2021
Những đặc điểm của Tình yêu Hôn nhân bền vững
Những đặc điểm của Tình yêu Hôn nhân bền vững
Có lẽ phần đông các bạn trẻ Công giáo không lạ gì với bài thánh ca hôn phối có tựa đề “Xin Định Nghĩa Tình Yêu”, của tác giả Cao Huy Hoàng.
Lời của bài hát như sau:[1]
Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu.
Yêu không là ngó nhau nhưng là ngước cao cùng nhìn về bến mai sau.
Yêu xin đừng dối gian, xin đừng trái ngang, dù lắm lo toan, xin đừng ly tan.
Yêu ta cùng ước giao, dẫu ngàn khổ đau, một lần xin hứa trọn đời thủy chung.
ĐK: Hãy yêu như Giêsu, chết đi cho dương gian, đóng đinh cho người mình yêu mến. Hãy yêu trong an vui, thủy chung trong đau thương, sống trong cuộc đời đầy mến yêu.
Khi ngày tháng qua vẫn thiết tha, dù lắm xót xa, duyên tình bao la.
Khi trong đời đắng cay, vẫn niềm mến say và niềm hạnh phúc ngất ngây.
Xin cho tình sáng lên, cho đời nắng lên, ngày tháng thắm lên khi đời buồn tênh.
Nhưng khi đời tối đen, khi ngày tối đen, một lần xin hứa trọn đời thủy chung.
Bài hát trên đã gợi ý cho chúng ta suy nghĩ về tình yêu trong hôn nhân Ki-tô hữu. Quả thực tình yêu đôi lứa không chỉ là màu sắc rực rỡ như cánh hoa hồng, hay lung linh như hạt kim cương… Trái lại nó nhắc nhở chúng ta rằng để duy trì mãi vẻ đẹp của tình yêu, đôi bạn trong cuộc sống lứa đôi phải chấp nhận “trái đắng” của hôn nhân, nghĩa là phải biết hy sinh, chung thủy, có chí hướng, có trách nhiệm, có thử thách, có khó khăn. Đôi bạn được mời gọi hãy yêu như Giê-su, nghĩa là hãy yêu như Chúa đã yêu.
Đức Giê-su đã tuyên bố: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Chúa đã dạy chúng ta hiểu thế nào là tình yêu Agape và phải thực hành tình yêu ấy ra sao trong đời sống hôn nhân gia đình. Tình yêu ấy là hi sinh tính mạng, là yêu đến cùng (x. Ga 13,1). Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta trước. Vì yêu và vì hạnh phúc của chúng ta, Ngài đã hi sinh đến chết (x. Ga 10, 17 ; Pl 2, 8). Đó là mẫu mực của tình yêu đích thực, tình yêu có sức mạnh cứu chuộc, thăng hoa và biến đổi. Vậy khi cam kết giao ước hôn nhân, đôi bạn sẽ dõi theo tình yêu của Chúa Ki-tô mà sẵn sàng chấp nhận một tình thương của người hi sinh mạng sống mình cho bạn.
Trong cuộc gặp gỡ vào chiều ngày 14-9-2021 vừa qua với giới trẻ tại sân vận động Lokomotiva ở Košice nhân chuyến tông du tại đất nước Slovakia, ĐTC Phan-xi-cô đã có bài huấn dụ tập trung vào việc trả lời các câu hỏi mà các bạn trẻ đưa ra, với nội dung chủ yếu liên quan đến vấn đề tình yêu lứa đôi. Mở đầu ngài nói:
“Cha bắt đầu với câu hỏi của các con về tình yêu lứa đôi. Tình yêu là giấc mơ lớn nhất của tất cả chúng ta trong cuộc sống, nhưng đây không phải là giấc mơ rẻ tiền. Giống như tất cả những điều tuyệt vời trong cuộc sống, tình yêu rất đẹp, nhưng không dễ dàng. Tình yêu là giấc mơ, nhưng để giải thích nó thì không dễ chút nào. Cha lấy lại một câu của các con. Các con đã nói rằng: “Chúng con đã bắt đầu cảm nhận món quà này với đôi mắt hoàn toàn mới”. Các con nói đúng: chúng ta cần phải có đôi mắt mới, đôi mắt không bị vẻ bề ngoài đánh lừa. Các con thân mến, chúng ta đừng tầm thường hóa tình yêu, bởi vì tình yêu không chỉ đơn giản là một cảm xúc hay cảm giác, mặc dù nó có thể bắt đầu theo cách đó. Tình yêu không phải là có tất cả mọi thứ và ngay lập tức, nó không đáp ứng luận lý sử dụng và vứt bỏ. Tình yêu là sự chung thủy, là món quà và trách nhiệm.”
Tiếp theo bài huấn dụ, Đức Thánh Cha đã nhận xét rằng: “Nếu các con nhớ lại một số câu chuyện tuyệt vời mà các con đã từng đọc trong tiểu thuyết, hoặc xem trong những bộ phim khó quên hoặc nghe kể một số câu chuyện cảm động, thì các con sẽ thấy rằng luôn có hai điều đi cùng nhau: một là tình yêu, hai là phiêu lưu, tính anh hùng. Để làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên tuyệt vời, chúng ta cần tình yêu và sự anh hùng. Nếu chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu trên Thánh giá, chúng ta sẽ thấy cả tình yêu vô biên và lòng can đảm của Người trong việc trao ban cuộc sống đến cùng, không đo lường được. Trước mắt chúng ta là chân phước Anna Kolesárová, một nữ anh hùng của tình yêu. Ngài nói với chúng ta hãy nhắm đến những mục tiêu cao. Xin các con đừng để những tháng ngày của các con trôi qua như tiểu thuyết truyền hình nhiều tập.”
Quả vậy, “Tình yêu không phải chỉ là một cảm xúc rạo rực của thân xác; Cũng không phải là một lối yêu nhẹ dạ, hời hợt, lãng mạn hay chỉ chơi qua đường; Tình yêu không phải chỉ ở thỏa mãn của đam mê, si tình, bất chấp đạo nghĩa; Tình yêu không phải chỉ là tình dục, hưởng thụ như một dụng cụ… Con người đã lạm dụng tính dục – nhân danh tình yêu ngay cả khi không yêu thương chút nào.”[2] Trái lại, tình yêu trong hôn nhân rất đa dạng và nhiều ý nghĩa, đó là sự chia sẻ, trao ban, quên mình, có trách nhiệm, chung thủy, hiệp nhất, tin tưởng, tôn trọng nhau, dâng hiến, vui thú, sinh con, cùng nhìn một hướng vv.
Sau đây, chúng ta sẽ liệt kê và phân tích một số đặc điểm cơ bản của tình yêu trong một cuộc hôn nhân được coi là bền vững và thành công. Ta sẽ bàn về bảy đặc điểm sau: Tình yêu tự nguyện, tình yêu thấu cảm, tình yêu đồng thuận, tình yêu tha thứ, tình yêu trách nhiệm, tình yêu tin tưởng và tình yêu chung thủy.
1.- Tình yêu tự nguyện
Chúng ta đều biết rằng, sự ưng thuận tự do là điều kiện tất yếu của hôn nhân Ki-tô hữu. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo dạy rằng:
“Hôn ước được ký kết giữa người nam và người nữ, cả hai đã được rửa tội và tự do để kết hôn, và họ tự nguyện bày tỏ sự ưng thuận của mình. “Tự do” nghĩa là: – không bị ép buộc; – không bị ngăn trở theo luật tự nhiên hay giáo luật.” (số 1625)
“Hội Thánh coi việc trao đổi sự ưng thuận giữa hai người phối ngẫu như là yếu tố cần thiết “làm nên hôn nhân.” Nếu thiếu sự ưng thuận, thì không có hôn nhân.” (số 1626)
“Sự ưng thuận là một “hành vi nhân linh, qua đó hai người phối ngẫu trao thân cho nhau và đón nhận nhau”: “Anh nhận em làm vợ anh…”; “Em nhận anh làm chồng em…” Sự ưng thuận này kết hợp hai người phối ngẫu với nhau, đạt đến sự hoàn hợp (consummationem) khi hai người “trở nên một xác thịt.” (số 1627)
“Sự ưng thuận phải là một hành vi ý chí của mỗi người phối ngẫu, tự do không bị tác động vì bạo lực hay vì sợ hãi nghiêm trọng từ bên ngoài. Không có thế lực nhân loại nào có thể thay thế sự ưng thuận đó. Nếu thiếu sự tự do này, thì hôn nhân không thành sự.” (số 1628)
Dựa vào kinh nghiệm thực tế, ta thấy rằng các cuộc hôn nhân không xây dựng trên tình yêu tự nguyện sẽ không thể bền vững và hạnh phúc được. Có thể gọi các cuộc hôn nhân này là “hôn nhân giả”, sai mục đích và không chân thực. Chẳng hạn, hôn nhân vì tiền, vì lợi, vì danh, vì một ý đồ cá nhân hay vì ham mê xác thịt. Cũng có loại hôn nhân vì áp lực gia đình, vì lỡ “ăn cơm trước kẻng”, vì chiều theo sự xúi giục của người khác, vì ngoại hình, vì sắc đẹp, vì muốn tìm một nửa để thoát khỏi cô đơn, buồn chán vv…Nói tóm lại, có muôn ngàn lý do khiến người ta mất tự do và sự thoải mái chọn lựa cuộc hôn nhân của mình.
Các chuyên gia về hôn nhân gia đình đều cho rằng tình yêu tự nguyện sẽ là chiếc khóa kỳ diệu giúp cho đôi bạn gắn bó và trung thành với nhau suốt đời. Họ tự nguyện yêu nhau, tự nguyện kết hôn với nhau, tự nguyện sống chung trong một mái ấm, tự nguyện xây dựng cuộc hôn nhân hạnh phúc, tự nguyện chia sẻ trách nhiệm gia đình, tự nguyện chăm sóc và bảo vệ nhau suốt đời vv. Chính tình yêu tự nguyện sẽ luôn là yếu tố hàng đầu giúp cho đời sống lứa đôi hạnh phúc lâu dài.
2.- Tình yêu thấu cảm
Muốn cho cuộc hôn nhân bền vững, đôi bạn phải thể hiện tình yêu không phải bằng những cảm xúc hời hợt, nông cạn bên ngoài, trái lại phải mở rộng con tim, khối óc, sức lực cũng như mọi khả năng mình để có thể yêu bạn đời một cách trọn vẹn, yêu “hết lòng, hết sức, hết trí khôn”. Tình yêu như vậy khiến chúng ta liên tưởng tới điều mà các nhà tâm lý học gọi là tình yêu thấu cảm. Người ta đã định nghĩa ngắn về thấu cảm như sau: “Thấu cảm là khả năng hiểu được cảm xúc mà một ai đó đang trải qua. Nói một cách ngắn gọn, nó giúp đặt ta vào vị thế của người khác và cảm thấy những gì mà người kia đang trải qua”.[3]
Trong một bài báo có tựa đề “Tăng cường sự thấu cảm trong hôn nhân”, tác giả đã viết như sau: “Thấu cảm là yếu tố cần thiết cho mọi mối quan hệ tích cực, đặc biệt là trong đời sống hôn nhân. Khi thấu cảm, vợ chồng sẽ hòa hợp, ít xảy ra mâu thuẫn và có thể giữ bình tĩnh tốt hơn trong lúc tranh cãi. Thấu cảm có thể diễn tả theo nhiều cách. Đó là khả năng hấp thu những trải nghiệm và cảm xúc của bạn đời vào tâm trí và cơ thể của bạn. Về cơ bản, bạn biết đặt bản thân vào vị trí bạn đời và cảm nhận cô/anh ấy đang nghĩ gì…”[4]
Như vậy, ta thấy rằng tình yêu thấu cảm trong hôn nhân sẽ giúp đôi bạn hiểu nhau một cách sâu xa tận đáy lòng, giúp mỗi người biết đặt mình vào vị trí của bạn đời để nhìn và hiểu sự việc theo cách của họ để có sự đồng cảm và nâng đỡ. Người ta cho rằng, nếu một người trong cuộc hôn nhân từ chối nhìn nhận mọi thứ từ góc độ của người kia, họ có thể sẽ gặp phải những “vấn đề rắc rối” trong hôn nhân. Không có hai người nào có cùng suy nghĩ hoàn toàn giống nhau, và không có hai người có cùng những trải nghiệm như nhau. Cả hai người trong một mối quan hệ đều mang lại những ý tưởng, kinh nghiệm sống và cuộc đấu tranh của riêng họ. Nếu không dành thời gian để cố gắng liên hệ với cảm xúc và quan điểm của nhau, những người trong mối quan hệ hôn nhân có thể sẽ cảm thấy không được yêu thương và không được quan tâm.
3.- Tình yêu đồng thuận
Ông bà ta thường nói “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Điều đó cho thấy rằng trong hôn nhân, tình yêu đồng thuận có một sức mạnh kỳ diệu giúp đôi bạn giải quyết tốt đẹp nhiều vấn đề hệ trọng trong cuộc sống. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng trong hôn nhân tìm được tiếng nói chung không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì đơn giản là đôi bạn là hai cá nhân khác biệt nhau mọi đàng, bá nhân bá tánh mà! Kinh nghiệm cho thấy, yêu nhau đã khó, cưới nhau lại càng khó hơn, nhất là sống chung lâu dài với nhau một cách êm ấm lại càng khó hơn gấp bội lần. Một danh nhân đã nói: “Đám cưới nào cũng hạnh phúc cả, chỉ có cuộc sống chung sau đó là có nhiều rắc rối” (Raymond Hull).
Nhiều đôi bạn khi ra tòa xin ly hôn thường nêu lý do là họ không hợp nhau. Con số này chiếm tỷ lệ khá lớn. Lý do chính yếu khiến vợ chồng không hòa hợp được với nhau đó là vì giữa họ thiếu tình yêu đồng thuận. Tình yêu đó dù không hóa giải mọi khác biệt giữa đôi bạn nhưng có thể giúp họ vượt qua tính ích kỷ, vượt qua bệnh tự ái, vượt qua những suy nghĩ và thái độ chủ quan để tìm ra tiếng nói chung thấu tình đạt lý nhất. Như người xưa thường nói “Yêu nhau trăm sự chẳng nề / Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”. Tình yêu chân chính và trưởng thành sẽ giúp đôi bạn vượt qua những khác biệt của nhau để có tiếng nói chung, giúp nhau giải quyết tốt những việc quan trọng trong gia đình.
Để phát huy tình yêu đồng thuận giữa hai vợ chồng, không thể không kể đến hai yếu tố sau: Đó là sự tôn trọng và lắng nghe nhau. Tác giả cuốn “Những quy tắc trong đời sống vợ chồng”, khi bàn về vấn đề lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau để cùng tìm ra tiếng nói chung, đã viết như sau: “Trong cuộc sống hôn nhân, không thể tránh khỏi xảy ra xung đột trong quan điểm, suy nghĩ. Để giải quyết xung đột này và cùng đi đến giải pháp chung hợp lý cho cả hai không khó, nó chỉ đòi hỏi sự thông cảm, tế nhị và ý thức từ hai phía. Có thể bạn là người rất có cá tính, có lập trường, có quan điểm riêng và bạn có những lập luận chặt chẽ, hợp lý để bảo vệ quan điểm, ý kiến của mình. Điều đó không sai, không phải là không tốt. Nhưng trong đời sống vợ chồng, bạn cần linh động và nên nhìn vấn đề từ nhiều khía cạnh, thậm chí là đặt mình vào vị trí của bạn đời để nhìn vấn đề sao cho hợp lý nhất”.[5]
4.- Tình yêu tha thứ
Có thể nói, tất cả những ai đã trải qua đời sống hôn nhân gia đình đều có chung một nhận định này là, tha thứ là một việc làm khó khăn nhất mà họ phải thực thi khi xảy ra bất đồng giữa hai vợ chồng. Chính vì mức độ khó khăn đặc biệt đó mà nhiều cặp đôi đã phải ly thân hoặc ly hôn. Nguyên nhân chủ yếu là vì họ không thể tha thứ cho bạn đời sau cãi vã mâu thuẫn. Nhiều người đã không ngần ngại nói rằng càng yêu, càng gắn bó với nhau thì khó tha thứ cho nhau.
