2021
Bảo vệ ngôi nhà chung: Từ Công đồng Vatican II đến Laudato Si’
Từ công đồng Vatican II, ngang qua lời kêu gọi của Đức Phaolô VI đối với hội nghị Stockholm vào năm 1972, cho đến khi công bố thông điệp Laudato Si’, Tòa Thánh, bằng một lôgíc về sự phát triển toàn diện, đã là người tiên phong trong việc bảo vệ môi trường.
Một học thuyết lần này được mang đến hội nghị COP26 ở Glasgow bởi ĐHY Pietro Parolin, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Cuộc đấu tranh chống lại việc hâm nóng toàn cầu “là một thách đố của nền văn minh vì công ích và là một sự thay đổi viễn cảnh, tâm trí và tầm nhìn, vốn phải đặt phẩm giá của con người hôm nay và ngày mai ở trung tâm của hoạt động của chúng ta”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố trên làn sóng radio BBB như thế, hôm 29/10, hai ngày trước khi khai mạc hội nghị lần thứ 26 của LHQ về biến đổi khí hậu, diễn ra ở Glasgow, Scotland.
Vào đầu tháng Mười này, Đức Thánh Cha Phanxicô, cùng với các vị hữu trách tôn giáo trên toàn thế giới, đã kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị tham dự COP26 về một bổn phận thiết yếu: bảo vệ ngôi nhà chung, và để làm điều này, tôn trọng Hiệp định Paris được ký dịp hội nghị COP21 vào năm 2015, vốn cam kết 195 quốc gia ký kết hạn chế phát thải khí hiệu ứng nhà kính, để hạn chế sự hâm nóng khí hậu toàn cầu ở mức tối đa là hai độ trên nhiệt độ trung bình của thời kỳ tiền công nghiệp (1850-1900).
Từ khi được bầu làm Giáo hoàng, Đức Phanxicô đã nhấn mạnh đến việc gìn giữ hành tinh và bảo vệ những người yếu đuối nhất: các bài diễn văn của ngài ở Liên Hiệp Quốc, ở Nairobi hay ở New York, rất nhiều lần kêu gọi của ngài cũng như việc công bố thông điệp Laudato Si’ (năm 2015) là lời minh họa cho điều đó. Laudato Si’ là một bản văn dành cho các vấn đề môi trường và xã hội, nhắc lại một trong những sợi chỉ đỏ của triều đại Giáo hoàng của ngài: “Mọi sự đều liên kết với nhau”, “tiếng kêu của trái đất và tiếng kêu của người nghèo không thể chờ đợi thêm nữa”.
Nhưng học thuyết về sinh thái của Tòa Thánh đã có rất sớm từ trước và bắt nguồn từ công đồng Vatican II. Như cha Thomas Michelet nhấn mạnh trong tác phẩm “Các Giáo hoàng và nền sinh thái”, thông điệp xanh của Đức Phanxicô khai triển một huấn quyền đã được trình bày từ nhiều thập niên.
Trong bối cảnh của công đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et spes đã ngầm giải quyết những vấn đề sinh thái trong một thế giới thoát thân từ Thế Chiến II, Tebaldo Vinciguerra, phụ trách các hồ sơ về môi trường của Bộ Phục vụ sự phát triển con người toàn diện, giải thích: “Chính vì được tạo dựng mà mọi vật đều có sự vững chãi, chân thực và tốt lành, cùng những định luật và trật tự riêng. Con người phải tôn trọng tất cả những điều ấy và phải nhìn nhận các phương pháp riêng biệt của mỗi khoa học và kỹ thuật” (GS 36, 2). Đức Gioan XXIII kêu gọi việc giáo dục Công giáo, “tức là chuẩn bị cho người Kitô hữu đối với bất kỳ loại trách nhiệm nào trong xã hội”, Tebaldo lưu ý.
Ý thức của Đức Phaolô VI
Theo cha Mechelet, đề cập đầu tiên trong các văn kiện Giáo hoàng về một ”thảm họa sinh thái” xuất hiện dưới ngòi bút của Đức Phaolô VI trong diễn văn của ngài ở Tổ chức Lương Nông của LHQ (FAO) năm 1970: “Chúng ta đang chứng kiến không khí chúng ta hít thở trở nên ô nhiễm, nước chúng ta uống trở nên tồi đi, sông, hồ, thậm chí là đại dương bị ô nhiễm, đến mức làm dấy lên nỗi lo sợ về một ‘cái chết sinh học’ trong tương lai gần, nếu các biện pháp năng lượng không được can đảm áp dụng mà không chậm trễ và được thực hiện cách nghiêm túc. Viễn cảnh đáng sợ mà tùy thuộc vào các bạn khai thác cách cẩn thận, để tránh sự chìm nghỉm của kết quả của hàng triệu năm chọn lọc của tự nhiên và của con người” (Cfr. Cérès, Revue FAO, vol. 3, n. 3, Rome, mai-juin 1970: Environnement: les raisons de l’alarme).
Đức Giáo hoàng Phaolô VI cũng nói với các luật gia, để lĩnh vực pháp lý mang lại sự đóng góp của nó vào việc bảo vệ môi trường. Trong suốt 15 năm triều đại giáo hoàng của mình, Đức Phaolô VI đã khai triển một “cái nhìn toàn diện đáng chú ý, trong đó nhắc lại rằng sự phát triển đích thực là sự phát triển toàn thể nhân vị, về mọi mặt của nó, toàn thể nhân loại, và không chỉ là vấn đề kinh tế”, chuyên viên về môi trường của Bộ Phục vụ sự phát triển con người toàn diện cho biết.
Một trong những diễn văn nổi bật nhất của Đức Phaolô VI là diễn văn nói với các tham dự viên của hội nghị LHQ về môi trường, ở Stockholm vào năm 1972, trong đó ngài sử dụng, như cha Michelet phân tích trong cuốn sách của mình, những khái niệm đặc trưng sinh thái và hiện đại thời đó, như tính bất khả tách rời giữa con người và môi trường của nó: “Quả thế, ngày nay đang xuất hiện ý thức rằng con người và môi trường của nó hơn bao giờ hết là không thể tách rời: môi trường trước hết tạo điều kiện cho sự sống và sự phát triển của con người ; đến lượt mình, con người hoàn thiện và nâng cao giá trị môi trường của mình bằng sự hiện diện, lao động và chiêm ngưỡng của mình. Nhưng khả năng sáng tạo của con người chỉ sẽ trổ sinh hoa trái đích thực và bền vững trong chừng mực con người sẽ tôn trọng các quy luật chi phối đà sống và khả năng tái tạo của thiên nhiên: do đó, cả hai đều liên đới và chia sẻ một tương lai chung trong thời gian. Vì thế, nhân loại được cảnh báo phải thay thế sự thúc đẩy, quá thường xuyên mù quáng và tàn bạo, về một sự tiến bộ vật chất để mặc cho động lực duy nhất của nó, bằng sự tôn trọng đối với sinh quyển trong một tầm nhìn toàn cầu về lĩnh vực của nó, vốn đã trở thành “một Trái Đất duy nhất”, để lấy lại khẩu hiệu đẹp đẽ của Hội nghị”.
20 năm tiếp theo là dịp giải ước tương đối của Tòa Thánh về các vấn đề sinh thái. “Khi nghiên cứu các bài viết của báo chí Công giáo thời đó, điều này có thể được giải thích bởi sự thất vọng được gây ra do những đề xuất theo phong cách tân-Malthusien, những đề xuất nhân khẩu học không phù hợp với học thuyết Công giáo”, Tebaldo Vinciguerra giải thích.
Sứ điệp Ngày Thế giới hòa bình năm 1990
Sự trở lại của hệ sinh thái ở trung tâm của huấn quyền Giáo hoàng chắc chắn là do sứ điệp của Đức Gioan-Phaolô II nhân Ngày Thế giới hòa bình 1/1/1990. Một bản văn ngày nay được coi như là bản văn đầu tiên của một vị Giáo hoàng bàn về sinh thái học cách toàn cầu. Ngài tuyên bố: “Xã hội hiện nay sẽ không tìm ra giải pháp cho vấn đề sinh thái nếu nó không nghiêm túc sửa đổi phong cách sống của mình. Ở nhiều nơi trên thế giới, nó có xu hướng chủ nghĩa khoái lạc và tiêu thụ, và nó vẫn dửng dưng với những thiệt hại phát xuất từ đó. Như tôi đã từng nhận xét, tính nghiêm trọng của hoàn cảnh sinh thái cho thấy chiều sâu của cuộc khủng hoảng luân lý của con người”. Nhiều tuyên bố về môi trường đã được ký kết theo chiều hướng đó và chiều kích đại kết nằm trên vùng đất sinh thái này.
