởng thành từ gia đình. Do đó, con người phải đi con đường của gia đình và được triển nở từ con đường gia đình. Gia đình quan trọng đến mức, theo lời của thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, gia đình chính là tương lai của Giáo Hội cũng như thế giới.[50] Bởi lẽ “chính trong gia đình, chúng ta được dần trưởng thành kinh nghiệm trong Giáo Hội về mối hiệp thông giữa các ngôi vị, nơi đó, nhờ ân sủng, phản ánh chính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Ở đó, con người học được sự kiên nhẫn và niềm vui trong lao động, tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí tha thứ nhiều lần, nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và sự dâng hiến đời sống” (Amoris Laetitia, số 86). Do đó, gia đình là nơi lòng thương xót Chúa hiện diện và hoạt động, đồng thời, cũng là nơi quan trọng nhất, từ đó lòng thương xót Chúa được loan báo và chuyển tải. Như vậy, Giáo Hội vừa chăm sóc mục vụ gia đình con cái mình, vừa khuyến khích con cái mình biết luôn cộng tác với nhau và với toàn thể Gia Đình Giáo Hội để loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại.
5. ƯU ĐIỂM TRONG VIỆC HIỂU GIÁO HỘI NHƯ LÀ GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA
Những khai triển và trình bày trên đây cho phép chúng ta hiểu thêm rằng hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian vừa có nền tảng Kinh Thánh, truyền thống, huấn quyền vững chắc, vừa phù hợp với kinh nghiệm của tất cả mọi người trong nhân loại. Hình ảnh này được đề cập nhiều trong những thập niên gần đây được xem như là hiệu quả tất yếu của Công Đồng Vatican II và sự khai triển của huấn quyền Giáo Hội. Hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa cho phép chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của Giáo Hội và quan tâm hơn tới các tương quan trong đời sống Giáo Hội trên bình diện thần học cũng như mục vụ. Đây cũng là hình ảnh giúp Giáo Hội ý thức hơn về vai trò của Giáo Hội giữa lòng thế giới là liên đới và đồng hành với tất cả mọi người trong gia đình nhân loại để xây dựng một thế giới nhân bản hơn.
Hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa không tương phản hay đối nghịch với bất cứ hình ảnh Giáo Hội nào từ nội dung đức tin của Giáo Hội cũng như sự đón nhận, sống và diễn tả nội dung đức tin đó theo dòng lịch sử Giáo Hội. Xem ra hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa tích hợp được nhiều yếu tố từ các hình ảnh Giáo Hội khác, chẳng hạn, đoàn chiên, những viên đá sống động, tòa nhà, hiền thê, người mẹ, thụ tạo mới, hiệp nhất giữa những người Do-thái và dân ngoại. Đặc biệt, hình ảnh này liên kết chặt chẽ với bốn hình ảnh được Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: Vương Quốc Thiên Chúa ở trần gian, Dân Thiên Chúa, Thân Thể Đức Kitô và Đền Thờ Chúa Thánh Thần.[51]
Trong Tông Huấn Ecclesia in Africa, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cho rằng Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa được xem là việc diễn tả đúng đắn căn tính của Giáo Hội, đặc biệt là bối cảnh Giáo Hội Châu Phi. Theo thánh Giáo Hoàng, việc loan báo Tin Mừng nhằm mục đích xây dựng Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa là cách tốt nhất để trả lời cho những chủ trương sai lạc về chủng tộc cũng như chủ nghĩa vị chủng ‘ethnocentrism’ khá thịnh hành ở đại lục này. Đồng thời, việc hiểu Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa sẽ là câu trả lời đúng đắn nhất cho những ai chủ trương chủ nghĩa đặc thù ‘particularism’ nhằm đề cao các đặc tính văn hóa địa phương trong việc diễn tả đức tin của Giáo Hội hơn là tính chất hoàn vũ của đức tin này. Chúng ta biết rằng niềm tin của Giáo Hội không lệ thuộc vào cách diễn tả đặc thù nào, trái lại, phù hợp với tất cả các nền văn hóa trên thế giới. Do đó, bổn phận của các tín hữu trong các nền văn hóa địa phương là cần đào sâu và diễn tả tính duy nhất và tính hoàn vũ của niềm tin Kitô Giáo cũng như thực thể Giáo Hội sao cho phù hợp với nền văn hóa mình.[52]
Khi Giáo Hội được hiểu là gia đình của Thiên Chúa ở trần gian thì không có sự ngăn cách nào giữa những người trong gia đình này. Tất cả mọi người đều đồng tâm nhất trí xây dựng Gia Đình Giáo Hội và ý thức rằng căn tính, đời sống và sứ mệnh của Gia Đình Giáo Hội cũng chính là căn tính, đời sống và sứ mệnh của con cái Giáo Hội. Biên giới tuổi tác, trình độ văn hóa hay những dị biệt khác không còn quan trọng nữa mà là sự hòa hợp của những con người cùng phẩm giá, nhưng khác biệt về chức năng trong Gia Đình Giáo Hội. Theo thánh Phao-lô, tương quan giữa những người lãnh đạo và các tín hữu cũng là tương quan trong gia đình. Ngài bộc lộ tâm tình với các tín hữu Cô-rin-tô: “Tôi nói với anh em như nói với con cái: Anh em cũng hãy mở rộng tấm lòng” (2 Cr 6,13).
Việc đào sâu, tìm hiểu căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa cho phép Giáo Hội trả lời cho những thách đố nảy sinh trong thế giới hôm nay liên quan đến đời sống nội tại của Giáo Hội, chẳng hạn, (1) vai trò của cá nhân trong Giáo Hội, (2) vai trò của Gia Đình Giáo Hội, (3) vai trò của các hình thức gia đình khác trong Giáo Hội. Việc đào sâu, tìm hiểu này cũng giúp Gia Đình Giáo Hội trả lời cho những thách đố khác đối với các gia đình cơ bản nói chung, chẳng hạn, (1) thách đố về quan niệm gia đình, (2) thách đố về đời sống gia đình, (3) thách đố về thần học gia đình, (4) thách đố về mục vụ gia đình, (5) thách đố về định hướng gia đình, (6) thách đố về vai trò của gia đình trong xã hội. Hơn thế nữa, việc đào sâu, tìm hiểu căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa còn cho phép Giáo Hội cung cấp hy vọng và viễn cảnh chính xác hơn cho toàn thể mọi người trong gia đình nhân loại. Đồng thời, cho phép Giáo Hội có được tiếng nói trong những vấn đề cụ thể như phân biệt đối xử bất công dựa trên văn hóa, sắc tộc, màu da, phái tính, đẳng cấp, tuổi tác hay hạn chế sinh sản bằng các phương thức trái tự nhiên, trái đạo lý hay nạn ly dị, tái hôn, lạm dụng tính dục và các hình thức ‘bần cùng hóa gia đình’ đang nảy sinh trong xã hội hôm nay.[53]
Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng những người trong gia đình yêu thương và liên đới với nhau cách chân thành và đúng đắn hơn những người thuộc các tổ chức tập thể khác. Bởi vì, ngôn ngữ gia đình là ngôn ngữ cả hai/và (both/and), ngôn ngữ của tương quan, liên đới, phụ thuộc lẫn nhau, nói cách khác, ngôn ngữ gia đình là ngôn ngữ tình yêu. Khi các Kitô hữu ý thức rằng họ là anh chị em trong cùng một gia đình thì trách nhiệm của họ đối với nhau luôn cụ thể và thiết thực. ‘Máu loãng hơn nước lã’, các Kitô hữu là những người cùng chung ‘dòng máu’, cùng chung ‘dòng sự sống’ khởi từ Thiên Chúa. ‘Dòng máu’, ‘dòng sự sống’ này tích hợp và định hình ‘dòng máu sinh học’, ‘dòng máu chủng tộc’, ‘dòng máu quốc gia’ hay bất cứ dòng máu nào khác.
Khi các Kitô hữu hiểu Giáo Hội như là gia đình thì sự quan tâm của họ đối với Giáo Hội sẽ khác đi. Họ không đến với Giáo Hội như đến với một câu lạc bộ. Họ không đến với Giáo Hội như là khán giả của một buổi hòa nhạc hay thể thao. Họ không đến với Giáo Hội như là một nghĩa vụ. Họ không đến với Giáo Hội theo những thời điểm rời rạc, nhưng là toàn bộ sự hiện hữu và cuộc sống họ. Các Kitô hữu đến với Giáo Hội bằng con tim đầy nhiệt tâm, yêu mến của họ, đồng thời, họ vững tin rằng chính nhờ Giáo Hội và qua Giáo Hội, họ tìm được nguồn hạnh phúc và bình an đúng nghĩa, bình an của Thiên Chúa, giữa những khó khăn, bất trắc của cuộc sống hằng ngày (Ga 14,27).
Khi các Kitô hữu nhận thức rằng nhờ bí tích Rửa Tội, họ trở thành con cái Thiên Chúa và anh chị em trong Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, thì cũng là khi họ nhận ra sự cần thiết để thúc đẩy tiến trình hiệp nhất Kitô hữu trên toàn thế giới (ecumenism). Tiến trình hiệp nhất này sẽ được triển nở khi các Kitô hữu nhận thức rằng họ là anh chị em một nhà. Sự chia rẽ trong Giáo Hội bởi các giáo phái khác nhau không làm mất đi căn tính gia đình của thực tại được Đức Giêsu thiết lập ở trần gian là chính Giáo Hội. Như đã được đề cập ở trên, Gia đình Giáo Hội luôn lớn hơn bất cứ cộng đoàn Kitô hữu nào: Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo, Chính Thống cũng như những cộng đoàn khác nhau phát sinh từ bốn nhánh chính này. Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn cho sự hiệp nhất của những ai bước theo chân Người vẫn còn vang vọng trong đời sống của các cộng đoàn tin nhận Đức Giêsu và thực thi giáo huấn của Người.[54]
Một trong những vấn nạn được nhiều người quan tâm hiện nay là chủ nghĩa khủng bố. Nhìn bên ngoài, chúng ta thấy khủng bố như là một hiện tượng chính trị, xã hội, nhưng tận căn, chúng ta thấy khủng bố đúng hơn là vấn nạn tôn giáo. Chính sự lạm dụng tôn giáo, tôn giáo quá khích dẫn tới khủng bố. Khi mà người ta cho rằng Thượng Đế đứng về phía họ, khi mà người ta cho rằng Thượng Đế của họ là vĩ đại nhất, khi mà người ta không công nhận tự do lương tâm, khi mà người ta cho rằng ai muốn an toàn thì phải suy nghĩ và hành động như họ vì họ được Thượng Đế hướng dẫn, khi đó người ta sẽ tìm mọi cách để hủy diệt người khác. Trái lại, khi người ta nhìn nhận rằng tất cả mọi người trong gia đình nhân loại đều là con cùng một Cha Trên Trời và tất cả mọi người là anh chị em của nhau, người ta sẽ có những suy nghĩ và hành động tích cực hơn. Lịch sử nhân loại minh chứng rằng tôn giáo cực đoan, tôn giáo quá khích không bao giờ là câu trả lời cho những đau khổ, bất an của gia đình nhân loại. Bao lâu con người chưa tìm được tiếng nói chung và không nhận nhau như anh chị em trong Gia Đình Thiên Chúa, bấy lâu con người còn phải chứng kiến những đau thương gây nên bởi anh em đồng loại.
Việc nhận thức Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, đồng thời, nhận thức rằng ân sủng của Thiên Chúa hiện diện và hoạt động cách kỳ diệu nơi các tôn giáo khác cho phép Giáo Hội dấn thân trong việc đối thoại liên tôn cách hiệu quả hơn (interreligious dialogue). Khi đối thoại liên tôn được đặt nền tảng trên sự đối thoại giữa những người trong cùng gia đình nhân loại, cùng trăn trở về những chủ đề như Thượng Đế, vũ trụ và con người thì hiệu quả của việc đối thoại sẽ phong phú hơn là việc đối thoại đặt nền tảng trên sự khác biệt về thần học hay thực hành tôn giáo với những khái niệm và ngôn ngữ trừu tượng. Khi mọi người thuộc các tôn giáo khác nhau đều nhìn nhận chỉ có một Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo muôn vật muôn loài và toàn thể mọi người trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế đều chung một khởi điểm, một lịch sử, một hướng đi và một đích đến thì tiến trình đối thoại liên tôn sẽ vượt qua mọi rào cản.