Thực vậy, tha thứ luôn là thử thách khó khăn nhất của hôn nhân. Tha thứ được mô tả là hình thức tối thượng của tình yêu, bởi nó kiểm tra độ sâu sắc, sức mạnh tình cảm của một cặp đôi. Sự tha thứ được ví như một nghệ thuật có thể khiến ai đó phải mất cả đời để có thể thành thạo, một điều mà con người không ngừng học hỏi trong cả cuộc đời mình. Nữ tiến sĩ Nathalie Sommer, một chuyên gia về quan hệ hôn nhân của Đại học Yale, Mỹ, nhận định rằng tha thứ là một trong những khía cạnh quan trọng và khó khăn nhất của một mối quan hệ. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn có một mối quan hệ thực sự sâu sắc, mỗi người buộc phải học cách tha thứ.[6] Tha thứ trong cuộc sống vợ chồng luôn là một thách đố khiến chúng ta phải luôn tỉnh táo, thông minh và đầy bản lãnh để học tập và thực hành nghệ thuật này mỗi khi xảy ra xung đột mâu thuẫn.
Đối với Ki-tô hữu, tha thứ là lệnh truyền của Chúa. Nếu chúng ta biết tha thứ cho nhau, thì đó là chúng ta đang thực hành điều mà Chúa mong đợi nơi mỗi gia đình, nơi mỗi đôi vợ chồng. Chúng ta tha thứ để được-thứ-tha. Thánh Phao-lô đã khuyên nhủ tín hữu như sau: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3, 12-13).
Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II trong Tông huấn về những bổn phận của gia đình Kitô hữu đã khuyên nhủ chúng ta như sau: “Chỉ có một tinh thần hi sinh cao cả mới giúp gìn giữ được và kiện toàn được sự hiệp thông gia đình. Thực vậy, sự hiệp thông này đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở lòng ra để thông cảm, bao dung, tha thứ cho nhau, và hòa giải với nhau. Không có gia đình nào mà không biết rằng sự ích kỷ, những bất hòa, những căng thẳng, những xung đột đã làm hại cho sự hiệp thông gia đình biết chừng nào, và đôi khi còn có thể làm tiêu tan sự hiệp thông ấy: chính từ đó mà xuất phát muôn vàn hình thức chia rẽ khác nhau trong đời sống gia đình” (số 21).
Thánh Phao-lô luôn khuyên nhủ chúng ta sống bí tích và mầu nhiệm hôn nhân dựa trên mẫu mực tình yêu và mối tương quan gắn bó giữa Chúa Ki-tô và Hội thánh. Đức Ki-tô đã yêu thương Hội thánh, đã hiến mình vì Hội thánh, đã chăm sóc, nuôi dưỡng Hội thánh, đã hy sinh cứu chuộc Hội thánh thế nào thì vợ chồng cũng phải sống và đối xử với nhau như vậy. Một cách cụ thể, thiết thực hơn, tình yêu trong hôn nhân Ki-tô hữu cũng phải phỏng theo lòng mến Ki-tô giáo, là điều mà thánh Phao-lô đã nhắc nhở trong thư 1Cor: “Lòng mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Lòng mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả…” (x. 1Cor 13, 4-7)
5.- Tình yêu trách nhiệm
Ông bà ta thường nói lập gia đình, kết hôn, lấy vợ lấy chồng là đi “gánh vác”. Điều đó có nghĩa là khi bước vào đời sống hôn nhân, đôi bạn trở nên hai người bạn đời, bạn đường của nhau, cùng liên kết trong một cuộc sống, cùng chia sẻ một số phận và đồng trách nhiệm với nhau về mọi vấn đề trong gia đình. Tinh thần trách nhiệm đòi hỏi cả hai người phải nỗ lực hy sinh cái “Tôi” để lo cho cái “Chúng ta”. Như một danh nhân đã khẳng định: “Hôn nhân chia nửa quyền lợi và gấp đôi nghĩa vụ” (Arthur Schopenhauer). Nhận định này rất đúng, vì khi kết hôn đôi bạn phải hy sinh những lợi ích riêng tư cá nhân để chu toàn bổn phận làm vợ làm chồng, bổn phận làm cha làm mẹ trong gia đình. Tinh thần trách nhiệm trong hôn nhân nhắc chúng ta đến hai việc, đó là sự quan tâm chăm sóc giữa hai bạn đời với nhau, hai là sự cộng tác tích cực của hai vợ chồng trong việc thực hiện bổn phận gia đình.
Sự chăm sóc và quan tâm đến nhau. Đây là dấu chỉ về một tình yêu đích thực, trưởng thành và tinh tế, như có người đã nói: “Ai thích hoa thì tìm cách ngắt hoa. Nhưng người yêu hoa thì tìm cách chăm sóc hoa”. Bản thân vợ chồng phải được chăm sóc, vun xới từng giờ, từng phút, từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, những lúc vui sướng cũng như lúc gian nan. Sự chăm sóc đôi khi đơn giản, nhỏ bé nhưng lại có vai trò to lớn trong cuộc sống vợ chồng. Sự quan tâm không chỉ thể hiện bằng lời nói mà còn qua những cử chỉ, hành động thiết thực, cụ thể. Chẳng hạn, hãy thường xuyên nói chuyện với nhau, lắng nghe nhau tâm sự, khen ngợi nhau khi cần thiết, chia vui sẻ buồn với nhau, nghĩ đến nhau những dịp đặc biệt như sinh nhật, bổn mạng, ngày kết hôn…Quả thực, sự quan tâm đến nhau được coi như chất keo giúp gắn kết hai bạn đời bền chặt mãi mãi.
Đồng cam cộng khổ, cùng chia sẻ trách nhiệm chung trong gia đình. Ngày nay, nhiều bạn trẻ tỏ ra thất vọng rất lớn về bạn đời của mình chỉ vì người ấy không quan tâm đến những việc chung của gia đình. Nhiều bà vợ than phiền các ông chồng lười biếng và ỷ lại vào sự đảm đang của vợ mà bỏ bê việc gia đình. Điều đó khiến người vợ mệt mỏi và thất vọng vì gia đình là của chung, hôn nhân là do hai người cùng kiến tạo và niềm hạnh phúc là do hai người cùng chia sẻ. Trên thực tế, ta thường nghe vợ than chồng mê game mà bỏ bê gia đình. Trong khi ấy, chồng phàn nàn vợ ghiền mạng xã hội hơn là chồng con. Điều đó dễ dẫn đến cảnh xào xáo bất an trong gia đình.
Trong cuốn “Những quy tắc trong đời sống vợ chồng”, tác giả đã đưa ra 3 cái “cùng” đối với đôi vợ chồng, đó là: Cùng nhau làm việc nhà, cùng nhau chăm sóc con cái, cùng nhau quyết định mọi việc trong gia đình. Tác giả đã phân tích như sau:
“Thật sai lầm khi người vợ ôm đồm hết mọi thứ và để người chồng đi làm về ‘ngồi chơi xơi nước’. Thứ nhất, vợ tập cho chồng thói quen ỷ lại, lười biếng và thiếu trách nhiệm. Thứ hai, vợ đang tự biến mình thành người giúp việc trong nhà, chứ không còn là vợ. Cuối cùng về lâu dài, việc này ảnh hưởng không nhỏ đến tình cảm của vợ chồng đôi bạn. Hôn nhân là sự hợp tác, chia sẻ, và mọi trách nhiệm đều phải được phân công với nhau.
“Ngoài ra, là vợ chồng, đôi bạn nên trao đổi, thống nhất với nhau để đưa ra quyết định cho mọi việc dù lớn hay nhỏ trong gia đình. Có nhiều gia đình phần lớn mọi việc do chồng hay do vợ quyết định, người còn lại chỉ biết lắng nghe theo và ít khi tham gia ý kiến. Đó không phải là biểu hiện của một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Nó thể hiện sự thiếu cân bằng về trọng lượng lời nói, vị thế của nhau trong hôn nhân. Để hôn nhân bền vững và hạnh phúc, một nguyên tắc cần tuân thủ nghiêm ngặt, đó là mọi việc quan trọng trong gia đình, cả hai vợ chồng đều phải bàn bạc, nêu ra ý kiến của mình để có quyết định thống nhất”.[7]
Có thể khẳng định là sự thành công và bền vững của cuộc hôn nhân không do tài năng của đôi bạn mà chính là do sự đồng tâm hiệp lực của cả hai người trong gia đình.
6.- Tình yêu tin tưởng
Người ta thường nói thứ đắt giá hơn vàng hay kim cương đó chính là lòng tin. Những thứ khác có thể mua được còn lòng tin thì không. Trong các mối quan hệ xã hội, đặc biệt là giữa hai vợ chồng, lòng tin hay niềm tin giữ một vị trí cực kỳ quan trọng. Nếu đôi bạn vì một lý do nào đó không còn tin nhau nữa thì cuộc hôn nhân có nguy cơ đổ vỡ. Ngược lại, một khi đôi bạn biết đặt hết niềm tin vào nhau, thì tình yêu sẽ luôn tươi đẹp và cuộc hôn nhân có lý do bền vững lâu dài.
Tác giả cuốn “Những quy tắc trong đời sống vợ chồng” đã bàn về một quy tắc quan trọng, đó là vợ chồng hãy tin tưởng nhau. Tác giả viết như sau: “Niềm tin là điều cơ bản nhất trong mọi mối quan hệ, đặc biệt là quan hệ hôn nhân. Nó như thước đo sức mạnh cũng như mức độ bền chặt trong hôn nhân. Khi ta cảm thấy sự an toàn, tính tích cực về bạn đời, thì tức là niềm tin của ta dành cho bạn đời càng lớn. Tin tưởng nhau là yếu tố cần thiết của mối quan hệ hai người. Ta có thể xem đây là một sự đầu tư dài hạn mà phần lãi sẽ lớn dần theo thời gian. Khi đôi bạn tin tưởng nhau, cuộc sống sẽ trở nên tuyệt vời hơn bao giờ hết, sự căng thẳng sẽ không thường trực trong đời sống hằng ngày của họ. Không gì có thể tệ hơn một cuộc hôn nhân mà vợ chồng không tin tưởng vào nhau.”[8]
Dựa vào thực tế, ta thấy hầu hết các đôi vợ chồng mâu thuẫn, bất đồng, đay nghiến nhau chỉ vì nảy sinh mối nghi ngờ nhau từ những chuyện thường nhật như tiền bạc, quan hệ bạn bè đồng nghiệp, chuyện đi sớm về khuya, những thay đổi bất thường, cho đến chuyện bồ bịch, ngoại tình này nọ vv…Những sự việc này khiến cho vợ chồng nghi ngờ sau, từ chuyện lớn đến việc nhỏ, từ ngày này qua ngày khác, khiến cho mối quan hệ hai bạn luôn căng thẳng và cuộc sống gia đình không lúc nào được bình an, êm ấm.
Các chuyên gia về tình yêu hôn nhân cho rằng, niềm tin là điều kiện tiên quyết của tình yêu. Trong cuộc sống này, để thân thiết với một người, thì niềm tin phải đến từ cả hai phía, để hết lòng yêu thương một người, cũng cần niềm tin đến từ hai phía. Niềm tin, là một thứ giúp sinh mệnh của tình yêu tiếp tục tồn tại. Nếu đã yêu, thì hãy tin tưởng. Đừng quá đặt nặng lòng nghi ngờ, sự nghi ngờ cũng rất mỏi mệt. Hãy mở lòng tin tưởng nhau, điều đó không chỉ khiến lòng ta dễ chịu, mà cũng khiến tình yêu bền vững hơn.
7.- Tình yêu chung thủy
Ca dao VN có câu: “Thương nhau tạc một chữ tình / Trăm năm thề quyết bạn mình có nhau”. Nếu đôi bạn mong ước cuộc hôn nhân của mình đạt được điều mà người ta thường cầu chúc “Trăm năm hạnh phúc”, thì điều quan trọng là phải luôn gìn giữ và nâng niu, đó là lòng chung thủy. Đã nói yêu thực tình thì phải giữ lời hứa thủy chung với nhau. Chúng ta hãy nhớ lại lời tuyên hứa khi cử hành Bí tích Hôn phối: “Anh/ Em là … nhận anh/ em … làm vợ của anh/ em, và hứa giữ lòng chung thủy với em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu, để yêu thương và tôn trọng em mọi ngày suốt đời anh”. Quả thực, một tình yêu chân chính, tự nguyện, có trách nhiệm bao giờ cũng bao hàm đặc tính của sự chung thủy, bất khả phân ly.
LM Nguyễn Hữu Thy, trong cuốn “Những suy tư đúng đắn về Hôn nhân và Gia đình Công Giáo”, đã nêu lên ba yếu tố quan trọng nhất mà một cuộc sống hôn nhân Công Giáo cần phải có để bảo đảm được sự tồn tại và hạnh phúc của mình. Đó là tình yêu, sự chung thủy và phép lành của Thiên Chúa. Về sự chung thủy, tác giả viết như sau:[9]
“Lời thề hứa hoàn toàn tự nguyện của hôn nhân là một cam kết bó buộc và bất khả tháo gỡ đối với các đôi vợ chồng. Tính chất đặc thù này của lời thề hứa hôn nhân hoàn toàn không phải là một gánh nặng bất khả kham, nhưng là một phương tiện hữu hiệu giúp cho các đôi vợ chồng rèn luyện và thăng tiến được chính con người mình cũng như bảo đảm cho cuộc sống hôn nhân của họ được bền vững trước các sóng gió cuộc đời. Chính nữ triết gia Hannah Arendt đã nhận định: Nếu không bị bó buộc phải thực thi các lời đã hứa, ta sẽ không khi nào duy trì được các căn tính của ta và bị giằng co xâu xé bởi đủ thứ mâu thuẫn…”
Ở đoạn kết thúc phần nói về sự chung thủy trong hôn nhân, tác giả nhấn mạnh như sau: “Sự chung thủy hôn nhân không chỉ giới hạn trong phạm vi sự chung thủy về tính dục, nhưng còn bao hàm trong hành động cụ thể của bản thân mỗi người nữa, đó là họ phải luôn công khai bày tỏ một cách dứt khoát: Tôi thuộc về vợ/ chồng tôi. Sự chung thủy hôn nhân đòi tôi phải thực sự tôn trọng vợ/ chồng tôi. Sự chung thủy hôn nhân đòi tôi phải quan tâm tới điều chính đáng mà vợ/ chồng tôi cần tới và mong ước. Sự chung thủy hôn nhân đòi hỏi phải luôn biết tận tâm an ủi và nâng đỡ người vợ/ chồng của mình. Sự chung thủy hôn nhân đòi hỏi phải luôn biết cầu nguyện cho nhau và biết tín thác cuộc sống lứa đôi của mình cho sự quan phòng đầy yêu thương và phép lành của Cha trên trời” ./.
Aug. Trần Cao Khải
[1] Xin Dinh Nghia Tinh Yeu (cadoan.net)
[2] Tình yêu trong đời sống hôn nhân (songtinmungtinhyeu.org)
[3] Thấu cảm (Empathy) là gì? – Exploring Psychology – Khám Phá Tâm Lý Học (trangtamly.blog)
[4] Tăng cường sự thấu cảm trong hôn nhân (doanhnhansaigon.vn)
[5] Alpha Books – Bài đd – NXB LĐ-XH năm 2018 trang 21
[6] Tha thứ – thử thách khó khăn nhất của hôn nhân – VnExpress Đời sống
[7] Alpha Books biên soạn – Những quy tắc trong đời sống vợ chồng – NXB Lao động Xã Hội năm 2018 trang 39 và 44
[8] Alpha Books biên soạn – Những quy tắc trong đời sống vợ chồng – NXB Lao động Xã Hội năm 2018 trang 84
[9] LM Nguyễn Hữu Thy – Những suy tư đúng đắn về Hôn nhân và Gia đình Công Giáo – TTMV CG VN Gp Trier CHLB Đức năm 2012 trang 90-92
2021
Đã đến lúc các chủng viện cần nhìn lại
Đã đến lúc các chủng viện cần nhìn lại
Chúng ta cần các chủng viện vì đó là nơi đào tạo các thế hệ linh mục mới, để họ trở thành những người “lãnh đạo đầy tớ” có thể làm mục vụ – chứ không phải cai trị – các tín hữu.
