2021
Hôn nhân “Bất đắc dĩ”: Đôi điều muốn nói
Hôn nhân “Bất đắc dĩ”: Đôi điều muốn nói
Hôn nhân là một quyết định hệ trọng liên quan tới hạnh phúc cả một đời người. Có những cuộc hôn nhân phúc hạnh như mơ, nhưng cũng có không ít những cuộc hôn nhân đau khổ bất hạnh ê chề, nhất là những cuộc hôn nhân không tình yêu, không tự do thật lòng, mà chỉ vì “lỡ có bầu”.
Các bậc cha mẹ thường rơi vào cảnh khó xử với những cuộc hôn nhân “bất đắc dĩ” như thế. Nếu để cho con cái mình “lỡ mang bầu”, rồi sinh con mà không cưới hỏi gì, thì bị mất mặt với bà con lối xóm. Vì thế, không ít cha mẹ tìm mọi cách để thúc ép con cái phải cưới cho bằng được. Họ tìm đến với các cha xứ của mình, trình bày với các ngài, rồi “năn nỉ ỉ ôi” cho con mình được học giáo lý cấp tốc và cưới cấp tốc, “cưới chạy bầu”. Có khi tất cả mọi sự chỉ diễn ra trong vòng một tháng, tất tần tật: học giáo lý, làm thủ tục giấy tờ, rao hôn phối, cử hành hôn lễ… Khổ nhất là những cặp đôi có một trong hai người chưa theo đạo, học giáo lý vừa Dự tòng vừa Hôn nhân vội vội vàng vàng, chẳng đâu tới đâu. Thậm chí có trường hợp phải cử hành các Bí tích Khai tâm và Hôn phối trong cùng một ngày.
Những trường hợp như thế thường làm khó cho các cha xứ. Vui vẻ với nhau “lỡ mang bầu”, rồi vô bắt cha xứ giải quyết. Thật chẳng công bằng chút nào! Không giải quyết thì thấy cũng tội nghiệp, sợ gia đình đôi bên buồn, mà giải quyết thì bản thân các ngài cảm thấy áy náy lương tâm, không biết tương lai cuộc hôn nhân này có bền vững không, gia đình này có hạnh phúc không, vì đôi bạn không được chuẩn bị chu đáo.
Lời khuyên nào cho các cha mẹ và các cặp đôi? Trong trường hợp hai người yêu nhau thật lòng và cũng mong muốn tiến tới hôn nhân để được ăn đời ở kiếp với nhau, mà chẳng may có bầu, thì có thể tiến hành hôn phối được. Những trường hợp này có thể hạnh phúc và bền vững. Nhưng phải càng sớm càng tốt. Đừng để thai 3-4 tháng, thậm chí là 5-6 tháng rồi mới đến trình với cha xứ xin giải quyết.
Còn trong trường hợp, hai người không yêu nhau thật lòng, và cũng không muốn tiến tới hôn nhân; nhưng chẳng may có thai với nhau, thì chấp nhận giữ lại cái thai và ở vậy sinh con. Cứ sinh con rồi hãy tính tiếp. Nếu sau khi sinh con mà tình yêu giữa hai người nảy sinh và cả hai muốn sống với nhau, thì tiến hành thủ tục kết hôn cũng không muộn. Còn nếu tình cảm giữa hai người không còn, thì chia tay nhau, và thong dong đi tìm tình yêu mới, không vướng mắc gì, không ngăn trở gì. Hai người vẫn có thể là bạn với nhau, cùng góp phần cách nào đó để nuôi dạy đứa con chung. Đứa con cũng sẽ dễ dàng chấp nhận thân phận của mình, và có thể hạnh phúc, vì cảm nhận được tình thương của cả cha mẹ và ông bà nội ngoại hai bên.
Tôi được biết người con trai một ông Hội đồng Mục vụ, thuộc giáo xứ nọ, quen một người bạn gái. Hai người kết thân với nhau, rồi ăn ở với nhau và chẳng may “dính bầu”. Cả hai chấp nhận ở vậy sinh con mà không cưới hỏi gì, vì họ không thực lòng yêu nhau, và cũng không muốn kết hôn với nhau. Gia đình hai bên cũng đồng ý như vậy, không thúc ép gì. Sau khi sinh con được một thời gian, thì chia tay nhau, mỗi người theo đuổi hôn nhân riêng. Họ vẫn coi nhau như bạn bè, lui tới chăm sóc đứa con chung. Đứa con chung đó cũng vô tư ở với ông bà ngoại, thỉnh thoảng lại chạy qua ông bà nội chơi vui vẻ, vì nhà nội gần bên nhà ngoại.
Bởi đó, cha mẹ không nên tổ chức đám cưới cho con mình bằng mọi giá, chỉ vì con cái mình đã “lỡ mang bầu”, dù con mình thực sự không yêu thương nhau và không sẵn sàng để kết hôn với nhau, nhất là những trường hợp “lỡ có bầu” thường rơi vào giai đoạn tuổi đời còn non trẻ, suy nghĩ chưa chín chắn. Trong trường hợp này, nếu tổ chức đám cưới, thì chỉ đẹp mặt với bạn bè và bà con lối xóm, nhưng chắn chắn sẽ để lại hậu quả bi đát về sau. Vui đó nhưng rồi buồn đó. Niềm vui thì chóng vánh, nhưng nỗi buồn thì vô tận!