Như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, Giáo Hội kêu mời tất cả mọi người trong gia đình nhân loại quan tâm, chăm sóc lẫn nhau trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Trong thế giới hôm nay, sự lãnh đạm của con người ngày càng phổ biến và lan rộng. ‘Toàn cầu hóa lãnh đạm’ (globalisation of indifference) được xem là hệ quả tất yếu của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa giải thiêng, chủ nghĩa thế tục và một số hình thức chủ nghĩa khác nảy sinh từ não trạng và lối sống thực dụng. Khi người ta khước từ Thiên Chúa, khước từ sự thánh thiêng, khước từ những giá trị trường cửu và không nhìn nhận nhau như anh chị em trong ngôi nhà chung của gia đình nhân loại, cũng là khi các hình thức chủ nghĩa như vậy nảy sinh và phát huy tác dụng. Lãnh đạm dẫn tới sự xuống cấp của đời sống gia đình trong xã hội loài người và làm cho con người ngày càng quy ngã trong khi thờ ơ với tha nhân cũng như không màng tới thế giới quanh mình.
Như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, Giáo Hội trở thành phương dược làm cho chủ nghĩa lãnh đạm và các hình thức chủ nghĩa khác ngày càng phai nhạt trong thế giới nhân sinh. Dõi theo Đức Giêsu và Tin Mừng của Người, Giáo Hội kêu mời tất cả mọi người trong gia đình nhân loại biết quan tâm phục vụ lẫn nhau trong hành trình tiến về Gia Đình Thiên Chúa sung mãn muôn đời.
6. KẾT LUẬN
Những xem xét, đánh giá và tổng hợp trên đây cho phép chúng ta nhận thức rằng bản chất của Giáo Hội là gia đình, đồng thời, cho phép chúng ta hiểu biết hơn về tương quan mật thiết giữa năm hình thức gia đình: Gia Đình Thiên Chúa, gia đình thế giới thụ tạo, gia đình nhân loại, Gia Đình Giáo Hội, gia đình cơ bản (cell of society/ ecclesia domestica). Từ khởi thủy, gia đình nhân loại vừa là đỉnh cao vừa là trung tâm của chương trình Thiên Chúa sáng tạo. Người chúc phúc và thánh hóa gia đình nhân loại để gia đình nhân loại cùng cộng tác với Người trong việc sáng tạo và chăm sóc thế giới thụ tạo. Mặc dù gia đình khởi thủy của nhân loại bất xứng, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương nâng đỡ. Trải qua thăng trầm lịch sử, gia đình nhân loại được Thiên Chúa dẫn dắt và khi tới thời viên mãn, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã trở nên Con của gia đình nhân loại trong gia đình Na-da-rét để thông phần đau khổ và cứu độ gia đình nhân loại.
Trong sứ mệnh của mình, Đức Giêsu Kitô mạc khải về Gia Đình Thiên Chúa. Người cho các môn đệ của mình biết rằng Thiên Chúa, Cha của Người, cũng là Cha của họ và của những ai đón nhận Người và Tin Mừng của Người qua muôn thế hệ. Với Đức Giêsu Kitô, Gia Đình Thiên Chúa hiện diện và hoạt động giữa lòng nhân thế. Người đã thiết lập Giáo Hội như là Thân Thể Người, để Gia Đình Thiên Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động nhờ Giáo Hội. Ngay từ buổi đầu, các môn đệ Đức Giêsu đã sống bầu khí gia đình này. Sau khi Đức Giêsu Phục Sinh và với sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, họ đã ra đi loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại. Việc nhận thức Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa giúp chúng ta hiểu căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội ở trần gian là quy tụ tất cả mọi người về với Gia Đình Thiên Chúa.
Như là Gia Đình Thiên Chúa, Giáo Hội thông ban sự sống và nuôi dưỡng con cái mình bằng Lời Chúa, các bí tích và đời sống phụng tự, đồng thời, Giáo Hội phục vụ gia đình con cái mình giữa những bấp bênh, đau khổ, khó khăn trong cuộc sống. Giáo Hội khuyến khích toàn thể con cái mình luôn hiệp thông với Giáo Hội và với nhau để loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa giữa môi trường sống của mình. Trong khi loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa, Giáo Hội phục vụ gia đình nhân loại bằng chính những giá trị của Gia Đình Thiên Chúa mà Giáo Hội lãnh nhận, sống và được ủy thác trao ban. Giáo Hội diễn tả Gia Đình Thiên Chúa cách trung thực nhất và luôn thâm tín rằng Gia Đình Thiên Chúa là khởi thủy, niềm hy vọng và cùng đích của gia đình nhân loại cùng toàn thể thế giới thụ tạo.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 124 (Tháng 5 & 6 năm 2021)
[1] Ở một số nước Hồi Giáo, đặc biệt là ở Trung Đông, gia đình đa thê không chỉ thuộc văn hóa, truyền thống mà còn được pháp luật cho phép và bảo vệ.
[2] Xa hơn nữa, người ta cũng dùng từ ‘gia đình’ để chỉ thế giới động, thực vật (gia đình sư tử, gia đình gấu, gia đình khỉ, gia đình cây dương xỉ, gia đình cây tùng) hay gia đình thế giới thụ tạo.
[3] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes 52 (1965).
[4] Xem thêm Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, Thông Điệp Laudato Si’ 213 (2015).
[5] Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 1657.
[6] Trong Kinh Thánh Cựu Ước, thay vì dùng từ gia đình (family) theo nghĩa hiện đại, người ta thường dùng từ như nhà cha (father’s house) hay những người sống chung dưới mái nhà hay trong một nơi nào đó với người chủ là nam giới (household). Gia đình được hiểu theo nghĩa rộng nhiều hơn, chẳng hạn, những người cùng dân tộc, bộ tộc, thị tộc.
[7] Xem thêm Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo 372; 1642
[8] Nô-ê được diễn tả là “người công chính, hoàn hảo giữa những người đồng thời và ông đi với Thiên Chúa” (St 6,9).
[9] Xem thêm Rm 4,11-12.16-17
[10] Xem thêm Cv 3,25; Rm 9,6; Gl 3,29.
[11] Xem thêm Ep 3, 14-15.
[12] Karl Rahner, in God as Trinity, ed. by Ted Peters (Louisville: John Knox Press,1973), 22 (the economic Trinity is the immanent Trinity, and vice-versa).
[13] Đức Giê-su hiện diện giữa nhân loại, tuy nhiên, Người vẫn luôn thuộc về Gia Đình Thiên Chúa. Với việc Nhập Thể, Đức Giê-su vừa thuộc về Gia Đình Thiên Chúa, vừa thuộc về gia đình nhân loại.
[14] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio 86 (1981).
[15] Xem thêm Rm 8,14; 1 Ga 3,2; Gl 3,26 và St 1,26-27; St 9,6.
[16] Xem thêm Ga 6,47-51.
[17] Is 7, 14: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emma-nu-en.” Như thế, Is 7,14 không có phần giải thích ‘Em-ma-nu-en nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta‘ như Mt 1,23.
[18] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 6 (1964).
[19] Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 6.
[20] Xem thêm Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est 25 (2005).
[21] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 8.
[22] Xem Hội Đồng Giám Mục Châu Phi: Message of the Synod 24 (1994).
[23] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes 22.
[24] Xem Giáo Luật (1983) 204
[25] Xem thêm Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, Evangelii Gaudium 47 (2013).
[26] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 9.
[27]Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio 28.
[28] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 11.
[29] Xem thêm Dt 13,7-16.
[30] Xem thêm Is 25,6-10; Mt 8,11; Mt 22,1-14; Lc 14,15-24.
[31] Xem thêm 1 Cr 12,12-30
[32] Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est 25.
[33] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, Thông Điệp Ecclesiam Suam 1 (1964).
[34] Trong truyền thống và văn hóa Do-thái, khi người nữ lấy chồng thì về nhà chồng. Tuy nhiên, theo các học giả Kinh Thánh, từ xa xưa, khi người chồng lấy vợ thì về nhà vợ. Điều đó cho chúng ta thấy rằng về nhà chồng hay về nhà vợ sau khi trở thành vợ chồng không quan trọng bằng việc hai người trở thành gia đình mới.
[35] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio 17; xem thêm Ep 5,21-33.
[36] Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est 2.
[37] Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, Thông Điệp Deus Caritas Est 11
[38] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Thông Điệp Redemptor Hominis 10 (1979).
[39] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Ecclesia in Oceania 45 (2001).
[40] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Thông Điệp Centesimus Annus 39 1991); xem thêm Tông Huấn Ecclesia in America 46 (1999).
[41] Xem thêm Cv 12,12; Rm 16,5; Cl 4,15
[42] Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh Apostolicam Actuositatem 11.
[43] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Ecclesia in Asia 46 (1999).
[44] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 35.
[45] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 11.
[46] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI, Tông Huấn Evangelii Nuntiandi 71 (1975).
[47] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris consortio 84
[48] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Thông Điệp Redemptor Hominis 14
[49] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Letter to Families 3 (1994).
[50] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio 75 và Tông Huấn Ecclesia in Africa 50.
[51] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 3, 7, 9, 17. Mỗi hình ảnh có những giới hạn nhất định. Tổng hợp các hình ảnh Giáo Hội cũng không thể diễn tả đầy đủ thực thể Giáo Hội. Nhiều hình ảnh diễn tả Giáo Hội thì tốt hơn là ít hình ảnh. Khi diễn tả Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su không chỉ dùng một hình ảnh mà nhiều hình ảnh, chẳng hạn, hình ảnh hạt cải, men trong bột, ruộng lúa.
[52] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Ecclesia in Africa 63.
[53] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Gaudium et Spes 29.
[54] Xem thêm Ga 17, 1-26.
2021
Kế hoạch của Thiên Chúa trong đời ta
Câu hỏi: Chúng ta làm điều gì đó, thường là có chương trình, kế hoạch. Khi tạo dựng thế giới và con người, liệu Thiên Chúa có thực hiện theo kế hoạch định trước không? Theo đó, vấn đề tiền định nghĩa là gì?
Trả lời:
Sao tôi cứ khổ hoài? Sao anh lập nghiệp mãi mà không thành công? Vì sao có người ngồi chơi xơi nước mà vẫn giàu sang phú quý? Bởi đâu tôi không thể làm thánh? Tại sao có nhiều người yêu mến Chúa nồng nàn?
Chúng ta có thể nghe hằng hà câu hỏi như trên. Có người cho đó là số phận đã an bài. Lắm người tin rằng đó là điều may mắn, là ơn Chúa. Không ít người xem đó là chuyện đương nhiên. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, mình sẽ thành công hạnh phúc thôi.
Trước thực trạng của cuộc sống, chúng ta có nhiều cách hiểu và tin. Mỗi tôn giáo đều cho chúng ta câu trả lời. Phật Giáo liên hệ những điều trên đến luật nhân quả. Các nhà thần học Hồi Giáo cũng bàn đến vấn đề tiền định và ý chí tự do. Giáo Hội Tin Lành cho rằng điều đó liên hệ đến thuyết tiền định. Công Giáo xác tín rằng mọi sự đều trong vòng tay yêu thương và quan phòng của Thiên Chúa. Trong câu hỏi thú vị trên đây, chúng ta thử lướt qua một vòng những điều hấp dẫn, nhưng chút phức tạp.
Bạn thân mến,
Câu hỏi của bạn không phải thời nay mới có. Ngay thời xa xưa, dân Do Thái nói riêng và nhân loại nói chung muốn đi tìm nguồn gốc của mình. Hẳn nhiên, người Do Thái diễn tả nguồn gốc ấy trong trình thuật sách Sáng Thế. Bạn hỏi trước khi Chúa sáng tạo muôn loài, Ngài có kế hoạch, bàn tính kỹ lưỡng không? Chúng ta hoàn toàn không biết, vì lúc ấy chẳng có ai để chứng kiến. Sau này Thiên Chúa và Đức Giêsu cũng không mặc khải điều đó. Tuy nhiên, nếu theo mạch văn và niềm tin, chúng ta thấy chính tình yêu dâng trào của Thiên Chúa đã lần lượt tạo nên vũ trụ. Ngài phán hãy có ánh sáng, đất trời, chim thú muôn loài, liền có như vậy. Ngài thấy mọi điều là tốt đẹp và chúc phúc cho chúng.