Vì thế, từ những năm 1990, việc bảo vệ công trình tạo dựng trở thành một chủ đề quan trọng đối với Tòa Thánh, và Đức Bênêđíctô XVI đã đóng góp vào công trình này. Suốt triều đại Giáo hoàng của mình, ngài sẽ nói về “giao ước giữa con người và môi trường, vốn phải là tấm gương phản chiếu tình yêu sáng tạo của Thiên Chúa”, và sự quan tâm của ngài đối với sinh thái được chứng thực trong thông điệp Caritas in veritate, năm 2009. Ngài nói: “Ngày nay, những vấn đề liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường phải tính đến các vấn đề năng lượng. Quả thế, việc chiếm đoạt các nguồn năng lượng không thể tái tạo bởi một số Nhà nước, các nhóm quyền lực hay công ty, tạo nên một trở ngại nghiêm trọng đối với sự phát triển của các nước nghèo. Các nước này không có nguồn lực kinh tế cần thiết để tiếp cận các nguồn năng lượng không tái tạo hiện có hay để tài trợ cho việc tìm kiếm các nguồn thay thế mới.”
Tebaldo Vinciguerra cho biết, chính Đức Bênêđíctô XVI là nguồn gốc của việc lắp đặt các tấm pin quang điện trên nóc khán phòng của Vatican.
Một đường hướng được Đức Phanxicô đào sâu, ngài sẽ ghi dấu các lương tâm với việc công bố Laudato Si’. Theo chuyên gia về các vấn đề môi trường ở Bộ Phục vụ sự phát triển con người toàn diện, từ rất sớm, “Huấn quyền của Đức Phanxicô đã nhấn mạnh đến việc gìn giữ môi trường và bảo vệ những người yếu đuối nhất chống lại nền văn hóa chất thải và vứt bỏ, những bài diễn văn của ngài ở Liên Hiệp Quốc, ở Nairobi hay ở New York, rất nhiều lần kêu gọi của ngài, những cử chỉ hùng hồn của ngài, thực sự đã nhấn mạnh đến các vấn đề sinh thái trên bình diện quốc tế”.
Các hoạt động đang mang lại kết quả của chúng: trước COP26, 72 tổ chức tôn giáo trên 6 châu lục, đại diện hơn 4 tỷ tài sản đang được quản lý, đã tuyên bố thoái vốn khỏi năng lượng hóa thách.
Tý Linh (theo Marine Henriot, Vatican News)
2021
Đôi nét về Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI
Ngày 17/10/2021, các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới tổ chức khai mạc Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI cấp giáo phận. Thượng Hội đồng này đã được Đức Giáo hoàng Phanxicô khai mạc tại Vatican ngày 9-10/10 vừa qua ở mức độ toàn cầu với sự tham dự của các Giám mục đại biểu. Thánh lễ long trọng khai mạc tại Vương cung thánh đường thánh Phê-rô với sự tham dự của đông đảo mọi thành phần dân Chúa. Tại Việt Nam, các Đức Giám mục đã thống nhất sẽ khai mạc vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng tới đây.
Để cùng thực hiện bổn phận của mỗi tín hữu là tham gia vào Thượng Hội đồng, cách đặc biệt ở giai đoạn cử hành tại Giáo hội địa phương, chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về Thượng Hội đồng này trong 3 phần: Hình thức của Thượng Hội đồng, Nội dung và diễn tiến của Thượng Hội đồng, Cách thức tham gia vào Thượng Hội đồng.
1. Hình thức của Thượng Hội đồng (Synodus Episcoporum)
2. Nội dung của Thượng Hội đồng |
1. Hình thức của Thượng Hội đồng (Synodus Episcoporum)
Gọi một cách đầy đủ thì đây là: Thượng Hội đồng Giám mục thông thường lần thứ XVI.
Cụm từ “Thượng Hội đồng Giám mục” được dịch từ nguyên ngữ “Synodus Episcoporum” tiếng Anh là Synod of Bishops. Trong lịch sử của Giáo hội chữ Synodus và chữ Concilium được dùng gần như đồng nghĩa để chỉ về việc các Đức Giám mục trên toàn thế giới hay tại một vùng nào đó họp nhau lại để bàn thảo và đưa ra những quyết định quan trọng cho Giáo hội. Thường thì cả hai chữ này đều được dịch là “Công đồng”. Chẳng hạn: Concilium Vaticanum II – Cồng đồng Vatican II; Synodus Tunquinensis – Công đồng Miền Bắc Kỳ.
Kể từ sau Công đồng Vatican II, hai chữ này được phân định rõ ràng hơn và mang 2 hình thức khác nhau. Ngày 15 tháng 9 năm 1965 trong khi Công đồng Vatican II còn đang diễn tiến thì Đức Giáo hoàng Phaolô VI đã công bố thành lập một thể loại mới mang tên “Synodus Episcoporum” qua tự sắc Apostolica Sollicitudo.
Thể loại mới này nhằm đưa ra giải pháp mà các nghị phụ trong Công đồng thao thức: Xã hội thì biến chuyển mau lẹ, việc triệu tập Công đồng rất khó khăn và lâu, làm sao để các Giám mục có thể thường xuyên hội lại cùng Đức Giáo hoàng để xử lý công việc của Giáo hội kịp thời.
Khi có thể loại mới này thì hai chữ Concilium và Synodus mang 2 nội dung khác nhau. Chữ “Concilium” được dịch ra tiếng Việt là “Công đồng” và chữ “Synodus” ở đây được dịch là “Thượng Hội đồng”. Tuy nhiên, cùng một chữ Synodus này nhưng trong mức giáo phận thì lại được dịch là “Công nghị”. Trong Giáo luật các điều 460 – 468 nói về “Synodus Dioecesana – Công nghị giáo phận”[1]. Cho nên dịch là “Công nghị các Giám mục thế giới” thì thuận hơn là “Thượng Hội đồng Giám mục”. Tuy nhiên, ngôn ngữ chỉ là quy ước chung của xã hội.
Theo Giáo luật, thể loại Concilium (các điều 336 – 341) và Synodus (các điều 342 – 348) khác nhau căn bản ở hình thức tổ chức và tính pháp lý trong quyết định sau cùng. Về hình thức tổ chức, Công đồng bao gồm tất cả các Giám mục trên thế giới có bổn phận tham dự với quyền biểu quyết; còn Thượng Hội đồng chỉ bao gồm một số Giám mục đại diện cho các Giám mục trên toàn thế giới được tham dự với quyền biểu quyết. Về tính pháp lý, văn kiện cuối cùng của Công đồng được các Nghị phụ biểu quyết mang tính chung kết và Đức Giáo hoàng quyết định trong tư cách hiệp đoàn với các Giám mục nghị phụ (đ. 341); còn Văn kiện cuối cùng của Công nghị (Thượng Hội đồng) thì cũng được các Đức Giám mục biểu quyết nhưng kết quả biểu quyết chỉ có tính tham vấn cho Đức Giáo hoàng mà thôi và chính Đức Giáo hoàng mới là người đưa ra quyết định cuối cùng cũng như ký ban hành văn kiện với tư cách Giáo hoàng.
Ngày 18 tháng 9 năm 2018, Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành Tông hiến “Episcopalis comminio” nói về cơ cấu của Thượng Hội đồng Giám mục. Khoản 17 và 18 trong Tông hiến này có quy định mới về văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng.
Trước đây thì văn kiện chung kết được gửi tới Đức Giáo hoàng rồi tùy ngài quyết định và thông thường các Đức Giáo hoàng dựa vào bản văn này để soạn ra một Tông huấn hậu Thượng Hội đồng. Nhưng theo Tông hiến mới này, văn kiện chung kết được soạn thảo kỹ lưỡng và được các Đức Giám mục bỏ phiếu, cố gắng có sự đồng thuận cao trước khi trình lên Đức Giáo hoàng.
