2021
“Chúng ta” vươn rộng ra cả nhân loại
Trong sứ điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân ngày Thế Giới Những người Di dân và Tị nạn lần thứ 107 (27/09/2021), ngài nhắc lại lời ngài nói trong thông điệp Fratelli tutti bận tâm cũng là hi vọng đọng lại nhiều nhất nơi ngài hôm nay là “một khi khủng hoảng về sức khỏe thế giới qua đi, đáp trả xấu nhất của con người chúng ta có lẽ sẽ là lao đầu thậm chí sâu hơn vào sự tiêu thụ cuồng nhiệt và bảo tồn ích kỉ. Đàng sau mọi sự, Thiên Chúa muốn chúng ta không còn suy nghĩ theo lối nói gọi người anh em mình là “họ”, “chúng”, nhưng chỉ nói “chúng ta” (số 35). Vì thế, Đức Giáo hoàng đã chọn đề tài của sứ điệp cho Ngày Thế Giới những người Di dân và Tị nạn năm nay là: Hướng tới một cộng đồng “Chúng ta” ngày càng mở rộng hơn.
Sau đây xin giới thiệu suy tư của tiến sĩ Ann Rowlands:
_____
“CHÚNG TA” VƯƠN RỘNG RA CẢ NHÂN LOẠI
Tiến sĩ Ann Rowlands
“Thiên Chúa nói với những người đã mất đất tổ quê cha: Ta có những kế hoạch dự định cho các ngươi, kế hoạch vì hạnh phúc của các ngươi chứ không phải tai họa, cho một tương lai đầy hi vọng”. Đó là những lời một người tị nạn giải thích ông đã được nâng đỡ như thế nào trong suốt nhiều năm sống bấp bênh và bất định của số phận kẻ tị nạn. Những lời này đã giúp ông tiếp tục hi vọng trước những khó khăn tưởng không thể nào chịu nổi. Ông thấy đó là những lời ban phúc lành, lời hứa bảo đảm và tình yêu khích lệ, trong khi mọi sự trong mạng lưới cứu trợ mà ông cậy dựa nói lên điều ngược lại: người ta lãnh đạm, kết án, thù nghịch và chối bỏ. Khước từ tương lai với một ai đó là dập tắt niềm hi vọng của họ. Người bạn ấy giải thích rằng ông đọc Sách Thánh như một câu chuyện về lời hứa của Thiên Chúa, bắt đầu từ Tạo dựng và qua các thế hệ. Ông ấy nói với tôi rằng “Tất cả là hồng ân, vấn đề chính là lời hứa. Những gì chúng ta đáp lại lời hứa ấy phải tạo nên một gia nghiệp của tình yêu, dù chúng ta ở đâu và như thế nào đi nữa. Ngay cả trong hoàn cảnh cực kì khó khăn. Chúng ta được trao ban cho nhau là để chăm sóc lẫn nhau. Ông nhận thức được điều này khi bị giam giữ trong một trại nhập cư, lúc ông cảm thấy cô độc nhất. Ông nói khi đó ông mới biết thực sự tự do là gì. Đó là khả năng chúng ta tin vào một thế giới được tạo dựng có mục đích, mà cùng đích là chúng ta biết cho đi và nhận lãnh yêu thương trong một cộng đồng tha nhân. Đó là những lời diễn giải Kinh Thánh mạnh mẽ dù là của ai, nhưng đối với người này thì những lời đó không dễ dàng đạt được nhưng phải được chứng thực bằng trải nghiệm rất nhiều. Những lời này đã tiếp sức mạnh để ông sẵn sàng không chấp nhất những sự nhỏ nhen ti tiện, những nỗi nhục nhã, bị hất hủi của câu chuyện cuộc sống ông gặp phải, mà nhìn thấu tận chân trời sự thật cao cả hơn về con người và về Thiên Chúa. Trong cái thế giới không một nơi cư trú này, ông đã làm câu chuyện này thành chốn nương thân của mình.
Trong thông điệp cho Ngày Thế giới của Những Di dân và người Tị nạn, Đức Thánh Cha Phanxicô đưa chúng ta trở lại với thuở ban đầu của câu chuyện nhân loại, trở về nguồn cội của hành trình chung của nhân loại chúng ta. Thuở ban đầu, sự sống được trao ban như một ơn huệ và phúc lành, sự sống chúng ta được tạo nên và được ban cho, là sự sống cộng đồng – một cộng đồng có một giá trị nội tại và một mục đích tối hậu. Cái ‘chúng ta’ hay cộng đồng mà Thiên Chúa định liệu cho ta được hạnh phúc được tạo nên nhờ tình bạn thâm sâu, nhờ sự đồng hành tương trợ và tình đồng đội. Đó là mối quan hệ của tình bằng hữu, tình huynh đệ và quan tâm lo lắng cho nhau, phụ thuộc lẫn nhau chứ không phải là nô lệ hay loại trừ. Thông điệp Fratelli tutti dạy rằng: luật của tình bạn này là luật đệ nhất, luật này vượt trên mọi luật khác. Đây là di sản của tình yêu mà người bạn tị nạn của tôi đã nói đến.
Đối với các Kitô hữu, biểu hiện cuối cùng của tình đồng đội (companionship) này được cử hành trong Thánh Thể – trong đó chúng ta là những kẻ-đồng-bàn, những người cùng bẻ hay cùng chia nhau một tấm bánh (com-panis), những người biểu lộ sự hiệp nhất nguyên ủy từ đó chúng ta xuất phát ra, và cùng đích nơi chúng ta phải đi về. Ở đây, tại bàn tiệc giữa những người bình đẳng này, câu chuyện nguyên thủy của cộng đồng ‘chúng ta’ thời tạo thiên lập địa được tưởng niệm, lại được đặt ở bên nhau, vượt trên các đổ vỡ và chia rẽ trong đời sống. Đây chính là câu chuyện và sự kiện các Kitô hữu được mời gọi làm nên nơi cư trú của mình.
Như thông điệp Fratelli tutti dạy, lời kêu gọi sống tình bằng hữu xã hội này – cộng đồng ‘chúng ta’ qua từng hành động nhỏ bé ngày càng vươn rộng ra lớn hơn mãi – là một truyền thống và di sản chung giữa các tôn giáo. Nhìn nhân loại như ‘tứ hải giai huynh đệ’, tất cả đều mang thân phận thụ tạo và cùng thuộc về một gia đình nhân loại chung, vượt trên những cũng ở trong các biên giới và quốc gia, là một câu chuyện có thể lôi kéo chúng ta trở lại với nhau. Chúng ta đang sống trong một thời đại hết sức cần một câu chuyện sống hướng đến mục đích và giá trị nhân văn, không chỉ biết có hưởng thụ, lựa chọn, hay những thứ vô-giá-trị. Cần phải thay thế nền văn hóa trong đó không ai thuộc về cái gì cả bằng một câu chuyện uy thế mọi người là anh chị em một nhà. Một câu chuyện khách quan ‘vì hạnh phúc, chứ không phải tai họa của chúng ta’.
Điều này đòi hỏi Hội Thánh không những sẵn sàng hành động để xây dựng những mạng lưới tương thân tương trợ, mà còn biết mở ra học hiểu sâu xa kinh nghiệm của những người di dân. Chúng ta phải học biết làm sao để mỗi ngày cái cộng đồng ‘chúng ta’ cùng nhau lớn lên thêm mãi.
Trong thông điệp này Đức Thánh Cha nhắc nhở chúng ta rằng việc khó nhất không phải là biết làm thế nào để sống như một con người cá biệt, nhưng là hiểu biết được giá trị độc đáo của mỗi nhân vị được tiền định để sống như thành phần của một dân. Những hình ảnh ẩn dụ về tính cách thành viên (của một cộng đồng) trong Kinh Thánh và truyền thống Hội Thánh dạy ta rất nhiều: chúng ta được mời gọi trở nên một dân, một thành đô, một cộng đồng, một gia đình, một thân thể. Đó là những từ ngữ ẩn dụ chúng ta dùng để nói về việc những cái ‘tôi’ trở nên một ‘chúng ta’ chứ không chỉ là những cái ‘tôi’ cá biệt. Trong thế giới – và trong mỗi thế hệ – ngày nay chúng ta đối diện với một cuộc khủng hoảng về tư cách sâu xa tôi là thành viên của Cái gì, tôi thuộc về Ai, các thân thể, thành đô, gia đình, cộng đồng bị đổ vỡ.
Thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô chính là: ơn cứu thoát này luôn là một câu chuyện về tư cách thành viên (membership) và sự thuộc về (belonging), đó là câu chuyện về một ‘chúng ta’. Tôi được cứu thoát chỉ khi tôi là thành viên, thuộc về một Ai đó lớn lao hơn vô cùng. Nếu Đức Kitô đến để cải tạo thế giới vốn đã được Chúa Cha tạo dựng trong tình yêu, thì chúng ta phải đáp lại bằng cách đảm nhận lấy công trình hòa giải và chữa lành mà Người đã đặt trước mặt chúng ta. Làm như thế là chúng ta học biết an cư thư thái trong câu chuyện cứu độ của chúng ta, và chúng ta trao hiến ngôi nhà thân thương này làm nơi cư trú cho một thế giới đã bị đổ vỡ.
Bản dịch Việt ngữ của Antôn Uông Đại Bằng – Louis Nguyễn Anh Tuấn
2021
Thánh Giuse – Mẫu gương cho những người sống đời thánh hiến
Đối với các Kitô hữu, Thánh Giuse là mẫu gương trổi vượt về đời sống nội tâm – đời sống không ngừng nhớ đến Tình Yêu Thiên Chúa và sự hiện diện luôn mãi của Ngài trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời. Đặc biệt, Thánh Giuse còn là thước đo sống động cho những người sống đời thánh hiến để thẩm định mức độ trung tín và chân thành đối với lý tưởng hoàn thiện mà họ được kêu gọi.
Sau đây là một vài suy tư về Thánh Giuse như một mẫu gương cho những người sống đời thánh hiến, dựa trên bài suy niệm về Thánh Giuse của Thánh Joseph Sebastian Pelczar (1842-1924), một giám mục người Ba Lan và là Đấng sáng lập Dòng Chị Em Tôi Tớ Trái Tim Rất Thánh Chúa Giêsu.
- Thánh Giuse và Đời sống nội tâm
“Ngắm nhìn toàn bộ cuộc đời thánh Giuse, chúng ta sẽ thấy được một con người sống nội tâm và luôn biết nương ẩn trong bàn tay của Thiên Chúa; việc ít được các thánh ký nhắc đến đã khiến cho toàn thế giới chẳng biết thêm gì về ngài, ngay cả thông tin về sự qua đời của ngài cũng không hề xuất hiện. Dầu vậy, cuộc đời thánh Giuse vẫn được nhìn nhận là một cuộc đời cầu nguyện, lao động và liên lỉ hy sinh trong thầm lặng, cũng như chiếu tỏa chói lọi ánh huy hoàng các nhân đức.” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Nội tâm con người – chiều sâu của sự hiệp thông với Thiên Chúa – được biểu lộ và thể hiện ra ngoài, trước tiên bằng suy nghĩ, rồi đến lời nói và sau đó là hành động. Là những người sống đời thánh hiến, chúng ta được mời gọi biểu lộ ra ngoài thực tại sống động đang diễn ra bên trong chúng ta, bằng chính chứng tá đời sống của mình. Đó là sự trao đổi tình yêu ẩn giấu giữa chúng ta và Đấng yêu thương chúng ta.
Toàn bộ con người của chúng ta trở thành một dấu chỉ sống động cho thế giới về những gì chúng ta đang trải nghiệm trong sự kết hợp mật thiết giữa chúng ta và Chúa Giêsu, Đức Lang quân của linh hồn chúng ta. Bằng cách này, chính cuộc sống của chúng ta vang lên vinh quang của Thiên Chúa trong một bài thánh ca sống động của tình yêu, niềm vui, bình an và sự viên mãn.
Trong sự trao đổi tình yêu, ước muốn thánh thiện và sự hiệp thông thiêng liêng này, trái tim chúng ta nói với Trái tim Thiên Chúa, tình yêu của chúng ta hòa nhịp với Tình Yêu của Thiên Chúa, đó là hoa trái của ân sủng thanh khiết từ phía Thiên Chúa và sự cộng tác từ phía chúng ta qua sự thành tín, nguyện cầu, hiệp nhất trong bác ái và sự trong sạch của trái tim. Thánh Giuse có thể là mẫu gương về điều đó cho chúng ta bằng đời sống nội tâm chứa đựng sự dấn thân, tính chủ động, sự sẵn sàng, tinh thần phó thác, và trên hết là sự tự hiến.
Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy ra nếu đời sống nội tâm của chúng ta bị suy kiệt bởi sự làm việc quá sức để cố gắng thoát khỏi sự trống rỗng giày vò? Hoặc có lẽ, những thất vọng về đời sống cộng đoàn hay trong hoạt động tông đồ có thể đã khiến chúng ta khó lòng ở lại trong cuộc đối thoại nội tâm với Chúa.
Những thử thách của cuộc sống có thể làm cho chúng ta trở nên khô khan và có thể át đi lòng yêu mến của chúng ta, làm cho tinh thần chúng ta chán nản từ bên trong, và do đó đánh mất tình yêu thuở ban đầu của chúng ta (x. Kh 2,4). Nếu chúng ta thấy mình trong tình trạng như vậy, thì trên hết là đừng ngã lòng; Thiên Chúa là Đấng thành tín (x. 1Cr 1,9) sẽ không bỏ rơi chúng ta. Chúng ta chỉ có thể kêu cầu Ngài trong sự khốn cùng của chúng ta, và Ngài sẽ giải thoát chúng ta từ trong chính bản thân mình. Khi nhìn thấy nơi chúng ta thiện chí và ước muốn thực hiện những thay đổi thực sự để đặt Thiên Chúa lên trên tất cả, thì Ngài sẽ khôi phục niềm vui thời trẻ của chúng ta (x. Tv 43,4).
Với sự phù giúp của Thánh Cả Giuse, Đấng bảo trợ cho đời sống nội tâm, thì ân sủng sẽ thúc đẩy chúng ta ngày càng khát khao Chúa hơn, và đời sống nội tâm của chúng ta một lần nữa có thể thăng hoa, đem đến niềm vui cho chúng ta và vinh quang cho Thiên Chúa.
- Khiết tịnh
“Do bởi việc kết hôn với Đức Trinh Nữ Maria, thánh Giuse đã từ bỏ phẩm giá của một người cha ruột thịt, một phẩm giá đáng quý trọng theo truyền thống Israel; đồng thời ngài tự nguyện sống trinh khiết trọn đời để có thể thuộc trọn về Thiên Chúa. Gẫm suy những điều này, chúng ta sẽ thấy đó là cả một đời khổ hạnh và khiết tịnh nơi con người Thánh Giuse.” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Sự khiết tịnh được thánh hiến cho Nước Chúa là một sự tuân phục liên lỉ. Nó thiêu đốt chúng ta hoàn toàn bởi vì nó là một hành động tự dâng hiến có liên quan đến ước muốn sâu thẳm nhất của con người chúng ta, đó là muốn được yêu thương và trân trọng. Chỉ khi chúng ta thực sự biết mình được Thiên Chúa yêu thương và trân trọng sâu xa, thì chúng ta mới có thể thật sự tự do đặt tất cả các món quà tự nhiên và siêu nhiên của mình trên bàn thờ của lễ, cùng với Đức lang quân của chúng ta, trong một của lễ kết hợp với sự dâng hiến của chính Người.
- Sự thanh khiết trong Tâm trí, Cơ thể và Linh hồn
Để luôn trong sạch và hết lòng dâng hiến thể xác, tâm trí và linh hồn của chúng ta thì không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng đó là một cuộc chiến đấu cao đẹp, trong đó Thánh Giuse có thể trợ giúp chúng ta bằng sự cầu bầu và bảo vệ đầy quyền năng của ngài.