Trường hợp sáng tạo con người thú vị hơn, dường như Ngài có kế hoạch hẳn hoi. Theo bản văn, Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta.” Đó là điều mà chúng ta có thể thấy Thiên Chúa kỳ công nắn tạo con người. Hẳn là Thiên Chúa đã “suy nghĩ” làm thế nào sáng tạo nên một loài cao quý. “Giống hình ảnh Thiên Chúa” là hồng phúc tuyệt vời của con người. Và Ngài luôn chúc phúc cho họ, nghĩa là cho họ được hạnh phúc bình an, luôn mãi.
Tiếc là lịch sử nhân loại đi vào con đường tiêu vong. Như trong câu hỏi trên, chúng ta thấy có những chi tiết sau:
- Thiên Chúa đã tiền định mọi sự
Tiền định tiếng Anh là “predestination”, “predestinationism” (thuyết). Hán Việt: tiền là trước, trên hết. Định là đã quyết, không thể thay đổi. Như thế, tiền định là những điều đã quyết từ trước mà con người không thể thay đổi. Có người gọi đó là định mệnh, là số phận[1].
Tôi không muốn đi vào lịch sử phát triển của từ này, vì nó đụng đến triết học Hy Lạp vốn phức tạp. Tuy nhiên, từ thời Giáo Hội sơ khai, người ta đã hoài nghi về những điều liên quan đến Đức Giêsu. Ngài đã biết trước mọi sự, kể cả cái chết? Bằng chứng là Ngài đã tiên báo đến ba lần. Phải chăng Ngài cũng biết Giuđa Ítcariốt là kẻ phản bội. Đó là định mệnh của tông đồ xấu số này. Phải chăng Đức Giêsu biết sau khi chết, Ngài sẽ sống lại. Những chủ đề ấy có dịp chúng ta sẽ bàn sau.
Tuy vậy niềm tin vào tiền định cũng rất phổ biến trong dân gian từ xưa[2]. Thánh Augustinô đã chấp nhận niềm tin này. Thánh nhân giảng rằng: Giáo Hội có hai thực thể: hữu hình và vô hình. Giáo Hội hữu hình là hệ thống tổ chức trần thế. Giáo Hội vô hình là cộng đồng những linh hồn do Chúa tiền định cho họ được cứu rỗi. (Sẽ bàn ở phần sau).
Phải nói thuyết tiền định loang rộng và ảnh hưởng mạnh mẽ vào thời Trung Cổ. Chính thần học gia Tin Lành John Calvin (1509-1564) đã đẩy cao thuyết này. Năm 1559, Calvin cho xuất bản tập Institutes of the Christian Religion (Những nguyên lý của Kitô giáo), trong đó thuyết tiền định được khai triển. Ông cho rằng sau khi con người sa ngã, tội lỗi đã hủy hoại tính thánh thiêng của con người. Trong thân phận tội lỗi, đọa đày, tất cả chúng ta đều bị đuổi ra Vườn Địa Đàng, bị xa cách Thiên Chúa. Tuy nhiên, vì lòng thương xót và tình yêu của Thiên Chúa, nhiều người được Thiên Chúa tiền định được cứu độ. Họ được lọt vào danh sách sổ bộ hằng sống (Ga 10,27-28; Ep chương 11).
Nhiều thần học gia còn đẩy xa hơn vấn đề. Đức Giêsu chịu chết và phục sinh phải cứu lấy toàn nhân loại chứ. Vậy tại sao nhiều người vẫn xa Hỏa Ngục? Câu trả lời chỉ thỏa đáng là: Thiên Chúa đã chọn cứu họ từ rất xa xưa. Như thế, nếu bạn và tôi không được ghi vào danh sách hằng sống đó, mọi nỗ lực nên thánh của chúng ta cũng đổ sông, đổ biển.
- Thiên Chúa luôn quan phòng và cứu độ con người
Dĩ nhiên trước trào lưu tiền định đó, Giáo Hội Công Giáo không đồng ý. Tranh luận đã xảy ra phức tạp mà chúng ta không có giờ đi vào chi tiết. Chỉ tóm lại như sau:
Trong Công Giáo cũng có chữ tiền định. Nghĩa là Thiên Chúa từ muôn thuở đã an bài mọi sự. Mọi công trình và số phận của con người đều trong sự quan phòng của Người. “Anh em đừng lo lắng, ngày nào có cái khổ của ngày đó.” Còn về vấn đề cứu độ, Thiên Chúa tình yêu chắc chắn cứu hết mọi người trong vũng lầy của tội lỗi, khổ đau. Bằng giá máu của Đức Giêsu, con người đã được tiền định cho cứu độ. Chính Đức Giêsu “hòa giải con người với Thiên Chúa, và cho làm nghĩa tử.” (x. Ep 1,5)
Tuy nhiên vấn đề ở đây là nhiều người chối từ món quà cứu độ đó. Thiên Chúa trao ban sự sống cho mọi người, nhưng Ngài không bắt chẹt, ép lấy ép để mọi người phải chấp nhận. Nếu ép buộc con người, Thiên Chúa quả không công bằng, không tôn trọng tự do của con người. Đây là chìa khóa của vấn đề trên. Chúng ta có tự do để chấp nhận ơn cứu độ đó hay không mà thôi.
Thực vậy, có lần thánh Augustinô tâm sự rằng: Thiên Chúa sáng tạo con người, Ngài đâu cần hỏi ta. Nhưng khi muốn cứu độ con người, Ngài phải hỏi ý kiến của ta. Có nhiều người từ chối tin vào Thiên Chúa, phớt lờ ơn cứu độ; kết quả là họ tự chọn cuộc sống xa cách Thiên Chúa ngàn trùng.
Bởi đó chúng ta thấy Công Giáo, hay nói đúng hơn, Thiên Chúa luôn đề cao ý chí tự do của con người. Đức Giêsu nói cho người phụ nữ ngoại tình: “Ta không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.” (Ga 8,11). Điều ấy có nghĩa là nếu chị ta chịu sửa đổi đời sống, tin theo Thiên Chúa, số phận của chị sẽ rất khác, sẽ được sống. Kết quả là sau này, theo truyền thống, chị đã là vị thánh trong Giáo Hội Công Giáo (chị có thể là thánh Maria Mađalêna).
Chúng ta cũng không ngoại lệ. Chỉ những ai chấp nhận để Thiên Chúa cứu độ, họ mới hy vọng được sống đời đời. Đừng quên “Nhà Thiên Chúa có nhiều chỗ ở.” Ngài muốn cứu mọi người. Tiếc là hành trình tin theo Đức Giêsu luôn nhiều thách đố, lắm chông gai. Nó thường đi ngược lại bản tính yếu đuối của con người. Trong ta lúc nào cũng cảm thấy những xung đột giằng co: tốt-xấu, lành-dữ, v.v.
Một điều thú vị là cuộc đời chúng ta không thể đoán trước được. Kể cả ngành tử vi, bói toán, cho đến chuyên gia tướng số đều không thể biết rõ cuộc đời của ta. Một điều ai cũng đoán được: sinh, lão, bệnh, tử. Do đó, có những thắc mắc đại loại như: phải chăng Chúa định đoạt cho tôi làm bác sĩ, công nhân, thầy giáo, nội trợ hay thất nghiệp dài dài? Phải chăng từ rất xa xưa, Ngài đã chọn tôi làm linh mục, bà sơ? Chúa muốn người này sống lâu, người kia chết sớm? Thực ra những điều ấy luôn vượt tầm hiểu biết của con người. Chúng ta đành khiêm tốn gom lại trong một từ: mầu nhiệm. Càng sống, hy vọng chúng ta càng thấy bàn tay Thiên Chúa dẫn đưa.
- Tự do và đáp trả lời mời gọi yêu thương
Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là luật tiền định của Thiên Chúa. Có người còn nói, Thiên Chúa tiền định đặt những nguyên lý, định luật vào trong công trình Sáng Tạo để nó vận hành tốt đẹp. Ngài tôn trọng những điều đó. Chẳng hạn ngày và đêm tuần hoàn nối tiếp nhau. Thiếu rừng sẽ gây lũ lụt, hạn hán. Chạy xe ẩu nguy cơ tai nạn sẽ cao hơn. Bệnh tật là do nhiều hệ lụy của con người. Người tài giỏi sẽ giàu sang, người lười biếng sẽ nghèo đói, v.v. Chúng ta không thể đổ lỗi cho số phận, cho định mệnh đã an bài. Đó là những lý do ngụy biện!
Thái độ của người Công Giáo là cộng tác với Thiên Chúa. Trước lời mời gọi yêu thương, lời hứa cứu độ, chúng ta cố gắng để đáp lại điều đó. Thiên Chúa đã đi bước trước, chỉ những ai thoái lui, phớt lờ “ơn tiền định” ấy, không ai dám chắc số phận của người ấy sẽ đi về đâu?
Thay vì sợ hãi trước Thiên Chúa quan phòng, an bài mọi sự, chúng ta hạnh phúc vì được Thiên Chúa ân cần săn sóc ngay từ trước khi chào đời. Ước gì mỗi người cảm nhận được hồng ân này, để dám lao mình về phía trước cùng với Chúa. Trong tâm thế đó, “tiền định, hay không tiền định” trở nên nhẹ nhàng hơn.
Bạn đừng quên mặc dù Thiên Chúa đã sáng tạo mọi sự, đã đặt vào chúng những quy luật vận hành, nhưng Ngài vẫn làm việc để chăm sóc con người. Do đó, chúng ta không có lý do gì tin vào thuyết định mệnh mà ngồi đó mặc cho số phận an bài. Tuy chúng ta là thụ tạo tốt lành, nhưng chưa hoàn hảo và tuyệt đối, vì tội lỗi. “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5,48) Trong đường hướng đó, giả như bạn có khả năng gì, hãy sử dụng chúng như những nén bạc Thiên Chúa ban cho.
Cảm ơn bạn đã khơi lại đề tài tưởng chừng đã quên lãng sau thời Trung Cổ. Tuy nhiên, chút chia sẻ trên đây hy vọng chúng ta hiểu hơn về thuyết tiền định. Đừng quên nhiều nhánh của Anh em Tin Lành vẫn theo niềm tin này. Bởi đó, ước mong bạn cũng có thể trò chuyện được với họ về vấn đề này. Hoặc, bạn có thể giải thích những gì liên quan đến vấn đề này dưới góc nhìn của Công Giáo.
Chúng ta sống và tiến về phía trước! Đừng tin vào số phận hẩm hiu, vì Thiên Chúa luôn cho chúng ta những gì tốt nhất. Mỗi ngày tin yêu một chút, cố gắng một chút, cộng tác với ơn Chúa một chút, cuộc đời chúng ta sẽ khác, khác nhiều lắm!
Chào bạn!
Đọc thêm:
Bài 17: Nghiệp quả từ góc nhìn của đức tin Công giáo
Bài 16: Tương thân tương ái Bài 15: Áo giáp chống nạn Bài 14: Đức tin kiến tạo hòa bình và công bằng xã hội Bài 13: Vấn đề truyền giáo Bài 12: Thờ kính ông bà tổ tiên Bài 11: Truyền giáo cho người trẻ ngoại đạo Bài 10: Bền đỗ trong ơn gọi gia đình Bài 09: Vấn đề “theo đạo rồi mới cho cưới” Bài 08: Gieo suy nghĩ tốt Bài 07: Nhanh từ từ thôi Bài 06: Hiện tượng bóng ma Bài 05: Vượt qua khủng hoảng! Bài 04: Vấn đề rước Mình Máu Thánh Chúa Bài 03: Đừng cám dỗ nhau nhé! Bài 02: Sao lại kỳ thị người tu xuất? Bài 01: Nhận định ơn gọi cho cuộc đời |
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 1, Nxb Tôn Giáo, 2020)
[1] “Đó là cuộc sống mà…”, hoặc “Chẳng có gì để làm!” Theo cách này, cẩn thận kẻo mình rơi vào chủ nghĩa của thuyết định mệnh.
[2] Trong Truyện Kiều, bạn có thể thấy cụ Nguyễn Du đã ghi nhận niềm tin này trong tâm thức người Việt: “Ngẫm hay muôn sự tại Trời. Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.”