Khi kết hôn được một thời gian ngắn sẽ xảy ra mâu thuẫn, bất đồng và xung đột với nhau mà không giải quyết được. Đơn giản vì không có tình yêu. Không có tình yêu, nên không thể tha thứ cho nhau, không thể chấp nhận nhau, và có khi biến vợ mình, hoặc chồng mình trở thành kẻ thù thứ thiệt của nhau, hoàn toàn đoạn tuyệt với nhau. Mấy chục năm sau, khi ra tòa xin tháo gỡ hôn phối mà vẫn không muốn nhìn mặt nhau. Xung đột vợ chồng không giải quyết được dẫn đến xung đột với cả gia đình nội ngoại hai bên. Tương quan sẽ tan nát và hôn nhân sẽ sụp đổ. Có những cặp kết thúc cuộc sống chung chỉ sau 3 tháng, thậm chí là 1 tháng sau đó, và 1 năm sau, ra tòa ly dị, để lại ngổn ngang bao dằn vặt tâm can, và bao vết thương lòng khó mà chữa lành được. Ở vậy thì không được vì cả hai còn rất trẻ, mà tiến hành một cuộc hôn nhân mới thì sẽ rơi vào tình trạng rối, vì còn vướng dây hôn nhân trước.
Bi kịch diễn ra giữa hai người, hai gia đình, và con cái sẽ lãnh đủ. Bởi vì đã không yêu nhau, thì theo lẽ thường, hoa trái của mình là con cái, họ cũng chẳng thiết tha gì! Có khi người mẹ vì “hận” chồng, nên đành đoạn bỏ lại đứa con của mình và đi tìm người chồng mới. Đứa con trở thành “mồ côi” mẹ. Có khi người bố vì “thù” vợ, nên nhẫn tâm bỏ lại đứa con của mình và đi theo người tình mới. Đứa con trở thành kẻ “mồ côi” cha. Bi đát hơn nữa là cha mẹ hận thù nhau và cùng bỏ luôn đứa con cho ông bà nội hoặc ông bà ngoại nuôi. Hậu quả là đứa con “mồ côi” luôn cả cha lẫn mẹ, đang khi cha mẹ vẫn còn sống. Bi đát hơn nữa là đứa con sau này sẽ hận chính cha mẹ của nó vì đã bỏ rơi nó. Hận cha, hận mẹ và hận luôn cả cuộc đời. Thực tế những trường hợp như thế này xảy ra rất nhiều. Ông bà nội ngoại hai bên nhìn cảnh tượng đó rất đau buồn. Các cha xứ, đặc biệt là người đã cử hành Thánh lễ hôn phối cho họ cũng buồn đau không kém!
Vì thế, trước khi quyết định tiến tới hôn nhân, xin các đôi bạn và những người làm cha mẹ, hãy cân nhắc kỹ lưỡng các tình huống, nhất là cùng nhau cầu nguyện xin ơn soi sáng hướng dẫn của Chúa, để tránh những thảm cảnh bi thương xảy ra sau này.
Lm. Giuse Nguyễn Thành Long
2021
Bí quyết tìm được hạnh phúc giữa những khổ đau?
Bí quyết tìm được hạnh phúc giữa những khổ đau?
Thiên Chúa không bao giờ muốn đau khổ, Ngài không muốn chúng ta đau khổ.
Chắc chắn có rất nhiều người đã tự hỏi mình câu hỏi này, và câu hỏi này dường như chứa đựng những mâu thuẫn. Đau khổ và sống hạnh phúc? Những thứ điên rồ.
Rõ ràng để có hạnh phúc không có nghĩa là chúng ta phải đau khổ, mà chúng ta phải học cách đau khổ để sống hạnh phúc, bởi vì đau khổ gắn liền với cuộc sống không thể thay đổi.
Đau khổ là hậu quả của tội lỗi, bởi vì Thiên Chúa, với lòng nhân từ và sáng tạo đầy yêu thương của mình, chưa bao giờ nghĩ đến điều gì tương tự vậy cho chúng ta.
Thiên Chúa không bao giờ muốn đau khổ, Ngài không muốn chúng ta đau khổ. Bởi vì, đối với tội lỗi, chúng ta không có lựa chọn nào khác, tuy nhiên, chúng ta phải đối mặt với cuộc sống cách chín chắn và đấu tranh cho hạnh phúc của mình.
Một số đau khổ là đáng giá, một số khác thì không …
Đây là điều mà tôi muốn làm rõ. Một số đau khổ xuất hiện và gắn liền với cuộc sống – chúng ta không yêu cầu, không muốn nó, nhưng chúng là một phần của thực tại đầy phức tạp mà chúng ta đang sống.
Chẳng hạn, một người mẹ hy sinh giấc ngủ của mình vì phải cho con bú, chăm sóc con, ngay cả khi người mẹ đó đã trải qua một ngày dài làm việc vất vả. Có những bậc cha mẹ đã phải hy sinh bản thân để nuôi dạy con cái và cho chúng được học hành đến nơi đến chốn, điều mà họ không thể có được. Lại có người mà trong khoảnh khắc nào đó của cuộc đời phải học cách sống chung với một số bệnh tật mà họ không có trách nhiệm nào với nó ngoài một thực tế là do đã thừa hưởng sự di truyền từ tổ tiên.