“Dù là con cháu của hoàng tộc, ngài làm việc hàng ngày để kiếm sống trong xưởng thủ công – Chúa Giêsu là tất cả tài sản của ngài. Hãy chiêm ngắm cuộc sống từ bỏ bản thân và nghèo khó của ngài”. (Thánh Joseph Sebastian Pelczar)
Thánh Giuse có thể dạy chúng ta giá trị của công việc và giúp chúng ta giữ nó ở mức độ phù hợp với đời sống tu trì của chúng ta. Giá trị của chúng ta không nằm ở năng suất hay sự công nhận của người khác. Những tước hiệu của chúng ta chẳng có nghĩa lý gì nếu chúng không giúp chúng ta trở thành đầy tớ của mọi người. Thánh Giuse – với tước hiệu “người thợ mộc” – là một mẫu gương cho chúng ta về sự kết hợp giữa cầu nguyện và làm việc nặng nhọc, ngài luôn làm những công việc nặng nhọc này với ý ngay lành và trong sự hiệp thông với Chúa.
Thánh Giuse biết những thiếu thốn và cơ cực của một người lao động; còn chúng ta là những tu sĩ, thành thật mà nói, chúng ta thực sự sống một cuộc sống đặc quyền – mọi nhu cầu của chúng ta đều được đáp ứng. Sự nghèo khó và lao động của Thánh Giuse kêu gọi chúng ta nhìn sâu hơn vào tình trạng thực sự của tinh thần từ bỏ của chúng ta. Có biết bao đòi hỏi và quyến luyến làm phức tạp cuộc sống và làm ảnh hưởng đến lý tưởng của chúng ta! Chúng ta thường bất mãn với những điều như nhược điểm bản thân, sự bổ nhiệm, bạn đồng hành, sự xuống cấp và những đau khổ vốn là những điều Chúa ban cho chúng ta. Tinh thần nghèo khó theo tinh thần của Thánh Giuse có thể giải thoát chúng ta khỏi chính mình, khỏi thói ích kỷ, sự bận tâm cho bản thân và tính lười biếng.
- Tính khiêm tốn
“Với tư cách là nghĩa phụ của Chúa Cứu Thế và là chứng nhân cho các huyền nhiệm cao vời của Thiên Chúa, thánh Giuse hoàn toàn có thể biến đổi cả thế giới, thế nhưng ngài đã chọn sống khép mình nơi một xóm nhỏ và tận tâm tận lực chăm lo cho Chúa Giêsu. Đó là một tấm gương mẫu mực cho đời sống khiêm hạ và cầu nguyện.” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Là những người sống đời thánh hiến, sự vĩ đại của chúng ta chủ yếu nằm ở khả năng để chúng ta luôn được ẩn giấu, vì mọi lời ngợi khen chỉ đáng thuộc về riêng Thiên Chúa. Thứ thuộc về chúng ta là lời kêu gọi rõ ràng “làm điều tốt và biến mất” (tính cách của chị Genevieve Hennet De Goutel). Khiêm tốn là trạng thái mãn nguyện ở lại đằng sau, để công lao thuộc về Thiên Chúa và những người khác; người khiêm tốn biết giá trị cao quý của sự khiêm tốn, và điều này khiến họ có thể buông bỏ những thành công; không nắm giữ, thèm thuồng, hay muốn tỏa sáng.
Tránh tìm kiếm danh lợi cho bản thân để sống khiêm nhường có nghĩa là chúng ta đặt “tất cả những gì chúng ta có” và “tất cả những gì chúng ta là” dưới chân Chúa Giêsu, để tôn trọng quyền thống trị của Ngài. Hoa trái của sự khiêm tốn đó là tự do.
- Nghịch cảnh và Đau khổ
“Thánh Giuse còn là một người yêu mến Thiên Chúa hết tình. Dù chịu biết bao đau khổ thử thách, thế nhưng thánh nhân vẫn đón nhận với một nghị lực can trường. Quả thật, trọn cuộc đời ngài đã dành hết cho tình yêu khổ giá và lòng vâng phục Thánh ý Thiên Chúa. Bạn có nhận thấy nơi mình những nhân đức tương tự?” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Nghịch cảnh là một phần không thể thiếu của đời sống người Kitô hữu, vì ai không vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa Kitô thì không xứng đáng với Người (x. Mt 10,38). Thập giá có thể làm cho chúng ta tốt hơn hoặc nó có thể làm cho chúng ta cay đắng. Tình yêu đối với thập giá không phải xuất phát từ sự căm ghét bản thân khiến mình chìm trong đau khổ, mà là sự tin tưởng đầy yêu thương nói rằng, “vâng, điều này được cho phép bởi một Thiên Chúa yêu thương, Đấng không để tôi chịu đau khổ một mình.” Nó có nghĩa là nhìn thấy những thập giá do người khác gây ra dưới ánh sáng siêu nhiên, biết rằng Thiên Chúa đã cho phép đau khổ xảy ra bởi tay người khác, để từ đau khổ đó điều tốt lành hơn có thể xảy đến.
Những gian nan thử thách được phép xảy ra để lấp đầy nơi thân xác chúng ta những gì còn thiếu trong những đau khổ của Chúa Kitô (x. Cl 1,24) và những gì còn thiếu về cơ bản là phần đóng góp của chúng ta trong những đau khổ vì Giáo hội.
- Sống trong Đức tin
“Nếu bạn muốn hiểu biết về đức tin của Thánh Giuse, hãy nhìn vào máng cỏ Bêlem mà chiêm ngắm thánh nhân thờ phượng và tôn kính Ngôi Lời Nhập Thể – Đấng là Vua và là Thiên Chúa của ngài.” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Thánh Giuse là người công chính sống bằng đức tin (x. Rm 1,17). Ngài vẫn kiên định với niềm tin vững chắc trong những thử thách cho đến khi Thiên Chúa báo mộng rõ ràng cho ngài để kết hôn với Đức Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse tràn đầy niềm tin vào thực tại của Ngôi Lời nhập thể, Đấng mà ngài đã hết lòng tôn thờ và phục vụ. Với sự tin tưởng, ngài đã vượt qua sự bắt bớ của Hêrôđê gian ác, ngài biết rằng Thiên Chúa sẽ đi trước và dẫn ngài đi dù ngài không biết mình đi đâu.
Hơn nữa, Thánh Giuse đã đặt tất cả niềm hy vọng vào Thiên Chúa khi Chúa Giêsu bị lạc mất trong ba ngày. Trong đời sống thánh hiến, đức tin của chúng ta, giống như Thánh Giuse, phải thực tế và hoạt động. Chúng ta phải được thấm nhuần với một đức tin sống động, nếu không chúng ta sẽ không thể chịu đựng được sự cám dỗ nuông chiều bản thân. Khi nhìn mọi việc theo con mắt tự nhiên, chúng ta sẽ bắt đầu mưu cầu lợi ích cho riêng mình, và đây thực sự là một tai họa cho linh hồn được thánh hiến.
- Làm mọi việc cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria
“Nếu bạn muốn biết thánh Giuse đã yêu Chúa Giêsu và Đức Maria như thế nào, hãy nhìn xem cách thánh nhân đã dành trọn từng giây phút trong đời để chăm lo cho các ngài”. – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Đối với Thánh Giuse, mọi việc làm đều là vì Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Thánh Giuse đã dành trọn bản thân mình vì yêu các ngài và vì lợi ích của các ngài, không giữ gì cho riêng mình. Như một người sống đời thánh hiến, Thánh Giuse là mẫu gương của tôi về tình yêu thương rộng lớn và sự phục vụ vì lợi ích của Tin Mừng. Thánh Giuse có thể nói cùng với Thánh Inhaxiô thành Loyola:
“Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa dạy con biết sống quảng đại. Biết phụng sự Chúa như Chúa đáng được phụng sự. Biết cho đi mà không tính toán. Biết chiến đấu không ngại thương tích. Biết làm việc không tìm nghỉ ngơi. Biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành ý Chúa.”
- Sự vâng phục
Thánh Joseph Sebastian Pelczar chỉ ra sự vâng phục mau mắn này của Thánh Giuse khi ngài viết:
“Nếu bạn muốn học hỏi lòng vâng phục của thánh Giuse, hãy chiêm ngắm việc thánh nhân trỗi dậy giữa đêm trường khi nghe tiếng gọi của sứ thần, đồng thời chẳng màng đến đói rét, cơ cực mà đưa Hài Nhi và Đức Maria sang Ai Cập, nơi mà thánh nhân tiếp tục sống những ngày gian khổ cho đến khi có mệnh lệnh tiếp theo từ Thiên Chúa. Liệu rằng bạn có đang mang trong mình những nhân đức giống như thế?”
Tác giả Thánh vịnh nói: Niềm vui của con là làm theo ý muốn của Ngài, Lạy Chúa (x. Tv 40,9), và đối với người sống đời thánh hiến, ý muốn này được bày tỏ qua các bề trên, các nguyên tắc sống, lịch trình ngày sống và sự mở ra cho những kinh nghiệm hàng ngày. Người sống đời thánh hiến không ở trong lòng thương xót của người khác, nhưng ở trong bàn tay của Thiên Chúa, và thánh ý đầy yêu thương của Ngài. Là một người sống đời thánh hiến, chúng ta có thể cố gắng tìm ra con đường riêng của mình thông qua vô số phương tiện, nhưng sẽ không bao giờ biết được chúng ta có thực sự làm theo thánh ý của Thiên Chúa hay không, trừ khi chúng ta có thái độ chấp nhận cách thánh thiện và sự cởi mở để vâng theo thánh ý đó, thậm chí là mau mắn như Thánh Giuse đã làm.
- Thánh Giuse, Mẫu gương trong cuộc đời của chúng ta
Thánh Joseph Sebastian Pelczar đã đưa ra một kết luận tuyệt vời cho những ý tưởng này mà theo đó, Thánh Cả Giuse trở thành hình mẫu của chúng ta trong cuộc sống:
“Dù rằng Thiên Chúa yêu cầu nhiều điều nơi thánh Giuse, nhưng Người cũng rất rộng tay ban thưởng và hết mực tán dương thánh nhân.
Thiên Chúa đã đặt để thánh Giuse làm bạn trăm năm, người đồng hành và bảo hộ cho Mẹ Thiên Chúa do bởi lòng trong sạch của thánh nhân.
Cũng thế, dẫu cho phải một đời hy sinh, từ bỏ nhiều thứ, thế nhưng thánh Giuse đã được Thiên Chúa thương ban một niềm an ủi dịu dàng. Nghĩa là ngài có thể chiêm ngắm Chúa Cứu Thế bằng đôi mắt và bồng ẵm Người trên đôi cánh tay của mình.
Đồng thời, bởi lòng vâng phục, thánh Giuse được nâng lên làm người giám hộ và nghĩa phụ của Thánh Tử Giêsu, một phẩm giá cao vời khôn tả.
Cuối cùng, vào những thời khắc cuối cùng, sau một đời sống lành thánh và hết lòng thương yêu chăm sóc cho gia đình, thánh Giuse đã được phú ban cho một đặc ân cao vời là được yên nghỉ trong vòng tay của Chúa Giêsu và Đức Maria.
Chúng ta có thể thấy Thiên Chúa yêu cầu nhiều điều từ bạn, thế nhưng người sẽ luôn quảng đại ra tay bệnh vực và giúp đỡ bạn trên đường đời. Ngài sẽ tôn vinh bạn, nếu như bạn noi theo các đức tính của Thánh Giuse. Bạn có thật sự mong muốn điều này không?”
- Hãy để Đức Kitô sống trong bạn
Thánh Joseph Sebastian Pelczar cũng cho biết thêm,
“Hãy nhớ lại lời của Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galát: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gl 2:20) và gẫm suy về bổn phận của bạn là phải sống trong, sống theo và sống cho Chúa Giêsu. Đó là điều duy nhất Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta và để chúng ta đạt được điều đó, Ngài thông ban muôn ơn lành cho chúng ta”. – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Mọi linh hồn, đặc biệt là linh hồn thánh hiến, được mời gọi trở thành một Chúa Giêsu khác trong thế giới này, qua việc chiêm niệm và cầu nguyện, hiến thân và đền tội, sống theo các lời khuyên Phúc âm và phục vụ tha nhân. Đó là lời kêu gọi bỏ mình để chỉ sống cho Thiên Chúa, một lý tưởng không thể sống mà không có ơn thánh và lời cầu nguyện.
Vì vậy, là những người sống đời thánh hiến, chúng ta phải học nơi Thánh Giuse những nẻo đường của sự thánh thiện, thinh lặng và hồi tâm, ẩn mình và cầu nguyện, làm việc chăm chỉ và quảng đại hy sinh. Ngài là người đầu tiên sống trong sự kết hợp với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, chắc chắn sẽ không từ chối trợ giúp chúng ta qua việc hướng dẫn thiêng liêng và sự chuyển cầu đầy quyền năng của Ngài cho mọi ân sủng mà chúng ta cần. Do đó, chúng ta hãy mau mắn và “Hãy đến cùng Giuse!” (x. St 41,55).
ác giả: Sr. Mary Joseph Calore, SSCJ
Chuyển ngữ: Ngọc Quí
Nguồn: catholicexchange.com (18.8.2021)
2021
Định hướng văn học trong mục vụ truyền giáo thời đầu tại Việt Nam
Linh mục Giuse Trương Đình Hiền
Ngày 10.9.2021
DẪN NHẬP: MỘT CHUYỆN “KHÔNG HỀ NHỎ”
Trong khi “đại dịch Covid” đang đe doạ khắp hang cùng ngõ hẻm, một bối cảnh đen tối mà ở đó mọi người đang nơm nớp lo lắng và bận tâm tới các nhu cầu sống còn, tới bình ôxy để thở, tới liều vaccine để chích, tới lò hoả táng nếu lỡ người thân qua đời, tới cân gạo, gam muối để sống qua ngày thời giãn cách…, thì hôm nay, ở đây, chúng ta lại họp nhau, cho dù là online, để bàn chuyện văn học, văn hoá ! Chắc chắn sẽ không thiếu người chắp môi dè bỉu: “Rõ làm chuyện ruồi bu”; hay có thể minh hoạ hài hước một chút: dưới mắt anh cán bộ nào đó, thì “cuộc hội thảo văn học” này chẳng khác nào “câu chuyện cái bánh mì”[1], một thứ không phải là “lương thực”, không là “vật thiết yếu” !
Mà đây là một sự thật đang diễn ra trong đất nước chúng ta: văn học, văn chương, văn hoá gần như là một thứ “xa xỉ”, chẳng liên quan và cần thiết gì cho cuộc sống, như phát biểu năm nào của một vị đại biểu Quốc Hội Việt Nam, ông Dương Trung Quốc: “Tại sao sự đầu tư cho văn hoá còn ít, là vì chúng ta còn quan niệm văn hoá là một cái gì đó xa xỉ. Ngay như các địa phương đầu tư cho văn hoá cũng ít. Họ có thể thấy ngay hiệu quả khi đầu tư cho một con đường nhưng họ không bao giờ suy nghĩ được về những cái liên quan đến tâm hồn con người, giúp con người hình thành nhân cách. Đó là những thứ không cân đong, đo đếm được”[2].
Và nếu “ngược thời gian trở về quá khứ” cách đây đúng 100 năm (1921), chúng ta cũng gặp cái tâm trạng “đã từng” như thế, tâm trạng của cố thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu[3] được khắc hoạ trong bài thơ để đời “Hầu Giời”[4], mà không ít người vẫn nhớ mấy câu:
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu…
Nhưng đó là chuyện “văn chương hạ giới rẻ như bèo của năm 1921 cho đến chuyện “bánh mì không là lương thực của 2021”, câu chuyện “Trăm năm trong cõi người ta”[5] !
Hôm nay chúng ta không mất công để “lấn sân” qua lãnh vực bao la đa sự nầy mà chủ yếu dừng lại để “hàn huyên với nhau” câu chuyện trong nhà, trong mái nhà “Mẹ Hội Thánh Công Giáo Việt Nam” mà chủ đề đã ghi rõ trong thư mời: NGÀY HỌP MẶT VĂN THƠ CÔNG GIÁO HẰNG NĂM LẦN THỨ 10 với Chủ đề: Dòng Văn Học Công Giáo Đương Đại.