Giáo hội Công giáo Úc đã đạt đến điểm quan trọng trong hành trình của mình khi cần phải tái tạo lại toàn bộ Giáo hội địa phương. Các phát hiện về lạm dụng tình dục trẻ em trong Giáo Hội là chất xúc tác chính. Điều này được ghi lại trong Báo cáo cuối kỳ của Ủy ban Hoàng gia về Các ứng phó của thể chế đối với lạm dụng tình dục trẻ em (Final Report of the Royal Commission into Institutional Responses to Child Sexual Abuse).
Báo cáo này đã xác định chủ nghĩa giáo sĩ (clericalism) là yếu tố góp phần đáng kể vào việc lạm dụng ở các cơ sở tôn giáo trên toàn nước Úc. Chủ nghĩa giáo sĩ bắt nguồn từ niềm tin mang tính thần học rằng giáo sĩ khác với giáo dân vì giáo sĩ đã trải qua một “thay đổi bản thể” khi thụ phong (một sự thay đổi về bản chất con người của họ khi lãnh nhận bí tích Truyền chức thánh). Chủ nghĩa này còn đưa ra quan điểm rằng không ai có quyền được thách thức các giáo sĩ.
Cũng theo bảng báo cáo, văn hóa giáo sĩ trị đang gia tăng trong các chủng viện ở Úc. Một cách cụ thể, họ quan niệm rằng Chủ nghĩa giáo sĩ phải là lý tưởng của chức tư tế, hay nói rộng ra, phải là lý tưởng của Giáo Hội Công Giáo. Chủ nghĩa giáo sĩ gắn liền với cảm tưởng có được quyền hành, ưu thế lớn và được tách riêng, hay ngay cả lạm dụng quyền lực. Một người mắc chứng “giáo sĩ trị” tự coi mình là đặc biệt, vượt trội hơn những người khác và đáng được tôn trọng hơn. Điều này có thể dẫn đến kiêu ngạo và coi thường người khác. Giáo dân cũng có thể mắc lỗi “giáo sĩ trị” nếu họ ủng hộ thái độ này.
Đầu tiên, việc đào tạo linh mục được diễn ra trong môi trường “giáo sĩ” tách biệt, mà theo báo cáo, có khả năng có tác động bất lợi đối với sự trưởng thành về tâm lý của các chủng sinh và việc này cũng làm tăng nguy cơ lạm dụng tình dục trẻ em. Do đó, một trong các khuyến nghị chính của Ủy ban Hoàng gia được đề cập cụ thể là vấn đề đào tạo các linh mục trong các chủng viện cần được cải cách. Theo đó, tất cả các chủng viện, học viện Công giáo ở Úc nên xem xét và sửa đổi các tiêu chuẩn và văn bản liên quan đến việc đào tạo linh mục. Điều quan trọng là Hội đồng đã đề cập đến các vấn đề của Chủ nghĩa giáo sĩ trong quá trình đào tạo mục vụ. Rất may, ở một mức độ nào đó, các nhà lãnh đạo Giáo hội đã đồng ý về sự cần thiết phải cải tổ.
Đề cập đến những thay đổi về văn hóa và cấu trúc mà Hội đồng có thể làm trong Giáo hội, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công giáo Úc, Đức Tổng Giám mục Mark Coleridge, nói rằng: “Đây không phải là lúc để Giáo Hội treo những tấm biển nói rằng ‘mọi việc bình thường’. “Cải cách” môi trường giáo sĩ “đòi hỏi phải nhìn nhận tất cả các khía cạnh của quá trình hình thành với một con mắt biết phê phán. Điều này nghe có vẻ hợp lý,bởi vì khi một nhóm người được đưa đến một nơi dành riêng và được chú ý đặc biệt trong các lớp học nhỏ với những người khác, cảm giác tách biệt có thể xảy ra.”
Điều tương tự cũng áp dụng cho những thanh niên được phép mặc áo dòng và đeo cổ côn trước khi bước vào đời sống tu trì. Việc đánh giá bản thân một cách “khác biệt” là hoàn toàn dễ hiểu. Câu hỏi hợp lý đặt ra là: nếu chúng ta đang cố gắng loại bỏ Chủ nghĩa giáo sĩ khỏi Giáo Hội của chúng ta và khỏi các chương trình đào tạo linh mục tương lai, tại sao chúng ta vẫn cố chấp để các chủng viện tuân theo một mô hình đã tạo ra những kết quả có vấn đề? Giáo Hội phải tìm ra những cách khác để đào tạochủng sinh cho nhiệm vụ làm linhmục giáo xứ.
Rốt cuộc, Chúa Giêsu chưa bao giờ gửi các môn đệ của mình đến chủng viện. Chúa Giêsu giới thiệu cho họ những giá trị của Nước Trời không phải trong một tòa nhà, mà là “trên đường”.
Trong hai thế kỷ đầu tiên, không rõ làm thế nào mà người ta được chọn để cử hành Thánh Lễ. Nhưng khi các dòng tu được thành lập, bắt đầu từ Thánh Bênêdictô, các tu viện có tiêu chí riêng của họ. Những người không sống trong tu viện, tức là các ứng viên của giáo phận, đã đi theo nhiều con đường khác nhau để được thụ phong tùy thuộc vào giám mục địa phương. Cần lưu ý rằng trong lịch sử Giáo Hội, các chủng viện chỉ mới phát triển tương đối gần đây.
Chính Công đồng Trentô (1545-63) đã quyết định một quy trình nghiêm ngặt trong nhiều năm học tập tại một địa điểm biệt lập duy nhất, để đảm bảo các linh mục được đào tạo thích hợp. Các chủng sinh bị tách khỏi gia đình và cộng đồng của họ, sau đó được đưa vào một trung tâm nghiên cứu tu đức và thần học.
“Không phải ai đó ở trên cộng đồng, mà là một thành viên trong cộng đồng.” Tại sao mô hình đào tạo này lại hấp dẫn? Nó cung cấp khả năng đọc viết và một nền giáo dục vững chắc cho các ứng viên và là nơi mà những người nam có thể học tập với điều kiện tiếp cận các cơ sở vật chất, bất kể xuất thân. Nó cung cấp chỗ ở để việc đào tạo có thể được tiếp nối liên tục và được giám sát.
Hệ thống các chủng viện đã sản sinh ra một số cá nhân xuất sắc như Thánh Gioan Vianney, tấm gương của ngài đã dẫn đến sự biến đổi triệt để của cộng đoàn mà ngài phục vụ. Tuy nhiên, chủ nghĩa giáo sĩ được phép phát triển bên trong Giáo Hội qua nhiều thế kỷ, điều này đã che đi nhiều khía cạnh tích cực của việc đào tạo và thực hành chức thánh. Nhưng ta không được quy chụp điều này riêng cho những người được đào tạo để trở thành linh mục giáo phận. Báo cáo cuối cùng của Ủy ban Hoàng gia chỉ trích cả “linh mục và Giáo Hội” liên quan đến việc đào tạo của họ.
Tuy nhiên, thành viên của các dòng tu và đan viện như Dòng Thánh Bênêđictô và Dòng Xitô khác biệt ở chỗ, họ là thành viên của một “cộng đồng gia đình” hỗ trợ và hướng dẫn họ; một số được thụ phong linh mục nhưng không phải tất cả. Các chủng sinh giáo phận thường không được như vậy. Ở những dòng tu mà các thành viên ít được phong chức linh mục, thì điều đó làm giảm bớt mối đe dọa của chủ nghĩa giáo sĩ, hoặc mong muốn leo lên các cấp bậc trong Giáo Hội. Ngược lại, chủ nghĩa giáo sĩ lại xuất hiện nhiều trong các chủng viện giáo phận.
Nhưng việc tạo điều kiện cho chủ nghĩa giáo sĩ phát triển trong các hệ thống đào tạo hiện tại ở cá chủng viện đã góp phần gián tiếp vào việc lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên, gây chấn động trong các cuộc điều tra trên khắp thế giới. Nếu chúng ta nghiêm túc trong việc loại bỏ chủ nghĩa giáo sĩ, chúng ta không nên tiếp tục với mô hình chủng viện như nó đã từng diễn ra.
Một số giáo sư đã từng giảng dạy trong các chủng viện ở Hoa Kỳ, bao gồm các cựu giáo sư chủng viện Colt Anderson và Christopher Bellitto, đã nhận ra những điểm yếu của mô hình truyền thống này. Họ nói rằng mặc dù có những thanh niên tốt theo học, nhưng các chủng viện đã đóng một vai lớn trong cuộc khủng hoảng của Giáo Hội hiện nay “bằng cách đưa chủng sinh vào chủ nghĩa giáo sĩ”.
“Các chủng sinh được truyền tải một thông điệp nhất quán: vai trò của họ là cai quản giáo dân và Giáo Hội do kết quả của sự thay đổi bản thể khi thụ phong, không phải là kết quả của phẩm hạnh, kiến thức hoặc hành vi kiểu mẫu của họ. Họ đang được đào tạo để trở thành những ‘ông chủ chuyên quyền’, không phải những ‘nhà lãnh đạo đầy tớ’. Chúng ta cần các chủng viện là nơi đào tạo các thế hệ linh mục mới, để trở thành những người lãnh đạo đầy tớ, những người có thể làm mục vụ – chứ không phải cai trị – các tín hữu.”
Điều quan trọng nhất để khỏi rơi vào chủ nghĩa giáo sĩ là tránh cô lập về mặt thể chất những người muốn trở thành linh mục. Các chủng sinh nên dành nhiều thời gian hơn để sống trong giáo xứ của họ trong quá trình đào tạo.
Về mặt lý thuyết, các chủng sinh có thể tiếp tục sống tại nhà, điều này sẽ cho phép họ duy trì mối quan hệ với những người đương thời, đang khi vẫn tham gia vào đời sống thực tiễn của giáo xứ. Chúng ta cần xem xét các đường hướng thay thế trong việc chuẩn bị thụ phong cho các chủng sinh. Họ cần có sự tương tác và hòa nhập nhiều hơn với các giáo xứ của họ và thành viên của các dòng tu khác.
Như trong tài liệu cuối cùng của Thượng Hội đồng về Người trẻ 2018 có đề xuất rằng: phải có các khóa đào tạo chung cho “các giáo dân trẻ, tu sĩ trẻ và chủng sinh.” Điều này đi đôi với quan điểm của Đức Thánh Cha Phanxicô về vai trò và trách nhiệm liên đới cho cả giáo dân và giáo sĩ.
Chủ nghĩa đại kết cũng đóng một vai trò quan trọng. Các tôn giáo khác đã chuẩn bị như thế nào và chúng ta có thể học được gì từ họ? Để chống lại chủ nghĩa giáo quyền, điều quan trọng là sự chuẩn bị cho một cá nhân phải diễn ra ở tại giáo xứ, một cộng đồng với nhiều nhiệm vụ khác nhau; anh ta không nên tự cao rằng anh ta là một ai đó đặc biệt và cao hơn mọi người, nhưng chỉ là một thành viên trong cộng đồng.
Tác giả: Gideon Goosen (Australia)
Chuyển ngữ: P. Nguyễn Thanh Trà
(giaophanvinhlong.net/ international.la-croix.com 25/9/2021)
* Gideon Goosen là một nhà thần học và tác giả ở Sydney. Cuốn sách mới nhất của ông là Clericalism: Stories from the Pews, Coventry Press, 2020.
2021
Đôi nét văn hóa – văn học Công giáo Tây Nguyên
Đôi nét văn hóa – văn học Công giáo Tây Nguyên
Giáo phận Kon Tum được khai sinh trong trường hợp khá đặc biệt và đa dạng vì là miền truyền giáo cho các sắc tộc vùng Tây Nguyên bắt đầu từ thế kỷ XVIII-XIX, với những nỗ lực có thể nói đầy gian nan, nhưng thật can trường và không ngừng nghỉ.
Thật vậy, Tây Nguyên từ lâu đời là nơi sinh sống của các dân tộc bản địa như: Bahnar, Jơlơng, Rơngao, Jrai, Sêđăng, Hlăng, Jeh-Triêng…Cho đến đầu thế kỷ XIX, vùng đất này hầu như vẫn còn “khép kín” so với thế giới bên ngoài và chưa có bóng dáng người Kinh nào lui tới.
Năm 1848, thầy sáu Phanxicô Nguyễn Do, vâng lệnh Đức Cha Stêphanô Cuénot Thể – Giám Mục Đông Đàng Trong (Qui Nhơn) đã hướng dẫn các vị thừa sai người Pháp cùng một số thầy giảng người Việt lên Kon Tum.
Năm 1851, Đức Cha Stêphanô Cuénot Thể đã thiết lập 4 Trung tâm Truyền giáo đầu tiên cho các sắc dân chính như: Bahnar, Rơngao, Jơlơng, Sêđăng, Jrai[1]. Như thế Miền Truyền Giáo Thượng (Mission des pays Moys) được hình thành. Và cũng từ đó, lịch sử – văn hóa – và cả văn học Công giáo Tây Nguyên được bắt đầu, song hành theo tiến trình phát triển của giáo phận Kon Tum, trong dòng chảy chung của nền văn học dân gian của các dân tộc bản địa, làm công cụ đắc lực cho công cuộc truyền giáo và phục vụ cho nhu cầu văn hóa của xã hội.
Trước khi tìm hiểu về đôi nét văn hóa – văn học Công giáo Tây Nguyên trong giòng lịch sử của giáo phận Kon Tum từ buổi đầu cho đến ngày nay, chúng tôi xin phép trình bày một số giới hạn và nhận định sau:
- Tây Nguyên mà chúng ta muốn đề cập vào thời kỳ truyền giáo ban đầu bao gồm vùng rừng núi rộng lớn phía Tây dãy Trường Sơn, kéo dài cho đến Hạ Lào. Năm 1932, năm tách Giáo phận Tông tòa Kon Tum ra khỏi Giáo phận Tông tòa Qui Nhơn, Miền truyền giáo Kon Tum có diện tích 70.000 km2 gồm 3 tỉnh người sắc tộc là Kon Tum, Pleiku, Ban Mê Thuột của Việt Nam, và tỉnh Attopeu thuộc nước Lào. Đến năm 1944, tỉnh Attopeu tách khỏi giáo phận Kon Tum, nhập về Lào. Ngày 22.06.1967, Tòa Thánh tách tỉnh Dak Lak khỏi Kon Tum lập giáo phận mới Ban Mê Thuột. Giáo phận Kon Tum còn lại 3 tỉnh: Kon Tum, Pleiku và Phú Bổn. Hiện nay Giáo phận Kon Tum gói gọn trong phạm vi 2 tỉnh: tỉnh Kon Tum và tỉnh Gia Lai với khoảng 350.000 tín hữu mà 2/3 là đồng bào các sắc tộc thiểu số, chỉ 1/3 là dân tộc Kinh.
- Do tính chất đặc thù đa sắc tộc và nhiều yếu tố khác nên văn học, văn chương Tây Nguyên luôn gắn liền với văn hóa các bộ tộc Tây Nguyên. Văn học thường phản ánh nét văn hóa bản địa và ngược lại các tác phẩm viết về văn hóa bản địa tùy mức độ lại chứa đựng nhiều yếu tố văn học. Điều này không chỉ có đối với văn học Tây Nguyên mà cũng đúng với nhiều vùng miền khác.
- Do tính cách Công giáo của văn học cũng như tương quan giữa văn học và đức tin, đối tượng của Văn học Công giáo Việt Nam nói chung, Văn học Công giáo Tây Nguyên nói riêng rất đa dạng. Ngoài những tác phẩm thuần túy văn chương như văn thơ, các sách Kinh Thánh, giáo lý, huấn đức…; các tác phẩm biên khảo về phong tục, nghi lễ, sách dịch thuật.v.v. cũng là đối tượng của văn học Công giáo. Tương tự về ngôn ngữ văn học, chẳng hạn các tác phẩm bằng tiếng của các sắc tộc bản địa, tiếng Pháp, tiếng Việt…; về quốc tịch các tác phẩm và tác giả: Việt, Pháp (thừa sai người Pháp), Thượng.v.v. đều là đối tượng của văn học Công giáo Tây Nguyên[2].