Tuy nhiên có một loại đau khổ khác phát xuất từ những quyết định sai lầm, trong bối cảnh này thì cách giải thích đơn giản hơn, và chúng ta cũng có thể nói rằng người ta đã tìm đến nó.
Ví dụ, tôi đang nghĩ đến đau khổ của một gia đình có đứa con sống hư đốn do chứng nghiện ma túy; nghĩ đến những tổn thương của bao đứa trẻ đang vượt qua những thung lũng khô khan vì cha mẹ chúng ly dị; nghĩ đến những bạn trẻ, những người cảm thấy rất khó khăn khi phải sống trách nhiệm và bổn phận; nghĩ đến nhiều hình thức bạo lực gia đình, đến tình trạng tham nhũng mà chúng ta thấy khắp mọi nơi, gây ra nghèo đói và bất bình đẳng xã hội, tạo ra ngày càng nhiều rạn nứt xã hội. Và danh sách cứ tiếp tục dài.
Cuộc sống chỉ có ý nghĩa nhờ tình yêu
Ai trong chúng ta không muốn được yêu thương, ôm ấp và che chở? Cũng như muốn yêu thương, vun đắp tình thân, giúp đỡ và chăm sóc những người đang cần giúp đỡ.
Khi hoàn cảnh cho phép và động cơ hợp lý, tôi phải nói rằng điều đó không khiến cho chúng ta phải trả giá đắt. Chẳng hạn, nếu đó là một việc cần phải hy sinh bản thân vì lợi ích của một đứa trẻ, thì không quá khó để tìm thấy sức mạnh để làm việc đó. Cuối cùng, cha mẹ nào lại không muốn điều tốt cho con cái của họ chứ?
Nhưng đâu là phản ứng của chúng ta, chống lại chính Thiên Chúa, khi cái chết của người thân trong gia đình gõ cửa chúng ta? Đâu là mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa khi có đứa con đang trải qua căn bệnh nan y?
Chúng ta không có những suy nghĩ báo thù nào, cũng như chống lại Thiên Chúa, khi chúng ta phải chịu bất công mà không có bất cứ tội lỗi nào? Biết bao lần chúng ta lao vào chống lại Thiên Chúa?
Tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa ở đâu khi chúng ta chịu đau khổ mà không hề có lý do? Chúa ở đâu khi chúng ta cảm thấy cô đơn trong đau khổ?
Chính trong những giây phút này, chúng ta cần phải vượt thắng những cảm xúc như vậy và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Cũng như khi chúng ta đau khổ, Ngài không phải là thủ phạm.
Tuy nhiên, bằng mọi giá chúng ta cứ phải tìm cho ra thủ phạm, bởi vì chúng ta không thể chấp nhận cuộc sống đối xử với chúng ta như vậy được. Ngay cả khi chúng ta đau khổ, Thiên Chúa cũng không phải là thủ phạm.
Chúng ta nỗ lực hết sức và nhận ra “vị thần” nào chúng ta đang hướng đến. Một vị thần không hề quan tâm đến chúng ta và bỏ rơi chúng ta? Vị thần đó không phải Thiên Chúa của chúng ta.
Thiên Chúa của niềm tin Kitô giáo là một người Cha, đã ban người Con duy nhất của mình, chịu chết trên thập giá và hiến dâng mạng sống mình vì yêu thương chúng ta. Là Người Con, Ngài đã mang trên thân thể mình các vết thương và đau đớn, đã tự hiến để đem lại cho cuộc sống này một ý nghĩa mới, vốn đã bị tội lỗi và các hậu quả của nó làm hư hỏng.
Thiên Chúa của chúng ta đã tạo dựng chúng ta vì tình yêu, và vì một hành động nhân từ đáng kính nể, đó là đã yêu cầu Con của mình một sự hy sinh không thể nghĩ tưởng được.
Chỉ có như vậy thì việc mang lấy những đau khổ của chúng ta và đưa chúng ta đến gần thập giá của Chúa Kitô mới có nghĩa, bởi vì theo cách đó, mọi thập giá của chúng ta mới trở thành cơ hội để yêu thương.
Sự đau khổ của tôi, không có ý nghĩa gì, thông phần vào công trình cứu chuộc của Chúa Kitô và hoàn tất nó. Và nếu tôi chia sẻ với Ngài trong sự hy sinh của Ngài, tôi cũng chia sẻ niềm vui Phục sinh của Ngài (1Pr 4,13).
Thái độ này rõ ràng đòi hỏi từ nơi tôi một thực tế là yêu mến Chúa Giêsu, dâng cho Ngài gánh nặng của đời tôi và không bỏ mặc Ngài vì hận thù hoặc cay đắng.
Đau khổ có thể là một cách để yêu thương
Nhiều lần Chúa Kitô đã nói với chúng ta rằng những ai muốn theo Ngài thì phải vác thập giá mình để trở thành môn đệ của Ngài? (Mt 16, 24). Điều này liên quan đến việc chấp nhận cuộc sống như nó là, bằng cách mang lấy những điều tốt hoặc xấu, vui hay buồn. Chúa Kitô yêu thương chúng ta cách trọn vẹn, không phải nửa vời. Dù chúng ta có đang ở với Ngài hay không, thì Thiên Chúa cũng không có một nửa điều khoản nào.