Thoạt nhìn qua chủ đề nầy, cảm giác đầu tiên của tôi là: đây không là “chuyện nhỏ” nhưng là “lớn chuyện” à nhen !
Thế nhưng, con sông dòng suối nào cũng đều có cội nguồn để xuất phát. Nếu thực sự có một “Dòng Văn Học Công Giáo đương đại”, thì chắc chắn phải có một “cội nguồn của Dòng Văn Học” đó. Chính vì thế, trước khi quý vị bàn chuyện “văn học Công Giáo đương đại”, xin cho phép tôi được một chút “ngược dòng thời gian”, tìm về cái cội nguồn của “dòng sông tinh thần” đó; hay nói cách khác, trở về cái thuở mà “Hạt giống Lời Chúa” lần đầu tiên được gieo xuống trên mảnh đất Việt Nam này để xem thử “Cha Ông chúng ta đã vận dụng làm sao cái khí cụ văn học, văn hoá trong công cuộc rao giảng Tin Mừng”; hay nói cho có vẻ “trường lớp” một chút, thì đó là “ĐỊNH HƯỚNG VĂN HỌC TRONG MỤC VỤ TRUYỀN GIÁO THỜI ĐẦU TẠI VIỆT NAM”.
Chắc chắn, đây cũng chỉ là một cuộc “cỡi ngựa xem hoa” trong khung cảnh giới hạn của một cuộc toạ đàm online, mà thời gian chuẩn bị gần như để “điền vào chỗ trống”, nên chỉ xin nêu bật một vài nét đan thanh trên một số khía cạnh được cho là trọng điểm, dựa trên những “cột mốc văn hoá, văn học” dính liền với một số tác phẩm và tác giả mang tính định hình.
Dĩ nhiên đây chỉ là những “tổng hợp quan điểm” mà hầu hết được chắt lọc từ những công trình nghiên cứu giá trị và công phu của các bậc tiền nhân hay tác giả đương đại; cộng thêm những suy tư, nhận định mang tính chủ quan, cầu thị và gợi mở hầu có thêm những phát hiện quân bình và chuẩn xác để những gì liên quan đến văn hoá, văn học, cho dù mang diện mạo và bản sắc Công Giáo, vẫn được khả tín và đáng trân trọng.
I. NHỮNG VIÊN GẠCH LÁT NỀN: ĐỊNH HƯỚNG CỦA CÁC THỪA SAI
Nếu lấy năm 1615 các thừa sai Dòng Tên cập bến Cửa Hàn Đàng Trong, và năm 1627 cập bến Cửa Bạng Đàng Ngoài làm cột mốc rõ ràng đánh dấu công cuộc truyền giáo tại Việt Nam[6], thì quả thật, không phải một sớm một chiều mà người Công Giáo Việt Nam có ngay một công trình văn hoá, văn học cụ thể. Chính vì thế, trong buổi “khai hoang mở đất” này, nếu có tác phẩm nào, công trình nào liên quan đến văn hoá, văn học mang dáng đứng Tin Mừng có liên quan đến quê hương đất nước chúng ta, thì phải công nhận, trước hết, đó là nhờ công sức của các thừa sai, của những người ngoại quốc, những người mang trong mình đầy “lửa tông đồ” và trái tim yêu mến vùng đất mà họ đang ân cần rắc gieo hạt giống Tin Mừng; sau đó là những bậc cha ông, những người Công Giáo đầu tiên vừa thấm nhuần giáo lý Phúc Âm, vừa thông minh tài trí để “Tin Mừng Hoá” nền văn hoá, văn học của quê hương mình.
1. Các thừa sai và “cuộc gặp gỡ ban đầu”
Theo lời tường thuật của một thừa sai thuộc hạng “khai quốc công thần” cho nền văn hoá văn học Công Giáo Việt Nam, linh mục Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ), thì cho đến thế kỷ 17, người Âu Châu, đặc biệt là Pháp quốc, gần như chưa biết gì về xứ sở, về vùng đất mà hôm nay là Việt Nam chúng ta. Thật vậy, chính ngài đã ghi rõ trong tập ký sự “Hành trình và Truyền giáo”: “Tôi biết bởi đâu đất nước rất đẹp này lại không được biết tới, bởi đâu các nhà địa lý châu Âu không biết tới tên gọi và gần như không ghi trong bản đồ nào cả, tuy họ chép đầy đủ tên các nước trên thế giới. Là vì họ lẫn với một nơi trùng với tên xứ này. Về xứ này họ chỉ đưa ra những lời dối trá làm cho những ai đến đây phải phì cười. Họ chỉ dựa theo sách vở và tự coi là nhà bác học, thế rồi người ta nhai lại những sai lầm của người viết sách”[7].
Và cái “xứ này” đó chính là “Đàng Ngoài”, được coi như “đại diện chính thức” của đất nước Việt Nam thuở ấy: Nước Việt chúng ta mà thời điểm khi thừa sai Đắc Lộ lần đầu đặt chân đến (1624) lại là một đất nước đang trong tình trạng “chia cắt chính trị” với hai miền “xứ Bắc”, “xứ Nam” hay “Đàng Ngoài”, “Đàng Trong”[8]. Riêng thừa sai Cristoforo Borri, vì là thuộc nhóm thừa sai Dòng Tên tiếp cận với Đàng Trong nên vị này có phần ưu ái vùng đất nầy: “Tôi chỉ nói đến Đàng Trong bởi vì chỉ với nơi đây người Bồ Đào Nha mới giao thương và chỉ trong vùng đất này những giáo sĩ mới đến đặt nền móng cho Cơ Đốc giáo”[9].
Tuy nhiên, về mặt văn hoá, văn học, hay đời sống tinh thần nói chung, Đàng Trong và Đàng Ngoài chỉ là một; vì thực ra, Đàng Trong cũng chỉ là một “thực tế chính trị” tách ra khỏi Đàng Ngoài để tồn tại và đương đầu với “Chúa Trịnh” từ năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá[10]; và sau biến cố đó khoảng hơn 50 năm (1615) chính là khoảng thời gian các thừa sai Dòng Tên cập bến Cửa Hàn (Đà Nẵng) để từ đó, bắt đầu thiết đặt những trung tâm truyền giáo trước tiên tại Đàng Trong: cư sở Nước Mặn (1618), cư sở Hội An (1620), cư sở Dinh Chiêm Quảng Nam (1624)[11]; sau đó đến lượt “Bắc tiến” (1627)[12].
2. Văn hoá, văn học An Nam dưới cái nhìn của “người ngoài”
Bởi vì “ta nói về mình” có thể rơi vào căn bệnh chủ quan; vả lại, chắc chắn đã có không ít tư liệu lịch sử nghiên cứu, bàn luận, ghi nhận. Ở đây, chúng ta lựa chọn các ý kiến của những vị có thế giá và có những nghiên cứu chuyên sâu về Việt Nam.
2.1. Một nền văn hoá, văn học ảnh hưởng Trung Hoa:
Cả Cristoforo Borri, chuyên khảo về Đàng Trong, lẫn S. Baron, chuyên khảo Đàng Ngoài đều có nhận xét như nhau về “tầm ảnh hưởng Trung Hoa” trên lãnh vực văn hoá, văn học, giáo dục… của Việt Nam thời ấy:
Thật vậy, khi nói tới chủ đề “Văn học, Văn hoá Công Giáo”, chúng ta không thể không nhắc đến một “ân nhân” người Ý, Cristoforo Borri, vị thừa sai Dòng Tên, một trong những người khai dựng Chữ Quốc Ngữ từ năm 1618 tại Trung Tâm truyền giáo đầu tiên của Dòng Tên tại Đàng Trong, cư sở Nước Mặn[13]. Ngay từ những ngày đầu tiếp cận với vùng đất này, quê hương này, ngài đã có một nhận định liên quan đến văn học, văn hoá rất tích cực về “con người Đàng Trong cách đây khoảng 400 năm” trong tác phẩm tự thuật thuộc dạng quý hiếm của ngài còn lưu lại: Relation de la nouvelle mission des Pères de la Compagnie de Jésus au royaume de la Cochinchine (Ký sự về tân sứ vụ của các cha Dòng Tên tại vương quốc Đàng Trong mà nhiều dịch giả đã tóm gọn: Xứ Đàng Trong): “Ở Đàng Trong có rất nhiều trường ốc, trong trường lại có thầy đồ, lớp học, học trò, có thăng tiến bằng con đường khoa cử cùng một phương cách như ở Trung Quốc. Họ dạy cùng những môn học, và họ sử dụng cùng những sách vở, nghĩa là sách Zinfus hay là sách Confus theo cách gọi của người Bồ Đào Nha. Học thuyết sâu sắc này rất có uy thế và được trọng vọng như Aristote ở phương Tây vậy, song nó cổ xưa hơn. Sách vở họ đầy uyên bác, điển tích, châm ngôn nghiêm khắc, ngạn ngữ và nhiều thứ tương tự liên quan tới sự cai trị của triều đình, cũng giống như Senèque, Caton và Tullius ở ta. Họ bỏ rất nhiều thời gian để học cách sử dụng xác đáng các câu, từ, và những chữ tượng hình mà họ viết. Tuy nhiên, họ có vẻ coi trọng nhất là triết học tinh thần, đạo đức học, kinh tế và chính trị.”[14]
Trong khi đó, Samuel Baron[15], một tác giả là thương nhân thuộc công ty Đông Ấn, từng có thời gian sống ở Đàng Ngoài, cũng đã có nhận xét tương tự: “Việc học của người Đàng Ngoài không chỉ gồm có học ngôn ngữ như kiểu người Âu ta, vả chăng họ khá xa lạ với triết học của chúng ta; nhưng họ có một triết gia tên Khổng Tử (thường người ta gọi ông là Congtu), một người Hoa đã sáng lập ra nền khoa học và nghệ thuật của họ, tức cũng giống với người Trung Hoa…”[16].
2.2. Một nền văn hoá, văn học nặng từ chương, khoa cử
Và cho dù Đàng Trong hay Đàng Ngoài, toàn bộ đời sống văn hoá, văn học, giáo dục…, có thể nói được, của Việt Nam ta thuở ấy nặng về từ chương, khoa cử với động lực chủ yếu chính là con đường thăng quan tiến chức: “Người Đàng Ngoài có chí lớn học hành bởi đây là bước duy nhất có thể đưa họ đến với danh vọng và các đặc quyền, những điều này rõ là khiến họ siêng năng dùi mài kinh sử rất mực; nhưng cũng như ở nhiều xứ sở khác, việc đỗ đạt hay thất bại còn phụ thuộc vào năng lực của chính các sĩ tử, như sự sáng dạ, tính kiên trì và đặc biệt là có được trời phú cho trí nhớ tốt hay không; trí nhớ tốt là điều kiện tiên quyết để học hành thành tài ở một xứ sở nổi tiếng sử dụng các ký tự tượng hình mà từ đó tạo nên vô cùng nhiều từ mang nhiều ý nghĩa khác nhau…”[17].
3. Hai “điểm nhấn” trong xây dựng bước đầu: Bảo tồn – Phát triển
Trong lời “Bạt”, kết thúc thiên “ký sự về Đàng Trong”, thừa sai và cũng là tác giả, cha Cristoforo Borri đã đưa ra nhiều nhận xét tích cực: Công cuộc truyền bá đức tin thuận lợi, các thừa sai được tự do giảng đạo, người dân bao dung, cởi mở; ngôn ngữ giao tiếp có thể học được dễ dàng; văn hoá và đời sống tâm linh gần gũi với giáo lý Kitô giáo[18]…; và ngài cũng đã ước mơ với niềm xác tín: “Vì vậy, tôi tin rằng Thiên Chúa, Ngài sẽ đánh thức những bộ óc hào hiệp, những trái tim nhiệt huyết muốn vinh danh Thiên Chúa, đưa họ tới không chỉ Đàng Trong mà cả Đàng Ngoài để truyền bá Phúc Âm, để dựng lên nhà thờ và giáo dân sánh ngang với những nhà thờ và giáo dân lừng lẫy nhất thế giới. Lạy Chúa vinh quang, lạy Đức Mẹ thiêng liêng”[19].
Và những ước mơ của thừa sai Cristoforo Borri đã trở thành hiện thực khi những “chiến hữu”, những người bạn “tông đồ khai phá” của ngài đặt những viên đá móng đầu tiên trong việc dùng con đường văn hoá, văn học, văn chương… để chuyển tải sứ điệp Tin Mừng.
Ở đây muốn nhấn mạnh đến hai chiều kích mang tính định hướng: “BẢO TỒN và PHÁT TRIỂN”; đây cũng là cái nhìn mang tầm vóc “tiên tri” đã góp phần không nhỏ để Thánh Bộ Truyền Bá đức tin sau nầy có cơ sở để đúc kết nên “Huấn Thị 1659” và “Công nghị 1664” (Tức Monita ad missionarios)[20], hai tấm “bảng chỉ đường” thích dụng cho công cuộc truyền giáo tại Á Châu – Việt Nam vào thế kỷ 17 và xuyên suốt sau đó.
Hai chiều kích trên (Bảo tồn và Phát triển) được thể hiện qua nhiều nhân vật cùng với các tác phẩm “để đời”, mà nếu không có họ, chắc chắn không có những tác phẩm “Đạo, Đời” quý hiếm bằng chữ Nôm như Thiên Chúa thánh giáo Khải mông (Majorica), Sấm Truyền Ca (Lữ Y Đoan), Phục dĩ Chí tôn (Thầy Phanxicô)…; hay bằng chữ Quốc ngữ như: Tự điển Việt Bồ La, Phép Giảng Tám ngày (Đắc Lộ), Inê Tử Đạo vãn (Huỳnh Lâu)[21], Tự điển Anamitico-Latinum (Pigneau de Béhaine:1773; Jean-Louis Taberd: 1838; Thánh Philip Phan Văn Minh), Sổ sang chép các việc (Philipphê Bỉnh)….; và chắc chắn sẽ không xuất hiện những nhân vật kiệt xuất, những “tượng đài văn học, văn hoá Công Giáo như Đặng Đức Tuấn, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ…; hay sau nầy, những Hàn Mặc Tử, Xuân Ly Băng, Nguyễn Xuân Văn… với những tác phẩm văn thơ Công Giáo bằng chữ Quốc ngữ đĩnh đạt sánh vai trong trường văn trận bút của nền văn học Việt Nam.
3.1. Bảo tồn: Văn học Công Giáo chữ Nôm
Đây là “điểm nhấn” quan trọng mà người Công Giáo Việt Nam rất tự hào và cần phải bảo vệ. Bởi vì, trong giới học thuật cũng như biên khảo lịch sử liên quan đến buổi đầu truyền giáo tại Việt Nam, có một “bộ phận không nhỏ” cứ ôm một lối tư duy và lý luận đầy thiên kiến và hẹp hòi, nếu không nói là thiếu hiểu biết, khi cho rằng: công cuộc truyền bá Đạo Công Giáo của các giáo sĩ phương Tây đã làm phương hại và tiêu tán chữ Nôm, vốn là “Quốc ngữ”, công cụ cốt lõi, và dĩ nhiên, là biểu trưng của văn hoá, văn học Việt Nam suốt hàng bao thế kỷ.[22]
Một bằng chứng hoàn toàn ngược lại. Chính các ngài là những kẻ đã góp phần giới thiệu, quảng bá và làm cho chữ Nôm phát triển lên “một tầm cao mới”, phổ thông hơn, quốc tế hơn, và cũng bình dân phổ cập hơn, thay vì chỉ quanh quẩn trong giới cung đình hoặc nho sĩ.