2021
Lịch Sử Của Mối Tương Quan Giữa Kitô Giáo Với Các Tôn Giáo
Lịch Sử Của Mối Tương Quan Giữa Kitô Giáo Với Các Tôn Giáo
….nhờ sự hiểu biết lẫn nhau, mà sự đối thoại giữa các tôn giáo sẽ tiến triển, giúp cho nhân loại thăng tiến đến lý tưởng Chân Thiện Mỹ, trong Công lý và Hòa bình.
Ngày cầu nguyện cho hoà bình của đại diện lãnh đạo các tôn giáo tại Assisi – 27/10/2011
- QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC HY LẠP VỀ CÁC TÔN GIÁO
Chúng ta thử đi ngược dòng thời gian, để điểm lại những quan điểm của các nhà thần học Kitô giáo về giá trị của các tôn giáo trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, các quan điểm đó rất nhiều và khác biệt nhau. Vì thế chúng tôi chỉ ghi nhận những khuynh hướng chính, đặc biệt là nêu bật những yếu tố nào chi phối các quan điểm thần học. Theo thiển ý, trong lãnh vực này, một yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ là sự hiểu biết về các tôn giáo. Nên biết là khoa lịch sử đối chiếu các tôn giáo của nhân loại mới phát triển trong những thế kỷ gần đây, và còn ở giai đoạn chập chững về phương pháp. Chúng ta có quyền tự hỏi: có bao nhiêu tín đồ Kitô giáo đã nghiên cứu về các tôn giáo khác trên hoàn cầu? Có bao nhiêu tín đồ Kitô giáo đã nghiên cứu về lịch sử của chính tôn giáo của mình? Và chúng ta có thể đặt những câu hỏi tương tự cho các tín đồ của các tôn giáo khác. Ngoài ra, như sẽ thấy, có nhiều cách thức để nghiên cứu các tôn giáo: từ tâm tình hoàn toàn thụ động cho đến thái độ phê bình chỉ trích.
Bài này, chúng tôi xin lược qua tình hình nghiên cứu về các tôn giáo trong thế giới Hy lạp-Rôma trước khi Kitô giáo xuất hiện. Các thánh tông đồ và các giáo phụ đã chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi những trào lưu đó.
Nói chung, con người vào thời cổ sống trong niềm tin tưởng vào một thần linh nào đó. Lòng tin đó được diễn tả qua các việc cúng bái cầu khẩn. Mặt khác, tín ngưỡng không phải là một chuyện cá nhân nhưng còn mang một chiều kích xã hội nữa. Mỗi gia đình, bộ tộc, thành phố theo một tôn giáo nào đó: tôn giáo được coi như là yếu tố liên kết các phần tử của gia đình, bộ tộc, thành phố. Ai không tham dự vào các lễ nghi tôn giáo sẽ bị khai trừ ra khỏi cộng đồng. Điều này có thể nhận thấy ngay tại xã hội Việt Nam: việc thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, tế Nam Giao là những dịp nối kết các phần tử của gia đình, làng xã, quốc gia. Điều đó cũng đúng với dân tộc Do thái, và các dân tộc khác.
Tuy nhiên, trong khi mà đại đa số nhân dân tuân hành các truyền thống gia phong một cách kính cẩn, thì một vài triết gia Hy lạp đã dám nghiên cứu các tôn giáo với một thái độ phê bình. Chúng ta thấy ít là có ba khuynh hướng chính:
* Khuynh hướng hòa đồng tôn giáo
* Khuynh hướng thống nhất tôn giáo
* Khuynh hướng phê bình tôn giáo
- Khuynh hướng hòa đồng tôn giáo
Những người này tỏ ra lòng kính trọng đối với hết các tôn giáo. Bụt nào cũng thiêng cả! Vì thế họ mang hết các thần linh về nhà để thờ! Nhưng sớm muộn gì, vấn đề xếp đặt thứ tự sẽ được đặt ra: ai đứng trên, ai đứng dưới, ai đi trước, ai đi sau? Từ đó, mới nảy ra những chuyện thần thoại nhằm giải thích nguồn gốc của các thần linh cũng như những mối quan hệ giữa các thần. Bên Hy lạp, hai tác giả nổi tiếng hơn cả là hai thi sĩ Homêrô và Hêsiôđô (khoảng tk 8-7 tr.CN). Họ xếp đặt một hệ cấp giữa các thần, hoặc theo kiểu một gia đình (từ ông tổ lần lượt xuống ông bà nội ngoại, vợ chồng, cha mẹ, con cháu), hay là theo kiểu một triều đình (hoàng đế, ngọc hoàng) với các quan quân hầu cận. Khởi đầu với việc xếp đặt tôn ti của các thần linh quốc nội, dần dần các học giả xếp đặt các thần linh ngoại bang mà họ biết được qua những cuộc chu du hay viễn chinh. Những học giả nổi tiếng thời cổ là: ông Ecatêo Abđêra (k.320 tr.CN) nghiên cứu các thần linh bên Ai cập. Ông Megastênê (k.300 tr.CN) bàn về các thần linh bên Ấn độ. Ông Bêrôsô (tk.3 trCN) nghiên cứu các thần ở Babilonia. Tác phẩm bách khoa về các thần linh cổ đại là của ông Marcô Têrenxiô Varrone (116-27 tr.CN), Antiquitates rerum humanarum et divinarum. Dĩ nhiên, trong khi đối chiếu nguồn gốc các thần linh như vậy, cũng có người nghĩ rằng các thần hơn kém cũng như nhau, chỉ khác tên gọi mà thôi: thần Jupiter của người Rôma và thần Zeus của người Hy lạp chung quy cũng là một vị mà thôi!
- Khuynh hướng thống nhất các tôn giáo
Khuynh hướng hòa đồng vừa nói đã dần dần dẫn tới khuynh hướng thống nhất các tôn giáo khi giải thích tất cả các thần linh đều bởi một nguồn gốc. Tuy nhiên, có những triết gia còn đi xa hơn nữa. Họ không dừng lại ở việc nghiên cứu nguồn gốc của các thần linh được nhân dân thờ cúng, nhưng họ tìm đến cội nguồn của mọi loài hiện hữu. Họ tìm nguyên nhân tối hậu của vạn vật. Trong số những triết gia này, ta có thể kể: ông Thalês (tk.6 tr.CN) cho rằng nước và lửa là nguyên tố căn bản của vạn vật; ông Anassimanđrô (tk6 tr.CN) quy tóm vạn vật về chất thể vô định (apeiron); ông Hêraclitô (k.500 tr.CN) giải trích nguyên nhân của vạn vật là Lý trí (Logos), kiểm soát hết mọi loài. Sau cùng, chúng ta có thể xếp các nhà hiền triết Platon (429-347) và Aristôt (384-322) trong hạng này, khi mà họ đặt nguồn gốc của vũ trụ nơi một vị Hóa công, một vị Đệ nhất nguyên nhân tác thành.
- Khuynh hướng phê bình các tôn giáo
Trong khi khuynh hướng thứ nhất cố gắng thu thập hết các tinh hoa của tất cả mọi tôn giáo trên hoàn cầu, khuynh hướng thứ hai thì không muốn biết gì đến các tôn giáo, bởi vì họ chỉ bận tâm tới các quan niệm siêu hình (căn nguyên tối hậu của các hữu thể), khuynh hướng thứ ba nghiên cứu các tôn giáo với cặp mắt phê bình. Việc nghiên cứu các tôn giáo mở đường cho việc phê bình chỉ trích các tôn giáo. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng không phải những người thuộc khuynh hướng này là đều là những kẻ vô thần, phá đạo đâu! Ngược lại, việc phê bình các tôn giáo do chính lòng đạo đức thúc đẩy: họ muốn tìm về một đạo giáo nguyên tuyền trong sáng, chứ không phải là đạo do thị hiếu con người bày đặt ra.
Ông Sênôphanê Côlôphônê (tk.6-5 tr.CN) đã chỉ trích các thần thoại của các thi sĩ Hômêrô và Hêsiôđô là vô luân, khi gán cho các thần linh trên thiên giới tất cả những đam mê dục vọng giống như ở hạ giới này. Ông nói: “Giả như các con bò biết vẽ, ắt là chúng cũng vẽ các thần theo hình con bò!” Ông Êpicuriô (tk.6 tr.CN) nhìn nhận sự hiện hữu của các thần linh, nhưng không tin rằng họ có ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân loại. Ông Prôđicô Xêôs (tk.5 tr.CN) cho rằng các thần linh (thần thái dương, thần hỏa, thần thổ, v.v…) chẳng qua chỉ là các yếu tố thiên nhiên, được con người phong thần vì thấy mang lại ơn ích cho mình. Theo ông Đêmôcritô (k.440-k.370 tr.CN), nguồn gốc của mọi tôn giáo là sự sợ hãi: tất cả những gì gây ra cho con người sợ sệt, thì được tôn kính bái lạy như thần thánh. Ông Crixia (tk.5) cho rằng tôn giáo được đặt ra để mà bảo đảm an ninh trật tự xã hội: vào thời sơ khai, luật pháp và công an không đủ để kiểm soát các hành vi của con người, cho nên người ta bịa thêm các thần linh nhằm ngăn ngừa các hành vi xấu bởi vì sợ rằng sẽ bị trời phạt. Sau cùng, ông Evêmêrô (tk.4-3) được coi như đại biểu của các thuyết chỉ trích các tôn giáo từ cổ thời cho đến hiện đại. Theo ông, các thần linh chỉ là do con người tạo ra mà thôi. Có lẽ thuyết của ông ta có cơ sở lịch sử ngay tại Hy lạp, khi mà Alexanđrô Đại đế tự phong thần cho mình, và tạo ra nghi thức cúng tế cho mình! Dù sao, hậu thế nhiều lần sẽ trở lại với thuyết của ông Êvêmêrô khi chỉ trích các tôn giáo, như chúng ta sẽ thấy nơi các học thuyết vào đầu thế kỷ 20 tại Âu châu giải thích các tôn giáo như là sự phóng dọi các ước muốn của con người, xét như cá nhân hay xét như một tầng lớp xã hội hoặc một tập thể. Tuy nhiên, như đã lưu ý trên đây, thái độ của các triết gia cổ thời thì khác với các nhà nghiên cứu tôn giáo hiện đại. Vào cổ thời, việc chỉ trích các tôn giáo được thúc đẩy bởi tâm tình đạo giáo. Người ta muốn bảo vệ lòng đạo tinh tuyền, chứ không muốn để cho tôn giáo bị pha phôi với những dục vọng bần tiện. Vì thế không lạ gì mà các giáo phụ của Kitô giáo cũng tán thành ông Êvêmêrô. Thậm chí, phải nói rằng trước ông Êvêmêrô mấy thế kỷ, ta đã tìm thấy tư tưởng đó nơi các ngôn sứ bên Israel, thí dụ Hôsêa 13,2; Isaia 44,9-20, sách Khôn ngoan 13,2-5: Các thần linh là do bàn tay con người tác tạo, theo kích thước của con người, mang theo những dục vọng sở thích của con người. Tư tưởng này cũng được thánh Phaolô lặp lại trong thư gửi Rôma (1,22-24).
Cả ba khuynh hướng vừa kể trên đây đều sẽ có ảnh hưởng đến các nhà thần học Kitô giáo khi bàn đến các tôn giáo. Dĩ nhiên là họ không thể chấp nhận khuynh hướng hòa đồng tôn giáo, theo nghĩa là bụt nào cũng thiêng như nhau. Khuynh hướng thứ hai gây được nhiều thiện cảm hơn cả: các nền triết học được đánh giá như ánh sáng của Thiên Chúa thu hút con người tìm về Chân, Thiện, Mỹ. Khuynh hướng thứ ba có khi được coi như đồng minh của Kitô giáo khi nó giúp cho việc thanh luyện lòng đạo, nhưng có khi nó đưa tới việc bài trừ hết mọi tôn giáo, bị ghép chung vào hạng thuốc phiện mê dân.