Bạn đang lạnh hay nóng (Kh 3, 14). Phong ngôn của chúng ta phải là “có thì nói có, không thì nói không” (Mt 5, 37). Khi chọn lối đi của đời sống Kitô giáo, chúng ta biết rất rõ đâu là chân trời của mình: là thập giá. Tuy nhiên, cây thập giá sau ba ngày sẽ biến thành Cây Sự Sống.
Chúa Giêsu dạy chúng ta bằng mẫu gương trao ban cuộc sống vì bạn hữu của mình. Và không chỉ vậy, Ngài còn dạy chúng ta biết quan tâm lo lắng cho những người xa lạ bị ngược đãi trên đường (Lc 10, 25-37). Hơn thế nữa, Ngài dạy chúng ta phải yêu thương kẻ thù của mình (Mt 5, 38-48). Không bao giờ báo ác khi ai đó làm hại chúng ta (Rm 12, 17-21) nhưng luôn yêu thương và làm việc thiện.
Ngay cả khi nói đến việc yêu thương người thân của mình, bổn phận thực sự đối với người khác bao hàm lòng quảng đại, từ bỏ tư quyền, hy sinh, cống hiến… và tất cả những điều trên, nếu chúng ta muốn sống điều đó như Chúa Kitô đã sống, không cân đo đong đếm, nghĩa là chia sẻ sự đau khổ. Tuy nhiên, chúng ta cần từ bỏ tính thất thường, thị hiếu, sở thích cá nhân, không gian và tiện nghi của mình, là điều không phải lúc nào cũng tiêu cực.
Tình yêu mà chúng ta học được từ nơi Chúa Kitô luôn đặt người khác trên bản thân, và đòi hỏi chúng ta từ bỏ bản thân vì ích lợi của người khác. Điều này liên quan một phần đến việc hãm mình. Trong nền văn hóa hiện nay, càng ngày chúng ta càng ít quen sống với những hành động quảng đại như vậy.
Đau khổ của tôi có thể là cách để hiện thực hóa
Sau khi kể ra hết tất cả những điều trên, chúng ta có thể hiểu thêm được một chút và tốt hơn cách trải nghiệm đau khổ với Chúa Kitô như một cách hiện thực hóa cá nhân. Nhờ đó chúng ta được lớn lên trong tình yêu và làm cho cuộc sống của chúng ta trở thành một hành vi vinh danh Thiên Chúa, bằng cách tìm kiếm thiện ích chung, hiển nhiên là ơn cứu rỗi của chúng ta.
Với Chúa Kitô chúng ta học được rằng chúng ta phải trở thành những nhân vật chính đối với đau khổ của mình, bằng cách làm cho nó trở thành một phương tiện để đến gần Chúa và trở nên giống như Chúa nhiều hơn.
Giống như tình yêu, đau khổ cũng là một cách để có được mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa. Bởi vì đó là cách mà chúng ta thể hiện lòng thương xót đối với tha nhân theo cách độc đáo. Bằng cách này chúng ta có thể hiểu được lời xác quyết của thánh Augustinô, vào lễ Vượt Qua, ngài nói:
“Ôi tội hồng phúc, ngươi xứng đáng với Đấng cứu chuộc rất cao sang như vậy!”. Tội Ađam thật cần thiết vì nó đã được tẩy xóa nhờ cái chết của Chúa Kitô.
Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2021
Khái niệm phá thai trên quan điểm y khoa và thần học luân lý Công Giáo
Như đề bài đã nêu, mục đích của bài viết là làm rõ khái niệm phá thai trên phương diện y khoa và thần học luân lý Công Giáo. Từ đó xem xét cách xử trí y khoa trong vài trường hợp mang thai bệnh lý, và phân tích cách xử trí nào của y khoa có thể được chấp nhận về mặt luân lý Công Giáo. Sau đó, gợi ý định hướng trong vài trường hợp khó khăn cụ thể để giúp cho các người trong cuộc và người liên quan giảm bớt hoang mang bối rối khi phải đương đầu với sự không tương hợp giữa lời khuyên của thầy thuốc và giáo huấn của Giáo hội.
I. PHÁ THAI TRÊN PHƯƠNG DIỆN Y KHOA
II. QUAN ĐIỂM THẦN HỌC LUÂN LÝ CÔNG GIÁO VỀ PHÁ THAI 3. Quan điểm Giáo Hội Công Giáo về phá thai |
I. PHÁ THAI TRÊN PHƯƠNG DIỆN Y KHOA
Theo báo cáo ngày 11/7/2013, của Hội Kế Hoạch Hóa Gia Đình Việt Nam, tỉ lệ phá thai tại Việt-Nam (300.000 ca nạo thai/năm, chiếm 20% trong tổng số ca nạo phá thai),[1] cao nhất so với các nước Đông Nam Á và xếp thứ năm so với thế giới.[2] Một đất nước vốn có truyền thống hiếu sinh của đạo Phật lâu đời như Việt-Nam mà nay là một trong năm nước dẫn đầu thế giới về giết chết các nhân linh nhỏ bé vô tội khiến ai “có cái tâm” cũng phải băn khoăn.