- Và cuối cùng, bên cạnh những nét đặc sắc mà văn học Công giáo Tây Nguyên đã đóng góp, cũng đề cập đến đời sống văn học thường nhật diễn ra trong quá khứ cũng như hiện tại, để có thể hiểu rõ hơn khuynh hướng văn học Công giáo nơi Miền Thượng này.
Trong phạm vi bài lược trình này chúng tôi chỉ dám gợi qua một số nét tiêu biểu về các tác giả và tác phẩm qua các thời kỳ:
– Thời kỳ hình thành Miền Truyền Giáo Kon Tum (1848-1932)
– Thời kỳ Giáo phận tông tòa Kon Tum (1932-1960)
– Thời kỳ Giáo phận chính tòa Kon Tum (1960-nay)
I. THỜI KỲ HÌNH THÀNH MIỀN TRUYỀN GIÁO KON TUM (1848-1932)
Các tác phẩm viết thời kỳ này chủ yếu bằng tiếng Pháp và tiếng các dân tộc bản địa: Bahnar, Sêđăng và Jrai. Có thể chia thành 2 giai đoạn:
1. Giai đoạn 1848-1908: đặt nền móng
Năm 1851, vừa đặt được cơ sở truyền giáo, quan tâm hàng đầu của các Thừa sai là học tiếng bản xứ và xây dựng bộ chữ viết các sắc dân. Người Thượng vốn không có chữ viết và họ lý giải là do tổ tiên ngày xưa đánh mất[3]. Mà để giảng Đạo, để giải thích tín lý cao siêu bằng một thổ ngữ rất nghèo từ ngữ trí thức, thì cần phải nắm vững và biết tường tận thổ ngữ đó, cho nên, sau một tháng rưỡi xin ở trọ nhà ông Hmur, chủ làng Kon Kơxâm để học tiếng, các linh mục như Dourisboure, Combes, Fontaine đã sử dụng mẫu tự Latin để ghi âm tiếng Bahnar, các ngài đã có được một quyển sổ lớn ghi các từ, bắt đầu là những từ đơn giản[4]. Công việc cứ thế tiếp tục…
Vào năm 1853, sau 2 năm tìm tòi, nghiên cứu ngôn ngữ, Cha Combes (Bok Bê) đã soạn xong một tập giáo lý nhỏ bằng tiếng Bahnar và đã dịch xong các kinh mà mỗi Kitô hữu phải biết và phải đọc. Cha Dourisboure (cố Ân) dựa vào tập này dịch sang tiếng Sêđăng[5]. Các tân tòng đầu tiên của Kon Tum đã học Đạo theo tập giáo lý và kinh nguyện này.
Ngày 29.9.1853, Cha Combes (1825-1857) đã viết bài tường thuật tổng hợp đầu tiên, dưới dạng một lá thư gởi các Cha trong ban giám đốc Hội Thừa sai, trong đó miêu tả thật chi tiết về vùng đất mà cho đến nay chưa một ai biết đến. Tác phẩm này xứng đáng là một bài khảo cứu đầu tiên về miền truyền giáo Thượng. Bài khảo cứu này cùng với trích đoạn Thư của Cha Dourisboure ngày 12.12.1871 đều được in trong phần phụ lục của tác phẩm Les Sauvages Bahnars, xuất bản năm 1929[6].
Tại Kon Kơxâm, vào năm 1865, Cha Dourisboure (1825-1890) bắt đầu viết tác phẩm hồi ký thời danh: Les Sauvages Bahnars – Souvernirs d’un missionaire và hoàn thành tại Chủng viện Hội thừa sai Paris ngày 28 tháng giêng năm 1870. Tác phẩm này được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1929, tức 39 năm sau ngày tác giả qua đời. Ngoài giá trị là một sử liệu truyền giáo Tây Nguyên, tác phẩm này còn là một khảo sát lý thú và là thiên hồi ký đặc sắc, đơn sơ, thành thật, tả chân, đến độ gây cảm xúc mãnh liệt[7]. Ngay sau đó, Les Sauvages Bahnars đã được phóng tác sang tiếng Việt qua tác phẩm “Mở Đạo Kontum” in tháng 5/1933 và loạt “Truyện các đấng mở đàng giảng đạo mọi Kontum”, in từ năm 1936[8], và đến năm 1972, toàn bộ tác phẩm này được dịch sang tiếng Việt với tên sách: DÂN LÀNG HỒ, in tại Sài Gòn.
Trở lại công trình tạo ra chữ viết Bahnar, sau thời gian định hình mẫu tự và thống nhất phiên âm, Cha Dourisboure đã hoàn thiện và viết thành sách “Vocabularium apud barbaros Bahnars” vào năm 1870 (dày 268 trang, cỡ sách 20x26cm) gồm 3 thứ tiếng: Bahnar-Việt-Pháp; tiếp đến là Hlabar abo, sách dạy đánh vần tiếng Bahnar, nhà in Nazareth, Hong Kong 1888; sau cùng là cuốn tự điển “Dictionaire bahnar-francais” in tại nhà in Hội Thừa sai Paris năm 1889[9]. Hình thành chữ viết là cả một quá trình lâu dài của tập thể các vị thừa sai, tuy nhiên vẫn mang đậm dấu ấn riêng tùy theo mỗi vị. Như Cha Dourisboure, với sự cộng tác và giúp sức của các thừa sai Combes, Fontaine…; của ông Hmur người Bahnar, và tất nhiên của Cha Do. Linh mục người Việt này xuất thân từ Chủng viện Pi-năng, ngoài tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ ngài cũng hiểu biết tiếng Latin và tiếng Pháp, và còn thông thạo tiếng Bahnar nữa.
Đến năm 1874, cả Miền Truyền Giáo có 987 tín hữu, trong đó số tín hữu người Kinh là 542 người, tập trung chủ yếu ở hai làng đạo Tân Hương và Phương Nghĩa[10].
Năm 1875, Cha Vialleton Truyền (1848-1909) được tăng cường cho Miền truyền giáo Thượng, ngài nhận chức Bề trên từ năm 1881 và hăng say hoạt động truyền giáo trong suốt 27 năm. Chính ngài có sáng kiến dạy con em Thượng viết và đọc chữ quốc ngữ, song song với tiếng thổ âm của họ. Đích thân ngài về Bình Định mời thầy Hương[11], một thầy giảng có tiếng, đang phục vụ tại Qui Nhơn, lên Cao nguyên để sắp đặt chương trình, tổ chức lớp học văn hóa đầu tiên trên vùng dân tộc[12]. Nhờ đó, một số thanh niên Bahnar sau này thành Yao Phu tiên khởi xuất sắc, làm thầy dạy tại trường Cuénot. Năm 1894, ngài xuất bản cuốn “Cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”, bằng tiếng Bahnar tại nhà xuất bản Nazareth trong lúc ngài ở Hồng Kông dưỡng bệnh[13].
Cha Guerlach Cảnh (1858-1912) đến Kon Tum cuối năm 1882, lòng nhiệt thành truyền giáo và óc uyên bác của ngài đã làm ngài trở nên người có ảnh hưởng lớn trên các tín hữu lẫn lương dân. Một số bài viết của Cha Guerlach[14] như:
-”Moeurs et superstitions des sauvages Bahnars” (Những điều mê tín dị đoan ở xứ Bahnar) Mission Catholiques, XIX, 1887.
-”La variole chez les Sodang, Rongao et Bahnar” (Dịch đậu mùa ở xứ Thượng), Mission Catholiques, 1893.
– Chez les sauvages de la Cochinchine orientale, Bahnars, Reungaos, Sedangs (Xứ Bahnar, Rơngao, Sêđăng ở Giáo phận Đông Đàng Trong), Mission Catholiques, 1984.
– Mariages et cérémonies des noces chez les Bahnars (Tục cưới xin và lễ cưới ở xứ Thượng), Annales 1901.
– Chez les sauvages Bahnar Reungao (Cochinchine orientale), Annales 1902.
Từ năm 1905-1908, thừa sai Nicolas Cận (1876-1947) đến truyền giáo vùng Hà Bầu – Tiên Sơn (thuộc Gia Lai ngày nay) cũng đã dựa theo mẫu tự Latin, thêm một số dấu cho nguyên âm để viết thành chữ của bộ tộc Jrai và soạn thảo tập giáo lý “Catéchisme en Jrai”. Tập giáo lý tiếng Jrai này được đánh số đoạn gồm các phần: Giáo lý cơ bản – Kinh nguyện – Bí tích, và một số tờ đang biên soạn chưa phân loại được[15].
Từ việc xây dựng bộ chữ viết các bộ tộc Tây Nguyên, các thừa sai đã tiến tới thành lập các trường học.Năm 1906, trường Cuénot được thành lập theo hình thức nội trú, nhằm đào tạo lớp thầy giảng người sắc tộc. Ngôn ngữ sử dụng trong trường là tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng Bahnar và tiếng Jrai; cũng có dạy tiếng Latin do Cha Alberty (Hiền) đảm trách[16].
Miền truyền giáo Kon Tum bước vào giai đoạn nỗ lực xây dựng có chiều sâu hơn.
2. Giai đoạn 1908-1932: nỗ lực xây dựng
Trường Cuénot bắt đầu xây dựng năm 1906, khánh thành năm 1908, đào tạo nên một lớp trí thức người Công giáo bản địa chưa từng có trong lịch sử từ trước đến nay. Chính Cha Vialleton Truyền là người khởi xướng và đóng vai trò định hướng, còn Cha Jannin Phước là người thành lập và điều hành ngôi trường này.
Song song với việc mở trường học, một nhà in cũng được thành lập, đặt ngay trong trường (Nhà in hnam trưng Kuenot), ban đầu còn đơn sơ nhưng được hoàn thiện dần. Nhà in này cung cấp hầu hết các loại sách cho Giáo phận: từ sách giáo lý, phụng vụ thánh lễ, bí tích, hạnh các thánh, thánh ca…đến các sách giáo khoa, khoa học thường thức, các loại sách học vần, tự điển; các tạp chí của Giáo phận.v.v.
Tạp chí Hlabar Tơbang dành riêng cho các Yao Phu ra đời số đầu tiên vào năm 1911, trở thành “con chim đầu đàn” của việc xuất bản ấn phẩm tiếng dân tộc, qua thời gian đã góp phần làm giàu, đẹp ngôn ngữ Bahnar, làm tiền đề phát triển ngôn ngữ các sắc dân khác nữa trong tương lai. Các tác phẩm viết trong tạp chí này gồm những bài giáo lý, chuyện kể truyền giáo, sưu tầm giải thích tục ngữ, những bài tường thuật, những bài văn vần…trong đó có những áng văn có thể tiêu biểu cho văn học Kon Tum thời kỳ đầu[17].
– TUỒNG SINH NHỰT: Đặc biệt ấn phẩm “Tuồng Sinh Nhựt”, Nhà in Kuenot xuất bản năm 1912, gồm 5 vở tuồng về lễ Giáng Sinh, nội dung kịch bản dựa theo Kinh Thánh được soạn theo lối nhạc kịch rất sống động, được học sinh trường Kuenot và giáo dân biểu diễn. Đây thực sự cũng là một đóng góp có giá trị cho di sản văn hóa-văn học Công giáo Tây Nguyên.
Các linh mục ngày càng quan tâm tìm hiểu nghiên cứu phong tục tập quán, văn hóa các dân tộc, đặc biệt các Cha Bề trên: Vialleton (Truyền), Guerlach (Cảnh), Kemlin (Văn), Jannin (Phước); các Cha người Việt có Cha Phaolô Ban, Cha Simon Thiệt.v.v.
+Cha Kemlin Văn (1875-1925) có rất nhiều bài khảo luận in trong Tạp chí nghiên cứu Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient (Tập san Viện Viễn Đông Bác cổ, BEFEO), đặc biệt là các tác phẩm: Les Rites Agraires des Reungao 1909 (Nghi lễ đồng áng của người Rơngao), Les Songes et leur interprétation 1910 (Chiêm mộng và giải mộng nơi cư dân Rơngao), Les Alliances chez les Reungao 1917 (Giao kết của người Rơngao); L’Immigration annamite en pays Moï -Brochure- Saigon 1923…
+Đức Cha Jannin Phước (1867-1940):
– Hlabar abo, sách học vần Bahnar in thành nhiều bản, Hội thừa sai 1908, đợt xuất bản khác vào năm 1910.
– Sách dạy kinh dịch từ tiếng Việt sang Bahnar: dựa theo “sách thiên”, trường Kuenot, 1910.
–Sách dạy nói tiếng Việt, những khái niệm đầu tiên của Tiếng Việt, trường Kuenot 1915.
–Phép toán bằng tiếng Bahnar, trường Kuenot 1919.
–Địa lý Đông dương thuộc Pháp, (các bản đồ), trường Kuénot 1922.
–Sách dạy nói tiếng Việt, trường Kuénot 1923.
– Những khái niệm cơ bản của tiếng Việt. Còn đang soạn từ điển Pháp – Bahnar – Sêđăng – Jrai…Chưa đóng thành sách, 160 trang, khổ 16cm x 25cm, bìa bằng giấy, AMEP 1924.v.v.
(Trích Tập Tin: Martial Jannin, Anonyme 31/12/2008, số 1924)
Sách dạy kinh dựa theo “sách thiên”, Lm Martial Jannin, 1910
Đến năm 1928, lần lượt các trường học được mở tại các xứ đạo người Kinh: Tân Hương, Phương Nghĩa, Phương Hòa, Phương Quý[18]…
Tất cả những nỗ lực phát triển văn hóa trong thời kỳ này làm tiền đề cho việc “bùng nổ” văn học viết, nhất là văn thơ Công giáo tiếng Việt trong thời kỳ kế tiếp.
II. THỜI KỲ GIÁO PHẬN TÔNG TÒA (1932-1960)
Sau 82 năm (1850-1932), Miền Truyền giáo Kon Tum phát triển về mọi phương diện, được Tòa Thánh nâng lên thành Giáo phận Tông tòa Kon Tum tách khỏi giáo phận Tông tòa Qui Nhơn.
Ngày 29/6/1932, ba thanh niên Bahnar đầu tiên đã lãnh nhận tác vụ linh mục: đó là các cha Micae Hiâu (1900 – 1949), cha Giuse Châu (1900 – 1955), cha Antôn Đen (1903 – 1987). Một trong 3 vị đã có một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử giáo phận Kontum: cha Antôn Den (Học), một nhà trí thức, một học giả Bahnar: dịch Thánh Kinh, dịch sách phụng vụ, viết hạnh các thánh và phụ trách tờ Hlabar Tơbang. Rất nhiều ấn bản của nhà in Kontum do Cha Antôn Den soạn thảo đã phục vụ hữu hiệu cho công việc mục vụ, giảng dạy, bảo tồn và truyền bá văn hóa văn học Tây Nguyên suốt một thời gian dài cho đến ngày nay.
Lm Antôn Den (Bahnar) với bản dịch Kinh Thánh
Vào đầu thập niên 1930 này, thơ văn tiếng Việt ở Kontum mới dần định hình – nghĩa là mới bắt đầu có thơ văn lưu hành. Trong khi “tác phẩm văn học Đời” – thơ văn được sáng tác bởi các tác giả ngoài công giáo – chưa thấy xuất hiện nhiều và được ghi chép tản mạn[19], thì với việc ra đời của Tạp chí “Chức dịch Thơ tín” – tạp chí của “Hội chức việc Á thánh Năm Thuông” của Địa phận Kontum, năm 1933, rất nhiều tác phẩm văn thơ công giáo đã được sáng tác bởi các tác giả là linh mục, quí ông câu, biện, giáo dân, chủng sinh…lần lượt được đăng trong tạp chí này. Tuy là một tờ báo nội bộ của hàng chức việc, nhưng “Chức dịch Thơ tín” – do linh mục Phaolô Lê Đình Ban làm chủ bút (từ 1933 đến 11.1937, Cha Simon Nguyễn Thành Thiệt thay thế), dưới sự chuẩn nhận của Đức Cha Martial Jannin Phước (imprimatur), đã đề ra đường hướng mở rộng, cả về nội dung lẫn đối tượng độc giả:
…Tô điểm văn chương lòng sở nguyện,
Khai đường thánh giáo ý hằng chăm.