Và sau đây là những khuôn mặt tiêu biểu cho “Văn học chữ Nôm Công Giáo thời đầu”:
3.1.1. Gironimo Majoria (1591-1656): người phát động văn hoá-văn học Công Giáo chữ Nôm:
Theo nhà nghiên cứu linh mục Nguyễn Đức Thông, thì giáo sĩ “Girolamo Majorica (1591-1656), thuộc Dòng Tên, người Napoli, nước Ý, truyền giáo tại Việt Nam từ năm 1623 đến khi qua đời năm 1656, đã viết và phiên dịch 45 quyển sách, và soạn 12 quyển bằng văn xuôi và văn vần… Chữ Nôm của ông là chữ Nôm nguyên tuyền, chưa bị vua Tự Đức san định lại. Nội dung các tác phẩm của ông rất phong phú về xã hội học, triết học, nhân văn học và là một kho tư liệu vô giá về ngôn ngữ học”[23].
Riêng nhà nghiên cứu, Nguyễn Khắc Xuyên, sau khi ghi nhận công khám phá, phát hiện “nhà văn hoá-văn học chữ Nôm Majorica” của một linh mục người Đức, cha Georg Schurhammer và tiếp sau đó là giáo sư Hoàng Xuân Hãn vào năm 1951, đã có một nhận xét thật chí lý: “Địa vị chữ Nôm trong giai đoạn nầy là một cuộc cách mạng. Nếu Hồ Quý Ly đã một phần nào thất bại trong việc tiến cử chữ Nôm làm văn tự chính thức trong giới văn học và dân chính; nếu sau này, thế kỷ XVIII vua Tây Sơn Nguyễn Huệ mới chỉ khởi xướng và chưa kịp hoàn tất công cuộc dịch thuật các sách ra chữ Nôm và dùng chữ này trong các khoa cử, thì ngay đầu thế kỷ XVII, các giáo sĩ người Âu, nhất là Mai Do người Ý đã thực hiện được cuộc cải cách lớn lao và bền bỉ. Đó là lấy ngôn ngữ, văn tự của người địa phương để giáo hoá người địa phương, dùng chữ Nôm để truyền bá tôn giáo cho người Việt mà ngót 50 sách của Mai Do là một bằng chứng vĩ đại”[24]. (x. NGUYỄN THANH QUANG)[25].
Và cũng từ sự khởi xướng và phát động “văn hoá-văn học chữ Nôm” của thừa sai Majorica đó, những người Công Giáo Việt Nam đã đáp ứng và vận dụng cách tuyệt hảo qua các chứng nhân và tác phẩm tiêu biểu sau đây:
3.1.2. Lữ Y Đoan (1613-1678) với Sấm Truyền Ca: Thi ca Công Giáo chữ Nôm.
Nếu cho rằng chữ Nôm đã xuất hiện vào thế kỷ XIII với Hàn Thuyên, thì mãi đến thế kỷ XIX, tức sau sáu thế kỷ, trên văn đàn Việt Nam mới xuất một thi phẩm chữ Nôm nổi tiếng: Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du (1870). Thế nhưng, trước Nguyễn Du cả 200 năm, chỉ mới hơn 50 năm kể từ khi các thừa sai Dòng Tên lần đầu tiên đặt chân lên Cửa Hàn Đàng Trong (1615), thì đã có một linh mục Việt Nam, cha Lữ Y Đoan, đã dùng ngôn ngữ thuần Việt (chữ Nôm) để dịch toàn bộ Ngũ Thư của Cựu Ước bằng những vần thơ lục bát mượt mà thanh tao chẳng thua kém Truyện Kiều qua tác phẩm “Sấm Truyền Ca”[26].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đức Thông đã cho chúng ta biết: “Lữ Y Đoan sinh tại Kẻ Chàm (dinh Quảng Nam), một người có tương quan rộng và tinh thông kinh sách, được thụ phong linh mục do Đức Cha Lambert de la Motte năm 1676. Là một chủ chiên nhiệt thành, luôn trăn trở đem Lời Chúa đến cho muôn người, với tài văn chương uyên bác, ông đã sáng tác Kinh Thánh theo thể thơ lục bát, một vần thơ rất gần gũi tâm hồn người Việt. Đứa con tinh thần mang tên Sấm Truyền Ca của ông gồm 3596 câu thơ lục bát, chào đời năm 1670 được tầng lớp giáo dân Việt Nam yêu thơ đón nhận nồng nàn, họ chuyền tay nhau, đọc, ngâm nga cách thích thú. Tiếc rằng do quan niệm hẹp hòi, coi thi ca là chuyện thơ thẩn thẫn thờ của bọn thiếu thần học, tác phẩm này đã bị bỏ xó, mối mọt gặm nhấm gần hết. Mãi đến năm 1993 mới được Khoa Ngữ Văn Trường Đại Học Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh đặt thành vấn đề”[27].
3.1.3. Một số tác giả văn học Công Giáo chữ Nôm khác
Chắc chắn, chính trong dòng chảy văn học chữ Nôm Công Giáo mà những “cây đại thụ” như Majorica, Lữ Y Đoan đã khởi xướng và xây những viên gạch đầu tiên, đã có một đội ngũ linh mục cũng như giáo dân hưởng ứng và vận dụng thành công qua những tác phẩm đa thể loại được biết đến hoặc còn lưu lại. Đó là những nhân vật tiêu biểu như:
– Thầy Gioan Thanh Minh (1588-1663): Là một trong bốn “chứng nhân tử đạo” của cuộc bách hại năm 1663, thầy Gioan Thanh Minh (còn được gọi là Jean Vuang hay Ke-Tlam), một thi sĩ, một người thông thạo Hán Nôm, từng dạy ngôn ngữ cho các linh mục thừa sai, soạn tác thơ văn giáo lý để dạy đạo, rất khiêm nhường đạo đức vâng phục bề trên và đã chết vì đạo cách oai hùng.[28] Dựa theo tác giả Manuel FERREIRA, sử gia linh mục Đỗ Quang Chính cho biết thầy Gioan có trú quán ở Ketlam, sinh quán tại làng Thanh Minh, quận Bình Sơn, Quảng Ngãi. Là con nhà giàu, học giỏi, có vợ Công Giáo tên thánh Anna. Khi vợ chết xin gia nhập hội Thầy Giảng khoảng năm 1643[29]. Chắc chắn, nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động của “một thuở ban đầu” tiếp nhận Tin Mừng, cái thuở “ngỡ ngàng rung động” của một thời “Công vụ Tông Đồ”, cùng với những “gợi hứng” đầy hiện thực và hữu dụng của các thừa sai như Majorica, thầy Gioan Thanh Minh, với cái vốn Hán Nôm phong phú, đã soạn tác, mà theo lịch sử ghi lại, “15 tác phẩm bằng chữ Nôm, hầu hết là hạnh các thánh. Lời thơ của thầy chải chuốt, đầy lòng thành kính khiến dân thì ưa thích, các quan thì chịu ảnh hưởng nặng, chúa Nguyễn Phúc Lan thán phục. Giống như Majorica, Gioan Thanh Minh đáng được kể vào số những người tiên phong sử dụng truyện Nôm, tức văn xuôi Nôm”.[30] (x. ĐỖ QUANG CHÍNH)[31].
– Thầy Phanxicô: một hoà thượng Phật giáo trở lại sau cuộc tranh luận với linh mục Majorica và được thuyết phục bởi các lý chứng của giáo lý Phúc Âm, đã để lại một bài kinh có thể nói là một tuyệt tác trong kho tàng văn học Công Giáo Hán Nôm. Bài kinh mang tên “Cảm tạ niệm từ” hay “Phục dĩ chí tôn”[32].
– Mẹ con bà Catarina: vì cảm nhận được nét đẹp của Tin Mừng, của giáo lý, lại được hun đúc trong cái nôi văn hoá của đất Thăng Long cùng với một tâm thức được nuôi dưỡng trong bầu khí văn hoá bình dân của tục ngữ, ca dao…, hay văn hoá cung đình với thi, phú, vãn…, bà Catarina cùng với con gái đã soạn tác “lịch sử cứu độ” bằng ngôn ngữ thi ca; vừa là phương tiện chuyển tải giáo lý đức tin cho các dự tòng, tân tòng; vừa để giới thiệu Đạo Chúa cho lương dân. Đây là những tác phẩm làm giàu cho kho tàng văn học Hán Nôm Công giáo[33]…
Dĩ nhiên, để liệt kê cho đủ những gương mặt, những tác phẩm Hán Nôm Công Giáo thì còn phải nghiên cứu chuyên sâu. Ở đây, chỉ là một phác hoạ đan thanh để minh chứng rằng: công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam ngay từ buổi sơ khai đã không tác hại hay làm suy yếu nền văn học, văn hoá Hán Nôm đang hiện hữu, mà còn bảo vệ, tài bồi, và làm cho được nên phong phú, phát triển. Bằng chứng là chỉ trong vòng chưa đầy 30 năm, từ năm 1632-1656, số lượng văn bản chữ Nôm của Công Giáo tính được 4.200 trang (Trong khi văn bản Quốc ngữ mới có 700 trang)[34]. Riêng bên lãnh vực văn học Nôm ngoài Công Giáo, mặc dù đã tồn tại bốn thế kỷ (Thế kỷ XIII đến XVII), vẫn chỉ còn một số bản sao của một ít tác phẩm như Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập của Hội Tao Đàn, thơ văn quốc âm của Nguyễn Bỉnh Khiêm…[35]
3.2. Phát triển: Văn học Công Giáo chữ Quốc ngữ
Câu chuyện về “Chữ Quốc Ngữ”, ngôn ngữ chính thức của Việt Nam hiện nay, một dạng chữ ký âm tiếng Việt theo mẫu tự La tinh, luôn là một đề tài “hot” trên nhiều diễn đàn tại đất nước Việt Nam suốt hàng trăm năm nay, kể từ khi vua Khải Định ra đạo dụ “Mậu Ngọ 1918” (28.12.1918), tức đạo dụ bãi bỏ hệ thống Khoa Cử phong kiến thuộc chữ Hán trên toàn lãnh thổ Trung Kỳ (thuộc chủ quyền Việt Nam). Nên nhớ, Bắc Kỳ, với chế độ “Bảo Hộ”, mở khoa Thi Hương cuối cùng năm 1915; và Nam Kỳ thuộc địa của Pháp đã chuyển hẳn sang “Quốc ngữ” toàn bộ sinh hoạt văn hoá, chính trị, giáo dục… từ năm 1882.
Thật vậy, trong suốt thời gian trên, từ đầu thế kỷ 20 đến nay, vẫn song song hai luồng ý kiến: một thiểu số chống đối chữ Quốc ngữ và phần đông bênh vực. Thiểu số chống đối đầu tiên hầu hết thuộc thành phần sĩ phu phong kiến; những người được đào tạo và tiến thân trong môi trường khoa cử Hán Nôm. Cho tới hôm nay, thì số chống đối chỉ còn “đếm trên đầu ngón tay” mà hầu hết trong số đó, việc chống chữ Quốc ngữ chỉ là cái màn che, chỉ là “diện”; chống Công Giáo mới là chủ đích, là “điểm”; một “mặc cảm” thù nghịch mang tính “chính trị” hơn là văn hoá hay học thuật[36]. Trong khi đó, số còn lại, nếu không thuộc những kẻ có vấn đề về “jugement”, thì cũng thuộc loại “cuồng, ngông” lập dị !
3.2.1. Chặng đường “đi lên mặt trăng”
Ngày 12/9/1962, trong chương trình chinh phục không gian và tài trợ cho dự án Apollo, Tổng thống John F. Kennedy của Mỹ đã tuyên bố: “Chúng ta chọn đi lên Mặt Trăng và tiến hành những chương trình khác không phải vì đây là những việc dễ làm, nhưng bởi vì đây là những sứ mạng khó khăn…”.
Mượn cụm từ “đi lên mặt trăng” để muốn nói rằng: chọn con đường sáng tạo một loại chữ viết để ký âm ngôn ngữ của người Việt Nam … hầu làm chất xúc tác trong nỗ lực “mục vụ văn hoá” hay góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng là một “sứ mạng khó khăn”. Thật vậy, chính một trong những vị Thừa sai đầy mạo hiểm và thông minh đó “chọn đi lên mặt trăng” đó đã từng nhận định rằng: khó mà học được tiếng Việt vì “họ nói như chim hót”[37].
Mà đâu chỉ khó về phương diện ngôn ngữ ! Các vị tiền phong sáng tạo chữ quốc ngữ đã phải đối diện với bao nhiêu gian truân khổ ải khác có khi về chính trị (não trạng bài ngoại, nghi ngờ…), không thích nghi về khí hậu, tập quán, thổ nhưỡng, thiếu thốn phương tiện sống và làm việc, khó khăn đi lại, di chuyển…; chỉ cần đọc qua những kết quả nầy chúng ta có thể thấy “con đường hội nhập văn hoá về phương diện ngôn ngữ” của các ngài khó khăn dường nào:
– Thừa sai Francisco de Pina chết đuối tại cửa biển Hội An mới có 40 tuổi (1585-1625).
– Thừa sai Francesco Buzomi bị trục xuất về Macao và chết năm 1639 (1576-1639).
– Thừa sai Gaspar d’ Amaral cũng chết đuối tại vịnh Bắc bộ lúc mới 50 tuổi (1592-1645).
– Thừa sai Đắc Lộ bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam năm 1645…
Nhưng Chúa Thánh Thần luôn có cách của Ngài; và rồi những “hạt giống được gieo cứ dần dần lớn lên và hôm nay đã trở thành một cánh đồng lúa lên xanh bát ngát” !
3.2.2. Chữ Quốc ngữ: những chặng đường lớn lên và thành tựu
Thế nhưng công việc tưởng như “đi lên mặt trăng” đầy huyễn tưởng đó, sau 400 năm, không phải chỉ thành hiện thực mà là một “hiện thực phong phú”, như một đánh giá cụ thể sau: “Bắt đầu với 8.000 từ ngữ đã được các giáo sĩ Bồ Đào Nha phiên âm vào thế kỷ thứ 17 với công dụng là truyền giáo, chữ Quốc ngữ đã không ngừng phát triển để đáp ứng được nhu cầu của người Việt trước những biến chuyển liên tục của văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và nhất là khoa học kỹ thuật. Giờ đây chữ Quốc ngữ đã có chỗ đứng vững vàng trong ngôn ngữ Việt Nam và đã có hơn 200.000 từ để có thể phiên dịch cuốn tự điển Anh quốc Oxford Advanced Learner‘s English Dictionary mà không bị lúng túng vì thiếu chữ, thiếu từ”[38] (Dẫn nguồn[39]).
Nhìn kết quả chữ Quốc Ngữ sau 400 năm giữ gìn, tôn tạo và phát triển, chúng ta sẽ không thấy có điều gì kinh ngạc với khoảng thời gian dài dằng dặc như thế; nhưng nếu xem lại vài “cột mốc của một thuở ban đầu” nghiên cứu và thiết dựng, chúng ta sẽ không ngần ngại cho rằng: thành tựu “Quốc Ngữ” đó chính là một “phép lạ”.
– Năm 1615: Nhóm thừa sai Dòng Tên cập bến Cửa Hàn, Quảng Nam.
– Năm 1618: Cư sở truyền giáo chính thức đầu tiên của Dòng Tên được thiết lập tại Nước Mặn, Qui Nhơn với ưu tiên hàng đầu: “chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ”[40].
– Năm 1651: Hai tác phẩm “Quốc Ngữ” đầu tiên được linh mục thừa sai Alexandre De Rhodes xuất bản tại Vatican: Cuốn Tự điển Việt-Bồ-La và cuốn Phép giảng tám ngày.[41].
– Năm 1772: Đức Giám Mục Bigneau de Béhaine soạn tự điển Anamitico-Latinum: Quốc ngữ đạt tới độ chín muồi với tác phẩm thi ca Quốc ngữ tiêu biểu được soạn tác và lưu hành: Inê Tử đạo vãn của linh mục Laurent Huỳnh Lâu[42].
– Năm 1838: Đức Giám Mục Jean Louis Taberd bổ sung và hoàn thiện tự điển Anamitico-Latinum 1772 cùng với việc giới thiệu “văn chương Quốc ngữ cho thế giới” khi cho in vào cuốn tự điển quan trọng nầy thi phẩm “Inê Vãn Tử Đạo” với 4 ngôn ngữ: Quốc ngữ, La tinh, Anh và Pháp. Đây cũng là thời điểm xuất hiện tác phẩm văn xuôi quốc ngữ hoàn chỉnh tiêu biểu: Sổ sang chép các việc của linh mục Philipphê Bỉnh (1822)[43].