Tương tự một số nước khác, pháp luật Việt-Nam cho phép phá thai trước 24 tuần tuổi.[3] Thực tế, có các trường hợp phá thai trễ hơn bảy tháng. Sau đây là các trường hợp phá thai trong y khoa.
1. Phá thai trị liệu
Phá thai trị liệu (therapeutic abortion): Trong thực hành y khoa, các trường hợp mang thai mà sức khỏe hay mạng sống thai phụ bị đe dọa cùng với sự tăng trưởng của thai thì chỉ định thường là “chấm dứt thai kỳ vì lý do y khoa” (medical pregnancy interruption). Khoảng vài thập niên trước, “chấm dứt thai kỳ vì lý do y khoa” thường có nghĩa là phá thai nhi để cứu mẹ. Nhờ tiến bộ y khoa, ngày nay các chỉ định “chấm dứt thai kỳ” do sức khỏe hay sự sống người mẹ bị đe dọa có hạn chế hơn, và một số trường hợp “chấm dứt thai kỳ” chỉ có nghĩa là chủ động cho thai nhi chào đời sớm hơn để mong cứu an toàn cả mẹ và con.[4] Phải nhìn nhận rằng khi có nguy cơ không cứu được cả mẹ lẫn con, các bác sĩ thường chọn bỏ con để cứu mẹ (phá thai “trị liệu”).
2. Phá thai kế hoạch
Nghiêm trọng hơn, phá thai được giảng dạy chính thức như là một trong các biện pháp kiểm soát dân số, gọi là “phá thai kế hoạch”.[5]Ngoài ra, có thể phá thai “kế hoạch” trong các trường hợp không mong muốn (do lỡ lầm, quan hệ ngoài hôn nhân, khó khăn kinh tế, thai phụ còn nhỏ tuổi, bị hiếp dâm…) hay chưa muốn (học tập, công tác, thăng tiến nghề nghiệp,…)[6]
3. Phá thai chọn lọc
Phá thai chọn lọc (selective abortion), hay phá thai ưu sinh (eugenic abortion): Xã hội Việt-Nam, cũng như nhiều xã hội khác trên thế giới, cách riêng ngành y khoa, ngày nay chấp nhận và ngay cả khuyến khích các thai phụ phá thai khi phát hiện thai khuyết tật. Có khi là chọn lọc giới tính. Ở một số nước như Ấn Độ, Trung Quốc, đã có hàng triệu thai nhi gái bị giết chết. Ngoài ra, trong hoàn cảnh ngày nay, “bùng nổ” việc thụ thai nhân tạo, đa thai là một hậu quả khác của thụ thai nhân tạo, và để bảo đảm thai phát triển tốt, nhiều khi bác sĩ sẽ thực hiện phá thai chọn lọc, giữ lại thai mạnh khỏe và bỏ thai yếu hay khuyết tật, hoặc thậm chí có trường hợp phá bỏ bớt phôi thai khỏe mạnh để bảo đảm sự phát triển tốt của thai còn lại.
4. Thai ngoài tử cung
Thai ngoài tử cung (GEU: gestation extra-uterine, hay ectopic pregnancy): Thông thường phôi làm tổ trong nội mạc thân tử cung, khi phôi làm tổ ở bất cứ vị trí nào khác là thai ngoài tử cung. Việc xử trí GEU thường là bỏ thai, nhưng y khoa không xếp việc loại bỏ các GEU vào phá thai, mà là điều trị thai bệnh lý. Việc điều trị GEU nhằm các mục tiêu sau: giải quyết thai nằm ngoài tử cung; giảm tối đa tỉ lệ tử vong cho thai phụ; ngừa tái phát thai ngoài tử cung; duy trì khả năng sinh sản cho người phụ nữ. Cần hiểu rõ cách xử trí vì tuy cùng là GEU, có cách xử trí tương hợp và có cách không tương hợp với nguyên tắc Công giáo. Sau đây là các trường hợp GEU.
4.1. Thai ở ống dẫn trứng
– Theo kinh điển, điều trị thai ngoài tử cung chỉ là phẫu thuật. Điều trị phẫu thuật có thể là cắt bỏ ống dẫn trứng (có chứa thai) hoặc xẻ ống dẫn trứng lấy khối thai (khi bệnh nhân muốn duy trì khả năng sinh sản).
– Điều trị nội khoa: điều trị GEU chọn lọc bằng nội khoa là một cuộc “cách mạng” y khoa. Điều trị nội khoa đang được ưa chuộng vì một số lí do như: giảm tỉ lệ tử vong do phẫu thuật hay do gây mê toàn thân , ít bị tổn thương vòi trứng, ít chi phí và không cần nhập viện. Methotrexate có thể được tiêm bắp cho thai phụ (sẽ gây tác dụng bong thai) hoặc tiêm trực tiếp methotrexate ở vị trí khu trú ( tiêm vào vòi trứng) dưới sự chỉ dẫn của siêu âm hoặc nội soi.
4.2. Thai ở ống dẫn trứng đã vỡ
Phẫu thuật cấp cứu cắt bỏ ống dẫn trứng sát góc tử cung.