Việc đời rao bảo người tri thức,
Lẽ đạo vẽ bày bạn phúc tâm.
(“Tặng Thơ tín”-Lương ngọc Anh,
CDTT số 39, 7.1936, tr.475)
Và trong tạp chí này có hẳn một mục “Văn Uyển”, hầu như số nào cũng có văn thơ đăng.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một số tác giả và tác phẩm văn thơ công giáo chủ yếu được in trong Tạp chí “Chức dịch Thơ tín” từ năm 1933-1940.
Tác giả đáng kể nhất trong giai đoạn này là Lm Phaolô Lê Đình Ban (1881-1945), quê quán họ đạo Suối Nổ, địa sở Nhà Đá, tỉnh Bình Định, lên Kon Tum năm 1914. Cha Ban là chủ nhiệm kiêm quản lý tạp chí “Chức dịch Thơ tín” với khá nhiều bài viết về đủ loại đề tài: thời sự, lịch sử, tu đức, khoa học thường thức.v.v. như “Truyện các đấng mở đàng giảng đạo xứ Kontum”, “Năm Ất Dậu (1885)”, “Về vệ sinh (nhiều kỳ): Vệ sinh về đồ ăn, sự ngủ, áo mặc, cách làm việc, về bệnh rét…; “Một đều giao hòa vua Annam với nước Lang-sa”, “Chức việc phải ở với bạn đồng liêu là thể nào”, “Coi sách”, “Giảng khéo”, Hạnh đấng chơn phước Minh-ghê Hồ-đình-Hy, thới bộc chịu tử vì đạo (năm 1857), Gốc tích cây café sẻ xứ Kontum, Truyện một ông già, Tên đầy tớ dạy khôn, Hạnh tích cha Đề.v.v. Đặc biệt là tác phẩm “MỞ ĐẠO KONTUM” (nhà in Qui Nhơn 05.1933) soạn chung với Cha Simon Thiệt, là một cuốn sách có nhiều chi tiết rất hay về lịch sử truyền giáo Kon Tum, một lịch sử vừa kịch tích, hấp dẫn, vừa hào hùng. Ngoài ra, còn rất nhiều bài khác đăng trong báo “Lời thăm”, “Thông tin địa phận Qui Nhơn” của địa phận Qui Nhơn (vd: “Tử đạo tại Truông Dốc (Nhà Đá), P. Ban, “Lời thăm”, địa phận Qui Nhơn 15-22 April, 1943.v.v.). Những tác phẩm của Cha Phaolô Lê Đình Ban (bút hiệu P. Ban hoặc Phaolô Ban) có lối viết giản dị, cách hành văn trong sáng, sử liệu dồi dào, vững chắc…là đóng góp không nhỏ cho văn học sử Tây Nguyên nói chung, văn học công giáo Kon Tum nói riêng.
Tác phẩm “Mở Đạo Kontum của 2 Cha P.Ban và S.Thiệt xuất bản 5/1933
Tiếp đến có các tác giả, tác phẩm tiêu biểu:
-Lm Phêrô Nguyễn Cơ (1890-1967), giáo sư trường Cuénot. Một số bài viết của ngài dưới bút danh P. C: “Đa ngôn đa quá luận đàm”, “Tháng các đẳng”, “Nghĩa vụ phu thê”, “Vấn đề lương giáo”, “Phương giúp trừ muỗi”, “Cảm tưởng về ngày khai trường Probatorium”[20].v.v.
-Lm Antôn Ngô Đình Thận (1903-1982), bút danh A. Ngô Đình, A. Ngô Đồng: “Luận câu : Dưỡng bất giáo phụ chi quá” (Nuôi con chẳng dạy tội rày cha mang), “Cái hạnh phúc gia đình”, “Cảm tưởng bạn thanh niên miền Thượng”, “Tính cuộc trăm năm”, “Cõi trần sơ luận”, “Phép lịch sự lúc ra ngoài”, “Luân lý có phải là nghĩa vụ của mọi người chăng?” “Ăn mà sống không phải sống mà ăn”, “Sao oai thế?”, “Hữu thể bất khả ý tận”, “Minh niên cảm tưởng”, “Hỏi kẻ có vợ chồng cùng kẻ đồng trinh ai hơn?.v.v.
-Ngoài ra, một số tác giả khác góp mặt trong giai đoạn này như: Ngọc Thanh, Lương Ngọc Anh, Phú Sơn, Alexis Hồ v. Lư, Giám mục Ma-xi-a-li (Martial Jannin) viết thư mục vụ bằng tiếng Việt: “Gởi lời thăm cùng chúc mọi sự lành, cho các giáo hữu địa phận Ta đặng hay”, Hương Ba, Bế Ngọc, P. Thiệt, Nhà-đá.v.v.
-Đặc biệt tiểu thuyết “RỪNG XANH LƯU LẠC” của tác giả Bế Ngọc, in trong tạp chí “Chức dịch thơ tín” từ số 36, tháng 4/1936 đến số 51, tháng 7/1937, về tài phiêu lưu mạo hiểm Tây Nguyên. Có thể nói đây là một đóng góp rất đáng ghi nhận của văn học Công giáo Tây Nguyên.
Một trang của tiểu thuyết “Rừng xanh lưu lạc” trong Tạp chí “Chức dịch thơ tín”, in năm 1936 tại Nhà in Kuenot Kontum
Mặc dù là những cây bút “cây nhà lá vườn” với thiện ý “việc đời rao bảo người tri thức,/ lẽ đạo vẽ bày bạn phúc tâm”, nhưng các tác giả thơ “không chuyên” ở đây cũng đã cố gắng “cạn lời vàng ngọc vun trồng”, nên những vần thơ đạo Kon Tum thời kỳ này ngoài giá trị về nội dung truyền giáo, chúng cũng mang những giá trị nghệ thuật nhất định.
*Về thể loại: khá phong phú như thất ngôn, thất ngôn bát cú, lục bát, ngũ ngôn, vè.v.v., cũng có một số bài được làm theo thể thơ tự do (xem bài “Kỷ niệm tiễn bạn”), hay trong cùng một bài có những cách đặt câu gieo vần theo lối thơ mới (“Nhớ bạn”.v.v). Nên nhớ phong trào “Thơ mới” ra đời từ năm 1932 đã chủ trương cách tân về hình thức và cách diễn đạt thơ, tuy vậy cũng chưa ảnh hưởng nhiều đến những miền quê, vùng miền núi, vùng sâu vùng xa…
*Về ngôn ngữ thơ: Các tác giả góp phần quảng bá và làm trong sáng vốn tiếng Việt. Tuy vẫn còn nhiều bài theo hình thức cũ, sử dụng từ ngữ cũ, từ Hán-Việt…nhưng cũng không hiếm những tìm tòi sáng tạo. Nhiều câu thơ đã lột tả những uẩn khúc bên trong, như tâm sự của một cựu chủng sinh: “Xưa vui đó ai gọi vui buồn,/ Rày buồn đây thật là buồn vui” (“Kỷ niệm tiễn bạn”), diễn tả ý “trong niềm vui đã chực sẵn nỗi buồn, trong nỗi buồn cũng có những niềm vui” ta vẫn hay gặp nhiều trong “thơ mới”. Hay cách chọn lọc từ ngữ tinh tế có sức biểu đạt cao.
*Về tác giả: Bên cạnh một số tác giả là cộng tác viên thường xuyên của tạp chí “Chức dịch Thơ tín” như A. Ngô Đình (bút danh của Lm Antôn Ngô Đình Thận), Xuân Thanh (tức ông Lôrenxô Nguyễn Xuân Thanh (1915-2008), là ông biện họ đạo Tân Hương, nguyên trước là thầy giáo làng)…Một số tác giả khác góp mặt với tên đầy đủ hoặc sử dụng bút danh – họ là người Kontum hoặc cũng có thể là cộng tác viên ở nơi khác như Lương Ngọc Anh, Cẩm Hương, Paul Thà (thầy Thà-Phương Nghĩa), Antoine X., Philippe T., Nhà đá, P. T., Đào Minh Nguyệt, Paul Tân Bút, Chúc dưng, Thanh Xuân, Con út họ Môn-giang, Michel N., Paul T. P. N., Tên Tôi, Nguyễn Hướng, N. khắc Toàn, T. N., Nguyễn Nhạn Hồng, Nguyễn Khắc Đoàn, L. Sáng Bạch, T. t. Thành…Một đội ngũ người viết khá dồi dào xuất thân từ tầng lớp có học như linh mục, thầy giáo, công chức, chức việc, chủng sinh…
*Về nội dung: Chúng tôi xin tạm chia thành 3 phần, theo nội dung của các bài thơ. Đây chỉ là một cách chia tạm thời, mang tính tương đối, để bạn đọc dễ hình dung hơn mà thôi.
- Thơ, vè chúc mừng, chào mừng:
Gồm một số bài chúc Tết, chúc bổn mạng Đức Cha, quí Cha và cộng đoàn, chúc mừng bổn báo; có bài được sử dụng kết hợp với múa chào mừng (xem bài “Ba đăng vũ ca”) hay bái lạy (“Minh Niên Trâu qua Cọp đến”, Bài I, Bài II). Những câu chúc thường khi vượt ra khỏi ranh giới của họ đạo, của giáo phận …mang ý nghĩa đại đồng.
- Thơ ca giáo lý, cầu nguyện, giảng dạy, khuyên răn:
Đây là phần chủ lực, gồm những bài thơ diễn giải giáo lý, nguyện gẫm (xem bài: “Thánh Thể”, “Tháng Trái Tim Đức Chúa Giêsu”, “Lời cầu”, “Tháng Đức Bà”, “Tiến-ba ngâm”.v.v.) ; những lời cha mẹ dạy dỗ khuyên răn con cái, các Cha khuyên bảo quí chức và giáo hữu, thầy khuyên trò, bạn đồng lưu đàm đạo nhắc nhở nhau.v.v., thuộc nhiều đề tài như về đạo làm con, về hôn nhân gia đình, về cách đối nhân xử thế…(“Khuyên con gái lấy chồng”, “Khuyên học trò”, “Huấn tử ca”, “Dạy con ở cho có đức”.v.v.).
- Thơ tự sự, tả cảnh…
Thơ đề tài này rất phong phú, gồm những lời tâm sự, tâm tình hoài hương, gợi nhắc kỷ niệm, ghi nhận cảm tưởng (“Gởi cho bạn ở Trung Châu”, “Nhớ”, “Nhớ cảnh”…; miêu tả sự việc, cảnh vật qua đó rút ra bài học luân lý (“Văn vần mồi chim”, “Cây trắc với cây lau”, “Chim mèo”…; “Cảnh hố Đangria”, “Vịnh mặt trăng”, “Trường Thừa sai”, “Nhìn phong cảnh nhớ người xưa”…) ; những ngẫm ngợi thế thái nhân tình (“Cánh hoa tàn”, “Than già”, “Thơ rượu”).v.v.
Có thể nói các tác phẩm thơ Đạo của các thế hệ tiên hiền ở Kontum, tuy không nhiều và không xuyên suốt qua các thời kỳ, nhưng cũng chuyên chở được những ý tứ sâu xa và văn phong đầy thi vị, từng là công cụ chuyển tải nội dung Tin Mừng đến cho các thế hệ con em. Những vần thơ này thường tự ẩn mình chìm khuất giữa dòng đời, rất dễ bị quên lãng, nhưng kỳ thực chúng rất đáng được trân trọng, sưu tầm và đọc lại, để hiểu thêm ngày xưa ông bà ta đã sống đức tin như thế nào.
- Đặc biệt có những bài thơ, văn vần bằng tiếng Pháp, tiếng Bahnar, được sáng tác bởi Cha Louison (Cố Lui) và các Yao Phu trường Kuenot. Cha Hồ Ngọc Cẩn đã chuyển ý các bài ca tiếng tiếng Pháp và tiếng Bahnar này sang các thể thơ bát ngôn và lục bát thật khéo léo và ý vị, góp thêm vào gia sản thơ Đạo trên miền Kontum (các bài thơ của Cha Hồ Ngọc Cẩn được in trong báo “Nam Kỳ Địa Phận, số tháng 7.1935)[21].
Tiếc rằng phong trào sáng tác văn học công giáo đã không trở thành dòng chảy liên tục, vì đến năm 1940, Tạp chí “Chức dịch Thơ tín” do thời cuộc (chiến tranh thế giới II bùng nổ, ĐC Jannin qua đời năm 1940, Cha P. Ban qua đời năm 1945…) đã không thể tiếp tục sứ mạng, đành chuyển đổi vai trò sau gần chục năm phụng sự “tô điểm văn chương, khai đường thánh giáo”, và cũng vì thế mà “Văn Uyển” từ đây vắng bóng những vần thơ, bài văn, để lại một lỗ hổng trên con đường phát triển văn học nhà Đạo trên miền Tây Nguyên.
Sau “Chức dịch thơ tín”, Giáo phận có chuyên san Les Echos (1941) – sau đổi thành tờ Dư âm, năm 1968 đổi thành tờ Tiếng Vang, dành riêng cho các linh mục trong giáo phận.
III. THỜI KỲ GIÁO PHẬN CHÍNH TÒA (1960- 2020)
Tiếp tục kế nhiệm Đức Cha Gioan Sion Khâm là Đức Cha Phaolô Seitz Kim (1952-1975). Năm 1960, giáo phận tông tòa Kon Tum được nâng lên giáo phận chính tòa. Đây là giai đoạn trưởng thành của giáo phận truyền giáo Kon Tum.
1. Giai đoạn trưởng thành 1960-1975
– Linh mục Jacques Dournes (1922-1993): Năm 1955, Cha Jacques Dournes nhận chỉ định đi truyền giáo trong giáo phận Kon Tum sau 8 năm làm việc tông đồ nơi người Srê ở Kala, Di Linh (Lâm Đồng ngày nay). Đức Cha Phaolô Seitz Kim cử ngài đến với người Thượng Jrai, vùng Cheoreo. Tại đây, Cha Dournes say mê nghiên cứu về con người bản địa, phong tục tập quán, tín ngưỡng và ngôn ngữ của họ. Ngài đã cho ra đời một số sách rất dồi dào thông tin và suy tư về những khuynh hướng mới trong khoa truyền giáo, đã làm cho ngài trở nên nổi tiếng trong các giới công giáo và thu hút sự quan tâm của các nhà thần học thời đó. Trong số các tác phẩm của ngài nổi trội là cuốn “Dieu aime les Paiens” (“Thiên Chúa yêu thương muôn dân”, bản dịch của TGM Kon Tum, NXB Tôn giáo, 2011). Năm 1970, Cha Jacques Dournes trở về Pháp để tiếp tục công trình nghiên cứu và viết sách. Công việc truyền giáo cho người dân tộc Jrai vùng Gia Lai-Phú Bổn được giao cho Dòng Chúa Cứu Thế tiếp tục.