Tới đây có hai khả thể xảy ra: thứ nhất, Đức Giáo hoàng phê chuẩn văn kiện này và như vậy nó trở thành giáo huấn thông thường của Đấng kế vị Thánh Phê-rô; thứ hai, nếu Đức Giáo hoàng trao quyền cho khóa họp Thượng Hội đồng quyết định, theo như quy định trong Giáo luật điều 343, thì khi Đức Giáo hoàng phê chuẩn và công bố văn kiện chung kết, văn kiện này trở thành giáo huấn thông thường của Đấng kế vị thánh Phê-rô. Nhưng trong trường hợp này, văn kiện chung kết được ký bởi Đức Giáo hoàng và các Giám mục tham dự Thượng Hội đồng. Điều này có nghĩa, văn kiện chung kết của Thượng Hội đồng ở khả thể thứ hai này có giá trị như một văn kiện của Công đồng chung.
Việc triệu tập Công đồng là rất khó khăn nên trong lịch sử Giáo hội hơn 2000 năm qua mới có 21 Công đồng chung. Nhưng việc triệu tập Thượng Hội đồng các Giám mục thì đơn giản hơn nên tính từ năm 1965 đến nay đã có 30 Thượng Hội đồng các thể loại.
Thượng Hội đồng Giám mục có 3 loại Đại hội chung: thông thường, ngoại thường và đặc biệt (đ. 345):
Đại hội chung đặc biệt nhằm thảo luận về những vấn đề liên quan trực tiếp đến một hoặc nhiều miền nhất định. Đã có 11 Thượng Hội đồng loại này, lần gần nhất là năm 2019 bàn về vùng Amazon.
Đại hội chung ngoại thường bàn về những vấn đề liên quan đến lợi ích của toàn Giáo hội có tính cấp bách cần có giải pháp ngay. Đức Giáo hoàng sẽ triệu tập tùy theo hoàn cảnh đòi hỏi. Đã có 3 Thượng Hội đồng loại này, lần gần nhất là năm 2014 bàn về gia đình.
Đại hội chung thông thường bàn về những vấn đề liên quan đến lợi ích của toàn Giáo hội và được cử hành 3 năm 1 lần. Trên thực tế thì khoảng 3 hoặc 4 năm cử hành 1 lần. Đã có 15 Thượng Hội đồng thuộc loại này và lần thứ 16 đang diễn ra bàn về “Vì một Giáo hội hiệp hành: Hiệp thông, tham gia, sứ vụ”. Tính từ năm 1965 đến nay thì trung bình cứ 3,5 năm có một Thượng Hội đồng Giám mục thông thường.
2. Nội dung của Thượng Hội đồng
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chọn chủ đề cho Thượng Hội đồng lần này là “Vì một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia, sứ vụ – For a Synodal Church: Communion, Participation, Mission”. Chủ đề chính yếu là tính “hiệp hành” trong Giáo hội. Chủ đề này được đào sâu dưới 3 khía cạnh là “hiệp thông”, “tham gia” và “sứ vụ”.
Chủ đề này có thể được diễn tả một cách nôm na: Tất cả mọi người cùng nắm tay nhau, dìu dắt nâng đỡ nhau tiến thẳng về Trời.
Những giáo huấn về tính hiệp hành đã được bàn giải từ lâu trong Giáo hội và Thượng Hội đồng lần này không muốn đi vào luận bàn những tư tưởng thần học liên quan đến chủ đề. Đức Giáo hoàng Phanxicô muốn đề ra những phương thế cụ thể để sống tính hiệp hành này trong Giáo hội. Đoạn văn cuối cùng của Tài liệu chuẩn bị cho Thượng Hội đồng này đã khẳng định: Thượng Hội đồng không nhằm mục đích tạo ra những tài liệu nhưng là để băng bó vết thương, khơi lên niềm tin và hy vọng cho con người[2].
Hiệp hành, hay cùng đồng hành với nhau trên con đường theo Chúa Giêsu tiến về trời mới đất mới, là đặc tính cốt yếu của Giáo hội. Đức Giáo hoàng Phanxicô khẳng định con đường hiệp hành đã được khởi xướng từ Công đồng Vatican II và được xác định là “Con đường mà Thiên Chúa mong đợi Giáo hội trong thiên niên kỷ thứ ba này”[3].
Giáo hội đã trải qua hơn 2000 năm lịch sử phát triển. Một giáo hội học theo mô hình kim tự tháp đã bị bãi bỏ và một mô hình mới được triển khai trong Công đồng Vatican II, mô hình giáo hội đồng tâm. Giáo hội được diễn tả là Dân Thiên Chúa. Trong Giáo hội, mọi tín hữu đều bình đẳng với nhau về phẩm giá nhưng mỗi người có bổn phận khác nhau tùy theo bậc sống của mình[4].
Một số tác giả đã nói về một mô hình giáo hội kim tự tháp ngược của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Tài liệu chuẩn bị cho Thượng hội đồng này, từ số 17 đến 20, đề cập đến một Giáo hội mà trong đó có 3 tuyến nhân vật: Chúa Giêsu, đám đông dân chúng, các tông đồ. Tài liệu khẳng định “đây là hình ảnh và là mầu nhiệm của Giáo hội”[5].
Điều đặc biệt ở đây là Tài liệu triển khai mối tương quan hỗ tương giữa 3 tuyến nhân vật này: Không một ai trong 3 tuyến nhân vật này có thể bị tách bỏ. Nếu Chúa Giêsu vắng mặt thì Giáo hội thành một thứ giao kèo giữa các tông đồ với đám đông dân chúng và nó sẽ kết thúc như một trò chơi chính trị; Nếu không có các tông đồ thì mối tương quan với chân lý Tin Mừng bị phá vỡ và Chúa Giêsu chỉ còn là một huyền thoại hay một ý thức hệ; Nếu không có đám đông dân chúng thì tương quan giữa Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ bị suy thoái và trở thành một giáo phái dần sụp đổ.[6]
Tương quan hỗ tương của ba tuyến nhân vật này được trình bày ở các số 13 – 15. Tài liệu trích dẫn Công đồng Vatican II trong Hiến chế Lumen Gentium số 9 và số 12 để cho thấy Chúa Giêsu ngỏ lời với các tông đồ và Ngài cũng ngỏ lời trực tiếp với đám đông dân chúng. Từ đó Tài liệu mời gọi các giám mục lắng nghe tiếng Chúa đồng thời cũng phải lắng nghe tiếng dân để phân định Thánh Ý Chúa. “Việc thỉnh ý dân Chúa không hàm ý là Giáo hội tiếp thu những trào lưu dân chủ dựa trên nguyên tắc đa số.” “Các giám mục được mời gọi phân định những gì Chúa Thánh Linh nói với Giáo hội, không phải chỉ có các ngài đơn độc, nhưng bằng cách lắng nghe dân Chúa vốn ‘cũng tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Đức Kitô’”[7].
Tuy nhiên, ở số 21 của Tài liệu nhắc đến một tuyến nhân vật thứ tư xen vào với vai trò phản diện và âm mưu chia rẽ ba tuyến nhân vật trên: “Những hình thức nghiêm ngặt của tôn giáo, bó buộc của luân lý còn gắt gao hơn cả lệnh truyền của Chúa Giêsu, hoặc những hình thức quyến rũ của một thứ khôn ngoan chính trị thế gian”. Để không bị ảnh hưởng bởi tuyến nhân vật thứ tư này, Tài liệu nói đến việc phải hoán cải thường xuyên.
Đoạn trích Kinh Thánh trong sách Công Vụ Tông Đồ (CV 10) được trình bày như là mô hình cho việc hoán cải thường xuyên trong Giáo hội. Thánh Phêrô Tông đồ đã lắng nghe tiếng Chúa và ngài đã rất khó khăn để chấp nhận và làm theo Ý Chúa. Nhưng rồi ngài đã đón nhận, đã hoán cải trước khi ngài cất bước tới gặp người ngoại giáo Cornelio. Ông Cornelio cũng đã nghe thấy tiếng Chúa và ông đã kể lại tất cả kinh nghiệm của mình về Chúa cho ông Phêrô nghe. Thánh Tông đồ Phêrô, sau khi đã lắng nghe, ngài cũng trình bày chính kinh nghiệm hoán cải của mình cho ông Cornelio nghe. Cả hai cùng phân định ý Chúa và sau cùng ông Cornelio và đám đông đã lãnh nhận Phép Rửa. Như vậy người tông đồ đã lắng nghe Chúa và hoán cải chính mình trước rồi mới đến với người ngoại, cả hai cùng chia sẻ kinh nghiệm về Chúa và lắng nghe nhau, sau cùng là bước hoán cải của người ngoại trở về với Chúa.