4.3. Thai ở cổ tử cung
4.4 Thai ở buồng trứng
Điều trị methotrexate là một phương pháp được chọn khi có thai định vị ở cổ tử cung, buồng trứng hoặc ở đoạn kẽ hoặc ở sừng tử cung. Điều trị phẫu thuật ở những trường hợp này khi có nguy cơ xuất huyết tăng và kết quả là thường đưa đến cắt tử cung hoặc cắt bỏ buồng trứng.
4.5 Thai trong ổ bụng
Túi thai có thể rớt ra khỏi ống dẫn trứng rơi vào ổ bụng và người phụ nữ có thể sẽ mang thai trong ổ bụng (chiếm 0,03%). Phần lớn khi rớt ra khỏi ống dẫn trứng túi thai sẽ chết. Nếu sống được trong ổ bụng, túi thai có thể sống ở bất cứ nơi đâu, thường ở mạc treo, mạc nối, cùng đồ sau – đây là những nơi gần nhất trong ổ bụng. Về xử trí, nếu thai chết lưu, mổ lấy xác thai càng sớm càng tốt để tránh biến chứng rối loạn đông máu. Vì nguy cơ tử vong cho thai phụ cao khi thai phát triển lớn, nên khi phát hiện thai trong ổ bụng, thường bác sĩ khuyên thai phụ phẫu thuật để lấy bỏ thai càng sớm càng tốt. Tuy hiếm hoi, nhưng đã có vài trường hợp, hoặc do không biết sớm, hoặc do thai phụ từ chối phẫu thuật bỏ thai, mà chờ đợi khi thai đến độ đủ trưởng thành để có thể sống ngoài cơ thể mẹ, thì phẫu thuật lấy thai sống an toàn cả mẹ lẫn con.[7]
4.6. Thai trong gan
Thai trong gan cũng chính là hình thức đặc biệt thai trong ổ bụng. Thai trong gan là trường hợp rất hiếm, tỉ lệ 1/ 10.000 các trường hợp GEU. Từ trước đến nay, Việt Nam đã có ghi nhận ba ca thai trong gan. Trong đó, hai ca phát hiện tại Huế và thành phố Hồ Chí Minh, sản phụ được cứu sống do phát hiện sớm; một ca ở Kiên Giang, tử vong trong khi phẫu thuật lấy thai, bé gái thai nhi cũng chết ngay sau khi được tách nhau. Việc điều trị hiện nay là tiêm methotrexate nếu thai còn nhỏ và phẫu thuật lấy bỏ thai nếu thai đã lớn.[8] Năm 2003, một thai nhi người Nam Phi đã lớn lên trong gan mẹ đến lúc ra đời, song, cho đến nay, đây là trường hợp may mắn đầu tiên và duy nhất.
II. QUAN ĐIỂM THẦN HỌC LUÂN LÝ CÔNG GIÁO VỀ PHÁ THAI
Trong phần này bài viết trích dẫn giáo huấn Giáo hội là chủ yếu và giải thích khi cần thiết.
1. Khi nào thì phôi là người?
Đây là một đề tài lớn, tác giả bài viết đã có trình bày và phân tích khá chi tiết trong cuốn sách nhỏ “ Thân Phận Luân Lý và Thần Học của Phôi Thai: Nhận Định trên Quan Điểm Giáo Hội Công Giáo và Phôi Thai Học Hiện Đại”. Ở đây, chỉ nói vắn tắt lập trường của Huấn Quyền. Theo giáo huấn Giáo Hội, phôi người ngay từ lúc trứng thụ tinh đã khởi đầu sự sống của con người, phải được tôn trọng và đối xử như con người và do đó cùng lúc, quyền con người của phôi thai phải được nhìn nhận.[9]
Bộ Giáo Lý Đức Tin dạy rằng: “Từ lúc trứng thụ tinh, một đời sống mới bắt đầu không phải của người cha, cũng không phải của người mẹ; mà đúng hơn là một con người mới với khả năng tăng trưởng riêng của mình. Hữu thể người này không bao giờ có thể là người nếu nó không phải đã là người.” (Declaration on Procured Abortion, 12) …“Giáo huấn này vẫn còn giá trị và được xác định hơn … bằng những tìm thấy mới đây của khoa Sinh học con người nhìn nhận rằng trong hợp tử phát xuất từ thụ tinh, căn tính sinh học của một cá thể người mới đã được cấu thành.” (Huấn Thị Donum Vitae DV, I,1.)