- CÁC GIÁO PHỤ
Cả ba thái độ vừa nói đều có ảnh hưởng đến quan điểm của các nhà tư tưởng Kitô giáo trong những thế kỷ đầu tiên. Chúng ta biết rằng Kitô giáo không thành hình từ con số không. Đức Giêsu đã xuất thân và trưởng thành trong khung cảnh của Do thái giáo. Các môn đệ đầu tiên cũng xuất thân từ môi trường này. Mối tương quan đầu tiên được đặt lên chính là sự đồng nhất và khác biệt giữa đạo Kitô và đạo Do thái. Dù sao, các kitô hữu đầu tiên đã chịu ảnh hưởng của đạo Do thái trong khi phán đoán về giá trị của các tôn giáo khác. Các ngôn sứ đã không ngừng cảnh cáo dân Israel đừng chạy theo các ngẫu tượng: việc thờ lạy ngẫu tượng không những là dấu hiệu bất trung đối với Thiên Chúa mà còn đưa đến việc du nhập các phong tục đồi trụy khác. Đức Giêsu còn đi xa hơn nữa, khi mà Ngài đã chỉ trích cả các tập tục thánh thiêng của đạo Do thái (như: các luật lệ về ngày Sabat), khi mà việc cúng tế không đi kèm theo tình thương bác ái đích thực. Đàng khác, nhiều khi Ngài cũng ca ngợi lòng tin của những người ngoại (người Samari, người Cana), bởi vì lắm lần họ thi hành luật của Thiên Chúa cách nghiêm túc hơn là dân Do thái. Chúng ta cũng bắt đầu tìm hiểu quan điểm của các nhà tư tưởng Kitô giáo kể từ thời các giáo phụ.
Thời các giáo phụ kéo dài hơn kém 7 thế kỷ. Trong thời gian này, thế đứng của Kitô giáo trong đế quốc Rôma đã thay đổi rất nhiều. Khi mới xuất hiện, Kitô giáo là một nhóm ly khai của Do thái giáo và bị Đế quốc Rôma bách hại. Từ thế kỷ thứ 4, Kitô giáo không những được quyền tự do hành đạo mà còn trở thành quốc giáo, lấn át các tôn giáo cổ truyền[1]. Nhưng chẳng bao lâu, lãnh thổ của Đế quốc Rôma bị quân man di xâm chiếm (Năm 402, Alaricô dẫn đoàn quân Visigôt tràn vào mạn Báwc Italia và nhập vào Rôma năm 410. Năm 406, các đoàn quân Alaman, Burgunđi, Franchi, Vanđali, Svevi chiếm miền Gaule và bán đảo Tây Ban Nha). Đạo quân này mang theo các tôn giáo cổ truyền của mình. Kitô giáo tính chuyện cải hoán họ. Vào cuối thời các giáo phụ, Hồi giáo xuất hiện, chiếm dần vùng thánh địa và lãnh thổ của các giáo đoàn phồn thịnh nhất tại Bắc phi và Trung đông. Bối cảnh lịch sử đã chi phối rất nhiều mối quan hệ giữa Kitô giáo với các tôn giáo. Chúng ta cùng bàn đến bốn vấn đề:
* Sự xuất hiện của Kitô giáo trong dòng lịch sử nhân loại
* Nguồn gốc các tôn giáo
* Hòa đồng tôn giáo
* Truyền giáo cho dân man di
- Kitô giáo trong dòng lịch sử nhân loại
Các nhà hộ giáo đã phải đương đầu với một vấn nạn nan giải: làm sao Kitô giáo dám xưng mình là đạo thật mà mãi tới bây giờ mới xuất hiện? Nếu là đạo thật thì phải ra đời ngay từ thuở tạo thiên lập địa chứ?
Thánh Giustinô (tk.2) đã trả lời rằng: tuy đức Kitô mới ra đời, nhưng mà xét như là Ngôi Lời (hay Lý tính: Logos), thì Ngài đã hiện hữu ngay từ lúc vũ trụ khai sinh, và đã tác động trong thế giới. Ngài là chân lý chiếu sáng hết mọi người. Phàm ai sống theo chân lý thì đều mang mầm mống của Ngôi Lời (Logos spermatikos). Ta có thể nhận thấy dấu vết của Ngôi Lời nơi các nhà hiền triết, các đạo lý. Đức Kitô đến để mặc khải chân lý sung mãn (Apologiae, viết khoảng năm 150-160). Tuy biện hộ cho Kitô giáo, nhưng cách gián tiếp, thánh Giustinô cũng nhìn nhận có những yếu tố chân chính và tốt lành nơi các triết thuyết và các tôn giáo. Thánh Irênêo (cuối tk.2) cũng nói tới tác động của Ngôi Lời trong khắp vũ trụ; đồng thời tác giả nhấn mạnh rằng đức Kitô đã mang đến một mặc khải mới, vượt xa các tác động trước đây của Logos (Adversus haereses). Ông Tertulianô (k.150-k.230) đề cao tác động của Chân lý (Lẽ phải) ở nơi lương tâm của con người.
Như vậy, khi trình bày vị trí của kitô giáo trong lịch sử của loài người, các nhà hộ giáo phải đụng tới vấn đề nguồn gốc của các tôn giáo khác trên hoàn cầu. Tuy nhiên, quan điểm của các giáo phụ không đồng nhất.
- Nguồn gốc các tôn giáo
Bàn về nguồn gốc các tôn giáo, chúng ta thấy ít là có tới 4 giả thuyết khác nhau.
1/. Các tôn giáo là con đẻ của ma quỷ
Giả thuyết này dựa trên đoạn văn của thánh vịnh 95,5 theo bản dịch Vulgata: “omnes dii gentium daemonia” (các thần linh của chư dân là ma quỷ). Vì ghen tương, ma quỷ đã tạo ra các thần linh ngẫu tượng, để lường gạt con người, xúi con người thờ lạy hắ mà mất phần rỗi (Giustinô, Taxianô, Atênagôra, Minutius Felix, Cyprianô). Ngoài ra, không thiếu các giáo phụ giải thích nguồn gốc các thần linh dựa theo thuyết của ông Êvêmêrô, nghĩa là các thần linh do tay con người tạo ra.
2/. Các tôn giáo khác đã bắt chước đạo Do thái
Nguồn gốc của thuyết này là chính các người Do thái thuộc trường phái Alexanđria. Theo họ, các nhà hiền triết và các vị sáng lập tôn giáo đã chép lại giáo lý của ông Môsê và các tiên tri. Các nhà hộ giáo như Tertullianô đã lấy lại thuyết đó.
3/. Đường lối sư phạm của Thiên Chúa
Dựa theo thư thánh Phaolô gửi Rôma, một tác giả vô danh của lá thư gửi Điônhêta (k.130-180) cho rằng Thiên Chúa đã để cho con người bị rơi vào vòng mê hoặc ngõ hầu cảm thấy sự cần thiết của ơn cứu rỗi. Tuy nhiên, dần dần các tác giả khác đã trình bày học thuyết một cách tích cực hơn, theo chiều hướng của sự mặc khải tiệm tiến. Thiên Chúa đã chuẩn bị cho con người đón nhận chân lý theo kiểu nhà mô phạm: từ những chân lý đơn giản đến những chân lý cao siêu. Nói cách khác, các tôn giáo chứa đựng những mầm mống chân lý, nhằm hướng tới chân lý viên mãn là đức Kitô. Chúng ta có thể thấy quan điểm này nơi Irênêô, Grêgôriô Nazianzênô, Eusêbiô.
4/. Bản tính hướng thiện của con người
Trong thư gửi Rôma (1,18; 2,17), thánh Phaolô đã viết rằng lý trí con người có thể nhận biết Thiên Chúa. Cựu ước đã nói đến tư tưởng này ở sách Khôn ngoan (13,1-5). Ngoài ra trường phái Stoa của Hy lạp cũng đã nói tới “những ý niệm chung” của toànthể nhân loại. Hết mọi người đều mang trong mình khả năng tìm được chân lý. Từ những tiền đề vừa nói, ông Tertullianô đi tới kết luận rằng tinh thần của con người có thể biết được Thiên Chúa, như là Đấng Tối cao, Tạo hóa, Thượng đế (Apologeticum). Nói khác đi, tuy các tôn giáo mang nhiều hình thức khác nhau, nhưng chúng bắt nguồn từ bản tính của con người tìm về chân lý. Vì thế, nếu ai sống trung thực với lương tâm của mình thì có thể coi như là kitô hữu (xc. Giustinô, I Apol. 46,2-4; Eusêbiô, Hist. Eccl. I,1,4). Mặt khác, hành trình hướng về chân lý không phải chỉ là nỗ lực của con người mà thôi. Ông Clêmentê Alexanđria nghĩ rằng Thiên Chúa quan phòng cũng mặc khải cho dân ngoại nhờ những tia sáng chân lý, chuẩn bị cho họ đón nhận Tin mừng (praeparatio evangelica: Stromata, I, c.5).
Tuy nhiên, cần thú nhận rằng chỉ có một số ít giáo phụ chấp nhận quan điểm này. Thực ra lý do không có gì khó hiểu. Các nhà hộ giáo cố gắng chứng minh rằng duy chỉ có một đạo thật là Kitô giáo. Vì thế mà khó lòng nhận thấy các chân lý ở nơi các tôn giáo khác. Ngoài ra, các giáo phụ phải đương đầu với một nguy cơ không nhỏ đối với đức tin, đó là khuynh hướng hòa đồng tôn giáo.
- Hòa đồng tôn giáo
Người ta thường nghĩ rằng từ thời Hoàng đế Constantinô trở đi, Kitô giáo đã nắm giữ địa vị độc tôn trong Đế quốc, và trở thành quốc giáo. Sự thực thì không đơn giản như vậy. Các tôn giáo cổ truyền không thể nào tàn lụi một sớm một chiều, sau khi ban hành một văn kiện pháp lý. Nhiều người chỉ trở lại Kitô giáo để được yên thân, chứ thực tình họ vẫn tiếp tục thực hành các tôn giáo cổ truyền. Mặt khác, đôi khi các hoàng đế Rôma (chẳng hạn như Aurêliô, Giulianô) cũng cổ võ việc trở về với các tôn giáo cổ truyền. Đó là chưa nói đến các khuynh hướng tổng hợp, kết nạp các yếu tố của các tôn giáo cổ truyền với Kitô giáo. Dĩ nhiên, dưới khía cạnh mục vụ, các giám mục phải áp dụng những biện pháp nghiêm khắc, hầu duy trì đời sống đức tin nguyên tuyền, bài trừ những tục lệ mê tín dị đoan. Đồng thời, cũng có những học giả nghiên cứu đối chiếu giữa các tôn giáo, tìm ra những mối tương quan. Chúng ta có thể thấy một thí dụ điển hình nơi ông Origène trong cuộc tranh luận với ông Celsus (Contra Celsum). Triết gia Celsus chỉ trích quan điểm độc tôn của Kitô giáo bằng cách nêu bật rằng Kitô giáo cũng có nhiều nghi lễ giống như các tôn giáo khác. Ông Origène trả lời rằng khi đối chiếu các tôn giáo với nhau, ta không nên chỉ dừng lại ở các hình thức bên ngoài nhưng cần phải đi sâu vào động lực của chúng nữa. Chẳng hạn như có người tránh việc ngoại tình vì thấy nó nghịch với công bằng (thuyết Stoa), có người tránh ngoại tình vì thấy không lợi lộc gì (phái Epicuriô), có người tránh ngoại tình vì sợ bị trừng phạt. Một cách tương tự như vậy, có người kiêng thịt vì tin vào thuyết luân hồi, người khác kiêng thịt vì tin vào cuộc sống vĩnh cửu. Luận cứ này cũng được thánh Augustinô sử dụng (Kitô giáo cũng tôn kính các thiên thần, nhưng họ chỉ là các thụ tạo; còn các tôn giáo thì kính các thiên thần như là thần linh).
- Tôn giáo của dân man di
Đối với dân man di, Giáo Hội một đàng cố gắng rao giảng Phúc âm cho ho[2], đàng khác cũng chấp nhận cho họ giữ duy trì những tập tục lề nghi cổ truyền. Đặc biệt là có những học giả nghiên cứu tìm hiểu các tôn giáo của họ, chẳng hạn như Grêgoriô de Tours (538-594) để lại lịch sử các phong tục Franc (Historia Francorum), Bêđa với lích sử của dân Anglô (Historia ecclesiastica gentis Anglorum).