Như vậy, từ tác phẩm Quốc ngữ đầu tiên xuất hiện dưới dạng thô sơ cơ bản (Tự điển Việt Bồ La – Phép Giảng Tám Ngày năm 1651) tới cuốn tự điển Taberd 1838 cùng với 2 tác phẩm tiêu biểu đại diện: văn vần với “Inê Tử Đạo vãn” và văn xuôi với “Sổ sang chép các việc”, chữ Việt với mẫu tự La Tinh đã sánh vai bên cạnh các ngôn ngữ quan trọng và thông dụng nhất của thế giới lúc bấy giờ (La Tinh, Anh, Pháp). Vâng, Việt Nam đã có chữ viết, một thứ chữ viết mà rất nhiều quốc gia, dân tộc ước mơ, dò dẫm, thử nghiệm…nhưng cho đến nay vẫn đành “bó tay” !
II. SỰ KHÔN NGOAN CỦA MẸ HỘI THÁNH: ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH THỨC
Nếu lấy thời điểm “1659”, thời điểm thiết lập các giáo phận Tông Toà đầu tiên tại Việt Nam và Trung Hoa, làm cột mốc, thì con thuyền Hội Thánh đã ra khơi hơn mười sáu thế kỷ. Trong một khoảng thời gian dài thăm thẳm đó, ngoài những “định hướng của Tin Mừng”[44], hành trang cốt yếu, gần như chưa có một “tấm bảng chỉ đường” rõ ràng và cụ thể nào để hướng dẫn cho các thừa sai hoạt động loan báo Tin Mừng, đặc biệt trong lãnh vực văn hoá, văn học, như chúng ta đang có ngày hôm nay.
Tuy nhiên, vì phần đông các nhà truyền giáo đều là các tu sĩ, nên, nhờ ánh sáng linh đạo của mỗi Hội Dòng, những kinh nghiệm “thừa thượng tiếp hạ” trao đổi cho nhau, cùng với những kiến thức còn lưu giữ hay thu thập được, công cuộc truyền giáo cứ thế mà tiến bước, phát triển. Cho nên có thể nói được, những “quyết sách” của Toà Thánh về công cuộc truyền giáo trong mọi thời, đặc biệt vào thế kỷ XVII, XVIII, phần lớn có sự đóng góp không nhỏ về kinh nghiệm và phương thức hành động của các tu sĩ các Hội Dòng.
1. Lắng nghe kinh nghiệm xương máu của các thừa sai
Nhưng không phải Hội Dòng nào cũng dễ dàng thành công trong công cuộc “chài lưới người”. Theo nhà nghiên cứu, linh mục Roland Jacques, từ thế kỷ XVI, với nhiều đợt liên tiếp nhau, tiếp cận cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài, nhưng các thừa sai của các Hội Dòng Phanxicô và Augustinô thuộc Bồ Đào Nha hoặc Tây Ban Nha đều gần như thất bại: “Ký sự của các tu sĩ dòng Phanxicô và dòng Augustinô hé cho thấy rằng vào dịp nầy việc gặp gỡ giữa các nền văn hoá thực như là một đối thoại giữa những người điếc. Nó không đem lại những kết quả thấy được một cách cụ thể trong bối cảnh Việt Nam”[45].
Nhưng may mắn, Toà Thánh thì không điếc ! Nhất là khi Toà Thánh chính thức thiết lập Thánh Bộ Truyền Giáo vào ngày 22.6.1622, mà người điều hành thực chất lại là một vị Thư ký năng động, nhiệt thành và rất biết lắng nghe. Đó là Đức ông Francesco Ingoli, Thư ký Thánh Bộ suốt 27 năm (1622) cho đến khi qua đời (1649): “Ngài thích thú lắng nghe họ và hỏi thăm tỉ mỉ hiện trạng các nơi họ truyền giáo. Ngài dám ngỏ lời với ngay cả những thừa sai nhỏ bé nhất, xin họ góp ý để làm sao phát triển được công cuộc truyền giáo”[46].
Và sau khi tổng hợp các bản phúc trình: bản “phúc trình 1622 của Dòng Tên” và nhất là ba bản tường trình thuộc Thánh Bộ mà đức ông Ingoli có trong tay (tường trình 1625, 1628 và 1644)[47], Toà Thánh qua Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin đã sẵn sàng cho một “chương trình hành động” mới mẻ và thích dụng: “Điều đáng kể là Thánh Bộ đã có được một chương trình rõ ràng và rất thích ứng với những nhu cầu cụ thể và với những vấn đề truyền bá đức tin. Dựa theo đó, Thánh Bộ có thể hướng dẫn các thừa sai một cách thống nhất và Thánh Bộ có sẵn chương trình để quy chiếu”[48].
“Chương trình hành động” đó chính là văn kiện “Huấn thị 1659”[49], mà nếu mang tên theo truyền thống của Giáo Hội là các văn tự đầu tiên, thì đó là “Quoniam vos ea estis diligentia” (Bởi vì chư huynh rất đổi mau lẹ lo công việc)[50].
Dĩ nhiên, để có được văn kiện Huấn thị 1659 không phải chỉ một sớm một chiều; hoặc do các động lực từ các bản phúc trình của các Dòng tu mà còn với bao nhiêu tác động khác của lịch sử và bối cảnh mục vụ đương thời: Dư âm tinh thần canh tân và truyền giáo của Công Đồng Trento, sự hấp dẫn của trào lưu “tìm đất mới” của các đoàn thám hiểm Âu Châu, việc khuếch trương thương mại đường biển và kỹ thuật đóng tàu viễn dương; và nhất là sự thoái trào và kém hiệu quả của chế độ “Bảo Trợ Truyền Giáo”… Tất cả đều là những chất xúc tác để Giáo Hội Mẹ tìm ra những phương án thích hợp cho sứ vụ truyền giáo của mình[51].
2. Định hướng mang tính chỉ đạo: Huấn thị 1659
Giờ đây, chúng ta cùng dừng lại nơi chính bản văn để xét xem Huấn thị 1659 đã định hướng thế nào về văn hoá, văn học trong mục vụ truyền giáo; và dĩ nhiên, chỉ nêu bật những điểm chính liên quan.
2.1. Tôn trọng cổ tục bản xứ:
“Chư huynh đừng bao giờ muốn sửa đổi, đừng tìm lý lẽ nào để buộc dân chúng sửa đổi những phép xã giao, tập tục, phong hóa của họ, trừ khi nó hiển nhiên mâu thuẫn với đạo thánh và luân lý. Có gì vô lý bỉ ổi hơn mang theo cả nước Pháp, Tây Ban Nha, nước Ý, hay bất cứ nước nào khác bên trời Âu sang cho dân Trung Hoa chăng? Không phải mang thứ ấy đến cho họ, bèn là mang chân lý đức tin, một chân lý không loại trừ nghi lễ và tập tục của bất cứ một dân tộc nào, cũng không xúc phạm đến những nghi lễ ấy, miễn là chúng không xấu; ngược lại, chân lý ấy, muốn cho người ta bảo tồn và duy trì chúng là đàng khác.
Có thể nói, tự nhiên ai ai cũng cho những cái của mình và nhất là của quê hương xứ sở mình là hơn tất cả, và yêu mến những báu vật đó hơn những cái của ngoại lai. Nguyên việc sửa chữa những quốc lệ của người ta cũng đủ gây lòng oán hận sâu đậm rồi, nhất là những tập tục cổ đã có lâu đời nhất mà các tiền nhân vẫn có thể nhớ tông tích. Càng tệ hơn nữa nếu chư huynh hủy bỏ những tập tục đó để đem phong tục quí quốc mà thay thế vào ! Vậy đừng bao giờ nên đem những tục lệ Âu châu đến đối lập với tục lệ của các dân tộc ấy; trái lại hãy hết lòng sống cho quen với tập tục của họ”[52]…
2.2. Về vấn đề văn hóa, văn học:
“Hơn nữa, để cổ võ việc viết sách và khảo cứu đạo giáo trong những miền đó, cần phải dịch từ tiếng la tinh hoặc Hy Lạp sang tiếng địa phương một số sách thần học của các thánh nhân và những sách khác như vậy. Cho nên, chư huynh hãy cẩn thận tìm tại nơi chư huynh ở hoặc nơi khác một cộng sự viên nào khả dĩ chu toàn công việc ấy, nghĩa là thạo cả hai ngôn ngữ và cả đạo lý. Tìm được người nào, hãy trình cho Thánh Bộ được rõ.
Chư huynh hãy tận tâm và gắng lo sáng lập nhiều trường học để dạy miễn phí la ngữ cho thanh thiếu niên bản xứ, còn giáo lý thì dạy bằng tiếng bản quốc. Hãy lo sao cho các phụ huynh công giáo giao con em theo học với chư huynh cùng với các cộng sự viên của chư huynh chứ đừng để chúng theo học người bên lương”[53].
2.3. Vẫn rất hợp thời:
Chúng ta hoàn toàn đồng ý với linh mục tác giả linh mục Đào Quang Toản về giá trị tuyệt vời của định hướng mang tính “Hội nhập văn hoá” của Huấn Thị 1659, khi nhận xét bằng những “lời có cánh”: “Những lời của Huấn Thị năm 1659 được coi là tuyệt diệu nhất, tiến bộ nhất, được biết đến nhiều nhất và được ca tụng nhiều nhất là những lời nầy …”[54]. Và những nguyên tắc hội nhập văn hoá của Huấn thị 1659 chắc chắn sẽ không thiếu trong tinh thần của Vatican II mà chúng ta có thể đọc thấy nơi các văn kiện như: Lumen Gentium (số 16); Ad Gentes (số 9); Gaudium et Spes (số 54); Tuyên ngôn Nostra Aetate (số 2)…
Và Huấn thị 1659 chắc chắn sẽ là một “hướng đi tiên phong”, một gợi hứng cho tông huấn Giáo Hội tại Á Châu của Đức thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sau 340 năm (1659-1999): “Trong quá trình gặp gỡ các nền văn hóa khác của thế giới, Giáo Hội không những truyền sang các chân lý và những giá trị của mình và đổi mới các nền văn hóa từ bên trong, nhưng Giáo Hội cũng tiếp thu từ các nền văn hóa khác nhau, những yếu tố tích cực có sẵn trong các nền văn hóa đó. Đó là con đường bắt buộc cho những nhà rao giảng Tin Mừng khi trình bày đức tin Kitô giáo”[55].
3. Định hướng mang tính thực hành: Công nghị 1664 (Monita ad missionarios)
Nếu Huấn thị 1659 mang tính “định hướng chỉ đạo” dành riêng cho các vị chủ chăn, đặc biệt cho các Giám Mục Tông Toà như danh tính văn kiện thường được biết đến: Huấn dụ các đại diện tông tòa đi các nước Trung Quốc, Đàng Ngoài và Đàng Trong năm 1659 (Instructio vicariorum apostolicorum ad regna Sinarum, Tonchini et Cocincinae proficiscentium 1659)[56], thì Công nghị 1664 với văn kiện Monita ad Missionarios lại là “định hướng thực hành”, dành cho những ai trực tiếp dấn thân thực hành “mục vụ truyền giáo”.
Chúng ta thử dừng lại một vài chiều kích trong định hướng của Monita.
3.1. Tìm hiểu thực trạng
“Vậy… cố gắng hết sức để tìm hiểu tình trạng của nơi truyền giáo… ; nghiên cứu cặn kẽ phong tục địa phương và các sở thích của dân chúng… ; khám phá mọi thứ liên quan đến tôn giáo của dân địa phương, những nghi lễ và những sai lầm phổ biến nơi họ… ; tìm hiểu kỹ thời kỳ mới du nhập đạo, lịch sử xuất phát, những phương thức được các đấng thừa sai dùng để củng cố ngọn đuốc đức tin và chủ yếu những người đã thành công nhất; cuối cùng nếu có sự gián đoạn trong việc phát triển các xứ truyền giáo, thì lý do là gì và lúc đó cách ứng xử của các thừa sai ra sao?… ;”[57].
3.2. Học ngôn ngữ
“Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã không sai các thánh Tông đồ đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian mà không trước tiên ban cho các ngài ơn nói các thứ tiếng (Cv 2,4). Điều đó rõ ràng cho thấy sứ vụ rao giảng kéo theo sự cần thiết học các thứ tiếng, bởi vì Thiên Chúa, trong sự khôn ngoan của Ngài, đã muốn rằng đức tin lan truyền bằng phương thức rao giảng. Thật vậy, “Ấy vậy, tin là do bởi đã được nghe, còn nghe là nhờ việc rao giảng Lời Đức Kitô” (Rm 2,17) (…). Gương thánh Fr. Xavier cho thấy khá rõ: ngay cả khi được sự trợ giúp của người thông dịch khéo nhất, vị thừa sai cũng ít thành công, nếu chính ngài không tinh thông ngôn ngữ của xứ đó (Tursel., Vita S.Fr. Xav., lib. 7, c. 2). Và ngài sẽ không được quên là ngài chỉ nhằm vào việc học ngôn ngữ bác học và văn chuơng đến mức mà sao nhãng ngôn ngữ bình dân được quảng đại dân chúng sử dụng, ngài phải làm cho, không chỉ những nhà thông thái mà cả những người thất học cũng có thể hiểu ngài nói. Trong toàn bộ việc này, vả lại, ngài sẽ phải trông chờ nhiều hơn vào sự cầu nguyện hơn là chính việc học của mình” [58].
3.3. Ngôn ngữ cho mọi người
“Ngài sẽ cố gắng trước hết nói thứ ngôn ngữ vừa tầm mọi người. Ngài sẽ bỏ đi điều vượt quá trí khôn của những người bình thường mà kết quả duy nhất chỉ là làm lóa mắt họ. Sau cùng, để dùng lời của thánh Công đồng Trente “Ước gì ngài nuôi dưỡng bằng lời cứu rỗi những dân tộc được giao phó cho ngài, bằng cách giảng dạy mọi người điều cần thiết cho việc cứu rỗi và dạy điều ấy trong một ngôn ngữ dễ hiểu và ngắn gọn, bằng cách thu hút sự chú ý của họ về những thói hư tật xấu phải tránh và những nhân đức phải thi hành để khỏi sa hoả ngục và đón nhận vinh quang thiên quốc” (Sess. 4, c.2, de Reform.)”[59].
3.4. Phân định trong hội nhập văn hoá
“Về vấn đề này, ngài sẽ dành một phần quan tâm để tìm hỏi tập quán của dân địa phương, để phân biệt rõ ràng tính chất ngại ngùng của chúng: dân sự, chính trị hay mê tín? Ngài sẽ cố gắng lo báo cho Tòa Thánh biết mọi sự, ngài sẽ xin Tòa Thánh cho mình biết những tập quán nào sẽ phải lên án, đồng ý hay chiếu cố và nhất là cho ngài biết những phương cách phải dùng để tranh thủ các tâm hồn. Như thế, bằng cách làm mọi việc cho mọi người, ngài sẽ chinh phục mọi người đến với Chúa Giêsu Kitô”[60]…
4. Hạt giống đã đơm bông
Dĩ nhiên, không phải tất cả những gì Huấn thị 1659 và Monita ad missionarios đề xuất và chỉ đạo là hoàn toàn khả thi và được chấp hành nghiêm túc, như nhận xét thâm thuý và quân bình của một chứng nhân đương thời khi ấy, Joseph Metzler, về Huấn thị 1659 như sau: “Đương nhiên là chương trình truyền giáo rộng rãi đó, gần như mới mẻ về mọi điểm, không thể một sớm một chiều thực hiện được. Điều đáng kể là Thánh Bộ đã có được một chương trình rõ ràng và rất thích ứng với những nhu cầu cụ thể và với những vấn đề truyền bá đức tin. Dựa theo đó, Thánh Bộ có thể hướng dẫn các thừa sai một cách thống nhất và Thánh Bộ có sẵn chương trình để quy chiếu…”[61].