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II giải thích thêm: “Bộ gen di truyền xuất hiện như yếu tố cấu tạo và tổ chức của cơ thể …nó điều khiển và chi phối tính thành viên loài người, nối kết di truyền và những đặc trưng thân thể và sinh học của tính cá thể. Nó có ảnh hưởng quyết định trên cấu trúc của hiện hữu thể lý từ lúc khởi đầu thụ tinh cho đến cái chết tự nhiên. Chính trên cơ sở của sự thật nội tại của bộ di truyền, đã hiện diện ngay lúc tạo sinh, khi mà bộ di truyền của người cha và người mẹ hợp nhất, mà Giáo Hội đảm nhận chính mình công việc bảo vệ phẩm giá của mỗi người ngay từ lúc khởi đầu sự hiện hữu của người ấy.”[10]
2. Định nghĩa phá thai
“Phá thai là sự giết cố ý và trực tiếp, thực hiện bằng bất cứ phương tiện nào, một con người trong giai đoạn khởi đầu sự hiện hữu, từ khi thụ thai cho đến khi sinh ra.” (Evangelium Vitae EV, s.58)
Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ trong tài liệu Các Chỉ Dẫn Đạo Đức và Tôn Giáo Cho Các Dịch Vụ Chăm Sóc Sức Khỏe Công Giáo định nghĩa phá thai như sau: “Phá thai là việc trực tiếp và cố ý kết thúc việc mang thai trước khi thai nhi có thể tự sống hoặc trực tiếp cố ý phá hủy thai còn sống…Mọi hành vi có tác dụng trực tiếp duy nhất là kết thúc việc mang thai trước khi thai nhi có thể tự sống đều là việc phá thai. Việc phá thai, trong bối cảnh luân lý của nó bao gồm cả giai đoạn giữa khi thụ thai và phôi thai làm tổ.” (s. 45)
Trong thần học luân lý phân biệt phá thai trực tiếp và phá thai gián tiếp:
– Phá thai trực tiếp (direct abortion, hay còn gọi tắt là phá thai), như đã nêu ở định nghĩa trên. Tất cả những ai phạm tội ác này với sự hiểu biết về hình phạt kèm theo tội, và bao gồm cả những người tòng phạm mà không có sự hợp tác của họ thì tội ác không thể thực hiện được, đều bị vạ tuyệt thông. Theo định nghĩa về phá thai trực tiếp, thì các trường hợp phá thai đã kể ở mục I, bao gồm phá thai trị liệu, phá thai kế hoạch, và phá thai chọn lọc hay phá thai ưu sinh đều là tội ác nghiêm trọng.
– Phá thai gián tiếp (indirect abortion): thực chất không phải phá thai, mà là trong quá trình điều trị bệnh cho người thai phụ, thai bị chết do tác dụng phụ của thuốc hoặc thủ thuật điều trị. Thầy thuốc có thể dự đoán, nhìn trước có khả năng hậu quả thai chết này , nhưng không hề nhắm đến, và không trực tiếp làm chết thai. Trường hợp này áp dụng nguyên tắc song hiệu, và có thể được chấp nhận về mặt luân lý. Từ ngữ “phá thai gián tiếp” có thể gây hiểu lầm, vì thế có thể mô tả một cách đúng hơn trường hợp này là: thai chết do hậu quả phụ của việc điều trị cho người mẹ. Ví dụ: thai phụ, cùng lúc phát hiện ung thư vú, điều trị ung thư vú này, thuốc điều trị ung thư có thể gây hư thai, thai chết. Hoặc phụ nữ bị ung thư tử cung, cùng lúc có thai, thầy thuốc phải cắt tử cung để điều trị ung thư, thai nhi như là một sự ngẫu nhiên nằm trong tử cung, và bị chết, chứ thầy thuốc hay người mẹ không nhắm làm chết đứa bé.
3. Quan điểm Giáo Hội Công Giáo về phá thai
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố: “Với uy quyền mà Đức Kitô trao cho Phêrô và những người kế vị ngài, và trong sự hiệp thông với các giám mục của Giáo Hội Công Giáo, tôi xác nhận rằng việc trực tiếp và cố ý giết con người vô tội luôn luôn là điều bất luân nghiêm trọng. Giáo lý này, dựa trên luật không văn tự mà con người, dưới ánh sáng của lý trí, tìm thấy trong tim mình (x. Rm 2, 14-15), được Thánh Kinh tái khẳng định, Truyền Thống của Giáo Hội lưu truyền, và được Huấn Quyền thông thường và phổ quát giảng dạy” (EV 57).
Sách GLHTCG s. 2272 công bố án phạt cho người phạm tội phá thai: “người nào thi hành việc phá thai, và nếu việc phá thai có hiệu quả, thì bị vạ tuyệt thông tiền kết (latae sententiae)”
Cần nhắc lại rằng tất cả phá thai dù bất cứ lý do gì, đều không hợp luân lý Công Giáo. Giáo hội nhìn nhận rằng, thực tế, các chọn lựa phá thai nhiều khi xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn, thậm chí bi đát, cô độc, nhiều áp lực nặng nề về kinh tế, về tinh thần, cách riêng trong một xã hội mà ngừa thai nhân tạo và phá thai được xem như chính sách để kiểm soát dân số như ở Việt-Nam.[11] Các hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan như thế có thể làm giảm nhẹ trách nhiệm chủ quan của những người đã thực hiện phá thai. Tuy nhiên, dù trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn đến đâu, chính sự kiện phá hủy sự sống con người vô tội, đặc biệt là khi sự sống ấy còn chưa có khả năng bảo vệ chính mình, vẫn luôn là sự xấu nghiêm trọng (x. EV 18, 58) và tác động đến sự hiệp thông, mối tương quan của người ấy với Thiên Chúa và với tha nhân. Đồng cảm với thử thách mà nhiều cặp vợ chồng phải đối phó, Giáo Hội thừa nhận đôi khi phải cần nhân đức “anh hùng” để tuân giữ các chân lý luân lý vốn gắn liền với đức tin về phẩm giá nội tại con người. Điều đáng lo ngại hơn ở đây, ngày nay vấn đề vượt ra khuôn khổ các hoàn cảnh riêng tư, mà tồn tại ở tầm mức văn hóa, xã hội, chính trị, và ở triết lý sống nền tảng, quan niệm về tự do. Thái độ chọn lựa chống lại sự sống ngày càng được chấp nhận rộng rãi, được xem như biểu hiện hợp pháp của tự do cá nhân (x. EV 18). Hệ thống giá trị luân lý bị đảo lộn, giá trị vật chất được đặt lên trên giá trị tinh thần, giá trị thiêng liêng.