Dù sao, thách đố lớn nhất là sự xuất hiện của Hồi giáo. Đây là tôn giáo mà Giáo hội thời Trung cổ phải đương đầu dưới nhiều mặt.
III. THỜI TRUNG CỔ VÀ PHỤC HƯNG
Biến cố gây xáo động nhất cho các Kitô hữu vào thời Trung cổ là sự xuất hiện của Hồi giáo. Vị sáng lập của tôn giáo này, ông Mohammet (570-632), không phải chỉ là một ngôn sứ giảng dạy một đạo lý mới mà còn là nhà lãnh đạo của một cuộc chinh phục quân sự. Lần lượt các vùng Trung đông và Tiểu Á (cái nôi của Kitô giáo), Bắc Phi, và miền Nam Âu châu đã bị đặt dưới quyền cai trị của các nhà lãnh đạo Hồi giáo, không những về mặt tôn giáo mà cả về mặt chính trị nữa[3]. Ngoài ra, chúng ta cũng đừng nên quên sự bành trướng của tôn giáo này sang Á châu, đến mãi tận miền Đông Nam Thái bình dương.
Các tín hữu Kitô giáo đã đương đầu với Hồi giáo trên nhiều bình diện khác nhau: quân sự, tín ngưỡng, truyền giáo, cũng như văn hóa và tư tưởng.
- Dĩ nhiên, sự đối kháng khá tự nhiên là giải pháp quân sự, nhằm xua đuổi quân xâm lăng Hồi giáo. Từ đó ta thấy có những chiến dịch thập tự quân nhằm giải phóng thánh địa Giêrusalem (1096-1291, ít là để bảo đảm sự tự do cho các tín hữu đi hành hương), cũng như các cuộc nổi dậy bên Tây Ban Nha. Tại đây, cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ năm 1063 và chấm dứt vào năm 1492, khi mà tất cả các tín đồ Hồi giáo và Do thái bị trục xuất hoàn toàn khỏi bán đảo này. Thực ra, cũng như bao nhiêu cuộc thánh chiến khác, không phải tất cả những ai tham gia đều là những người thánh hoặc là do động lực thánh thiêng thúc đẩy! Những tham vọng chính trị, kinh tế cũng có phần trong đó. Điều đáng tiếc nữa là trước đây, đã có những giáo đoàn Kitô bên Trung đông đã mở cửa chào đón đoàn quân Hồi giáo như là nhà giải phóng họ khỏi chế độ hà khắc của triều đình Constantinôpôli. Một cách tương tự như vậy, có lần đoàn quân Thập tự latinh thay vì sang giải phóng thánh địa Giêrusalem thì lại quay sang đánh phá kinh thành Constantinôpôli, biểu tượng của ly giáo Đông phương! Cuộc đối kháng quân sự quả đã để lại khá nhiều vết đen trong lịch sử!
- May thay, đường lối quân sự không phải là giải pháp duy nhất. Nhiều nhà tư tưởng Kitô giáo bắt đầu suy tư ý nghĩa của việc xuất hiện của Hồi giáo trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Đối với thánh Bonifaxiô, Mahomét chính là cái roi mà Chúa dùng để trừng phạt tội lỗi của các kitô hữu. Một vài nhà giảng thuyết còn đi xa hơn nữa, khi coi Mahomét như là điềm báo của tận thế: ông ta là Quỷ vương (Phản Kitô)mà sách Khải huyền nói tới (xc. Paulô Alvarô Corđôba đã sửa lại năm qua đời của Mahomét là 666 cho hợp với sách Khải huyền).Ngoài ra, cũng cần thêm rằng nhiều nhà thần học thời đó coi Mahomét là một người lạc đạo, bởi vì ông ta không nhìn nhận thiên tính của đức Kitô (thí dụ: Raymundo Lull). Dĩ nhiên, khi tham khảo luân lý học của Hồi giáo, người ta lại càng có dịp vạch ra nhiều điểm vô luân hơn nữa!
- Thái độ thứ ba mang tính cách tích cực hơn. Sự xuất hiện của Hồi giáo là cơ hội để thức tỉnh sứ mạng truyền giáo của Giáo hội. Trước đó, người ta tưởng rằng muôn dân thiên hạ đã được nghe giảng Tin mừng rồi; bây giờ mới bật ngửa là còn có biết bao nhiêu người sống ngoài biên cương của Âu châu vẫn còn chưa biết Chúa Cứu thế. Thánh Phanxicô Assisi chủ trương đi gặp các tướng lãnh Hồi giáo để giảng đạo cho họ, và sẵn sàng tử đạo để làm chứng cho đức tin. Các con cái của thánh Phanxicô và Đaminh đã tiếp tục chương trình truyền giáo sang Trung đông, Á châu, không những nhắm tới người Hồi giáo mà cả tới người Mông cổ nữa.
- Bình diện thứ bốn của cuộc gặp gỡ là lãnh vực văn hóa. Phải nhìn nhận rằng chính nhờ người Arập mà tư tưởng của Aristôte được truyền bá sang Âu châu, gây ra một cuộc cách mạng triết học và thần học tại đây. Đề tài chính của các đại học Âu châu thời đó là mối liên hệ giữa đức tin và lý trí, nghĩa là giữa vũ trụ quan và nhân sinh quan dựa theo mặc khải Kinh thánh với vũ trụ quan và nhân sinh quan dựa theo Aristot, Averroes. Có thể coi đây như là ảnh hưởng gián tiếp của Hồi giáo. Đối lại, đó đây cũng có những học giả Kitô giáo bắt đầu nghiên cứu và dịch thuật các tác phẩm của Hồi giáo từ Ả rập sang tiếng latinh. Nhiều trường dạy tiếng Ả rập đã được mở ra nhằm huấn luyện các nhà truyền giáo tương lai.
Tuy Hồi giáo là mối bận tâm chính yếu của Giáo hội thời Trung cổ, nhưng thần học không chỉ dừng lại ở tôn giáo này mà thôi. Trong các thiên bàn về đức tin hoặc về ơn cứu rỗi, các nhà thần học đề cập đến các người Do thái, các người lạc đạo lẫn các người không bao giờ nghe giảng danh thánh Chúa Kitô. Một giả thuyết thường gặp thấy nơi các nhà thần học thời này là: nếu ai suốt đời ăn ngay ở lành, thì Chúa sẽ sai thiên thần đến rửa tội cho họ, ngõ hầu họ được cứu rỗi. Ngày nay, chúng ta thấy giả thuyết đó thừa thãi; tuy nhiên, nó cũng đã mở cửa cho phép những người sống ngoài Hội thánh cũng được Chúa ban ơn cứu rỗi. Hơn thế nữa, thần học Trung cổ cũng xác tín rằng con người nhờ lý trí và lương tâm có thể nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa và lựa chọn điều ngay lành.
Vào cuối thời Trung cổ, trong lãnh vực nghiên cứu các tôn giáo chúng ta thấy xuất hiện khuynh hướng “hài hòa” (concordisme), điển hình nơi hồng y Nicôla Cusa (1401-1461). Trong tác phẩm De pace fidei (1451), tác giả cho rằng các tôn giáo đều là hình bóng biểu tượng: cho dù khác biệt nhau nhưng tất cả đều diễn tả cùng một chân lý như nhau. Theo ông, các tôn giáo là phản ánh của một chân lý duy nhất là Thiên Chúa. Vì thế tất cả các tôn giáo trên thế giới đều có thể xếp ngang hàng với nhau. Ông ta ước mong tất cả các tôn giáo tìm thấy sự hài hòa dưới chân của Ngôi Lời nhập thể.
Đúng ra, thay vì kết thúc thời Trung cổ, Nicôla Cusa mở màn cho một thời mới bên Âu châu, mang danh là Phục hưng (tái sinh: Rinascimento, Renaissance), nghĩa là phục hồi lại văn chương cổ điển Hy-La. Các tác phẩm triết học và văn chương cổ điển, xưa nay vốn bị chôn vùi ở dưới những pho sách Kinh thánh, giáo phụ, nay được mang ra ánh sáng. Nhờ đó, người ta biết được các tín ngưỡng tiền Kitô giáo, cộng thêm với các ký thuật về tín ngưỡng bên Á châu mà các nhà thám hiểm và thương gia mang về. Sự hiểu biết về các tôn giáo hoàn cầu sớm muộn gì cũng đặt ra vấn đề tương quan với Kitô giáo. Bên cạnh những quan điểm cổ truyền về đạo Kitô như là chân giáo duy nhất, ông Êrasmô (k.1466-1536) đề ra một thuyết khác, tuy không hẳn là hoàn toàn mới lạ. Theo ông, tất cả các tôn giáo đều tốt bởi vì chúng đều đưa con người về với Thượng đế: Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, mang nhiều danh hiệu khác nhau: Jupiter, thần Thái dương, Apollo, Mosê, Kitô, v.v…. Các tôn giáo đều bình đẳng với nhau, bởi vì đều chứa đựng một căn bản chung. Trong tác phẩm “Đàm thoại tôn giáo” (Colloquia, seu Convivium religiosum), ông ta đã phong thánh cho triết gia Socrate, hôn kính các tác phẩm của văn hào Cicêrô, các thi sĩ Virgiliô, Hômêro., bởi vì ông cho rằng tất cả các tác phẩm bất hủ của nhân loại đều được Chúa linh ứng.
Có lẽ thái độ quá cởi mở của ông Erasmô và của nhóm nhân bản đã gây ra phản ứng đối nghịch của ông Lutêrô. Ông Erasmô càng đề cao giá trị của tự do con người (De libero arbitrio), thì ông Lutêrô càng hạ thấp tự do của con người (De servo arbitrio). Ý chí của con người đã mất tự do, nó không có sức để kháng cự tội lỗi và làm điều lành. Do đó, con người tự sức mình không thể nào đạt tới sự cứu rỗi cả. Con người chỉ có thể được cứu rỗi nhờ đức tin, đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa ban cho nhờ thập giá của đức Kitô.
Ông Lutêrô dựa học thuyết của mình trên giáo huấn của thánh Phaolô: con người được cứu rỗi nhờ hồng ân của Thiên Chúa chứ không phải nhờ công trạng của mình. Tuy nhiên, Lutêrô nhấn mạnh một chiều về hồng ân của Thiên Chúa đến nỗi không còn đếm xỉa gì đến sự cộng tác của con người. Dĩ nhiên, đây chỉ là một vấn đề thần học ở trong nội bộ của Hội thánh, nhưng nó cũng có ảnh hưởng tới các tôn giáo khác. Thực vậy, Lutêrô nhấn mạnh rằng con người chỉ được cứu rỗi nhờ đón nhận hồng ân của Thiên Chúa ban nơi đức Kitô. Vì vậy các việc lành, các cuộc phụng tự không có giá trị gì hết đối với việc cứu rỗi. Từ đó, các nhà thần học thuộc nhóm Luthêrô đã có thái độ phê phán nghiêm khắc đối với các tôn giáo: tất cả các tôn giáo đều bị kết án là tà đạo, bởi vì họ cố gắng tìm cách cứu rỗi bằng việc lành phúc đức, nhờ sự nỗ lực cố gắng của mình.
Phong trào cải cách Tin lành đã gây ra những thay đổi không nhỏ trong quan điểm thần học về các tôn giáo. Ngoài hậu quả do đạo lý cứu rỗi nhờ đức tin như vừa nói, trong những cuộc tranh luận giữa Công giáo và Tin lành, đôi lúc người ta có cảm tưởng là hai bên thuộc về hai tôn giáo khác nhau. Cuộc chiến tranh giữa Công giáo và Tin lành diễn ra tại Pháp và Đức được mệnh danh là “chiến tranh giữa các tôn giáo” (guerre des religions)! Sự xung đột về tư tưởng và binh bị trong nội bộ Kitô giáo đã giảm bớt sự chú ý đến các tôn giáo khác.
Một sự thay đổi nữa mà các nhà thần học Tin lành không ngờ là khi đề cao địa vị tối thượng của Kinh thánh và đức tin, họ đã đặt lương tâm con người đối diện với Thiên Chúa, chứ không qua trung gian của Hội thánh. Trong tương lai, nhiều luồng tư tưởng xuất phát từ Tin lành sẽ coi lương tâm như là yếu tố then chốt khi bàn về giá trị tôn giáo.