Phải chăng, nhờ những định hướng mục vụ thích dụng đó mà công việc hội nhập văn hoá đã được áp dụng cụ thể, việc vận dụng con đường văn học, thi ca để chuyển tải Tin Mừng không là chuyện “xa xỉ” hay trừu tượng, mây gió, mà trở thành khí cụ hữu hiệu, mang lại lợi ích thiết thực cho công cuộc loan báo Tin Mừng lúc bấy giờ.
Thật vậy, nếu các tác phẩm Quốc ngữ đầu tiên, tự điển Việt Bồ La và Phép Giảng Tám ngày, được in ấn tại nhà in của Thánh Bộ Truyền Giáo và phát hành tại kinh đô của Giáo Hội vào năm 1651[62], thì chắc chắn, công trình văn hoá văn học Quốc ngữ đầu tiên nầy, sẽ nhờ sự hậu thuẫn của Huấn thị 1659, cũng từ Trung tâm Giáo đô này, và “đôi cánh tinh thần” của Công Nghị 1664 với Monita ad missionarios làm cho lớn lên, bay bổng và gieo hạt giống Tin Mừng trên khắp các cánh đồng truyền giáo Việt Nam.
KẾT: VĂN HOÁ, VĂN HỌC HAY LỜI CHÚA VÀ “DÁNG ĐỨNG NHÂN LOẠI”
Chọn lựa cách “hội nhập văn hóa” để chuyển tải Tin Mừng, để loan truyền chân lý cứu độ sao cho hiệu quả và phong phú, cách làm của Cha Ông ta đó nào đâu có phải là chuyện mới mẻ gì đâu! Từ thuở xa xưa khi bộ tộc của Israel còn trong thời “ăn lông ở lỗ”, khi tổ phụ của dân tộc họ, cụ Ápraham còn lang thang trên các thảo nguyên sống đời du mục, Thiên Chúa đã áp dụng nguyên tắc “hội nhập văn hóa” mang tính “nhập thể” rồi. Có nghĩa là Lời Mạc Khải của Thiên Chúa khi đi vào thế giới đã chọn đi qua “một chiếc cửa nhân loại” là “lịch sử của dân tộc Israel” với tất cả những yếu tố nhân văn, địa lý, xã hội, chính trị, kinh tế, pháp luật, lịch sử… của dân tộc nầy. Toàn bộ tuyệt tác Thánh Kinh Cựu và Tân ước phải chăng là “Lời mạc khải nhập thể giữa lòng nhân loại qua lịch sử của dân tộc Israel”, là cuộc “hội nhập văn hóa” của chính Thiên Chúa để chuyển tải cho nhân loại những chân lý của trời cao, một cuộc hội nhập thiết thân, sâu sắc như mưa, như tuyết thấm sâu trong mảnh đất trần gian:
“Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời
không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,
cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,
thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta,
sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,
chưa thực hiện ý muốn của Ta,
chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.” (Is 55, 10-11).
Cũng chính với nguyên tắc “hội nhập văn hóa” đó, mà chúng ta tìm thấy ngôn ngữ của Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước mang nhiều “dáng đứng” khác nhau, theo trào lưu lịch sử văn hóa xã hội của dân tộc Israel: Từ thể văn mang tính huyền thoại, cổ tích (Sáng Thế, Tin mừng thời thơ ấu), đến anh hùng ca lịch sử (Xuất Hành, Samuen, Macabêô…), pháp đình lề luật, phụng tự (Thứ luật, Lêvi…), khải huyền tiên tri (Đanien, Êgiêkien, Khải huyền của Thánh Gioan…), châm ngôn huấn đạo (Khôn ngoan, Châm Ngôn, Giảng Viên..), thi ca trữ tình (Diễm tình ca), truyện ngắn tình yêu (Hôsê…), ca kinh nguyện cầu (Thánh vịnh…).
Và khi “Ngôi Lời thành xác phàm và cắm lều ở giữa chúng ta” (Ga 1,14), thì Ngài cũng không làm gì khác hơn cái cách “sư phạm truyền thống” của Thiên Chúa. Ngài đã nói Lời Thiên Chúa bằng ngôn ngữ của dân tộc Ngài, Ngài đã vận dụng những chất liệu của cuộc sống đương thời để diễn tả các chân lý cao sâu của huyền nhiệm Nước Trời: Những hình ảnh chúng ta gặp thấy trong Tin Mừng như: “Người Mục Tử vác chiên trên vai”, “Cây nho sai trái”, “Tấm lưới thả xuống biển”, “Những cô trinh nữ cầm đèn đi đón tân lang”, “cây hoa huệ ngoài đồng”, “con chim se sẻ trên cành cây”… nào có xa lạ gì với đời thường của dân Israel thuở ấy. Quả thật “ngôn ngữ của Thiên Chúa mang dáng đứng nhân loại” là thế đó !
Thật không “phải đạo” chút nào nếu Hội Thánh lại đi ngược hay không chọn đi con đường mà Thiên Chúa đã chọn, mà Đức Kitô đã đi: con đường nhập thể, con đường “hội nhập văn hóa”. May mắn làm sao, trên cuộc hành trình sống và chuyển tải đức tin suốt hơn 2000 năm nay, Hội Thánh đã vận dụng mọi yếu tố tốt đẹp của văn hóa, văn minh con người trong việc diễn tả, sống và loan truyền chân lý đức tin.
Thánh Phêrô, Thủ lãnh các Tông Đồ, Giáo Hoàng đầu tiên, ngay từ những ngày đầu Hội Thánh đã được Thánh Thần linh ứng cần phải chọn lựa con đường “hội nhập đó qua thị kiến “tấm khăn lớn với đủ mọi thú vật, rắn rết…” (Cv 10, 9-16). Trong khi đó Thánh Phaolô, một vị Thánh ký, một thần học gia, một nhà truyền giáo vĩ đại đã tóm gọn nguyên tắc nầy trong mấy từ cô đọng và súc tích: “Không còn chuyện phân biệt Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3, 28). Và thế là Hội Thánh lớn mãi lên, vươn mình trên mọi miền thế giới, mang Tin Mừng Chúa Kitô rắc gieo trên khắp các cánh đồng văn hóa thế giới; và cứ như thế, Tin Mừng của Chúa đã mang “dáng đứng” của nhiều dân tộc, nhiều ngôn ngữ, nhiều loại hình văn hóa, lễ nghi, phụng tự… của mọi dân trên khắp địa cầu.
Công Đồng Vatican II đã long trọng xác nhận điều đó như một nguyên lý nền tảng để hình thành và xây dựng Giáo Hội: “Giáo Hội, tức Dân Thiên Chúa, họp thành Nước ấy, không loại bỏ di sản trần thế của bất cứ dân tộc nào; trái lại, Giáo Hội cổ võ và thu dụng tất cả những gì tốt lành nơi tài sản, nguồn lực và phong hóa của các dân tộc, và khi thu dụng, Giáo Hội tinh luyện, kiện toàn và thăng hóa chúng” (LG số 12). Trong khi đó, với Tông huấn “Ecclesia in Asia” (Giáo Hội tại Á Châu), Đức Gioan Phaolô II đã có những giáo huấn rạch ròi: “Từ viễn ảnh nầy, thấy rõ ràng việc Phúc Âm hóa và hội nhập văn hóa liên hệ với nhau cách tự nhiên và mật thiết. Tin mừng và việc rao giảng Tin Mừng chắc chắn không đồng hóa với văn hóa, không tùy thuộc vào nó. Nhưng Nước Thiên Chúa đến với muôn dân là những người liên kết sâu xa với một nền văn hóa, và do đó việc xây dựng Vương Quốc không tránh khỏi mượn các yếu tố từ các nền văn hóa nhân loại. Vì vậy, Đức Phaolô VI nói việc tách biệt Tin Mừng ra khỏi văn hóa là thảm trạng của thời đại chúng ta, gây ảnh hưởng sâu xa trên cả việc rao giảng Tin Mừng và nền văn hóa” (GHTAC số 21).
May mắn làm sao ! Những nguyên tắc nầy, những định hướng nầy đã được Cha Ông ta áp dụng từ lâu. Thật vậy, không đợi phải có “Công đồng chung Vatican II với định hướng của Hiến Chế “Vui Mừng và Hy vọng”, không đợi đến những chỉ thị cụ thể có tính mục vụ thực tiễn của Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu”, ngay từ đầu, khi Tin Mừng được gieo trồng trên Đất Việt, Cha Ông ta đã biết thế nào là “Hội nhập văn hoá”, thế nào là “diễn tả Tin Mừng bằng ngôn ngữ và văn hoá bản địa”, thế nào là “trình bày ngôn ngữ Tin Mừng trong dáng đứng Việt Nam”. Và đó chính là diện mạo, là bản sắc của dòng chảy văn hoá, văn học Công Giáo giữa lòng dân tộc Việt Nam kể từ khi Tin Mừng được gieo trồng trên mảnh đất nầy.
[1] Vụ bánh mì không phải là lương thực: Tỉnh uỷ Khánh Hoà yêu cầu xử lý nghiêm, website https://tuoitre.vn/vu-banh-mi-khong-phai-la-luong-thuc-tinh-uy-khanh-hoa-yeu-cau-xu-ly-nghiem-2021072011281755.htm, đăng ngày 20.7.2021.
[2] T.SÂM, Đại biểu Quốc hội nói gì về đầu tư cho văn hóa?, website http://baovanhoa.vn/chinh-tri/artmid/417/articleid/23498/dai-bieu-quoc-hoi-noi-gi-ve160dau-tu-cho-van-hoa , đăng ngày 01.11.2019.
[3] Tản Đà (1889 -1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, người làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Sơn Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây). Làng ông nằm ven sông Đà, núi Tản Viên. Chọn bút danh Tản Đà, có lẽ nhà thơ ước muốn gửi gắm trong đó cả hồn thiêng sông núi quê hương mình.
[4] Bài thơ “Hầu Trời” in trong tập thơ “Còn Chơi” xuất bản năm 1921.
[5] Câu thơ mở đầu trong đại thi phẩm trường thiên lục bát “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du (1766-1820)
[6] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Niên Giám 2016, nxb Tôn Giáo 2017, tr.175.
[7] ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et missions), bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ, nxb Hồng Đức 2020, tr. 94.
[8] Sđd, tr. 75.
[9] CRISTOFORO BORRI, Xứ Đàng Trong, Thanh Thư dịch, nxb Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2019, tr. 49.
[10] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, nxb. An Tôn & Đuốc Sáng, đăng ký Bản quyền tại Hoa Kỳ tháng 06.2017, tr. 16-17.
[11] Sđd, tr. 48-55.
[12] ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, sđd, tr. 103.
[13] x. NGUYỄN THANH QUANG, Linh mục GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chữ Quốc ngữ, nxb Khoa Học Xã Hội 2020, tr. 20-28.
[14] CRISTOFORO BORRI, Xứ Đàng Trong, sđd, tr. 102.
[15] x. OLGA DROR & K.W. TAYLOR, Việt Nam thế kỷ XVII những góc nhìn từ bên ngoài, Hoàng Tịnh Thuỷ dịch, nxb Đà Nẵng 2020, tr. 179-205.
[16] Sđd, tr. 495.
[17] Sđd, tr. 494.
[18] CRISTOFORO BORRI, Xứ Đàng Trong, sđd, tr. 232-233.
[19] Sđd, tr. 234.
[20] Để hiểu rõ hai văn kiện nầy, xin giới thiệu tác phẩm mang tên “Bình vẫn chưa hề cũ” của linh mục Giuse Trương Đình Hiền, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2021.
[21] Sở dĩ xếp tác phẩm “Inê Tử đạo vãn” vào số các tác phẩm văn chương Quốc ngữ vì cho tới hôm nay, chưa có bằng chứng hiển nhiên nào xác định đó là tác phẩm viết bằng chữ Nôm, dầu là nguyên bản, thứ bản hoặc những chi tiết liên quan đến bản dịch hay người dịch; trái lại có một bằng chứng minh nhiên là tác phẩm được in bằng chữ Quốc ngữ, như một tác phẩm Quốc ngữ tiêu biểu, trong Tự Điển Dictionarium Anamitico – Latinum của Đức cha Jean Louis Taberd, xuất bản năm 1838. Chắc chắn đây là tác phẩm Quốc ngữ rất nổi tiếng và được lưu hành khá lâu trước đó nên đã được dịch sang ba thứ tiếng Anh, Pháp và La Tinh, cùng được các soạn giả tự điển chọn đăng vào cuốn tự điển Taberd trên như một “bài mẫu” của thể loại văn thơ “Vãn”. Một chi tiết nữa để khẳng định tác giả và dịch giả của bài vãn nầy chỉ là một: đó là linh mục Laurent Huỳnh Lâu. Bởi vì ngài là một linh mục thông thạo cả ba ngoại ngữ La Tinh, Anh, Pháp, là bào huynh của nhân vật chính “Inê”, và là một trong những người được xếp chung trong nhóm “kiện toàn chữ Quốc ngữ” vào giai đoạn hình thành cuốn tự điển Anamitico-Latinum của Đức Giám Mục Bá Đa Lộc. (x. ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Dòng Tên trong xã hội đại việt 1615-1773, nxb Tôn giáo 2008, tr. 454).
[22] TS. LÊ TÙNG LÂM – ĐÀO LÊ THANH HOÀNG, Bản chất sự ra đời của chữ Quốc ngữ, đăng trong Kỷ yếu Hội Thảo “Bình Định và chữ Quốc Ngữ”, nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh 2016, tr. 98: “Thế nhưng, từ khi các giáo sĩ Dòng Tên vào Việt Nam, họ đã tìm cách sáng tạo ra chữ Quốc ngữ để thay thế chữ Nôm của người Việt. Đây là một âm mưu thâm sâu của thực dân…”.
[23] LM. NGUYỄN ĐỨC THÔNG, Văn học Công Giáo chữ Nôm thế kỷ XVII, trích trong: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam – Uỷ ban Văn hoá, Bốn Trăm Năm Hình Thành và Phát triển Chữ Quốc Ngữ Trong Lịch Sử Loan Báo Tin Mừng Tại Việt Nam (Tài liệu Hội thảo 25&26/10/2019), tr. 293-299).
[24] NGUYỄN KHẮC XUYÊN, Địa vị chữ Nôm trong buổi tiếp xúc đầu tiên giữa Âu và Á thế kỷ XVII, trong Tạp chí Đại học Huế, số 15, tháng 5/1960, tr. 149-159.
[25] NGUYỄN THANH QUANG – Linh mục GIOAN VÕ ĐÌNH ĐỆ, Một số vấn đề chữ Quốc ngữ, nxb Khoa Học Xã Hội 2020, Girolamo Majorica một trong những người đầu tiên viết văn xuôi bằng chữ Nôm, Nguyễn Thanh Quang, tr. 141-146.
[26] LỮ Y ĐOAN, Sấm Truyền Ca, Testamenti Veteris 1670, nxb Hồng Đức 2020, tr. 11-16.
[27] LM. NGUYỄN ĐỨC THÔNG, Văn học Công Giáo chữ Nôm thế kỷ XVII, sđd.
[28] A. LAUNAY, Histoire de la mission de Cochinchine, III, Paris, 1925, tr. 510.
[29] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, nxb Tôn Giáo 2008, tr. 234.
[30] LM. NGUYỄN ĐỨC THÔNG, Văn học Công Giáo chữ Nôm thế kỷ XVII, sđd.
[31] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615-1773, sđd, tr. 234.
[32] LM. NGUYỄN ĐỨC THÔNG, Văn học Công Giáo chữ Nôm thế kỷ XVII, sđd.
[33] Sđd.
[34] Sđd.
[35] Sđd.
[36] ROLAND JACQUES, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam (Les missionnaires portugais et les débuts de l’ Église catholique au Viet-Nam), Biligue – Tome 1, nxb Định Hướng Tùng Thư 2004, tr. 31: “Việc áp dụng vần latinh làm chữ viết đã được xem như một hành động chính trị thù nghịch, một mưu đồ huỷ diệt văn hoá nhằm chia rẽ cộng đồng quốc gia và áp đặt một sự thống trị của ngoại quốc…”.