Từ những cái nhìn trên, Thượng Hội đồng này đặt nặng tính “lắng nghe”. Giai đoạn đầu của tiến trình Thượng Hội đồng lần thứ XVI được cử hành tại các Giáo hội địa phương mang tên “Giai đoạn lắng nghe”. Trong giai đoạn này mọi thành phần dân Chúa được mời gọi lắng nghe Chúa nói và lắng nghe nhau nói. Cách đặc biệt là hàng giáo phẩm lắng nghe tiếng nói của giáo dân và giáo dân can đảm lên tiếng nói về hoàn cảnh của mình.
a. Tính Hiệp thông
Thần học về tính hiệp thông trong Giáo hội được phát triển dần sau Công đồng Vatican II. Giáo hội tiếp tục đào sâu nghiên cứu vì việc triển khai mục vụ sau Công đồng Vatican II có những đổ vỡ nhất định do không hiểu đúng hay chưa đủ về các văn kiện của Công đồng. Thượng Hội đồng Giám mục năm 1985 đã khẳng định “Cốt lõi của cuộc khủng hoảng nằm trong lãnh vực giáo hội học”. Các Đức Giám mục cũng nhận định “Ý tưởng về Giáo Hội – Hiệp thông chưa thấm vào lòng dân kitô giáo.”[8]
Những suy tư làm sáng tỏ về tính hiệp thông trong cuộc sống thực tế của Giáo hội vẫn tiếp tục được suy tư. Khái niệm Giáo hội Chúa Kitô, một Giáo hội tồn tại trong Giáo hội Công giáo được đào sâu và mở ra mối tương quan rộng khắp trong tình hiệp thông.[9] Tự sắc “Omnium in mentem” (26/10/2009) đã thay đổi ít nhiều thực tiễn áp dụng tính hiệp thông trong Giáo hội. Tính đoạn tuyệt trong tình hiệp thông không còn trong Giáo hội mà chỉ còn là hiệp thông nhiều hay ít, hiệp thông trọn vẹn hay chỉ là một phần.
Khi chủ nghĩa cá nhân lên ngôi và ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội lẫn Giáo hội, đời sống Đức tin cũng bị giản lược vào mối tương quan cá vị với Chúa. Việc tin hay không tin là chuyện của mỗi người tự do quyết định cho chính mình, nó không liên quan gì đến người khác. Các Đức Giáo hoàng đã lên tiếng cảnh báo về một đời sống Đức tin khập khiễng như thế, đồng thời các ngài tìm mọi cách để trình bày về khía cạnh cộng đoàn trong đời sống Đức tin. Năm Đức tin được mở năm 1967 do Đức Giáo hoàng Phaolô VI; Sách Giáo lý năm 1992 với trục chính là Đức tin trong đời sống cá nhân và cộng đoàn, cùng với thông điệp “Đức tin và lý trí” năm 1998 của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II; Năm Đức tin được khai mở bởi Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI với Tông thư “Porta Fidei – Cánh cửa Đức Tin” và được đóng lại bởi Đức Giáo hoàng Phanxicô ngày 24/12/2013 với Thông điệp “Lumen Fidei – Ánh sáng Đức Tin”.
Thông điệp “Laudato Si – Hãy chúc tụng Ngài” được Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành năm 2015 là tiếng kêu thống thiết mời gọi con người tìm lại mối hiệp thông nguyên tuyền thuở ban đầu của tạo dựng. Thông điệp không chỉ dừng lại ở vấn đề môi sinh của trái đất, nhưng đưa ra giải pháp tận căn là tìm lại mối hiệp thông tốt lành thuở ban đầu giữa con người với Thiên Chúa, con người với tạo vật, con người với thiên nhiên và con người với con người.
Trong khi trải nghiệm Đại dịch COVID-19, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói về viễn cảnh của cuộc sống hậu COVID-19 cần phải có là tình hiệp thông huynh đệ. Thông điệp “Fratelli Tutti – Tất cả anh em” về tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội được Đức Giáo hoàng Phanxicô ban hành ngày 03/10/2020 là tiếng kêu mời gọi mọi người đi vào sống tình hiệp thông huynh đệ.
Tất cả cho thấy Giáo hội đang nỗ lực kéo con người đi vào trong quỹ đạo hiệp thông với Chúa và với nhau. Một cuộc hành trình sẽ dở dang nếu như các thành viên không đồng tâm hiệp lực, hay thiếu đi tính hiệp thông với nhau. Đó là khía cạnh trước hết của một Giáo hội hiệp hành.
b. Tính Tham gia
Khi Công đồng Vatican II trình bày về Giáo hội như là một Dân Thiên Chúa quy tụ quanh Chúa Kitô thì vấn đề phẩm giá và vai trò của mỗi thành phần trong Giáo hội cũng được nhìn nhận khác đi. Nếu như trước đó phẩm giá của hàng giáo sỹ được nhìn nhận cao hơn giáo dân bởi chức thánh thì giờ đây mọi thành phần trong Dân Thiên Chúa, những người đã chịu phép Rửa tội, đều có phẩm giá và hành động ngang bằng nhau.[10]
Cái nhìn thần học là thế, nhưng thực hành trong mục vụ vẫn còn nhiều vấn đề nan giải. Việc giáo dân được mời gọi tham gia vào các công việc văn hóa, chính trị, xã hội, những việc không phù hợp với đời sống giáo sỹ và tu sỹ, là điều dễ dàng; Những việc liên quan đến các bí tích, đến việc ban phát ơn thánh thuộc về những người đã lãnh nhận chức thánh là điều hiển nhiên. Nhưng vấn đề giáo dân tham gia vào những công việc quản trị của Giáo hội lại là điều còn cân nhắc. Quyền cai quản có buộc phải có thánh chức hay không?
Đón nhận sự tham gia của mọi thành phần cũng đồng nghĩa với việc hạn chế tính tập trung quyền lực. Khi Đức Giáo hoàng Phanxicô bắt đầu điều hành Giáo hội thì công việc ưu tiên đầu tiên của ngài là cải tổ Giáo triều Roma. Lúc đó người ta tưởng công việc sửa đổi bộ máy Giáo triều sẽ sớm hoàn thành trong vài tháng. Thế nhưng công việc đã không đơn giản, với nhóm 8 Hồng Y cố vấn, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã quyết định không sửa Tông hiến hiện hành nữa mà bỏ hẳn Tông hiến này để xây dựng một Tông hiến mới về Giáo triều. Đã hơn 8 năm trôi qua, công việc soạn thảo vẫn đang tiếp tục.[11] Tuy nhiên, những thay đổi cụ thể từng mảng đã được triển khai.
Một quyết định rõ nhất liên quan đến việc nhìn nhận phẩm giá sự tham gia của giáo dân là ngày 17/8/2016, với Tự sắc “Sedula Mater – Người Mẹ ân cần”, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chính thức thành lập Bộ Giáo dân, Gia đình và Sự sống. Trước đó trong Giáo triều đã có Bộ Giám mục, Bộ Giáo sỹ, Bộ Tu sỹ, còn Giáo dân chỉ là một Hội đồng Giáo hoàng.
Gần đây Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ban hành tự sắc “Spiritus Domini – Thần khí Chúa” thay đổi Giáo luật điều 230 §1 để phụ nữ có thể chính thức lãnh nhận thừa tác vụ đọc sách và giúp lễ ngày 11/01/2021; và ban hành Tông thư dưới dạng Tự sắc “Antiquum ministerium – Thừa tác vụ cổ kính”thiết lập thừa tác vụ Giáo lý viên ngày 11/5/2021.
Đứng trước những vấn nạn thời đại và sự thay đổi mạnh mẽ trong đời sống giáo dân tại các giáo xứ, Hội đồng Giám mục Đức và Úc đã quyết định mở “Con đường Công nghị” để thảo luận nhằm tiến tới những quyết định liên quan đến vai trò của giáo dân trong việc tham gia vào công việc quản trị của Giáo hội. Đặc biệt là “Con đường Công nghị giáo hội Đức” đưa ra thảo luận 4 vấn đề: thực thi quyền bính trong Giáo Hội theo hướng dân chủ hóa; vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội, đặc biệt là việc phụ nữ chịu chức thánh; cải tổ luân lý tính dục của Giáo; và sau cùng là luật độc thân giáo sĩ. Với những đề tài này, nó đã làm dấy lên những mối lo ngại trong toàn Giáo hội về một cuộc cách mạng có tính ly khai.