- THỜI CẬN ĐẠI (Tk 17-19)
Đây là thời đại mà Âu châu mở rộng giao lưu với các đại lục khác, cũng như thời của những cuộc cách mạnh tư tưởng, chính trị, tôn giáo xảy ra tại Âu châu.
- Kỷ nguyên khám phá những lục địa mới
Từ thế kỷ 15, nhiều nhà thám hiểm và thương gia của Âu châu đã đặt chân lên Phi châu, Á châu, Mỹ châu. Các nhà truyền giáo cũng đi theo họ. Cuộc giao lưu này đã để lại nhiều dấu vết trong quan điểm thần học về các tôn giáo.
- Ảnh hưởng trực tiếp hơn cả đối với giới trí thức Âu châu là họ nhận được rất nhiều thiên ký sự thuật lại nếp sống, phong tục và tín ngưỡng của nhiều sắc dân trên hoàn cầu. Ảnh hưởng gián tiếp đối với các nhà thần học là vấn đề phần rỗi của dân ngoại. Trước đây, người ta tưởng rằng Tin mừng đã vang tới tận cùng trái đất rồi; thánh Phaolô đã chẳng khẳng định như vậy trong thư gửi Rôma (10,18) đó sao? Vì thế ai mà không chịu trở lại đạo thì bị kết án là cứng lòng tin (infidelis, infidèles). Bây giờ mới bật ngửa rằng còn có bao nhiều vùng đất bao la chưa bao giờ được nghe giảng Tin mừng; như vậy thì đâu có thể buộc tội cho họ là cứng lòng tin (bội tín)được? Vấn đề ơn cứu rỗi của những người ở ngoài Hội thánh cần phải được xét lại. Có tác giả đồng hóa số phận các người ăn ngay ở lành trong các tôn giáo với các nhi đồng chết trước khi được rửa tội, nghĩa là họ sẽ xuống lâm bô, chỉ hưởng hạnh phúc tự nhiên chứ không được hưởng kiến nhan Chúa (xc. Billot). Có người trở lại với đạo lý cổ truyền về đức tin ám tàng (fides implicita) hoặc rửa tội theo lòng ao ước (baptismus in voto). Tuy nhiên, đó là nói đến phần rỗi của người ngoại xét như là cá thể chứ không xét như là phần tử của tôn giáo.
- Một cách tích cực hơn, một số nhà thần học đã nghiên cứu các tôn giáo của Á châu và Mỹ châu (đặc biệt là các sách thánh của các tôn giáo), và họ đã nêu lên thắc mắc chung quanh nguồn gốc của các tôn giáo ấy cũng như tìm cách giải thích lý do của những điểm tương đồng với đạo lý Kitô giáo. Sau đây là một vài câu trả lời điển hình.
– Các tôn giáo bên Mỹ châu bắt nguồn từ mặc khải cho ông Môsê: Hugo Grotius (1583-1645), Philips van Montmoreney (1518-1568), Theophile Spilezius.
– Các tôn giáo bắt nguồn từ mặc khải Chúa ban cho loài người vào hồi tạo dựng (révélation primitive): chẳng hạn như cha Joseph Francois Lafitau sj (1685-1740), thừa sai bên Canada (Moeurs des sauvages ameriquains comparées aux moeurs des premiers temps, Paris 1724).
– Các tôn giáo Á châu đã thu hút sự lưu tâm đặc biệt của các học giả Âu châu. Các nhà thừa sai Dòng tên đã lo việc dịch thuật và giới thiệu các sách Veda của Ấn độ và các bộ kinh điển Trung hoa sang tiếng Latinh và tiếng Pháp. Dưới khía cạnh thần học, không thiếu tác giả đã cho rằng các sách đó cũng được linh ứng, và ví được như là hình bóng (figura) của mặc khải Kitô giáo[4] . Dựa trên giả thuyết đó, họ đối chiếu các tư tưởng của kinh điển Trung hoa với Kinh thánh Kitô giáo, hoặc đối chiếu giữa những tục lệ phụng tự của đôi bên, nhằm vạch ra những điểm tương đồng mà họ cho là hình bóng chuẩn bị cho mặc khải Kitô giáo.
Tuy nhiên, cũng cần thêm rằng nhóm học giả vừa nói chỉ là thiểu số. Nói chung các nhà thần học nhìn nhận rằng Thiên Chúa đã ban cho nhân loại khả năng để nhận biết sự hiện hữu của Ngài. Mặt khác, các nhà truyền giáo cũng vạch ra nhiều điểm bất toàn nơi các tôn giáo khác, không những về tín lý mà cả về luân lý nữa. Vì thế không lạ gì mà thánh Phanxicô Xavie đã triệt hạ các tượng thần đình chùa, bởi vì coi đó là nơi thờ phượng bụt thần ma quỷ. Cần thêm rằng thái độ của Phanxicô Xavie là luật chung chứ không phải là ngoại lệ! Cuộc tranh luận về các lễ nghi cúng tế tổ tiên bên Trung Hoa không có ảnh hưởng gì đến đương lối truyền giáo trong thực hành.
- Tôn giáo của lý trí
Quan điểm thần học về các tôn giáo không phải chỉ bị ảnh hưởng do những cuộc khám phá các lục địa Mỹ châu, Á châu và Phi châu cùng với các phong tục và tín ngưỡng của họ. Tại Âu châu, vai trò độc tôn của Kitô giáo đã bị suy giảm từ Phong trào phục hưng và cuộc cải cách Tin lành. Phong trào Phục hưng đã làm sống lại các nền triết học và văn hóa cổ thời của Hy lạp, cho thấy rằng lý trí của con người có khả năng khám phá ra chân, thiện mỹ, mà không cần dựa vào mặc khải Kinh thánh. Cuộc Cải cách Tin lành đã giải thoát lương tâm con người khỏi quyền bính của Giáo hội, dọn đường cho sự tách rời thế quyền khỏi giáo quyền. Có thể coi đó là như là tiền đề cho phong trào duy lý tại Âu châu vào những thế kỷ 17-19, với những hệ quả trong lãnh vực triết lý, tôn giáo và chính trị. Ở đây, chúng tôi không muốn đi vào khía cạnh chính trị, mà đặc trưng là chủ trương tách rời giữa chính quyền và thế quyền, tuy rằng trên thực tế hai bên không ngừng tìm cách chèn ép nhau.
Xét về mặt triết lý và tôn giáo, chúng ta thấy một tiêu chuẩn mới được đề ra để đánh giá các tôn giáo. Trước đây, Kitô giáo được coi là chính đạo; dựa theo quy chuẩn đó, các tôn giáo khác sẽ được phê phán là đúng hay sai. Sang đến thời duy lý, tiêu chuẩn để đánh giá các tôn giáo sẽ là chúng có hợp với lý trí hay không. Dần dần, người ta sẽ gán cho lý trí vai trò sáng tạo ra tôn giáo. Thiết tưởng cũng cần thêm rằng đây không phải là sản phẩm của những đầu óc ngông cuồng đâu. Lắm lần, những học thuyết này ra đời nhằm bảo đảm một chế độ hòa đồng tôn giáo, chống lại những cuộc chiến tranh tôn giáo gây ra cảnh huynh đệ tương tàn!
Bên Anh quốc, Lord Edward Herbert of Cherbury (1581-1648) đã mở đầu cho tôn giáo tự nhiên với bản tuyên ngôn năm 1624 (De Veritate). Theo ông, bẩm tính con người đã mang theo 5 chân lý căn bản sau đây:
* Sự hiện hữu của Thiên Chúa.
* Sự cần thiết phải tôn thờ Thiên Chúa.
* Việc tôn thờ Thiên Chúa chân chính hệ tại đời sống liêm chính đạo đức.
* Sau khi đã phạm lỗi cần phải sám hối.
* Có sự thưởng phạt đời sau.
Đó là các chân lý căn bản gặp thấy trong hết mọi tôn giáo; đó là các chân lý cốt yếu, còn các tín điều khác chỉ là phụ thuộc.
Theo đường hướng đó, các triết gia Thomas Hobbes, John Locke, David Hume bên Anh; Francois Voltaire, Jean Jacques Rousseau bên Pháp sẽ nghĩ tới việc sáng chế ra một tôn giáo tự nhiên, hợp với lý trí. Tôn giáo đó không có tín điều, không có mặc khải, mà chỉ có những quy tắc luân lý sơ đẳng về việc làm lành lánh dữ. Đó là tôn giáo của con người vào lúc khởi thủy, hợp với thiên nhiên. Các thứ mặc khải là do con người đã thêm vào sau.
Sang tới Đức, Christian Wolff (1679-1754), Gotthold Lessing (1729-81) giao cho lý trí vai trò phê phán đạo nào đúng đạo nào sai. Theo Emmanuel Kant (1724-1804), lý trí không thể nào chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa. Vấn đề hiện hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn chỉ là những thỉnh đề của luật luân lý. Như vậy là Kant đã đảo lộn thứ tự của mối liên hệ giữa Thiên Chúa với luân lý. Trước đây, người ta cho rằng Thiên Chúa ấn định luật luân lý; bây giờ thì phải nói là luật luân lý giả thiết cần có Thiên Chúa. Nói cách khác, luân lý sinh ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo sinh ra luân lý.
Từ Kant trở đi, Thiên Chúa không còn nằm trong tầm nghiên cứu của lý trí nữa. Vấn đề tôn giáo được chuyển sang lãnh vực tâm linh hay siêu hình, như ta thấy nơi các triết gia Lessing, Schleiermacher, Hegel. Nguy cơ là Thiên Chúa sẽ chỉ còn là một ý niệm trừu tượng, do con người sáng tạo theo sự tiến hóa của tư tưởng.
Đối với thần học Kitô giáo, chủ trương của phái duy lý mang lại nguy cơ là hạ giá toànthể các chân lý mặc khải: hoặc chúng bị coi là vô giá trị bởi vì không thể dùng lý trí để chứng minh; hoặc chúng bị coi như sản phẩm của tiến hóa lịch sử. Vì thế không lạ gì mà các nỗ lực hộ giáo đã phải dồn vào để đối phó với thuyết duy lý, chống lại với một thứ tôn giáo tự nhiên. Việc suy tư về các tôn giáo lịch sử đã bị lãng quên. Thần học về các tôn giáo ra như bị thu gọn vào vấn đề tương quan giữa đức tin và lý trí, giữa mặc khải và tự nhiên. Đó là chưa nói tới sự khác biệt quan điểm giữa Công giáo và Tin lành về việc truyền giáo và ơn cứu rỗi!
Mặt khác, khi nói đến việc nghiên cứu các tôn giáo trên hoàn cầu vào giai đoạn này, thiết tưởng không nên bỏ qua việc nghiên cứu chính Kitô giáo. Bên cạnh các phương pháp thuần lý cổ điển, người ta bắt đầu du nhập các phương pháp phê bình các bản văn Kinh thánh, lịch sử Giáo hội. Việc áp dụng phương pháp sử học cận đại giúp cho các tín hữu hiểu rõ hơn về tôn giáo của mình. Đúng ra những kết quả chỉ thấy được ở thế kỷ 20.
- SỰ XUẤT HIỆN CỦA CÁC KHOA HỌC VỀ TÔN GIÁO (Tk. 20)
Khi giao tiếp với người khác, thái độ của ta tùy thuộc khá nhiều về sự hiểu biết về người đó: đành rằng đã “vô tri” thì tất nhiên cũng “bất mộ”; thêm vào đó lại còn biết bao nhiêu thành kiến tăng thêm khó khăn cho việc tiếp xúc! Nhận xét này không những chỉ áp dụng cho những mối quan hệ giữa cá nhân với nhau mà cả giữa các cộng đoàn nữa. Như đã có lần lưu ý, rất ít khi các tín đồ chịu khó tìm hiểu đạo lý của một tôn giáo khác: bởi vì hoặc là họ nghĩa rằng đạo nào cũng tốt như nhau, hoặc là tại họ nghĩ rằng chỉ có đạo của mình là đúng còn các đạo khác là sai hết. Tiếc rằng trong lịch sử, các nhà thần học không thoát ra khỏi định luật đó: họ không bận tâm đến việc tìm hiểu các tôn giáo khác bởi vì họ thâm tín rằng mình đã nắm chắc chính đạo rồi. Việc nghiên cứu các tôn giáo khác sẽ đưa đến nguy cơ lung lạc đức tin là đàng khác!