Những tập viết bằng tiếng Jrai để hướng dẫn người Jrai gia nhập đạo là những tác phẩm mục vụ còn lưu giữ đến hiện tại có hơn 10 tập, in từ năm 1956-1969[22]. Năm 1973, Tân Ước tiếng Jrai được các Cha dòng Chúa Cứu Thế dịch và phát hành qua nhà xuất bản Đức Mẹ Sài gòn. Không kể những quyển tự điển và sách dạy tiếng Bahnar do thừa sai Alberty và các cộng sự đã cho xuất bản trước đây (Lexique Francais-Bahnar et Bahnar-Francais, Hà Nội 1940), gia đoạn này có Lm Hutinet soạn : Ebauche de dictionnaire francais-bahnar-jơlơng, 1965; Lexique comparébahnar-jolong-
-Cha Gioan Nguyễn Trí Thức (1909-1977), năm 1960 phụ trách giáo xứ Thăng Thiên, Pleiku. Ngài là một nhà giáo dục có chuyên môn, đã thành lập trường tiểu học Minh Đức ngay tại trung tâm thị xã Pleiku. Để giúp các giáo lý viên trong việc soạn bài học cho trẻ em, đồng thời giúp trẻ em dễ ghi nhớ những điều phải biết, phải học, cha Gioan Thức đã sáng tác những bài giáo lý bằng thi ca. Hai tập “GIÁO LÝ DIỄN CA”: tập 1 về Kinh Tin Kính, và tập 2 về Các Bí Tích, mỗi tập trên dưới 40 bài, mỗi bài tối đa 14 câu lục bát, kèm bên dưới là một đoạn chú giải ngắn giải thích thêm về bài giáo lý đó, đã được ĐGM Phaolô Seitz chuẩn nhận (imprimatur) và in tại nhà in Saigon năm 1961 (tập 1), 1962 (tập 2), tái bản năm 1970.“GIÁO LÝ DIỄN CA đã được công chúng nhiệt liệt hoan nghênh, nhiều độc giả còn viết thư yêu cầu cho ra mau những tập kế tiếp…”. Hai tập thi ca giáo lý này được đánh giá là: “…ngắn gọn, bình dị, xuôi trơn…đặc sắc vì có những bài học hàm súc, diễn tả một cách thấu đáo, có chỗ nói được là tài tình”[23].
“Giáo lý diễn ca” tập 1 & tập 2 in năm 1961 & 1962, tái bản năm 1970
Năm 1967, Tòa Thánh tách tỉnh Đăklăk thuộc Gp Kon Tum và tỉnh Quảng Đức, tỉnh Phước Long thuộc Gp Đà Lạt để lập Gp Ban Mê Thuột.
Chiến tranh ngày càng leo thang, các hoạt động viết trong giai đoạn này chủ yếu tập trung trong các tập san Hlabar Tơbang (tiếng Bahnar) và tập san Tiếng Vang (tiếng Việt), với các thông tin giáo phận, bài giáo lý, huấn đức, thuật chuyện lịch sử truyền giáo, thư mục vụ giám mục.v.v.
-Năm 1970, Lm Antôn Ngô Đình Thận (1903-1982) hoàn thành tập “Sơ lược lịch sử truyền giáo giáo phận Kontum” dựa theo cuốn “Dân Làng Hồ” của thừa sai Dourisboure (cố Ân) và “Mở đạo Kontunm” của hai Cha P. Ban và S. Thiệt, cập nhật thêm những nét chính yếu của Gp Kon Tum liên tục cho đến năm 1970. Với văn phong hiện đại, gọn ghẽ, sắp xếp chuỗi sự kiện khoa học, thống kê chính xác, tập sách này thật hữu ích để tra cứu, tìm hiểu thêm về lịch sử Gp Kon Tum.
Về dịch sách: Cha Giuse Trần Sơn Nam (bút danh Lưu Tấn) đã dịch một số sách thần học, tu đức…của các tác giả nước ngoài nổi tiếng sang tiếng Việt, như: “Như thấy Đấng vô hình”(Comme s’il voyalt l’invisible, tác giả: Jacques Loew), nhà in Xây Dựng, Saigon 1970; “Thiên Chúa mà tôi không tin” (Tác giả: Juan Arias); “Đức Kitô luôn mới lạ” (Tác giả: Juan Arias); “Đỉnh trời yêu thương” (Tác giả: John Wu); “Mối tình từ muôn thuở” (The world’s first love, tác giả: Fulton Sheen, tái bản NXB Phương Đông 2008)…
Ấn phẩm dịch của Lưu tấn (Lm Giuse Trần Sơn Nam)
2. Từ 1975-nay: Giai đoạn chuyển biến
Biến cố 1975 xảy đến đem lại nhiều khó khăn cho Gp Kon Tum. Giáo dân di tản, một số hồi cư trở về làng cũ hoặc tìm nơi định cư khác, đời sống bị xáo trộn. Mọi sinh hoạt tôn giáo đều trầm lắng, trong đó có mảng văn học. Trường Cuénot bị trưng thu cùng với Nhà in Kon Tum. Mọi hoạt động in ấn, phát hành đều bị đình trệ. ĐC Phaolô Seitz Kim và các Thừa sai ngoại quốc bị trục xuất khỏi Việt Nam. Tiếp theo làn sóng nhập cư tự phát hoặc theo chương trình kinh tế mới của Nhà Nước đã làm số lương dân cũng như giáo dân tăng đáng kể, đặt ra nhiều vấn đề về mục vụ văn hóa…
Các Lm thừa sai từng phục vụ Gp Kon Tum nay trở về cố hương, các ngài tiếp tục viết và hoàn thành những tác phẩm về truyền giáo Tây Nguyên như ĐC Paul Seitz, Cha Simonet, Cha Léger[24]…
Trong hoàn cảnh thiếu linh mục và hoạt động tôn giáo bị hạn chế, các Yao Phu đóng vai trò quan trọng. Học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện bằng Lời Chúa được đề cao trong suốt thời gian dài.
Từ 2003-2009, Ban dịch thuật làm việc tích cực, san định, hiệu đính những sách từ điển đã được biên soạn trước đây. Các bản dịch Tân Ước Bahnar và Jrai đã có trước đây (do Lm Antôn Den và các vị khác dịch) nay được đọc lại và chỉnh sửa cho phù hợp; tiếp tục cho dịch Kinh Thánh trọn bộ bằng các ngôn ngữ địa phương: Bahnar, Jrai, Sêđăng và Rơngao.
Đáp ứng nhu cầu mục vụ ngày càng tăng nơi các tín hữu đồng bào sắc tộc, Bộ sách Lễ Rôma và Sách Các Bài Đọc bằng tiếng Bahnar được hiệu đính lại từ các bản dịch trước đây, và dần dần cho dịch Bộ sách Lễ Rôma và các nghi thức ra tiếng Jrai, Rơngao, Sêđăng.
Một số linh mục, tu sĩ, giáo dân trong đời sống mục vụ, sống đạo cũng sáng tác những vần thơ, bài văn, viết bút ký, hồi ký ghi lại những chặng đường truyền giáo đã qua, những suy tư về hiện tại, về giới trẻ…Tuy đa phần đều in nội bộ, ra đời vào dịp kỷ niệm lễ, để tặng bổn đạo, bạn hữu.v.v. nhưng điều đó cũng thể hiện hoạt động văn hóa-văn học ít nhiều tùy ở từng mức độ.
– Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung: “HỒI KÝ”, Kontum 2008.
-Linh mục Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn: “Tập thơ” (Phú Bổn 1984), “Tình sử”, tập thơ kỷ niệm 25 năm TpLm (1996), cùng rất nhiều bài nghiên cứu, biên khảo về lịch sử Gp Kon Tum thuộc nhiều lĩnh vực; một số bài nghiên cứu lịch sử, bài thơ được đăng trong Tạp chí Nghiên Cứu Tôn Giáo, trong tờ thông tin PATER, trên trang trang web của giáo phận Kon Tum.
-Lm Giuse Trần Sĩ Tín (CSsR): “Hạt giống Kitô trong đất Jrai”, Pleikly 2009…
-Lm Simon Phan Văn Bình: “Người mục tử Trường Sơn”, bút ký, Kon Tum….
-Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông: “Mùa đông ấm áp”, Kon Tum 2013”Tâm bút”, Kon Tum 2015;
-Lm Tôma Nguyễn Văn Thượng với những bài khảo cứu về công giáo Tây Nguyên.
-Lm Luis Nguyễn Quang Vinh, “Suy niệm Lời Chúa Năm A-B-C”, Kon Tum, 2016.
-Lm Giuse Trần Ngọc Tín với tác phẩm tìm hiểu về Giáo luật: “Giáo luật và quy tắc tổng quát”, “Giáo luật và nhiệm vụ thánh hóa”, “Giáo luật và Dân Thiên Chúa”.v.v.
Một số tác phẩm
– Một số tác giả góp mặt trong Sưu tập thơ CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO của Ban MV Văn hóa và Giáo dục Gp Qui Nhơn (tập 5: Bay tới cõi Thiên Đàng, NXB Hồng Đức, 2015): Nữ tu Lucia Huỳnh Thị Thu Huyền, Cát Vàng, Minh Sơn.
-Một số giáo dân tham gia và đạt giải trong các cuộc thi thơ văn Đồng Xanh Thơ (Gp Qui Nhơn): Lý Tân, Tâm Ngọc, Nguyễn Đình Văn, Y Blon…
+Cuộc thi văn thơ HOA NÚI RỪNG:
Từ năm 2015, nhằm tạo một sân chơi lành mạnh cho các em học sinh, sinh viên, qua đó tìm kiếm các tài năng văn, thơ, nhạc Công giáo, đồng thời đào tạo bồi dưỡng những cây bút trẻ trong giáo phận, cuộc thi viết văn thơ “Hoa Núi Rừng” của Ban Mục vụ Văn hóa Giáo phận Kon Tum ra đời. Trải qua 7 năm (2015-2021), cuộc thi HOA NÚI RỪNG đã gặt hái được những thành quả nhất định. Mỗi kỳ thu hút hàng trăm cây bút trẻ tham gia với đại biểu của các sắc tộc như: Kinh, Ba Na, Gia Rai, Sêđăng. Cuộc thi được đánh giá mỗi năm tăng lên về số lượng và chất lượng, và Ban tổ chức cũng trao nhiều giải thưởng khích lệ cho các cá nhân và tập thể giáo xứ. Qua 7 năm đã in được 7 tuyển tập HOA NÚI RỪNG gồm tất cả các bài thơ, văn đạt giải và những bài tuyển chọn khác. Hy vọng với truyền thống dòng “Văn học Làng Hồ” – Văn thơ công giáo Kon Tum sẽ ngày càng tỏa ngát hương sắc trên đại ngàn núi rừng Tây Nguyên, trở nên phương tiện hỗ trợ rất hữu hiệu cho công cuộc loan báo Tin Mừng hôm nay và trong tương lai.
Tập san văn thơ “Hoa Núi Rừng”
Trên đây là phác thảo đôi nét diện mạo văn hóa văn học Tây Nguyên – Giáo phận Kon Tum. Qua đây chúng ta thấy nơi ánh lửa bập bùng của miền rừng núi, ngoài di sản cồng chiêng, sử thi v.v., còn có cả văn chương, văn học Kitô giáo. Các vị thừa sai và ông bà tổ tiên đã vận dụng tất cả phương tiện, tiếp thu, chắt lọc, hội nhập và phấn đấu hết mình trong suốt 170 năm qua (1851-2021) để vun trồng đạo đức làm người và làm con Chúa cho nhiều thế hệ người bản địa, Kinh cũng như Thượng. Nhiều tác giả, tác phẩm văn hóa văn học Tây Nguyên vẫn còn “phủ lớp bụi thời gian”, chưa được phát hiện, tìm hiểu hết. Trong khuôn khổ bài trình bày đơn sơ này, chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót và sai sót. Rất mong các nhà chuyên môn và quý vị độc giả thông cảm và góp ý sửa chữa, bổ sung để văn hóa – văn học Công giáo Tây Nguyên tiếp nối quá khứ, hướng tới tương lai được khởi sắc, phục vụ tích cực cho công cuộc loan báo Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Nguồn: WGPKT(16/09/2021), giaophankon
[1] x. P. Dourisboure, Dân Làng Hồ, TGM Kon Tum, NXB Đà Nẵng 2008, tr. 91.
[2] x. Võ Long Tê, LỊCH SỬ VĂN HỌC CÔNG GIÁO VIỆT NAM, NXB Tư Duy, Sài Gòn 1965, đặc biệt Chương II: Thế nào là văn học Công giáo?
[3] Theo thần thoại Bahnar do Lm André Rannou sưu tầm, 1974: “Bok Phu Jei, vị chúa tể thời gian, đặt chữ viết trong một miếng da trâu và giao cho người Thượng Bahnar, đồng thời họ cũng cho họ một cuốc nhỏ bằng bạc để làm rẫy. Những người Bahnar ấy đặt miếng da trâu xuống đất và ngất ngây trước cái cuốc bạc nhỏ đó. Khi định nhặt lại miếng da trâu thì họ nhận ra rằng một con chó đã ngốn mất rồi. Như thế người Bahnar đánh mất chữ viết!” (x. Paul Seitz, Des hommes debout, xuất bản St. Paul 1977, tr. 11).
[4] P. Dourisboure, sđd, tr. 78-79.
[5] P. Dourisboure, sđd, tr. 122.
[6] P. Dourisboure, sđd, tr. 274-307.
[7] P. Dourisboure, sđd, Lời Tựa, tr. 6.
[8] P. Ban và S. Thiệt, Chức dịch thơ tín, Địa phận Kontum số 33, tháng 1/1936, tr. 384.
[9] Notice biographique: Pierre DOURISBOURE (1825-1890), Archives MEP.
[10] Père Hugon, Etat des chréchientés de Rơhây et Kontum au mois d’Octobre 1873 et pour l’année 1874, Baptêmes 1873-1892.
[11] Lm P.X Hương (1856-1929). Thầy Hương lên Kon Tum năm 1881, đến năm 1887 về lại Bình Định và thụ phong linh mục ngày 14/10/1894.
[12] P. Ban và S. Thiệt, sđd, tr. 222,
[13] Jeju Kritô (Vie de Notre-Seigneur Jésus-Christ) [illustrée]. Imprimerie de Nazareth, Hong-kong, 1894, 12 in, 212 trang.x. Notice biographique: Jules VIALLETON (1848-1909), Archives MEP.
[14] Notice biographique: Jean Baptiste GUERLACH (1858-1912), Archives MEP.
[15] Lm Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn, Một văn bản cổ bằng tiếng Jrai: “Catéchisme en Jrai” của Cha G. B Nicolas, MEP, website Gp. Kon Tum 24/6/2011.
[16] Kỷ yếu Năm Thánh Yao Phu, TGM Kon Tum, 2008.
[17] Chúng tôi xin giới thiệu một đoạn văn đã được dịch từ tiếng Bahnar, tường thuật việc dựng Nhà thờ Chính tòa Kon Tum vào năm 1913: “Trời mùa hè ấm áp! Mặt trời vừa ló rạng khỏi dãy núi phía đông. Lòng người rộn rã như tiếng sấm mùa hè. Tùng, tùng, tiếng trống vang dội kêu gọi dân làng đến để dựng nhà thờ! Từ sáng sớm, có hai cha là cha Phước và cha Lê đã chuẩn bị đầy đủ, nào dây thừng v.v…Dân Kontum, anh em người Kinh và tất cả người Bahnar ra tập trung để chung sức kéo dựng. Đức cha và các cha đứng gần đó để coi. Gian đầu tiên, người ta kéo từ từ coi thử dây cột có chắc không; biết đã chắc rồi, cha Phước hô một tiếng to: phắt, tùng tùng, ông già đánh trống giữ nhịp độ kéo, người ta kéo các cột từ từ lên và dựng đứng thẳng. Trong lòng mọi người an tâm; họ thấy dễ dàng và không lo gì nữa. Từ sáng sớm đến trưa, người ta dựng được hai gian rồi. Trưa nghỉ ăn cơm. Ăn xong, họ bắt tay vào việc cho đến chiều tối, cũng dựng được hai gian. Ngày hôm sau, cũng dựng được 4 gian nữa; ngày thứ tư đã hoàn tất. Cảm ơn hai cha Phước và cha Lê đã hướng dẫn, chỉ bảo trong công việc dựng nhà thờ này. Trời đẹp quá, nếu sau này làm hoàn thành tất cả, thì sẽ đẹp hơn các nhà thờ khác: chiều dài, cũng dài hơn nhà thờ Rơhai; chiều rộng có phần ngắn hơn đôi chút. Hiện giờ, nhà thờ Kontum này họ đã lợp tranh. Cho nên, ngày kiệu Thánh Thể, cha Đệ đã dâng Thánh lễ tại đó để cầu xin Chúa ban phúc lành hồn xác cho các ân nhân ngoại quốc đã giúp dân làng Kontum có nhà thờ đẹp mới này”. (x. Hlabar Tơbang số 27 năm 1913, tr.34-35. Lm Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn chuyển sang tiếng Việt, x. Nhà thờ Chánh tòa Kontum, Gp Kontum, 2008).