Để đáp lại thực trạng của các giáo xứ tại các nước đang khan hiếm linh mục, ngày 20/07/2020, Bộ Giáo sĩ đã ban hành Huấn thị về việc “Hoán cải mục vụ của cộng đồng giáo xứ để phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội”. Huấn thị nhấn mạnh đến sự đồng trách nhiệm của những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội.
Những động thái sửa đổi và thêm vào liên quan đến sự tham gia của giáo dân vào công việc chung của Giáo hội gần đây dường như chỉ là những phương thuốc chữa trị cấp thời. Để có một giải pháp tổng thể thì cần phải được suy tư, lắng nghe, chia sẻ kinh nghiệm từ mọi thành phần dân Chúa khắp Giáo hội hoàn vũ. Vấn đề tham gia trên con đường hiệp hành là vấn đề cấp bách và là yếu tố thứ hai mà Thượng Hội đồng này nhắm tới.
c. Tính Sứ vụ
Số đầu tiên của Văn kiện chuẩn bị Thượng Hội đồng lần thứ XVI này đã xác định sứ vụ được nói đến ở đây là sứ vụ truyền giáo. Giáo hội đã xác tín việc truyền giáo là bản chất của Giáo hội.
Công đồng Vatican II đã đề cập đến bản chất truyền giáo của Giáo hội trong Hiến chế “Lumen Gentium – Ánh sáng muôn dân” và dành riêng một Sắc lệnh để nói về chính việc Truyền giáo “Ad Gentes – Đến với muôn dân”. Tuy nhiên Công đồng gần như không đề cập đến việc truyền giáo cho những cộng đoàn đã và đang bị mai một đời sống Đức tin.
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XIII tổ chức năm 2012 đã bàn về việc Tân Phúc âm hóa. Hoa trái của Thượng Hội này là Tông huấn “Evangelii Gaudium – Niềm vui Tin Mừng”. Vấn đề truyền giáo không được bàn tới dưới khía cạnh là bổn phận hay nghĩa vụ của người đã lãnh nhận Phép Rửa. Ở đây Tông huấn nói đến việc truyền giáo là lẽ tất yếu của một đời sống Đức tin sống động, gắn bó mật thiết với Chúa và cảm nếm được tình yêu và lòng tha thứ của Chúa. Việc truyền giáo đơn giản là việc chia sẻ chính kinh nghiệm của mình, chia sẻ chính niềm vui của mình khi được gặp gỡ Chúa. Xuất phát từ chính niềm vui của Tin Mừng mà tôi có được và lòng khao khát giúp người khác được hạnh phúc mà tôi lên đường rao giảng Tin Mừng.
Trong chiều hướng ấy, Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo năm 2021 này của Đức Giáo hoàng Phanxicô mang một thông điệp rất rõ ràng và mạnh mẽ: “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Ngay câu đầu tiên của Sứ điệp, ngài đã tóm kết nguyên nhân và nội dung của việc loan báo Tin Mừng: “Một khi cảm nghiệm được sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, một khi nhận ra sự hiện diện hiền phụ của Người trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta, chúng ta không thể không loan báo và chia sẻ những gì chúng ta đã thấy và đã nghe”[12].
Loan báo Tin Mừng là sự sống còn của Giáo hội, đồng thời cũng là thước đo cho một đời sống Đức tin sống động đến mức nào. Sứ vụ này gắn chặt với những người lữ hành trên dương thế, những người đang tiến bước trong một Giáo hội hiệp hành.
Như vậy, cả ba khía cạnh then chốt của Giáo hội hiệp hành là hiệp thông, tham gia và sứ vụ đều là những điều đã được bàn đến từ lâu và đang được đào sâu ý hướng mà các Nghị phụ của Công đồng Vatican II đã đặt để. Với Đức Giáo hoàng Phanxicô, một vị Giáo hoàng không bàn nhiều về lý thuyết nhưng đi vào thực hành mục vụ nhiều hơn, dường như muốn đặt tất cả lên bàn để nhìn lại một cách tổng thể, để từ đó cùng với toàn thể Giáo hội tiến bước với những hành động cụ thể của từng tín hữu trong cuộc sống thường ngày.
Những giải pháp được đưa ra trong những năm qua chỉ để đáp lại phần nào hoàn cảnh thực tiễn. Thượng Hội đồng lần này dường như là một giải pháp tổng thể cho tất cả. Và nếu Văn kiện đúc kết Thượng Hội đồng được Đức Giáo hoàng quyết định trao quyền cho các Nghị phụ như quy định trong khả thể thứ 2 của khoản 18 trong Tông hiến “Episcopalis comminio” thì Văn kiện có giá trị như một văn kiện của Công đồng.
3. Diễn tiến và Tham gia vào Thượng Hội đồng
a. Diễn tiến
Thượng Hội đồng được chính thức khai mạc tại Roma ngày 9-10/10/2021 và sẽ kết thúc vào tháng 10/2023. Toàn bộ Thượng Hội đồng được chia thành 3 giai đoạn: giai đoạn I được tổ chức ở cấp giáo hội địa phương cũng như các tổ chức tương đương, giai đoạn II được tổ chức ở cấp Châu Lục; giai đoạn III được tổ chức ở cấp Giáo hội hoàn vũ.
Tuy nhiên còn có 1 giai đoạn không chính thức nữa, theo nghĩa là nó có trước khi khai mạc Thượng Hội đồng, đó là giai đoạn tiền chuẩn bị. Đức Giáo hoàng bổ nhiệm một Ban Thư ký và Ban này soạn thảo Tài liệu hướng dẫn chuẩn bị cho Thượng Hội đồng. Trong Thượng Hội đồng lần này, có 2 tài liệu được gửi tới mọi thành phần dân Chúa trên toàn thế giới: Tài liệu chuẩn bị và Cẩm nang Thượng Hội đồng.
Giai đoạn I bắt đầu từ ngày 17/10/2021 và kết thúc vào ngày 15/8/2022[13]. Đây được gọi là giai đoạn lắng nghe. Tại mỗi giáo phận hay các đơn vị tương đương, Đức Giám mục triển khai công tác tổ chức để có các buổi cử hành việc lắng nghe trong giáo phận của mình. Trong những lần hội thảo này, mọi thành phần dân Chúa từ giáo dân, tu sỹ, đến giáo sỹ cùng lắng nghe tiếng Chúa và cùng lắng nghe nhau để nhận ra những chỉ dấu mà Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt. Đặc biệt, Tài liệu chuẩn bị của Thượng Hội đồng mời gọi Đức Giám mục và hàng giáo sỹ trong giáo phận lắng nghe tiếng nói của những người nghèo, những người yếu đuối, những người dường như bị gạt ra bên lề của cộng đoàn, đồng thời các ngài tìm cách khuyến khích họ để họ can đảm lên tiếng giãi bày về những thực trạng và khát vọng của họ. Giai đoạn này là nền tảng cho các giai đoạn tiếp theo.
Mỗi giáo phận sẽ đúc kết các kinh nghiệm lắng nghe cũng như những ước vọng của mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận thành một bản văn và gửi về Hội đồng Giám mục địa phương. Bản đúc kết “không chỉ nhấn mạnh những trải nghiệm tích cực mà còn cho thấy những trải nghiệm mang tính thách thức và tiêu cực”[14].
Sau khi nhận được các bản văn đúc kết từ các giáo phận, Hội đồng Giám mục sẽ nhóm họp các giám mục để bàn thảo, phân định ý Chúa để đúc kết thành một bản văn tổng hợp và gửi về Ban Thư ký của Thượng Hội đồng.
Tại Roma, Ban Thư ký tiếp nhận các bản tổng hợp từ các Hội đồng Giám mục, các Công nghị Giáo hội Công giáo Đông phương làm cơ sở để viết ra Tài liệu làm việc số 1 (Instrumentum laboris 1). Tài liệu này phải hoàn thành vào tháng 9/2022 và được gửi đến các giám mục trên toàn thế giới.