[37] ALEXANDRE DE RHODES, Hành trình và truyền giáo, sđd, tr. 85: “Đối với tôi, thú thật vừa tới Đàng Trong và nghe dân xứ này nói, nhất là phụ nữ, ôi tưởng như nghe chim hót và tôi không bao giờ mong có thể học được”.
[38] LƯƠNG NGUYÊN HIỀN, Chữ Quốc Ngữ nước ta từ Alexandre de Rhodes đến Trương Vĩnh Ký. Nguồn : https://thuvienhoasen.org/a30249/chu-quoc-ngu-chu-nuoc-ta-tu-alexandre-de-rhodes-den-truong-vinh-ky
[39] Sđd, MAI KIM ĐỊNH, Chữ Quốc Ngữ, tiếng Việt Nam, và Tu sĩ Alexandre de Rhodes.
[40] BAN BIÊN TẬP LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, sđd, tr. 96-97.
[41] Sđd, tr. 104-105.
[42] x. Ghi chú 21 ở trên. (x. ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Tản mạn lịch sử Giáo Hội Công Giáo, sđd, tr. 111).
[43] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Tản mạn lịch sử Giáo Hội Công Giáo, sđd, tr. 112.
[44] “Lệnh lên đường” trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mt 10, 1.5-14; Mc 6,7-13; Lc 9,1-6): Bản văn nầy đặc biệt liên quan đến “tư cách, thái độ, hành trang…” của “nhà truyền giáo” mà không ít tác giả gọi là “lệnh lên đường”: Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người nói: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và cũng từ đó mà ra đi. Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.” Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi. (Lc 9,1-6).
[45] ROLAND JACQUES, Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và …, sđd, tr. 55.
[46] LM. ĐÀO QUANG TOẢN, Giáo Hội Việt Nam năm 1659, nxb Phương Đông, 2010, trang 20.
[47] Sđd, tr. 26-43.
[48] Sđd, tr. 46.
[49] Nếu chọn cách gọi truyền thống về tên các văn kiện trong Giáo Hội (chọn các chữ đầu) thì đây là Huấn thị “Quoniam vos ea estis dligentia” (x. LM ĐÀO QUANG TOẢN, Giáo Hội Việt Nam năm 1659, tr. 46). Nếu chọn cách gọi theo đúng nội dung văn kiện thì đây là “Đầu đề của tư liệu này là: Instructio vicariorum apostolicorum ad regna Sinarum, Tonchini et Cocincinae proficiscentium 1659 (Huấn dụ các đại diện tông tòa đi các nước Trung Quốc, Đàng Ngoài và Đàng Trong năm 1659). (x. ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Hai Giám Mục đầu tiên tại Việt Nam, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2005, tr. 120).
[50] LM. ĐÀO QUANG TOẢN, Giáo Hội Việt Nam năm 1659, sđd, tr. 50.
[51] LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa hề cũ, Huấn thị 1659-Công nghị 1664, Kim chỉ nam truyền giáo thế kỷ 17, nxb An Tôn & Đuốc sáng 2021, tr. 22-33.
[52] Sđd, Phụ lục 1, tr. 159-160.
[53] Sđd, Phụ lục 1, tr. 163-164.
[54] LM. ĐÀO QUANG TOẢN, Giáo Hội Việt Nam…, sđd, tr. 78-79.
[55] ĐGH GIOAN PHAOLÔ II, EA, số 21.
[56] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ, Hai Giám Mục đầu tiên tại Việt Nam, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2005, tr. 120.
[57] LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa hề cũ, sđd, Phần Phụ Lục 2, tr. 199-200.
[58] Sđd, tr. 201.
[59] Sđd, tr. 221.
[60] Sđd, tr. 244.
[61] LM. ĐÀO QUANG TOẢN, Giáo Hội Việt Nam năm 1659, sđd, tr. 43.
[62] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ., Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, nxb Tôn giáo 2008, tr. 119-120.
2021
Giáo dục hướng đến vĩnh cửu
Thiên Chúa đã gọi các bạn ra khỏi hư vô không chỉ để có thể hiện hữu, mà còn để hiện hữu trong sự thánh thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa đã gọi các bạn hiện hữu để các bạn nên thánh thiện.
Tác giả: Cha Jared Ortiz
Chuyển ngữ: Lm. Giuse Nguyễn Thanh Phong
Nguồn: catholicworldreport.com (29.05.2021)
GIÁO DỤC LÀ GÌ ? Đâu là mục đích của nó? Làm thế nào để biết mình đã đón nhận nền giáo dục tại trường không chỉ là bằng cấp, mà còn là một nền giáo dục? Và, việc giáo dục của chúng ta đã kết thúc chưa?
Để bắt đầu đề cập đến những câu hỏi này, chúng ta hãy bắt đầu nhìn vào hạn từ “giáo dục”. Từ “giáo dục” đến từ e-ducere* trong tiếng Latinh, nghĩa là “dẫn ra hay vượt ra”. Và chúng ta nên hỏi, “dẫn ra khỏi cái gì?” Nhìn chung, điều này có thể được hiểu là vượt khỏi thời thơ ấu để vươn đến trưởng thành; từ dốt nát đến hiểu biết; từ hỗn độn đến trật tự; hoặc, như ngụ ngôn về cái hang trong tác phẩm Cộng hòa của Plato, vượt khỏi bóng tối của quan điểm để vươn đến ánh sáng của chân lý. Từ này cũng có thể có nghĩa là “triệu tập” hoặc “gọi ra”. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể nhắc đến cuộc tranh luận của Plato về “nhớ lại”: có những chân lý bên trong tâm hồn chúng ta được gợi lên nhờ một người thầy giỏi, khi làm như thế, họ cũng tạo nên tâm hồn chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta cũng có thể nghe thấy tiếng vọng ơn gọi của mình, là việc Thiên Chúa “kêu gọi” chúng ta để trở nên điều Ngài muốn khi dựng nên chúng ta.
(*Có hai gốc từ Latin khác nhau của hạn từ “education”: educare với nghĩa đào tạo, uốn nắn và educere với nghĩa dẫn ra, vượt ra như tác giả diễn giải.)
Người Hy Lạp cổ đại sử dụng từ παιδεια (paideia) cho “giáo dục”. Thuật ngữ này không dễ có hạn từ tương đương trong tiếng Anh. Đôi khi nó được dịch là “văn hóa” như trong cụm từ “một người có văn hóa”, nghĩa là một người có học thức, ăn nói rõ ràng, có khiếu thẩm mỹ tốt và phong thái chững chạc. Có lẽ người Rôma đã làm một điều đáng yêu khi dịch paideia sang tiếng Latinh là huminitas. Mục tiêu của paideia, mục tiêu của giáo dục là con người, tức là tạo nên một con người toàn diện, có sức mạnh tâm trí hoàn toàn sinh động và đúng đắn. Giáo dục có nghĩa là tạo nên một con người toàn diện. Người xưa tin rằng chúng ta được tạo ra để sống trong chân, thiện, mỹ; để sống đúng với phẩm giá trọn vẹn của chúng ta như những sinh vật có lý trí. Như thế, giáo dục được hiểu là con đường thành nhân và dẫn đến khôn ngoan đích thực (Cf. Stratford Caldecott, Beauty for Truth’s Sake).
GIÁO DỤC BẮT ĐẦU VỚI CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG
Nếu giáo dục là tạo nên con người toàn diện, là con đường dẫn đến thành nhân và khôn ngoan đích thực, thì hành trình này bắt đầu từ khi nào? Hành trình này bắt đầu khi Chúa gọi các bạn hiện hữu từ hư vô. Nó bắt đầu khi Thiên Chúa cấu tạo nên hữu thể thâm sâu và dệt nên hình hài các bạn trong bụng mẹ (Tv 139, 13). Và Thiên Chúa không tạo ra các bạn như một tấm bảng trắng để được viết đầy bởi xã hội hay sở thích, nhưng Ngài đã tạo thành mỗi và từng người trong các bạn với một định mệnh, một mục đích, với mục tiêu là kết hợp với Ngài trong một mối dây liên kết bền chặt của tình yêu và biến đổi thành Ngài mãi mãi.
Điều đó làm chúng ta nên khiêm tốn biết rằng, nguồn gốc cuộc sống hoàn toàn mầu nhiệm với chúng ta. Chúng ta đã không tạo ra chính mình và cũng không có ký ức về sự tồn tại ban đầu của mình. Việc chúng ta hiện hữu phụ thuộc vào lựa chọn vĩnh cửu của Thiên Chúa là chúng ta hiện hữu và gần hơn là sự hiện hữu của chúng ta tùy thuộc vào tình yêu của cha mẹ, những người đã đưa chúng ta vào thế giới này. Sự trao ban cuộc sống này sẽ dạy chúng ta rằng mình không phải là chủ nhân của cuộc đời, nhưng cuộc sống này giống như một món quà mà chúng ta hoàn toàn không xứng đáng nhận lãnh. Đây là chân lý nền tảng về thực tại: sự hiện hữu của chúng ta cũng như của vạn vật là một quà tặng.
GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
Vì vậy, sự hình thành con người của các bạn, việc giáo dục của các bạn bắt đầu khi Chúa tạo thành và ban cho các bạn một định mệnh. Nhưng trực tiếp hơn, cha mẹ của các bạn chắc chắn là những nhà giáo dục đầu tiên. Và họ đã dạy các bạn những gì? Trước hết, họ dạy về tình yêu vô điều kiện. Hãy tưởng tượng các bạn là một đứa trẻ sơ sinh: các bạn đã từng làm gì cho cha mẹ mình? Những đêm mất ngủ, quần áo lấm lem, khóc lóc nghiến răng nghiến lợi. Chưa hết, cha mẹ của các bạn đã dành cả cuộc đời của họ để chăm sóc bạn – một thụ tạo quý giá và yếu đuối. Đó không phải bởi vì các bạn đã làm điều gì cho họ, mà vì sự hiện hữu của các bạn là một thiện hảo. Một sự thiện tự thân. Sự hiện hữu của các bạn là một món quà, và cha mẹ yêu thương các bạn vì các bạn là của họ. Vậy nên, đối với các bạn, cha mẹ chính là hình ảnh đầu tiên về Thiên Chúa.
Cha mẹ các bạn không chỉ thể hiện tình yêu thương vị tha này mà còn dạy các bạn biết yêu thương. Họ thủ thỉ với bạn, ngoáy mũi và chơi đùa với những ngón chân cho đến khi các bạn lần đầu mỉm cười, phá lên cười và nhận ra một khuôn mặt khác. Cha mẹ đã “gợi lên” tình yêu từ nơi các bạn.
Họ đã dạy các bạn nói, gọi tên đồ vật, và biết phân biệt trong thế giới. Nghĩa là, họ đã dạy các bạn sử dụng lý trí, khả năng khiến con người khác với các loài vật khác. Họ đã dạy các bạn bước đi. Nghĩa là, dạy các bạn phải đứng thẳng, tư thế phù hợp nhất với một sinh vật có lý trí. Họ đã tập đi cho các bạn bằng cách nắm tay và đỡ lấy khi các bạn vấp ngã. Nhiều dấu hiệu hơn cho thấy tình yêu và sự chăm sóc của cha mẹ dành cho các bạn. Cha mẹ đã dùng nhiều cách thức để bày tỏ dung mạo của Thiên Chúa cho các bạn.
Cha mẹ đã dạy các bạn nói “làm ơn” và “cảm ơn”. Đây không chỉ là vấn đề cư xử tử tế, mà còn là sự giáo dục về lòng nhân ái và biết ơn, cũng như phản ánh một chân lý nền tảng về sự hiện hữu của chúng ta. Nói “làm ơn” là thừa nhận rằng tham lam và chiếm đoạt không phải là cách phù hợp với thế giới. Chúng ta không phải là bạo chúa, mà là “những người nhận” vốn phụ thuộc vào lòng hảo tâm của người khác. Nói “cảm ơn” là nhìn nhận bản chất quà tặng của thực tại. Tất cả là quà tặng. Và, như cha mẹ đã dạy các bạn, lời đáp trả cân xứng đối với quà tặng chính là lòng biết ơn. Điều này được khắc ghi vào chính con người của chúng ta. (Cf. D.C. Schindler)
Vì vậy, những gì cha mẹ làm, tự nhiên dạy chúng ta một số chân lý siêu nhiên. Nhưng, chúng ta cũng có thể xoay chuyển điều này một chút: sự hiện hữu của các bạn cũng là bài học đối với cha mẹ, khiến họ trở nên nhân bản hơn. Nhiều bậc cha mẹ đã nói rằng, khi có con cái, họ bớt ích kỷ, biết hy sinh, trách nhiệm, sống nghiêm túc, đạo đức và biết trân trọng cha mẹ của mình hơn. Một lần nữa, con cái không đặt ra mục tiêu dạy cho cha mẹ thành nhân và trở nên khôn ngoan, nhưng Chúa đã khắc ghi đường lối sư phạm này vào cấu trúc cuộc sống con người (the fabric of existence).
GIÁO DỤC HỌC ĐƯỜNG
Giờ là lúc thích hợp để đề cập đến việc học chính quy của các bạn! Bởi vì giáo dục là đào tạo con người toàn diện và là con đường dẫn đến thành nhân và khôn ngoan đích thực, giáo dục chân chính bắt đầu trước khi chúng ta chính thức đến trường cũng như sẽ tiếp tục kéo dài sau đó. Và, thành thật mà nói, nhiều người trong chúng ta từng trải nghiệm thời đi học, ít là từ mẫu giáo đến lớp 12, không phải như là những gì phát triển bản tính con người và khôn ngoan, nhưng là ngược lại. Tuy nhiên, sâu xa hơn, việc giáo dục của chúng ta kéo dài suốt đời vì như Đức Giêsu đã nói, chúng ta chỉ có một người Thầy duy nhất là chính Đức Kitô (Mt 23, 8).
Giờ đây chúng ta nên đề cập đến việc giáo dục học đường, nhất là giáo dục khai phóng (liberal arts: chỉ những môn ở trường đại học hay cao đẳng như lịch sử, khoa học, văn chương, nhắm đến việc nâng cao kiến thức tổng quát (đại cương) cho sinh viên hơn là một chuyên ngành riêng biệt nào đó). Khai phóng là gì? Khai phóng ở đây không phải là một thuật ngữ chính trị – không phải là khai phóng đối lập với bảo thủ. Ngành khoa học nhân văn (Liberal arts) có thể tương phản với ngành thực tiễn, chẳng hạn như ngành thợ rèn, thợ đóng giày hoặc thợ máy, những nghề thủ công này cung cấp nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. “Khai phóng/Liberal” có nghĩa là tự do. Từ “arts” xuất phát từ tiếng Latinh ‘ars’ có nghĩa là “nhân đức” (một nhầm lẫn từ cùng gốc từ trong tiếng Hy Lạp là arete). Vậy thì, liberal arts là những nhân đức của con người tự do. Đó là những kỹ năng và thói quen của trí óc, trái tim và cơ thể cho phép chúng ta trở thành con người hoàn toàn tự do và phát triển; chúng là những phẩm chất của tâm hồn giúp chúng ta thực sự sống động.
Theo người Hy Lạp và Rôma cổ đại, tự do nghĩa là phải có kỷ luật. Tâm trí phải được rèn luyện, nhưng cả cơ thể và linh hồn cũng thế. Cơ thể phải rèn luyện tính ôn hòa, kẻo sinh viên/học sinh hành động như dã thú. Cảm xúc và ước muốn phải được huấn luyện để chúng phản ứng thích hợp trong những tình huống khác nhau. Tâm trí phải có kỷ luật để có thể theo đuổi sự thật và đi vào chiều sâu của thực tại.