[18] Kon Tum – 100 năm lịch sử và phát triển, NXB Chính trị quốc gia 2013, tr.365.
[19] Đáng kể nhất là những bài khảo cứu lịch sử như: Lược khảo về tỉnh Kontum, Trần Đình Nam, phụ trương bằng chữ Pháp, Nam Phong Tạp Chí, số 74, tháng 8/1923; Kontum tỉnh chí, Võ Chuẩn, Nam Phong Tạp Chí số 193, tháng1-2/1934. Ngoài ra có một vài bài thơ thấy nhắc tới và in lại trong ký sự Ngục Kontum của Lê Văn Hiến xuất bản ở Đà Nẵng năm 1938…
[20] Chúng tôi xin giới thiệu một đoạn văn giàu hình ảnh, âm thanh, xúc cảm…trong bài viết này, đăng trong CHỨC DỊCH THƠ TÍN của Địa phận Kontum, số tháng 04.1935, tr.281-284:
“Sục sục, ù…Chú lái vô tình đã dứt đoạn câu từ biệt, chiếc xe phóng tới, tay khoát đầu chào, hai bên nhìn nhau mà chỉ thấy đám bụi nổi lên mốc phếu. Chiếc xe từ từ thẳng lối, cứ lèo tây theo con đường quan lộ. Khỏi hai ba tiếng đồng hồ, thì không còn dấu gì là đất tổ quê cha, lên ải xuống đèo, càng thấy bao la những rừng cùng núi. Trong xe một lũ trẻ thơ, đơn sơ thanh tịnh, đương cố nói nói cười cười, lòng vui phới phở : “Ta đi đâu? Lên Kontum là nơi rừng núi, ắt sẽ thấy những cây mục lá khô; ta lên xứ Mọi, ắt sẽ gặp những đao cùng tác”.
Nào có dè, bóng ác vừa tan, thì xe kia đã tới. Thấy mọi sự đều khác hẳn trí suy: kìa lầu sứ, nọ sở nhà thương, lố xố dinh quan, mấy hàng trại lính, hai bên phố xá đàng thẳng dọc ngang. Đổ về ngả đông sáu bảy trăm thước, bẻ lái ra bắc, ấy là trường Probatorium. Bắc mặt xem lên là một ngôi nhà ba từng, nguy nga đồ sộ, trên một gò khoản khoát tư vuông; trước sau có những quan lộ chiều ngang dãy dọc, dưới xa có chợ là chốn bổ dưỡng học sinh, kế gần một bên có mương nước chảy, sạch sẽ trong veo đi ngang cửa hang Đức Mẹ, tứ vi là nhà người Annam ở, lợp ngói cái đỏ cái vàng, xen cùng màu cây lá cỏ, trên cao xem rất ngoạn mục, tợ hồ vườn hoa nở của thợ thiên nhiên”.
[21] Xin trích một đoạn:
SURSUM CORDA
(Cha Fr. Rég. Louison )
(Cha D. Hồ Ngọc Cẩn dịch nghĩa:)
-
Chúa Giêsu đã di ngôn:Tao sẽ kéo hết linh hồn người ta.Tao đem ngọn lửa chói lòaSoi cho những kẻ Tao đà chọn lên.Lòng trông cậy, chí vững bềnLà những chìa khóa để lên cõi trờiMôi Tao hạp ấy là lờiChỉ như sơn dạ, ắt thời Tao ghêVậy ta rủn chí chớ hềHãy quyết một bề:Sursum corda
[22] Lm Giuse Trần Sĩ Tín, Kinh nguyện và phụng vụ Kitô giáo hội nhập trong bối cảnh văn hóa Tây Nguyên, 2014.
[23] Gioan Nguyễn Trí Thức, Giáo Lý Diễn Ca tập II, Saigon 1970, tr.93.
[24] ĐC Phaolô Seitz Kim: –Des Hommes Debout – Les Montagnards du Sud Viêtnam. Xuất bản: St. Paul, Paris 1975; –Le temps des chiens muets – Flammarion 1977. Các thừa sai khác: tác phẩm được phổ biến qua nhiều tài liệu như “Niên giám nghiên cứu của Việt Nam”…
2021
Giáo dục hướng đến vĩnh cửu
GIÁO DỤC HƯỚNG ĐẾN VĨNH CỬU[1]
Thiên Chúa đã gọi các bạn ra khỏi hư vô không chỉ để có thể hiện hữu, mà còn để hiện hữu trong sự thánh thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa đã gọi các bạn hiện hữu để các bạn nên thánh thiện.
Tác giả: Cha Jared Ortiz
Chuyển ngữ: Lm. Giuse Nguyễn Thanh Phong
Nguồn: catholicworldreport.com (29.05.2021)
GIÁO DỤC LÀ GÌ ? Đâu là mục đích của nó? Làm thế nào để biết mình đã đón nhận nền giáo dục tại trường không chỉ là bằng cấp, mà còn là một nền giáo dục? Và, việc giáo dục của chúng ta đã kết thúc chưa?
Để bắt đầu đề cập đến những câu hỏi này, chúng ta hãy bắt đầu nhìn vào hạn từ “giáo dục”. Từ “giáo dục” đến từ e-ducere* trong tiếng Latinh, nghĩa là “dẫn ra hay vượt ra”. Và chúng ta nên hỏi, “dẫn ra khỏi cái gì?” Nhìn chung, điều này có thể được hiểu là vượt khỏi thời thơ ấu để vươn đến trưởng thành; từ dốt nát đến hiểu biết; từ hỗn độn đến trật tự; hoặc, như ngụ ngôn về cái hang trong tác phẩm Cộng hòa của Plato, vượt khỏi bóng tối của quan điểm để vươn đến ánh sáng của chân lý. Từ này cũng có thể có nghĩa là “triệu tập” hoặc “gọi ra”. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể nhắc đến cuộc tranh luận của Plato về “nhớ lại”: có những chân lý bên trong tâm hồn chúng ta được gợi lên nhờ một người thầy giỏi, khi làm như thế, họ cũng tạo nên tâm hồn chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta cũng có thể nghe thấy tiếng vọng ơn gọi của mình, là việc Thiên Chúa “kêu gọi” chúng ta để trở nên điều Ngài muốn khi dựng nên chúng ta.
(*Có hai gốc từ Latin khác nhau của hạn từ “education”: educare với nghĩa đào tạo, uốn nắn và educere với nghĩa dẫn ra, vượt ra như tác giả diễn giải.)
Người Hy Lạp cổ đại sử dụng từ παιδεια (paideia) cho “giáo dục”. Thuật ngữ này không dễ có hạn từ tương đương trong tiếng Anh. Đôi khi nó được dịch là “văn hóa” như trong cụm từ “một người có văn hóa”, nghĩa là một người có học thức, ăn nói rõ ràng, có khiếu thẩm mỹ tốt và phong thái chững chạc. Có lẽ người Rôma đã làm một điều đáng yêu khi dịch paideia sang tiếng Latinh là huminitas. Mục tiêu của paideia, mục tiêu của giáo dục là con người, tức là tạo nên một con người toàn diện, có sức mạnh tâm trí hoàn toàn sinh động và đúng đắn. Giáo dục có nghĩa là tạo nên một con người toàn diện. Người xưa tin rằng chúng ta được tạo ra để sống trong chân, thiện, mỹ; để sống đúng với phẩm giá trọn vẹn của chúng ta như những sinh vật có lý trí. Như thế, giáo dục được hiểu là con đường thành nhân và dẫn đến khôn ngoan đích thực (Cf. Stratford Caldecott, Beauty for Truth’s Sake).
GIÁO DỤC BẮT ĐẦU VỚI CÔNG TRÌNH TẠO DỰNG
Nếu giáo dục là tạo nên con người toàn diện, là con đường dẫn đến thành nhân và khôn ngoan đích thực, thì hành trình này bắt đầu từ khi nào? Hành trình này bắt đầu khi Chúa gọi các bạn hiện hữu từ hư vô. Nó bắt đầu khi Thiên Chúa cấu tạo nên hữu thể thâm sâu và dệt nên hình hài các bạn trong bụng mẹ (Tv 139, 13). Và Thiên Chúa không tạo ra các bạn như một tấm bảng trắng để được viết đầy bởi xã hội hay sở thích, nhưng Ngài đã tạo thành mỗi và từng người trong các bạn với một định mệnh, một mục đích, với mục tiêu là kết hợp với Ngài trong một mối dây liên kết bền chặt của tình yêu và biến đổi thành Ngài mãi mãi.
Điều đó làm chúng ta nên khiêm tốn biết rằng, nguồn gốc cuộc sống hoàn toàn mầu nhiệm với chúng ta. Chúng ta đã không tạo ra chính mình và cũng không có ký ức về sự tồn tại ban đầu của mình. Việc chúng ta hiện hữu phụ thuộc vào lựa chọn vĩnh cửu của Thiên Chúa là chúng ta hiện hữu và gần hơn là sự hiện hữu của chúng ta tùy thuộc vào tình yêu của cha mẹ, những người đã đưa chúng ta vào thế giới này. Sự trao ban cuộc sống này sẽ dạy chúng ta rằng mình không phải là chủ nhân của cuộc đời, nhưng cuộc sống này giống như một món quà mà chúng ta hoàn toàn không xứng đáng nhận lãnh. Đây là chân lý nền tảng về thực tại: sự hiện hữu của chúng ta cũng như của vạn vật là một quà tặng.
GIÁO DỤC GIA ĐÌNH
Vì vậy, sự hình thành con người của các bạn, việc giáo dục của các bạn bắt đầu khi Chúa tạo thành và ban cho các bạn một định mệnh. Nhưng trực tiếp hơn, cha mẹ của các bạn chắc chắn là những nhà giáo dục đầu tiên. Và họ đã dạy các bạn những gì? Trước hết, họ dạy về tình yêu vô điều kiện. Hãy tưởng tượng các bạn là một đứa trẻ sơ sinh: các bạn đã từng làm gì cho cha mẹ mình? Những đêm mất ngủ, quần áo lấm lem, khóc lóc nghiến răng nghiến lợi. Chưa hết, cha mẹ của các bạn đã dành cả cuộc đời của họ để chăm sóc bạn – một thụ tạo quý giá và yếu đuối. Đó không phải bởi vì các bạn đã làm điều gì cho họ, mà vì sự hiện hữu của các bạn là một thiện hảo. Một sự thiện tự thân. Sự hiện hữu của các bạn là một món quà, và cha mẹ yêu thương các bạn vì các bạn là của họ. Vậy nên, đối với các bạn, cha mẹ chính là hình ảnh đầu tiên về Thiên Chúa.
Cha mẹ các bạn không chỉ thể hiện tình yêu thương vị tha này mà còn dạy các bạn biết yêu thương. Họ thủ thỉ với bạn, ngoáy mũi và chơi đùa với những ngón chân cho đến khi các bạn lần đầu mỉm cười, phá lên cười và nhận ra một khuôn mặt khác. Cha mẹ đã “gợi lên” tình yêu từ nơi các bạn.
Họ đã dạy các bạn nói, gọi tên đồ vật, và biết phân biệt trong thế giới. Nghĩa là, họ đã dạy các bạn sử dụng lý trí, khả năng khiến con người khác với các loài vật khác. Họ đã dạy các bạn bước đi. Nghĩa là, dạy các bạn phải đứng thẳng, tư thế phù hợp nhất với một sinh vật có lý trí. Họ đã tập đi cho các bạn bằng cách nắm tay và đỡ lấy khi các bạn vấp ngã. Nhiều dấu hiệu hơn cho thấy tình yêu và sự chăm sóc của cha mẹ dành cho các bạn. Cha mẹ đã dùng nhiều cách thức để bày tỏ dung mạo của Thiên Chúa cho các bạn.
Cha mẹ đã dạy các bạn nói “làm ơn” và “cảm ơn”. Đây không chỉ là vấn đề cư xử tử tế, mà còn là sự giáo dục về lòng nhân ái và biết ơn, cũng như phản ánh một chân lý nền tảng về sự hiện hữu của chúng ta. Nói “làm ơn” là thừa nhận rằng tham lam và chiếm đoạt không phải là cách phù hợp với thế giới. Chúng ta không phải là bạo chúa, mà là “những người nhận” vốn phụ thuộc vào lòng hảo tâm của người khác. Nói “cảm ơn” là nhìn nhận bản chất quà tặng của thực tại. Tất cả là quà tặng. Và, như cha mẹ đã dạy các bạn, lời đáp trả cân xứng đối với quà tặng chính là lòng biết ơn. Điều này được khắc ghi vào chính con người của chúng ta. (Cf. D.C. Schindler)
Vì vậy, những gì cha mẹ làm, tự nhiên dạy chúng ta một số chân lý siêu nhiên. Nhưng, chúng ta cũng có thể xoay chuyển điều này một chút: sự hiện hữu của các bạn cũng là bài học đối với cha mẹ, khiến họ trở nên nhân bản hơn. Nhiều bậc cha mẹ đã nói rằng, khi có con cái, họ bớt ích kỷ, biết hy sinh, trách nhiệm, sống nghiêm túc, đạo đức và biết trân trọng cha mẹ của mình hơn. Một lần nữa, con cái không đặt ra mục tiêu dạy cho cha mẹ thành nhân và trở nên khôn ngoan, nhưng Chúa đã khắc ghi đường lối sư phạm này vào cấu trúc cuộc sống con người (the fabric of existence).
GIÁO DỤC HỌC ĐƯỜNG
Giờ là lúc thích hợp để đề cập đến việc học chính quy của các bạn! Bởi vì giáo dục là đào tạo con người toàn diện và là con đường dẫn đến thành nhân và khôn ngoan đích thực, giáo dục chân chính bắt đầu trước khi chúng ta chính thức đến trường cũng như sẽ tiếp tục kéo dài sau đó. Và, thành thật mà nói, nhiều người trong chúng ta từng trải nghiệm thời đi học, ít là từ mẫu giáo đến lớp 12, không phải như là những gì phát triển bản tính con người và khôn ngoan, nhưng là ngược lại. Tuy nhiên, sâu xa hơn, việc giáo dục của chúng ta kéo dài suốt đời vì như Đức Giêsu đã nói, chúng ta chỉ có một người Thầy duy nhất là chính Đức Kitô (Mt 23, 8).
Giờ đây chúng ta nên đề cập đến việc giáo dục học đường, nhất là giáo dục khai phóng (liberal arts: chỉ những môn ở trường đại học hay cao đẳng như lịch sử, khoa học, văn chương, nhắm đến việc nâng cao kiến thức tổng quát (đại cương) cho sinh viên hơn là một chuyên ngành riêng biệt nào đó). Khai phóng là gì? Khai phóng ở đây không phải là một thuật ngữ chính trị – không phải là khai phóng đối lập với bảo thủ. Ngành khoa học nhân văn (Liberal arts) có thể tương phản với ngành thực tiễn, chẳng hạn như ngành thợ rèn, thợ đóng giày hoặc thợ máy, những nghề thủ công này cung cấp nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. “Khai phóng/Liberal” có nghĩa là tự do. Từ “arts” xuất phát từ tiếng Latinh ‘ars’ có nghĩa là “nhân đức” (một nhầm lẫn từ cùng gốc từ trong tiếng Hy Lạp là arete). Vậy thì, liberal arts là những nhân đức của con người tự do. Đó là những kỹ năng và thói quen của trí óc, trái tim và cơ thể cho phép chúng ta trở thành con người hoàn toàn tự do và phát triển; chúng là những phẩm chất của tâm hồn giúp chúng ta thực sự sống động.
Theo người Hy Lạp và Rôma cổ đại, tự do nghĩa là phải có kỷ luật. Tâm trí phải được rèn luyện, nhưng cả cơ thể và linh hồn cũng thế. Cơ thể phải rèn luyện tính ôn hòa, kẻo sinh viên/học sinh hành động như dã thú. Cảm xúc và ước muốn phải được huấn luyện để chúng phản ứng thích hợp trong những tình huống khác nhau. Tâm trí phải có kỷ luật để có thể theo đuổi sự thật và đi vào chiều sâu của thực tại.