Giai đoạn II bắt đầu từ tháng 9/2022 (sau khi có Tài liệu làm việc số 1) và kết thúc vào trước tháng 3/2023. Đây là giai đoạn thảo luận dựa trên Tài liệu làm việc 1 và thực trạng của mỗi Châu lục để đi đến một bản văn đúc kết gửi về cho Ban Thư ký. Trong giai đoạn này, những cuộc họp quốc tế được tổ chức tại 7 vùng trên toàn thế giới: Châu Á, Châu Âu, Châu Đại Dương, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Bắc Mỹ, và Trung Đông. Đại diện các Hội đồng Giám mục và những cơ cấu tương đương thuộc mỗi vùng sẽ nhóm họp tại vùng của mình để cùng nhau làm việc dựa trên Tài liệu làm việc 1.
Tại Roma, Ban Thư ký tiếp nhận các bản tổng hợp từ 7 vùng kể trên làm cơ sở để soạn thảo Tài liệu làm việc 2. Tài liệu này phải hoàn thành trong tháng 6/2023. Đây sẽ là Tài liệu làm việc chính thức của Thượng Hội đồng.
Giai đoạn III là những Cuộc họp toàn thể chính thức của Thượng Hội đồng. Trong tháng 10/2023 Đức Giáo hoàng sẽ công bố ngày triệu tập và quyết định ngày kết thúc. Các giám mục đại diện từ khắp thế giới sẽ nhóm họp tại Roma và bàn thảo dựa trên Tài liệu làm việc 2. Bản văn đúc kết sau cùng của Thượng Hội đồng sẽ được chuyển tới Đức Giáo hoàng để làm tài liệu tham khảo cho ngài viết ra Tông huấn hậu Thượng Hội đồng lần này, hoặc, nếu Đức Giáo hoàng ủy quyền, các nghị phụ tham dự Thượng Hội đồng cùng Đức Giáo hoàng đồng ký và Bản văn đúc kết trở thành Văn kiện chính thức mang tính giáo huấn của Đức Giáo hoàng.
b. Tham gia vào Thượng Hội đồng lần này
Là một mô hình mới xuất hiện sau Công đồng Vatican II, Thượng Hội đồng Giám mục được tổ chức theo những quy định được nói đến trong Tông thư dưới dạng Tự sắc “Apostolica Sollicitudo” của Đức Giáo hoàng Phaolô VI. Theo đó, những thành viên chính thức tham dự Thượng Hội đồng thường kỳ gồm: Các thành viên theo chức vụ: Các Thượng phụ, Tổng Giám mục trưởng và Tổng Giám mục thuộc Giáo hội Công giáo Đông phương; Các Hồng y trong Giáo triều Roma; Các thành viên do chọn lựa: Các Giám mục được chọn bởi Hội đồng Giám mục. Số Giám mục được chọn tùy theo số lượng Giám mục thành viên của mỗi Hội đồng Giám mục: chọn 1 nếu có dưới 25 thành viên, chọn 2 nếu không quá 50 thành viên, chọn 3 nếu có trên 100 thành viên; 10 tu sỹ được chọn từ Liên hiệp các Bề trên Thượng cấp để đại diện cho các dòng tu giáo sỹ; Các thành viên do Đức Giáo hoàng tự do chọn lựa: có thể là Giám mục, Linh mục, Tu sỹ, Chuyên viên, Quan sát viên.[15]
Ngày 15/9/2018 Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ra Tông hiến “Episcopalis Communio”, thay thế Thông thư dưới dạng Tự sắc “Apostolica Sollicitudo”, mở rộng những quy định về Thượng Hội đồng Giám mục ngay trước thềm Thượng Hội đồng Giám mục về giới trẻ được tổ chức từ 03-28/10/2018.
Nếu Thượng Hội đồng về gia đình năm 2015 chỉ có 270 vị tham dự thì Thượng Hội đồng về giới trẻ năm 2018 có tới 410 tham dự viên.
Trước Tông hiến “Episcopalis Communio” thì Thượng Hội đồng chủ yếu diễn ra trong những ngày họp Đại hội toàn thể. Mặc dù trước đó, Ban Thư ký có gửi bản dự thảo tới các giám mục trên toàn thế giới để xin ý kiến giúp cho việc soạn thảo Tài liệu làm việc chính thức của Thượng Hội đồng, nhưng đó là giai đoạn chuẩn bị cho việc soạn thảo Tài liệu làm việc.
Với Tông hiến “Episcopalis Communio”, Thượng Hội đồng đã được mở rộng tới mọi thành phần ở mọi miền trên thế giới. Giai đoạn I và II là phần được mở rộng do sáng kiến của Đức Giáo hoàng Phanxicô.
Trong Tài liệu chuẩn bị cho Thượng Hội đồng lần thứ XVI này cho biết mục đích của việc mở rộng này: “Trước hết và trên hết, tiến trình hiệp hành là một tiến trình thiêng liêng. Đây không phải là chuyện cứ máy móc thu thập dữ liệu hay tổ chức hàng loạt những cuộc hội họp và thảo luận. Mục đích của việc lắng nghe mang tính chất hiệp hành là biện phân, vì thế đòi hỏi chúng ta phải học biết và sử dụng nghệ thuật biện phân cá nhân và cộng đoàn. Chúng ta lắng nghe lẫn nhau, lắng nghe truyền thống đức tin của chúng ta và lắng nghe các dấu chỉ thời đại để nhận biết những gì Chúa đang nói với chúng ta.”[16]
Việc tham gia vào Thượng Hội đồng không đơn thuần nhằm đóng góp ý kiến để Giáo hội có được những quy định tốt nhất. Nhưng trước hết, mọi thành phần dân Chúa được mời gọi sống chính những suy tư, nhìn nhận mà mình có được trong khi lắng nghe và phân định ý Chúa.
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI, đặc biệt trong giai đoạn I này, mời gọi mọi thành phần dân Chúa cùng ngồi xuống với nhau, cùng cầu nguyện, cùng chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng, cùng lắng nghe Chúa, cùng lắng nghe nhau để cùng xác quyết về một Giáo hội hiệp hành: cùng hiệp thông với nhau, cùng tham gia với tinh thần trách nhiệm, cùng thực thi sứ mệnh loan truyền Tin Mừng. Mọi thành phần dân Chúa trong Giáo hội và ngoài Giáo hội cùng nắm tay nhau, nâng đỡ dắt dìu nhau tiến về Nước Trời.
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org
[1] Chữ “Công nghị” trong các Tu Hội lại được dịch từ một chữ khác: “Capitulum”. “Capitulum Generale” là Tổng Công nghị trong các Tu Hội. (Giáo luật các điều 631 – 633)
[2] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 32
[3] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 1
[4] Hiến chế Tín lý về Giáo hội – Lumen Gentium, số 32
[5] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 20
[6] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 20
[7] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng số 14
[8] Lm. Phêrô Trần Văn Hội, Giáo hội, Mầu nhiệm hiệp thông theo Công đồng Vatican II, tham luận tại Đại hội Dân Chúa Việt Nam 2010
[9] Hiến chế Tín lý về Giáo hội – Lumen Gentium, số 8
[10] Hiến chế Tín lý về Giáo hội – Lumen Gentium, số 31 – 32
[11] https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2021-03/tong-hien-giao-trieu-roma-dtc-phanxico.html
[12] Sứ điệp ngày thế giới truyền giáo năm 2021 của Đức Giáo hoàng Phanxicô
[13] Ngày 29/10/2021 Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng đã ra thông báo quyết định rời thời hạn cuối cùng của việc nộp bản tổng kết từ các Hội đồng Giám mục và các Công nghị Giáo hội Công giáo Đông phương đến ngày 15/8/2022, tức là gia hạn thêm 4 tháng so với thời hạn ban đầu đưa ra là tháng 4/2022.
[14] Vademecum của Thượng Hội đồng lần thứ XVI phần 4.1
[15] Đức Giáo hoàng Phaolô VI, Tông thư dưới dạng Tự sắc Apostolica Sollicitudo, V, VIII, X.
[16] Vademecum của Thượng Hội đồng lần thứ XVI phần 2.2Lm. Giuse Lê Danh Tường
2021
Lòng Kiên Nhẫn
Vừa khi chủ đề ‘kiên nhẫn’ được đề cập, người ta được nhắc nhớ ngay một trong các ngôn từ khai mở mà Cyprianô thành Carthagô dùng dẫn vào khảo luận ‘Lòng Kiên Nhẫn’ mười bảy thế kỷ trước.