Tự do có được là nhờ kỷ luật mặc dù điều này thoạt nghe có vẻ trái ngược, nhưng tất cả chúng ta đều biết điều này là chân lý. Hãy nghĩ về kỷ luật cần thiết để chơi thành thạo piano hoặc một môn thể thao. Có kỷ luật cho phép chúng ta tự do, tự do chơi nhạc Mozart hoặc Chopin. Tự do để chơi bóng xuất sắc. Tự do để chơi giỏi và phù hợp với những gì tốt nhất trong âm nhạc hoặc thể thao. Điều gì đúng với âm nhạc và thể thao thì càng đúng về đời sống đạo đức và trí thức.
Khi các Kitô hữu xuất hiện, họ đã đón nhận viễn cảnh giáo dục này nhưng cũng đã biến đổi nó. Họ hiểu rằng, con người tự mình không phải là cùng đích vì đây là một chân trời quá giới hạn. Các Kitô hữu nhận ra rằng chỉ có một cùng đích siêu việt mới thực sự có thể đưa con người đến tầm vóc viên mãn. Thánh Augustine đã có một câu nói nổi tiếng “Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con sẽ khoắc khoải không yên cho đến khi an nghỉ trong Ngài” (Cf. Tự thuật, 1.1.1). Thiên Chúa là cùng đích và bằng cách hướng tới Ngài, con người có thể đạt đến sự thành toàn đích thực, người ấy có thể được hoàn thiện, và phát huy tối đa tất cả năng lực. Các Kitô hữu đã chấp nhận định nghĩa về giáo dục được đưa ra ở trên: giáo dục là con đường thành nhân và dẫn đến khôn ngoan đích thực, nhưng giờ đây, trong Đức Kitô, giáo dục mang một chiều kích hoàn toàn mới. Đức Kitô là Ađam mới, là người đứng đầu một nhân loại mới, và Ngài cho chúng ta thấy đâu là nhân tính đích thực và khôn ngoan thần linh.
Nếu đã hoàn thành việc học tại trường, thì các bạn đã được chuẩn bị không chỉ cho một sự nghiệp sinh lợi nào đó, nhưng còn đào luyện được cơ thể, trái tim và khối óc của mình. Các bạn đã yêu mến Chân, Thiện, Mỹ và nhận ra rằng Đức Kitô là trung tâm của mọi sự.
GIÁO DỤC SAU TỐT NGHIỆP
Tất cả các bạn hiện tại đều đang ở một vị trí thuận tiện để nhận ra viễn cảnh này đã được thực hiện đến mức nào nơi việc học của các bạn cho đến nay và bản thân các bạn còn cần phải học bao nhiêu nữa. Việc học tập vẫn tiếp tục và Đức Kitô là Thầy của các bạn. Việc đào tạo con người các bạn sẽ không hoàn thiện cho đến khi sống lại. Nhưng, chúng ta giờ đây có thể sống phù hợp với vận mệnh cuối cùng của chúng ta.
Vậy thì chúng ta làm thế nào để sống như thế? Làm thế nào để chúng ta tiến bước trên con đường thành nhân và dẫn đến khôn ngoan đích thực sau khi học đại học? Chúng ta cần thực hành những gì để được thực sự tự do? Xin được đưa ra ba gợi ý: trung thành, thinh lặng và nhận ra điểm yếu.
Một: Vun trồng lòng trung thành. Nếu các bạn không thích từ “trung thành”, hãy sử dụng từ “cam kết”. Hãy tập luyện cam kết! Thế hệ của các bạn sợ cam kết. Các bạn đã thừa hưởng một thế giới rất bấp bênh và đã có những áp lực nặng nề đè lên các bạn kể từ khi còn trẻ. Nhiều người trong số các bạn đến từ những gia đình đổ vỡ. Trong khi những điều này không phải là lỗi của các bạn nhưng giờ đây các bạn phải có trách nhiệm đối với chúng.
Chúng ta sợ: là cam kết thì phải lệ thuộc. Nhưng cam kết không phải là lệ thuộc, sợ hãi mới là lệ thuộc. Sợ hãi ràng buộc và ảnh hưởng đến việc ra quyết định của chúng ta. Lòng trung thành giải thoát chúng ta. Cam kết giúp chúng ta tự do hơn. Các bạn biết điều này từ kinh nghiệm của mình trong âm nhạc và thể thao. Bạn càng cam kết, bạn càng trở nên xuất sắc và tự do hơn. Điều này cũng đúng trong cuộc sống. Bạn phải cam kết với bạn bè để trở thành một người bạn tuyệt vời, bạn phải cam kết với vợ/chồng để trở thành một bạn đời tuyệt vời, bạn phải cam kết với Chúa để trở thành một Kitô hữu xuất sắc. Chúng ta không tự do bằng cách bỏ ngỏ các lựa chọn của bản thân. Điều đó chỉ làm chúng ta tê liệt và khiến bản thân lo lắng. Chúng ta tự do bằng cách cam kết và bền chí đến cùng.
Vậy các bạn nên làm gì? Trước hết, hãy mời Chúa đến. Hãy cầu nguyện để Chúa chữa lành mình từ trong ra ngoài. Thứ hai, hãy bắt đầu từ những điều nhỏ bé. Thứ ba, hãy cam kết với Chúa rằng, sẽ cầu nguyện mỗi ngày và đi lễ mỗi tuần.
Thứ tư, và có lẽ là thách thức và gây tranh cãi nhiều nhất: kết hôn và sinh con. Có thật nhiều con cái. Và ổn định. Kết hôn là quyết định quan trọng nhất mà bạn từng làm. Và, hôn nhân, đặc biệt là hôn nhân Kitô giáo, là một điều tốt đẹp. Đó là hình ảnh về tình yêu của Đức Kitô đối với Giáo hội, mặc dù không chỉ đơn thuần là một hình ảnh, nhưng là sự tham dự vào chính tình yêu đó. Mọi người sẽ nói với các bạn rằng, hôn nhân đã khó, có con càng khó hơn. Nhưng tất cả những gì đáng làm đều khó cả. Các bạn chưa bao giờ sẵn sàng kết hôn và sinh con, nhưng trở nên sẵn sàng bằng cách thực hiện nó. Nơi người bạn đời và con cái, các bạn sẽ tìm thấy con đường dẫn đến thành nhân và khôn ngoan đích thực. Hãy tìm một người tin những điều này và có thể các bạn sẽ có một lựa chọn sáng suốt. Đừng lo lắng về việc phải tìm thấy “chân ái” cuộc đời. Chỉ cần tìm được một người. Hai bạn sẽ cùng nhau tận hưởng những điều tốt đẹp của cuộc sống này và chuẩn bị tinh thần cho cuộc sống tiếp theo.
Hai: Thực hành thinh lặng. Chúng ta đang sống trong một thế giới với mức độ ồn ào và mất tập trung ghê rợn. Như Đức Hồng Y Robert Sarah nói, chúng ta đang sống trong “sự thống trị của tiếng ồn”. Tiếng ồn này đến từ bên ngoài lẫn bên trong. Tiếng ồn của thế giới kéo chúng ta vào thế giới. Nó không chỉ phân tán sự chú ý, mà còn phân tán tình cảm và tình yêu của chúng ta. Chúng ta trở nên mỏng manh và dễ vỡ. Trong tiếng ồn ào, chúng ta không còn nghe được tiếng Chúa. Thật vậy, ngay cả chúng ta vẫn thường không thể nghe được những gì của chính mình.
Vì vậy, chúng ta cần tập thinh lặng, để tạo ra “vùng thinh lặng” (Sertillanges, The Intellectual Life), là nơi chúng ta trải nghiệm thinh lặng bên ngoài và học cách nhận ra thinh lặng bên trong. Vì, tất cả những điều thực sự tuyệt vời đều được chuẩn bị trong thinh lặng. Trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai, ngài đã vào sa mạc trong bốn mươi ngày. Trước khi bị đóng đinh, Ngài đã đến Vườn Giêtsemani. Ơn cứu độ thế gian đã được chuẩn bị trong thinh lặng (Sertillanges, ibid.). Khi Êlia lên núi, ông không nghe thấy tiếng Chúa trong cơn gió, trận động đất hay lửa, nhưng trong một giọng nói nhẹ nhàng. Chúng ta cần phải là con người của thinh lặng nếu muốn nghe được giọng nói này. Chúng ta cần học cách tĩnh lặng và biết rằng Ngài là Thiên Chúa. Chúng ta sợ rằng thinh lặng đồng nghĩa với sự vắng mặt, hư vô. Nhưng im lặng không phải là vắng mặt, nó là sự hiện diện (Robert Cardinal Sarah, The Power of Silence). Chúng ta hiện diện với Thiên Chúa và Người hiện diện với chúng ta, và sự hiện diện của Người biến đổi chúng ta.
Một cách để làm điều này là giữ ngày Sa-bát. Dù gì thì đây cũng là một trong Mười Điều Răn, nên có lẽ nó rất quan trọng. Chúng ta, những người hiện đại làm cho ngày Sa-bát hoàn toàn lạc hậu: chúng ta nghỉ ngơi vào cuối tuần để có thể đi làm thêm, nhưng chúng ta nên làm việc để có thể nghỉ ngơi. Chúng ta là một quốc gia (Hoa Kỳ) của những người làm việc và chúng ta nghĩ rằng làm việc là điều quan trọng nhất. Nhưng hiện hữu quan trọng hơn làm việc (Henri Nouwen). Và sự hiện diện của Thiên Chúa là điều quan trọng nhất. Ngày Sa-bát là chóp đỉnh của tạo dựng, là sự hiện diện của Thiên Chúa được khắc ghi vào nhịp điệu của thời gian; đó là ngày Thiên Chúa ban cho chúng ta để đi vào sự thánh khiết và nghỉ ngơi của Ngài. Trong bảy ngày của tạo dựng, Thiên Chúa tạo thành con người giữa các ngày tạo nên mãnh thú và ngày Sa-bát. Đây là hai vận mệnh của con người và chúng ta chỉ có thể chọn một.
Ba: Tìm ra điểm yếu của bản thân. Tất cả các bạn tốt nghiệp đều đã làm bài kiểm tra StrengthsFinder (công cụ khám phá ưu điểm bản thân) khi còn học tại trường. Nhưng có lẽ các bạn sẽ được lợi hơn nếu được cung cấp một WeaknessFinder (công cụ tìm ra khuyết điểm bản thân). Có một cuộc tranh luận đáng chú ý nơi chương 12 trong thư thứ 2 gửi cho giáo đoàn Corintho, trong đó thánh Phaolô cầu xin Thiên Chúa cất đi một cái gai bên trong mình. Nhưng Chúa lại phán: “Ơn của Thầy đủ cho con, vì quyền năng của Thầy được tỏ lộ trong sự yếu đuối” (2 Cr 12, 9). Chúng ta khó tin rằng Thiên Chúa muốn sử dụng những điểm yếu của chúng ta. Nhưng cách Thiên Chúa hoạt động là dùng sự yếu đuối.
Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa quyền năng, tuy nhiên Ngài đến thế gian không phải trong uy nghi, nhưng trong sự nghèo khó. Ngài đến không phải như siêu nhân, nhưng như một phôi thai bất lực. Ngài được sinh ra bởi một thiếu nữ thôn quê trong một dân tộc bị trị. Ngài là một người tị nạn và là một người nhập cư. Ngài đã bị bách hại bởi chính người dân của mình. Ngài không lãnh đạo quân đội, nhưng giống như một con chiên bị dẫn đi giết. Đức Kitô thực sự yếu đuối. Tuy nhiên, điểm yếu của Ngài lại là nguồn sức mạnh lớn nhất, từ sự yếu đuối của Đức Kitô, Thiên Chúa đã biến đổi cả thế giới.
Đây cũng là cách Thiên Chúa muốn hoạt động trong cuộc sống của các bạn: Ngài muốn gặp các bạn khi có vấn đề sức khỏe tâm thần, lúc chán nản, khi mắc thói quen tội lỗi, bệnh mãn tính, thói nghiện của bạn và Ngài muốn những vấn đề cuộc sống này là nơi Ngài chuyển ban ân sủng. Vì vậy, hãy tìm ra những điểm yếu của mình, mời Chúa đến và để quyền năng của Ngài biến đổi mình và những người khác thông qua những vấn đề của con người.
KẾT LUẬN
Một số trong các bạn sẽ chu du thế giới, tạo dựng tên tuổi, giải quyết những vấn đề lớn, thay đổi thế giới và trở thành những nhà lãnh đạo trong xã hội. Hay một số sẽ theo tiếng gọi của Chúa, trở nên linh mục, nam nữ tu sĩ. Nhưng đa phần các bạn sẽ giống như hầu hết những người khác: sẽ sống một cuộc sống êm đềm với gia đình và có một công việc tử tế. Điều này nghe có vẻ khá tầm thường và không hứng thú. Tuy nhiên, các bạn hãy nhớ rằng, lòng trung thành là một cuộc phiêu lưu cao độ và không có công việc nào quan trọng hơn việc yêu thương vợ/chồng mình và nuôi dạy con cái thật tốt. Khi kết hôn, các bạn sẽ lập một giao ước là dấu hiệu cho thế giới về tình yêu của Đức Kitô dành cho dân của Ngài. Khi có con, các bạn sẽ làm cho những linh hồn bất tử hiện hữu. Các bạn sẽ giúp gia đình mình nhận biết và yêu mến Thiên Chúa và sẽ giúp họ lên thiên đàng. Cuộc sống yên lành không phải là điều tệ.
Vì vậy, đối với đa số các bạn, cuộc sống sẽ không có gì nổi bật. Nhưng hãy nhớ rằng: chính Đức Giêsu đã sống một cuộc đời ẩn dật. Trong ba mươi năm, Đức Giêsu sống ở nhà với mẹ (Ngài giống như một Millennial theo cách này [Millenial: hay còn gọi là thế hệ Y (Gen Y), tức là sinh từ 1981 – 1996] ). Ngài chỉ sống cuộc đời công khai trong ba năm. Điều này sẽ đảm bảo với chúng ta rằng, những mong muốn về hôn nhân, gia đình và tổ ấm không phải là dấu hiệu của sự giảm bớt hoặc thiếu tham vọng. Những hy sinh hàng ngày và những hành động yêu thương của các bạn, người khác có thể không thấy nhưng Thiên Chúa thì thấy tất cả. Những hành động ấy có thể không vĩ đại trong mắt người đời, nhưng sẽ cao cả trong đôi mắt Chúa. Cuối cùng, chỉ có đôi mắt của Ngài là quan trọng. Trong đôi mắt Thiên Chúa, những điều nhỏ bé được thực hiện với tình yêu thương lớn lao đều rất vĩ đại.
Thiên Chúa đã gọi các bạn ra khỏi hư vô không chỉ để bạn có thể hiện hữu, mà còn để các bạn có thể hiện hữu trong sự thánh thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa đã gọi các bạn hiện hữu để trở nên thánh thiện. Giống như Đức Giêsu trên núi Tabor, các bạn sẽ được biến hình. Bằng cách bước đi trên con đường hẹp của việc cam kết, hiện diện trước nhan Chúa trong thinh lặng, và để cho Chúa hoàn thiện quyền năng của Ngài trong sự yếu đuối của mình, các bạn sẽ liên kết với Ngài đến nỗi sự sống thần linh sẽ thấm nhuần và biến đổi các bạn cho đến khi các bạn “sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước của Cha anh em”(Mt 13,43).
Việc giáo dục của các bạn có một chân trời vĩnh cửu. Từ khi các bạn được thành hình trong dạ mẹ với tình yêu thương của cha mẹ cho đến thời gian tại trường và hơn thế nữa, việc giáo dục của bạn đã định hình các bạn trở thành con người mà Chúa muốn các bạn trở nên. Và, nếu các bạn mở lòng đón nhận những ân sủng của Chúa, thì chắc chắn rằng “Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm” (Pl 1, 6).
[1] Đây là diễn văn của cha Jared Ortiz dành cho lớp tốt nghiệp năm 2020 tại Hope College, USA trong lễ trao bằng năm 2021 (bị hoãn lại một năm do dịch). Phần chuyển ngữ đã lượt bỏ vài chi tiết.
Tác giả: Sao Bien