Lịch sử của quan điểm Kitô giáo đối với các tôn giáo có nhiều tiếntriển. Chúng ta cùng đề cập đến sự tiến triển của các bộ môn nghiên cứu tôn giáo trong hai thế kỷ 19 và 20, thời đại chúng ta đang sống.
Xưa nay, tôn giáo vốn là một lãnh vực chuyên môn của các nhà thần học và triết học. Với sự tiến triển của các khoa học thực nghiệm và nhân văn, tôn giáo đã trở thành đối tượng nghiên cứu của các khoa sử học, nhân chủng, xã hội, tâm lý, ngữ học,v.v…. Sự hiểu biết về tôn giáo trở nên rộng rãi hơn. Nhưng mặt trái của huy chương là việc nghiên cứu tôn giáo trở thành mênh mông khôn cùng, khiến cho kiến thức của ta về các tôn giáo càng ngày càng bị thu hẹp lại: không ai dám tự hào là đầu óc của mình đã chứa được bộ bách khoa từ điển về tôn giáo!
Trong số các bộ môn khoa học cố cựu nhất để nghiên cứu các tôn giáo, chắc hẳn khoa lịch sử các tôn giáo phải được xếp hàng đầu. Dù vậy, trong những thế kỷ gần đây, khoa này đã canh tân rất nhiều về phương pháp. Viết lịch sử của một tôn giáo không phải chỉ là thu thập hết tất cả truyền kỳ về tôn giáo đó, nhưng còn phải phân tích và phê bình tín lực của các nguồn sử liệu nữa. Chúng ta có thể thấy một thí dụ ngay trong việc nghiên cứu lịch sử Kitô giáo. Người ta cố gắng truy tầm các nguồn tư liệu nguyên thủy, phân biệt các tài liệu đương thời ra khỏi các lưu truyền sau đó, tìm hiểu xem chính sự kiện đã diễn ra như thế nào và đã được giải thích ra sao. Trong khía cạnh này, chắc chắn là việc nghiên cứu lịch sử Kitô giáo tiến xa hơn các tôn giáo khác.
Ngoài phương pháp sử học, người ta còn áp dụng phương pháp của các khoa học thực nghiệm khác để nghiên cứu các tôn giáo. Tiếc rằng các nhà tiên phong của các bộ môn này đã sử dụng phương pháp thực nghiệm để củng cố cho những thiên kiến của mình, hơn là chăm chú theo dõi các sự kiện. Phải chờ đợi một thời gian lâu dài, các học giả mới xác định được giới hạn của các phương pháp nghiên cứu.
- Có thể coi ông Auguste Comte (1798-1857) như là cha đẻ của các khoa học thực nghiệm. Nhà khoa học thực nghiệm chỉ quan sát các hiện tượng khách quan, và cố gắng giải thích các hiện tượng theo những định luật có thể kiểm chứng được, chứ không dựa theo các nguyên tắc siêu hình hay các xác tín chủ quan. Đó là thái độ căn bản của nhà khoa học thực nghiệm vẫn còn được tuân giữ cho đến nay. Tuy nhiên, ông Auguste Comte cũng đóng vai trò triết gia khi ông phát biểu lịch sử tiến hóa của nhân loại, được phân thành ba kỷ nguyên (Système de politique positive ou Traité de sociologie instituant la religion de l’humanité, 4 voll. Paris 1851-1854). Kỷ nguyên thứ nhất được gọi là “thần học”, khi con người tìm cách giải thích các hiện tượng thiên nhiên nhờ sự can thiệp của các thần linh. Tiếp theo là kỷ nguyên “siêu hình”, khi con người giải thích các hiện tượng bằng những ý niệm siêu hình. Kỷ nguyên “thực nghiệm” sẽ cố gắng giải thích bằng các định luật thực nghiệm. Nói cách khác, tôn giáo ra đời vào giai đoạn con người còn u mê ấu trĩ, và cần phải lùi bước nhường chỗ cho khoa học. Khoa học sẽ là tín ngưỡng tương lai của con người.
- Một cách vô tình hay hữu ý, các nhà tiên phong của khoa học thực nghiệm đều muốn đối chọi giữa tôn giáo và khoa học: một bên là ấu trĩ, chủ quan; bên kia là khách quan và tiến bộ. Và họ đã sử dụng các quan sát thực nghiệm để chứng minh cho luận đề ấy. Khởi đầu là khoa nhân chủng học(Anthropologie). Người ta muốn đi ngược lại lịch sử, tìm về nguồn gốc của loài người. Dưới khía cạnh hình thể, loài người là đỉnh cao của một cuộc tiến hóa từ động vật. Dưới khía cạnh tinh thần, Thượng Đế cũng chỉ là sản phẩm của các cảm xúc con người. Các ông John Lubbock (1834-1913), Edward Burnett Taylor (1832-1903), Herbert Spencer (1820-1903) tuy đã đưa ra những giả thuyết khác nhau về nguồn gốc tôn giáo, nhưng tựu trung đều đồng ý rằng lúc khai nguyên, con người không có tín ngưỡng tôn giáo. Dần dần, vì khiếp sợ các hiện tượng thiên nhiên hay thây ma, nên họ đã phong thần cho chúng. Với đà tiến hóa của tư tưởng, những vị thần này trở thành Thượng Đế ở nơi các chủng tộc có nền văn minh cao. Để chứng minh cho định đề, các học giả đi khảo sát các bộ lạc sơ khai, được đồng hóa với thủy tổ của nhân loại.
Thế nhưng, vào đầu thế kỷ 20, Andrew Lang (1844-1912) và nhất là Wilhelm Schmidt (1868-1954) cũng đi nghiên cứu các bộ tộc sơ khai, và nhận thấy rằng những người này cũng có một ý niệm về Thượng Đế. Vì thế định đề được lật ngược lại: một dân tộc càng sơ khai bao nhiêu thì càng có ý niệm tinh tuyền về Thượng đế bấy nhiêu; bộ tộc nào càng tiến bộ về văn minh thì càng thoái hóa về ý niệm Thượng Đế.
Cần phải chờ nhiều thời gian và giấy mực bút chiến thì các học giả mới nhận thấy các khuyết điểm trong cả hai khuynh hướng đối lập. Cả hai đều mang nặng thành kiến là các bộ tộc sơ khai tượng trưng cho thủy tổ của nhân loại. Nhưng trên thực tế, sánh với thời buổi nguyên sơ (xuất hiện trên địa cầu hàng triệu năm nay rồi), các bộ tộc sơ khai hiện nay cũng đã tiến hóa nhiều rồi. Vì thế đâu có thể lấy đó làm cơ sở quan sát và lý luận được!
- Một cách tương tự như vậy, các người tiên phong của xã hội họccũng mang khá nhiều thiên kiến đối với tôn giáo. Chẳng hạn như ông Emile Durkheim (1858-1917) giải thích nguồn gốc và đối tượng của tôn giáo là xã hội. Theo ông, tôn giáo của con người sơ khai là đạo thờ vật tổ (totem); nhưng xét cho kỹ, vật tổ chẳng qua chỉ là biểu tượng của bộ tộc mà thôi. Vì thế mà kết luận được rằng xã hội đã sinh ra tôn giáo, và các thần linh chẳng qua cũng chỉ là biểu tượng của xã hội. Đó là chưa nói tới lý thuyết của Karl Marx về tôn giáo! Còn đối với những người khai sáng khoa tâm lý học, ra như mọi nỗ lực đều nhằm chứng minh rằng tôn giáo là một tâm tình bệnh họan; con người trưởng thành và quân bình cần phải khai trừ tôn giáo. Thí dụ các ông J.M. Charcot và P. Janet đối chiếu tâm lý của các nhà thần bí và tâm lý của các người điên, để nêu bật những hiện tượng tương đồng; từ đó họ đi tới kết luận: các nhà thần bí là những người mắc bệnh tâm thần! Ông Sigmund Freud (cha đẻ của khoa phân tâm học), cũng đi tới kết luận tương tự: tôn giáo được giải thích như là hiện tượng lọan thần kinh, phóng dọi, ảo ảnh, v.v….
Những học thuyết vừa nói đã khiến cho các nhà thần học đâm ra ngờ vực các khoa học nhân văn. Ai mà đâm đầu vào những ngành này thì sớm muộn gì cũng mất đức tin! Phản ứng tương tự như vậy cũng đã xảy ra cho những người áp dụng phương pháp sử học và phê bình văn chương vào việc nghiên cứu Kinh thánh. Dần dần người ta mới nhận thấy rằng cần phải phân biệt các ý thức hệ (hay thiên kiến) ra khỏi các phương pháp thực nghiệm. Mặt khác, các khoa học thực nghiệm không thể giải thích được hết tất cả các hiện tượng. Đặc biệt là trong khoa học nhân văn, người quan sát không tài nào vô tư trước một sự kiện được! Khi quan sát thiên nhiên hay là các hiện tượng vật lý trong phòng thí nghiệm, người nghiên cứu không thấy cảm xúc! Nhưng khi quan sát một hiện tượng nhân sinh (nghèo đói, chiến tranh), người quan sát thế nào cũng bày tỏ thiện cảm hay ác cảm, chứ khó mà trơ trơ lạnh lùng! Đến khi quan sát một hiện tượng tôn giáo, thái độ vô tư khách quan hầu như không thể có. Nếu một tín đồ công giáo nghiên cứu tôn giáo của mình, thì ắt là sẽ bị nghi ngờ là chủ quan, thiếu vô tư. Nhưng thử hỏi, nếu người ngoài công giáo muốn nghiên cứu đạo công giáo thì sẽ vô tư hơn hay là sẽ rơi vào cảnh dốt đặt? Ta có thể so sánh với việc phê bình âm nhạc thì sẽ rõ: có thể nói rằng người dốt nhạc (và người điếc) sẽ vô tư khách quan hơn là các nhạc sĩ hay không?
Một khi đã nhận ra giới hạn của các phương pháp khác nhau, người ta mới thấy cần có sự hợp tác và bổ túc giữa các bộ môn khác nhau trong việc nghiên cứu tôn giáo. Có cấp độ thu thập và phê bình các dữ kiện. Có cấp độ giải thích các sự kiện. Có cấp độ tìm hiểu ý nghĩa không những của từng sự kiện lẻ loi mà còn của tổng bộ các sự kiện. Các phương pháp này đã được áp dụng trong việc nghiên cứu Kitô giáo. Người ta hy vọng rằng các tôn giáo khác cũng dám du nhập các phương pháp đó. Sau cùng, nhờ sự hiểu biết lẫn nhau, mà sự đối thoại giữa các tôn giáo sẽ tiến triển, giúp cho nhân loại thăng tiến đến lý tưởng Chân Thiện Mỹ, trong Công lý và Hòa bình.
Hòa Bình, OP,
catechesis.net
Thư tịch
- PINARD DE LA BOULLAYE, L’étude comparée des religions, 2 vol, Beauchesne, Paris 1922-23.
P.DAMBORIENA, La salvación en las religiones no cristianas, BAC, Madrid, 1973.
J.RIES, Les chretiéns parmi les religions, Desclée Paris 1987.
- MESLIN, Per una scienza delle religioni, Cittadella Assisi 1972.
[1] Paganismus: nguyên gốc bởi “pagus” (làng mạc, xa thành thị): các tôn giáo khác bị dồn về các nơi thôn quê.
[2] Vài thí dụ: thánh Patrixiô truyền giáo bên Ailen (425/428), thánh Rêmi rửa tội cho vua Clovis (496), thánh Augustinô được Đức thánh cha Grêgoriô Cảcử đi Cantebury bên Anh (590),thánh Cirillô và Mêtôđiô giảng Tin mừng cho người Slave (863).
[3] Nói cho đúng, sự bành trướng của Hồi giáo diễn ra sau khi ông Mohamét qua đời. Giêrusalem bị chiếm đóng năm 637, Siria 638, Batư 637-651, Ai cập 641, Bắc Phi 689, miền nam Tây ban nha 711.
[4] Vài tác giả điển hình. Philippe Couplet, Confucius, Sinarum Philosophus, Paris 1687. Le Comte, Nouveaux memoires de Chine, Paris 1696. Joseph Prémare, Selecta quaedam vestigia praecipuorum religionis christianae dogmatum ẽ antiquis Sinarum libris eruta