Ngôn từ tạo nên hiệu quả những người nghe phải vốn có điều người nói cố gắng khuyên họ, cụ thể là ‘kiên nhẫn’, vì không có kiên nhẫn, diễn giả chẳng có một thính giả nào. Thực sự, nếu một người hoàn toàn bất kiên nhẫn, xét bất cứ phương diện nào, sẽ chẳng bao giờ thu hoạch được gì, vì chính hành vi thu hoạch tự nó đòi kiên nhẫn dài lâu. Do đó, một số mức độ kiên nhẫn phải được kể đến giữa những thái độ căn bản của hữu thể người, loại kiên nhẫn bắt rễ sâu trong bản tính người. Lý do là trong mức nào đó, nó phải gánh chịu chính nó. Nó vốn phải có đó để được tập trung lại. Nó vốn phải sẵn trong tay để những mức độ kiên nhẫn cao hơn được thực hiện sau đó.
Kiên nhẫn phát sinh từ nền tảng bản tính hữu thể người, cụ thể, một người vừa được phú bẩm là một tinh thần và đồng thời là một chủ thể lệ thuộc giới hạn thời gian. Những hữu thể mang bản tính vĩnh cửu chẳng cần kiên nhẫn. Họ chẳng hoàn thành cái gì hoàn hảo hơn hiện trạng của họ. Họ chẳng tìm kiếm gì hơn, vì nguyên chỉ phẩm chất vĩnh cửu họ được phú bẩm có nghĩa là bản tính của họ vốn trong tình trạng của cái tròn đầy và hoàn hảo nội tại.
Những hữu thể không mang tinh thần không cần kiên nhẫn vì ‘ý thức’ của chúng luôn giới hạn trong hiện tại, và rõ ràng, do sự kiện ấy, chúng chẳng biết gì về cái đổi thay liên tục từ quá khứ sang vị lai, đang ảnh hưởng trên chúng, ngay cả chính chúng đang không ngừng gánh chịu tiến trình phát triển và đổi thay.
Phần chúng ta, những hữu thể vừa được phú bẩm trí năng vừa tuỳ thuộc thời gian. Chúng ta mang quá khứ nơi mình, và trong năng lực nhận thức, chúng ta đã đạt tới cái còn chưa tới trong tương lai. Thực sự, một cách ý thức, chúng ta sống trải qua tiến trình đổi thay mà chính chúng ta lệ thuộc. Sự tác động lẫn nhau giữa quá khứ và tương lai giúp nắm bắt được thực tại, làm nên kinh nghiệm của chúng ta. Không chỉ chúng ta không thể lấy lại được tiến trình chuyển giao và đổi thay, mà cũng không thể giấu giếm trước bản thân nỗi bất khả thực hiện điều ấy.
Hiện hữu của chúng ta được điều khiển duy bởi quy trình liên tục của đổi thay. Chúng ta có năng lực nhìn thấy chính hiện hữu của chúng ta như một toàn thể, và nhận thức như quy luật của chính bản tính chúng ta là nó phải không ngừng áp lực đưa hiện hữu của chúng ta phát triển thêm nữa. Nhận thức và chấp nhận sự kiện đó là cái chúng ta gọi là ‘sự kiên nhẫn hiện sinh’, sự kiên nhẫn thuộc bình diện hiện sinh. Chúng ta kiên nhẫn chấp nhận sự kiện hiện sinh chúng ta tuỳ thuộc vào đổi thay như thế đó, nhưng nó duy trì tính thống nhất xuyên suốt quy trình đổi thay.
Chính sự kiện chúng ta thuộc loại hữu thể đó và không thể né tránh hiện hữu như thế, nghĩa là chúng ta mang loại bản tính đó và không thể trốn khỏi nó, là thực tại, một lần nữa, đặt chúng ta vào một bổn phận phải chu toàn, bổn phận mà chúng ta có thể không đạt, cái gì đó chúng ta phải làm cho chính mình, bằng nỗ lực can đảm và trung tín, một cách ý thức và thận trọng trung thực với bản tính của chính chúng ta nhằm hoàn thành chính nó. Đối với người được phú bẩm tự do và năng lực tinh thần, trong khi kiến tạo mình, có những yếu tố đã được ban, không thể tránh né, và không thể trốn thoát được, và đồng thời có những yếu tố khác, những yếu tố nhiệm mầu và không tiên báo được. Thực tại đó đặt người ấy vào bổn phận lấy tự do đáp lại.
Vậy mỗi cá nhân phải trong ý thức và tự do đi về đích, với phẩm tính đặc biệt trong bản tính của mình. Người ấy phải nhận biết và chấp nhận mình như một hữu thể tuỳ thuộc vào sự đổi thay liên tục và nhắm về mục đích, đồng thời được phú bẩm sự nhận thức. Người ấy phải không được giả thiết mình có thể làm gián đoạn sự đổi thay này, cũng phải không được thử đưa mình trở về giai đoạn mình đã đạt được, cũng phải không thể hấp tấp thử trước giai đoạn còn chờ người ấy trong tương lai. Nói cách khác, người ấy phải kiên nhẫn chấp nhận sự đổi thay hiện sinh mà người ấy lệ thuộc vào để đạt đúng cái mình là, và nhận thức rằng có lý hữu và có hướng tới một mục đích. Chỉ có thể nói người ấy kiên nhẫn khi trải qua sự kiên nhẫn hiện sinh chúng ta đang đề cập.
Vấn đề cần phải hiểu là: Điều một cá nhân phải nhận thức và chấp nhận, với loại kiên nhẫn căn cơ này, không đơn giản là những yếu tố nảy sinh đây đó trong đời, một cách trái ý, và xem ra đối với người ấy, là một mảng của phần số vô nghĩa, từ bên ngoài áp đặt trên người ấy… Điều người ấy phải kiên nhẫn khoan thứ và chịu đựng ở mức sâu nhất và căn cơ nhất hơn là chính mình, ‘cái chính mình’ được nhìn nhận như một người trên hành trình về một tương lai, một người không thể dừng chân và lưu lại nơi mình ở, cũng không thể giả định người ấy đang đăng trình về một điểm đến trống không, vô định, mà chẳng có điểm đến uyên nguyên nào… Nỗi bất kiên nhẫn của chúng ta vì những phiền toái hằng ngày, đơn giản là dấu chỉ sự kiện rằng ở bình diện sâu xa hơn của cuộc sống, chúng ta không thành công trong việc đạt được trong tự do đức tính kiên nhẫn hiện sinh và luyện nó thành của mình.
Có những người tìm cách bám vào hoàn cảnh của lúc này với những thú vui, những thành công, cái xem ra tự mãn, dù tất cả, xét theo bản tính của chúng, rõ ràng là nhất thời bèo bọt… Có những người không thể buông trôi cái thuộc hôm qua tới khi cái thuộc ngày mai được chứng minh là không tác hại và có sức trấn an. Có những người không thể tự do bước vào tình huống mới xem ra hóc búa hơn hay ít triển vọng, những người không thể tự tin đi vào ‘màn đêm’ hay vào cái còn dưới sự kiểm soát của người khác. Có những người hoảng sợ trước sức mạnh lặng thinh bao trùm và kiểm soát đời ta, và sức mạnh lặng thinh là Thiên Chúa, dẫu rằng chỉ một mình Người biết và định khi nào cái hiện sinh phù du này khởi sự và khi nào nó sẽ kết thúc. Tất cả tựa như những người không thể lĩnh hội được cho mình cái đức kiên nhẫn hiện sinh. Họ để lộ sự kiện họ không thể sở hữu đức tính này bằng sự bất kiên nhẫn biểu lộ trong những hoàn cảnh thường nhật, khi họ phạm khuyết điểm, gặp nỗi xót đau và cực nhọc vất vả, vốn thuộc phận người, ngay cả trong những chuyện thường nhật nhất mỗi ngày.
Giám mục Gioan Đỗ Văn Ngân chuyển ngữ
2021
Ngu dốt mới tin có Thiên Chúa?
Ngu dốt mới tin có Thiên Chúa?
Ở thời đại nầy mà còn có những người ngây ngô, kém hiểu biết phát biểu như sau:
-Điều gì mắt ta thấy mới có, không thấy không có !
-Chỉ những người ít học, ngu dốt, nghèo đói mới tin có Thiên Chúa !