Tự do có được là nhờ kỷ luật mặc dù điều này thoạt nghe có vẻ trái ngược, nhưng tất cả chúng ta đều biết điều này là chân lý. Hãy nghĩ về kỷ luật cần thiết để chơi thành thạo piano hoặc một môn thể thao. Có kỷ luật cho phép chúng ta tự do, tự do chơi nhạc Mozart hoặc Chopin. Tự do để chơi bóng xuất sắc. Tự do để chơi giỏi và phù hợp với những gì tốt nhất trong âm nhạc hoặc thể thao. Điều gì đúng với âm nhạc và thể thao thì càng đúng về đời sống đạo đức và trí thức.
Khi các Kitô hữu xuất hiện, họ đã đón nhận viễn cảnh giáo dục này nhưng cũng đã biến đổi nó. Họ hiểu rằng, con người tự mình không phải là cùng đích vì đây là một chân trời quá giới hạn. Các Kitô hữu nhận ra rằng chỉ có một cùng đích siêu việt mới thực sự có thể đưa con người đến tầm vóc viên mãn. Thánh Augustine đã có một câu nói nổi tiếng “Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con sẽ khoắc khoải không yên cho đến khi an nghỉ trong Ngài” (Cf. Tự thuật, 1.1.1). Thiên Chúa là cùng đích và bằng cách hướng tới Ngài, con người có thể đạt đến sự thành toàn đích thực, người ấy có thể được hoàn thiện, và phát huy tối đa tất cả năng lực. Các Kitô hữu đã chấp nhận định nghĩa về giáo dục được đưa ra ở trên: giáo dục là con đường thành nhân và dẫn đến khôn ngoan đích thực, nhưng giờ đây, trong Đức Kitô, giáo dục mang một chiều kích hoàn toàn mới. Đức Kitô là Ađam mới, là người đứng đầu một nhân loại mới, và Ngài cho chúng ta thấy đâu là nhân tính đích thực và khôn ngoan thần linh.
Nếu đã hoàn thành việc học tại trường, thì các bạn đã được chuẩn bị không chỉ cho một sự nghiệp sinh lợi nào đó, nhưng còn đào luyện được cơ thể, trái tim và khối óc của mình. Các bạn đã yêu mến Chân, Thiện, Mỹ và nhận ra rằng Đức Kitô là trung tâm của mọi sự.
GIÁO DỤC SAU TỐT NGHIỆP
Tất cả các bạn hiện tại đều đang ở một vị trí thuận tiện để nhận ra viễn cảnh này đã được thực hiện đến mức nào nơi việc học của các bạn cho đến nay và bản thân các bạn còn cần phải học bao nhiêu nữa. Việc học tập vẫn tiếp tục và Đức Kitô là Thầy của các bạn. Việc đào tạo con người các bạn sẽ không hoàn thiện cho đến khi sống lại. Nhưng, chúng ta giờ đây có thể sống phù hợp với vận mệnh cuối cùng của chúng ta.
Vậy thì chúng ta làm thế nào để sống như thế? Làm thế nào để chúng ta tiến bước trên con đường thành nhân và dẫn đến khôn ngoan đích thực sau khi học đại học? Chúng ta cần thực hành những gì để được thực sự tự do? Xin được đưa ra ba gợi ý: trung thành, thinh lặng và nhận ra điểm yếu.
Một: Vun trồng lòng trung thành. Nếu các bạn không thích từ “trung thành”, hãy sử dụng từ “cam kết”. Hãy tập luyện cam kết! Thế hệ của các bạn sợ cam kết. Các bạn đã thừa hưởng một thế giới rất bấp bênh và đã có những áp lực nặng nề đè lên các bạn kể từ khi còn trẻ. Nhiều người trong số các bạn đến từ những gia đình đổ vỡ. Trong khi những điều này không phải là lỗi của các bạn nhưng giờ đây các bạn phải có trách nhiệm đối với chúng.
Chúng ta sợ: là cam kết thì phải lệ thuộc. Nhưng cam kết không phải là lệ thuộc, sợ hãi mới là lệ thuộc. Sợ hãi ràng buộc và ảnh hưởng đến việc ra quyết định của chúng ta. Lòng trung thành giải thoát chúng ta. Cam kết giúp chúng ta tự do hơn. Các bạn biết điều này từ kinh nghiệm của mình trong âm nhạc và thể thao. Bạn càng cam kết, bạn càng trở nên xuất sắc và tự do hơn. Điều này cũng đúng trong cuộc sống. Bạn phải cam kết với bạn bè để trở thành một người bạn tuyệt vời, bạn phải cam kết với vợ/chồng để trở thành một bạn đời tuyệt vời, bạn phải cam kết với Chúa để trở thành một Kitô hữu xuất sắc. Chúng ta không tự do bằng cách bỏ ngỏ các lựa chọn của bản thân. Điều đó chỉ làm chúng ta tê liệt và khiến bản thân lo lắng. Chúng ta tự do bằng cách cam kết và bền chí đến cùng.
Vậy các bạn nên làm gì? Trước hết, hãy mời Chúa đến. Hãy cầu nguyện để Chúa chữa lành mình từ trong ra ngoài. Thứ hai, hãy bắt đầu từ những điều nhỏ bé. Thứ ba, hãy cam kết với Chúa rằng, sẽ cầu nguyện mỗi ngày và đi lễ mỗi tuần.
Thứ tư, và có lẽ là thách thức và gây tranh cãi nhiều nhất: kết hôn và sinh con. Có thật nhiều con cái. Và ổn định. Kết hôn là quyết định quan trọng nhất mà bạn từng làm. Và, hôn nhân, đặc biệt là hôn nhân Kitô giáo, là một điều tốt đẹp. Đó là hình ảnh về tình yêu của Đức Kitô đối với Giáo hội, mặc dù không chỉ đơn thuần là một hình ảnh, nhưng là sự tham dự vào chính tình yêu đó. Mọi người sẽ nói với các bạn rằng, hôn nhân đã khó, có con càng khó hơn. Nhưng tất cả những gì đáng làm đều khó cả. Các bạn chưa bao giờ sẵn sàng kết hôn và sinh con, nhưng trở nên sẵn sàng bằng cách thực hiện nó. Nơi người bạn đời và con cái, các bạn sẽ tìm thấy con đường dẫn đến thành nhân và khôn ngoan đích thực. Hãy tìm một người tin những điều này và có thể các bạn sẽ có một lựa chọn sáng suốt. Đừng lo lắng về việc phải tìm thấy “chân ái” cuộc đời. Chỉ cần tìm được một người. Hai bạn sẽ cùng nhau tận hưởng những điều tốt đẹp của cuộc sống này và chuẩn bị tinh thần cho cuộc sống tiếp theo.
Hai: Thực hành thinh lặng. Chúng ta đang sống trong một thế giới với mức độ ồn ào và mất tập trung ghê rợn. Như Đức Hồng Y Robert Sarah nói, chúng ta đang sống trong “sự thống trị của tiếng ồn”. Tiếng ồn này đến từ bên ngoài lẫn bên trong. Tiếng ồn của thế giới kéo chúng ta vào thế giới. Nó không chỉ phân tán sự chú ý, mà còn phân tán tình cảm và tình yêu của chúng ta. Chúng ta trở nên mỏng manh và dễ vỡ. Trong tiếng ồn ào, chúng ta không còn nghe được tiếng Chúa. Thật vậy, ngay cả chúng ta vẫn thường không thể nghe được những gì của chính mình.
Vì vậy, chúng ta cần tập thinh lặng, để tạo ra “vùng thinh lặng” (Sertillanges, The Intellectual Life), là nơi chúng ta trải nghiệm thinh lặng bên ngoài và học cách nhận ra thinh lặng bên trong. Vì, tất cả những điều thực sự tuyệt vời đều được chuẩn bị trong thinh lặng. Trước khi Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai, ngài đã vào sa mạc trong bốn mươi ngày. Trước khi bị đóng đinh, Ngài đã đến Vườn Giêtsemani. Ơn cứu độ thế gian đã được chuẩn bị trong thinh lặng (Sertillanges, ibid.). Khi Êlia lên núi, ông không nghe thấy tiếng Chúa trong cơn gió, trận động đất hay lửa, nhưng trong một giọng nói nhẹ nhàng. Chúng ta cần phải là con người của thinh lặng nếu muốn nghe được giọng nói này. Chúng ta cần học cách tĩnh lặng và biết rằng Ngài là Thiên Chúa. Chúng ta sợ rằng thinh lặng đồng nghĩa với sự vắng mặt, hư vô. Nhưng im lặng không phải là vắng mặt, nó là sự hiện diện (Robert Cardinal Sarah, The Power of Silence). Chúng ta hiện diện với Thiên Chúa và Người hiện diện với chúng ta, và sự hiện diện của Người biến đổi chúng ta.
Một cách để làm điều này là giữ ngày Sa-bát. Dù gì thì đây cũng là một trong Mười Điều Răn, nên có lẽ nó rất quan trọng. Chúng ta, những người hiện đại làm cho ngày Sa-bát hoàn toàn lạc hậu: chúng ta nghỉ ngơi vào cuối tuần để có thể đi làm thêm, nhưng chúng ta nên làm việc để có thể nghỉ ngơi. Chúng ta là một quốc gia (Hoa Kỳ) của những người làm việc và chúng ta nghĩ rằng làm việc là điều quan trọng nhất. Nhưng hiện hữu quan trọng hơn làm việc (Henri Nouwen). Và sự hiện diện của Thiên Chúa là điều quan trọng nhất. Ngày Sa-bát là chóp đỉnh của tạo dựng, là sự hiện diện của Thiên Chúa được khắc ghi vào nhịp điệu của thời gian; đó là ngày Thiên Chúa ban cho chúng ta để đi vào sự thánh khiết và nghỉ ngơi của Ngài. Trong bảy ngày của tạo dựng, Thiên Chúa tạo thành con người giữa các ngày tạo nên mãnh thú và ngày Sa-bát. Đây là hai vận mệnh của con người và chúng ta chỉ có thể chọn một.
Ba: Tìm ra điểm yếu của bản thân. Tất cả các bạn tốt nghiệp đều đã làm bài kiểm tra StrengthsFinder (công cụ khám phá ưu điểm bản thân) khi còn học tại trường. Nhưng có lẽ các bạn sẽ được lợi hơn nếu được cung cấp một WeaknessFinder (công cụ tìm ra khuyết điểm bản thân). Có một cuộc tranh luận đáng chú ý nơi chương 12 trong thư thứ 2 gửi cho giáo đoàn Corintho, trong đó thánh Phaolô cầu xin Thiên Chúa cất đi một cái gai bên trong mình. Nhưng Chúa lại phán: “Ơn của Thầy đủ cho con, vì quyền năng của Thầy được tỏ lộ trong sự yếu đuối” (2 Cr 12, 9). Chúng ta khó tin rằng Thiên Chúa muốn sử dụng những điểm yếu của chúng ta. Nhưng cách Thiên Chúa hoạt động là dùng sự yếu đuối.
Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa quyền năng, tuy nhiên Ngài đến thế gian không phải trong uy nghi, nhưng trong sự nghèo khó. Ngài đến không phải như siêu nhân, nhưng như một phôi thai bất lực. Ngài được sinh ra bởi một thiếu nữ thôn quê trong một dân tộc bị trị. Ngài là một người tị nạn và là một người nhập cư. Ngài đã bị bách hại bởi chính người dân của mình. Ngài không lãnh đạo quân đội, nhưng giống như một con chiên bị dẫn đi giết. Đức Kitô thực sự yếu đuối. Tuy nhiên, điểm yếu của Ngài lại là nguồn sức mạnh lớn nhất, từ sự yếu đuối của Đức Kitô, Thiên Chúa đã biến đổi cả thế giới.
Đây cũng là cách Thiên Chúa muốn hoạt động trong cuộc sống của các bạn: Ngài muốn gặp các bạn khi có vấn đề sức khỏe tâm thần, lúc chán nản, khi mắc thói quen tội lỗi, bệnh mãn tính, thói nghiện của bạn và Ngài muốn những vấn đề cuộc sống này là nơi Ngài chuyển ban ân sủng. Vì vậy, hãy tìm ra những điểm yếu của mình, mời Chúa đến và để quyền năng của Ngài biến đổi mình và những người khác thông qua những vấn đề của con người.
KẾT LUẬN
Một số trong các bạn sẽ chu du thế giới, tạo dựng tên tuổi, giải quyết những vấn đề lớn, thay đổi thế giới và trở thành những nhà lãnh đạo trong xã hội. Hay một số sẽ theo tiếng gọi của Chúa, trở nên linh mục, nam nữ tu sĩ. Nhưng đa phần các bạn sẽ giống như hầu hết những người khác: sẽ sống một cuộc sống êm đềm với gia đình và có một công việc tử tế. Điều này nghe có vẻ khá tầm thường và không hứng thú. Tuy nhiên, các bạn hãy nhớ rằng, lòng trung thành là một cuộc phiêu lưu cao độ và không có công việc nào quan trọng hơn việc yêu thương vợ/chồng mình và nuôi dạy con cái thật tốt. Khi kết hôn, các bạn sẽ lập một giao ước là dấu hiệu cho thế giới về tình yêu của Đức Kitô dành cho dân của Ngài. Khi có con, các bạn sẽ làm cho những linh hồn bất tử hiện hữu. Các bạn sẽ giúp gia đình mình nhận biết và yêu mến Thiên Chúa và sẽ giúp họ lên thiên đàng. Cuộc sống yên lành không phải là điều tệ.
Vì vậy, đối với đa số các bạn, cuộc sống sẽ không có gì nổi bật. Nhưng hãy nhớ rằng: chính Đức Giêsu đã sống một cuộc đời ẩn dật. Trong ba mươi năm, Đức Giêsu sống ở nhà với mẹ (Ngài giống như một Millennial theo cách này [Millenial: hay còn gọi là thế hệ Y (Gen Y), tức là sinh từ 1981 – 1996] ). Ngài chỉ sống cuộc đời công khai trong ba năm. Điều này sẽ đảm bảo với chúng ta rằng, những mong muốn về hôn nhân, gia đình và tổ ấm không phải là dấu hiệu của sự giảm bớt hoặc thiếu tham vọng. Những hy sinh hàng ngày và những hành động yêu thương của các bạn, người khác có thể không thấy nhưng Thiên Chúa thì thấy tất cả. Những hành động ấy có thể không vĩ đại trong mắt người đời, nhưng sẽ cao cả trong đôi mắt Chúa. Cuối cùng, chỉ có đôi mắt của Ngài là quan trọng. Trong đôi mắt Thiên Chúa, những điều nhỏ bé được thực hiện với tình yêu thương lớn lao đều rất vĩ đại.
Thiên Chúa đã gọi các bạn ra khỏi hư vô không chỉ để bạn có thể hiện hữu, mà còn để các bạn có thể hiện hữu trong sự thánh thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa đã gọi các bạn hiện hữu để trở nên thánh thiện. Giống như Đức Giêsu trên núi Tabor, các bạn sẽ được biến hình. Bằng cách bước đi trên con đường hẹp của việc cam kết, hiện diện trước nhan Chúa trong thinh lặng, và để cho Chúa hoàn thiện quyền năng của Ngài trong sự yếu đuối của mình, các bạn sẽ liên kết với Ngài đến nỗi sự sống thần linh sẽ thấm nhuần và biến đổi các bạn cho đến khi các bạn “sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước của Cha anh em”(Mt 13,43).
Việc giáo dục của các bạn có một chân trời vĩnh cửu. Từ khi các bạn được thành hình trong dạ mẹ với tình yêu thương của cha mẹ cho đến thời gian tại trường và hơn thế nữa, việc giáo dục của bạn đã định hình các bạn trở thành con người mà Chúa muốn các bạn trở nên. Và, nếu các bạn mở lòng đón nhận những ân sủng của Chúa, thì chắc chắn rằng “Đấng đã bắt đầu thực hiện nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ hoàn thành cho đến ngày Đức Kitô Giêsu quang lâm” (Pl 1, 6).
[1] Đây là diễn văn của cha Jared Ortiz dành cho lớp tốt nghiệp năm 2020 tại Hope College, USA trong lễ trao bằng năm 2021 (bị hoãn lại một năm do dịch). Phần chuyển ngữ đã lượt bỏ vài chi tiết.