-Thiên Chúa chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng, có thấy Thiên Chúa đâu mà có!.[1]
1.Thị lực lúc bình thường của mắt là 20/20, nghĩa là một vật thể ở cách xa mắt một khoảng cách 6m thì mắt vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng[2]. Với khoảng cách đó, bạn có khả năng nhìn thấy hết mọi vật được không ? Trả lời đi. Viễn vọng kính tối tân nhất hiện nay có khả năng thấy được khoảng cách hơn 13 tỉ năm ánh sáng. Một năm ánh sáng tương đương với 9,5 nghìn tỷ km. Khoảng cách xa nhất của một hành tinh Nasa mới phát hiện cách xa trái đất nhất từ trước tới nay là 13.000 năm ánh sáng. Tiểu hành tinh nầy trong hệ mặt trời, còn vô số tiểu hành tinh trong cũng như ngoài hệ mặt trời mà khoa học chưa nhìn thấy[3]. Thế những gì con người chưa nhìn thấy, thì nó có hiện hữu trước không hay khi nào người con người nhìn thấy nó mới có? Vô số những chứng nghiệm thực tế trong đời sống chúng ta mà không cần trưng dẫn ra, cho thấy phát biểu: cái gì thấy mới có là một phát biểu quá kém! Chỉ nên có ở những người mù chữ mà thôi.
- Auguste Comte là một nhà triết học và xã hội học người Pháp[4], theo chủ nghĩa thực nghiệm. Theo ông thì cuối cùng, giai đoạn khoa học sẽ thắng thế và thay cho giai đoạn thần học cũng như siêu hình là giai đoạn phát sinh những sản phẩm tôn giáo. Khoa học sẽ loại bỏ những sản phẩm của óc tưởng tượng và của sự tha hoá. Con người dựa trên lý trí mà phê phán về mọi sự vật. Như thế, chỉ những gì thuộc phạm vi kinh nghiệm, thực nghiệm mới có thật. Do đó theo ông, con người có tôn giáo là con người sống trong giả tưởng, trong giai đoạn ấu trĩ của nhân loại, chưa biết gì về ánh sáng khoa học. Comte đã thất bại khi chủ trương như vậy, vì không phù hợp với thực tế, chính ông mới bị ảo tưởng về chủ trương của mình!
Theo thống kê năm 1992 của Giáo Hội Công giáo, năm đó số tín hữu là 950 triệu, chưa kể những giáo hội Kitô khác, trong đó: Châu Âu chiếm 80% dân số; Châu Mỹ chiếm 85% dân số; Châu Úc chiếm 80% dân số; Châu Á chiếm 7% dân số; Châu Phi chiếm 25% dân số.
Theo thống kê năm 2019, có 10 quốc gia đông tín hữu nhất thế giới: Brazil; Mexico; Philippines; Mỹ; Ý; Pháp; Colombia; Balan; Tây Ban Nha; Cộng Hoà Dân Chủ Congo.
Nhìn vào những thống kê nầy, ta có thể kết luận được theo lập luận của A.Comte là Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc là những châu dốt nát, nghèo nàn hơn Châu Á, Châu Phi không?
Mười nước đông tín hữu nhất thế giới có phải là những nước kém trình độ nhất không?
3.Tôn giáo và khoa học không mâu thuẫn nhau, đối kháng nhau hoặc tôn giáo không ngăn cản sự phát triển của khoa học hoặc đà tiến bộ của con người; bởi vì tôn giáo không phải là đối tượng của khoa học, nghĩa là khoa học tự bản chất không có khả năng nói rằng có hay không có Thiên Chúa. Có biết bao nhiêu điều khoa học không thể quan sát, thực nghiệm được, nhưng vẫn có thực như: tư tưởng, ý chí, ký ức… huống chi là linh hồn, là Thiên Chúa. Nó cũng cho thấy rằng tôn giáo không chỉ là của những kẻ ngu dốt, nghèo đói, nhưng là của tất cả những ai thành tâm thiện chí và được ơn trên soi sáng. Những thống kê sau đây làm chứng:
*Nhà bác học A.Eynieu đã công bố bản thông kê của ông trong cuốn “La part des croyants dans les progrès de la science”[5]: Trong số 432 nhà bác học thuộc thế kỷ 19, có 34 người không có lập trường tôn giáo, còn lại 398 người phân chia như sau: 15 dửng dưng, 16 vô thần, 367 có tín ngưỡng, tức là 92%.
*Bác học Dennert ngừơi Đức cũng công bố bản điều tra của ông về tôn giáo của 300 nhà bác học lỗi lạc thuộc bốn thế kỷ vừa qua: 38 vị không rõ quan điểm, còn lại 262 vị thì 20 vị dửng dưng hay vô thần, 242 vị tin Thiên Chúa, tức là 92%.
*Trong một công trình độc lập tại Đại Học Chicago Mỹ mới công bố, 76% các bác sĩ nói họ tin vào Chúa, và 59% tin vào sự tồn tại của thế giới bên kia[6].
4.Phát biểu của một số nhà bác học nổi tiếng về Thiên Chúa[7]:
-Nhà bác học Louis Pasteur[8]: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế”; “Mỉa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hết hoặc chết là trở về với hư vô”.
-Bác học Isaac Newton[9]: “sở dĩ các thiên thể chuyển động nhịp nhàng được là nhờ cái hích đầu tiên của Thiên Chúa”; “Tôi thấy Thiên Chúa qua viễn vọng kính”.
-Abert Einstein[10], nhà vật lý học được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã phát biểu: “khoa học không có tôn giáo là mù loà…”; “Tôi chưa gặp điều gì trong khoa học của tôi mà lại đi ngược với tôn giáo”.
-Giáo sư James Simpson[11], người phát minh ra phương pháp gây mê: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu”.
-Bác học Michel Eugène Chevreul[12]: “Tôi không thấy Thiên Chua, vì Người thiêng liêng, nhưngtôi thấy công trình tạo dựng của Người”[13].
-Diderot[14]: “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần”.
-Nhà thiên văn Johannes Kepler[15]: “Thiên Chúa thật vĩ đại. Quyền năng Người vĩ đại và sự khôn ngoan thì vô hạn…”.
-Nicolaus Copernicus[16]: “Ai có thể sống cận kề với một trật tự hoàn bị nhất và trí năng siêu vượt của Thiên Chúa mà không cảm thấy dâng trào những cảm hứng cao quý?”.
-Alexandro Volta[17]: “Tôi tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi đức tin nầy, nhờ đó mà tôi có một ý hướng vững chắc để sống và chết”.
-André-Marie Ampère[18]: “Thiên Chúa vĩ đại biết bao và khoa học của chúng ta chỉ là chuyện vặt vãnh”.
*Người Việt Nam cũng tin có Trời, như là Đấng làm chủ mưa nắng:
Lạy Trời mưa xuống, Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày, Cho đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp…
***
Không kể hết được những chứng nhân về Thiên Chúa trong giới bác học, nhưng thiết nghĩ chừng đó cũng đủ để kết luận được rồi. Ấy thế mà trên đời nầy lại có những kẻ học hành chẳng bao nhiêu, sống chưa từng trải, mà lại dám hiên ngang công khai đưa ra những phát biểu kém cỏi, chứng tỏ sự ngu dốt của mình, giống như một anh nông dân chưa thạo cày bừa mà lại lên lớp cho một kỹ sư cơ khí về việc sửa chữa máy móc. Thật là nực cười!
(Vinh An, mùa dịch 21)
Lm.Anphong Nguyễn Công Vinh
*Xin chia sẻ cho người khác
[1] X. Lm.Anphong Nguyễn Công Vinh, Tìm Về Sự Thật, số 2, NXB Tôn Giáo, Hà Nội 2006.
[2] https//www.vinmec.com < tin-tuc
[3] https://khoahọc.tv>phat-hien-hanh
[4] 1978-1857
[5] Số những người có đức tin góp phần trong tiến bộ khoa học.
[6] Vnexpress.net/ theo LiveScience.
[7] Nguontinhyeu.com
[8] 1882-1895, nhà sinh học, vi sinh vật học, nhà hoá học
[9] Người phát minh ra định luật hấp dẫn vũ trụ.
[10] 1879-1955.
[11] 1811-1870.
[12] 1786-1889, nhà hoá học.
[13] 1786-1889.
[14] 1713-1784,nhà văn nổi tiếng và nhà triết học.
[15] 1571-1630, môt trong những nhà thiên văn vĩ đại nhất.
[16] 1473-1543, nhà thiên văn học và là người xướng xuất thuyết nhật tâm.
[17] 1745-1827, người khám phá ra các ý niệm cơ bản về điện.
[18] 1775-1836, nhà vật lý phát mình ra điện từ trường.