Về trách nhiệm của các người liên quan đến tội ác phá thai, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận định:
“Bên cạnh người mẹ, thường có nhiều người khác cũng tham gia quyết định về cái chết của đứa trẻ trong tử cung. Trước hết, cha của đứa trẻ có thể đáng bị quở trách, không chỉ khi ông ta trực tiếp gây áp lực buộc người phụ nữ phá thai, nhưng cả khi ông ấy gián tiếp thúc đẩy quyết định như thế bằng cách bỏ mặc người phụ nữ một mình đối phó với các vấn đề của sự mang thai: theo cách này, gia đình bị tổn thương nặng nề và bị xúc phạm trong bản chất của nó như là cộng đoàn yêu thương, và trong ơn gọi là “cung thánh sự sống”. Người ta cũng không lẽ ra để thăng tiến sự sống, lại gây ra cái chết.
Nhưng trách nhiệm tương tự cũng thuộc những nhà lập pháp đã xúc tiến và phê chuẩn luật phá thai, và trong chừng mực tùy thuộc vào vai trò của họ, cả những người quản lý các trung tâm y tế nơi thực hiện phá thai. Trách nhiệm chung nhưng không kém nghiêm trọng thuộc về những ai khuyến khích phổ biến thái độ buông thả tình dục và khinh thường việc làm mẹ, và những ai đáng ra phải bảo đảm, nhưng đã không làm, những chính sách gia đình và xã hội hiệu quả trong việc nâng đỡ các gia đình, đặc biệt những gia đình đông đúc, và những gia đình có nhu cầu về thể bỏ qua những áp lực đôi khi đến từ phạm vi gia đình rộng lớn hơn và từ bạn bè. Đôi khi người phụ nữ phải chịu áp lực mạnh đến nỗi về mặt tâm lý họ cảm thấy bị bắt buộc phá thai: chắc chắn trong trường hợp này trách nhiệm luân lý cách riêng thuộc về những người đã trực tiếp hay gián tiếp buộc người phụ nữ phá thai. Các bác sĩ và y tá đều có trách nhiệm khi họ dùng những khả năng chuyên môn, kinh tế và giáo dục. Sau hết, người ta không thể coi nhẹ mạng lưới tòng phạm liên quan đến cả những cơ quan, cơ sở hay hiệp hội quốc tế, vận động một cách hệ thống cho việc hợp pháp hóa và phổ biến phá thai trên thế giới. Về mặt này, phá thai vượt khỏi trách nhiệm của cá nhân và vượt quá sự thiệt hại gây ra cho họ, và mang chiều kích xã hội đáng kể. Đó là một vết thương trầm trọng nhất gây ra cho xã hội và nền văn hóa bởi chính những người lẽ ra là những người thăng tiến và bảo vệ xã hội. Như tôi đã viết trong Thư gửi các Gia Đình, “ chúng ta đang đứng trước đe dọa khổng lồ chống lại sự sống: không chỉ sự sống của cá nhân mà còn của chính nền văn minh”Chúng ta đang đứng trước những điều có thể gọi là “cơ cấu của tội lỗi” chống lại sự sống con người chưa sinh ra.” (EV s. 59)
Cần nhắc lại, với hiểu biết về phôi thai như đã nói ở trên, một số biện pháp ngừa thai nhân tạo, thực chất là hủy sự sống con người trong giai đoạn khởi đầu, như vòng tránh thai trong tử cung . Cơ chế tác dụng chính của dụng cụ tử cung là gây ra phản ứng viêm tại niêm mạc tử cung, làm thay đổi về sinh hóa tế bào nội mạc và không tạo điều kiện thuận lợi để trứng thụ tinh làm tổ. Ngoài ra, cũng cần chú ý phân biệt với loại thuốc phá thai chứ không phải là ngừa thai như quen gọi sau đây: Postinor, RU-486 (MIFESTAD 5mg). Cái gọi là “điều hòa kinh nguyệt” khi người phụ nữ trễ kinh vài ngày, thực chất là phá thai sớm (nạo hút thai).
Giáo Hội ủng hộ các tiến bộ y khoa phục vụ sự sống. Tuy nhiên lịch sử y khoa cho thấy nhiều lần, các tiến bộ y sinh học thay vì phục vụ sự sống, lại quay ra hủy hoại sự sống, nhân danh vì một cuộc sống hạnh phúc hơn. Vì thế, Huấn Quyền thận trọng đối với vấn đề khám tiền sản: “Chẩn đoán tiền sản, vốn không trái luân lý nếu được thực hiện để xác định trị liệu y khoa có thể cần thiết cho thai nhi, rất thường trở thành cơ hội để đề nghị và gây ra phá thai. Đây là phá thai ưu sinh, được biện minh trong công luận dựa trên não trạng- nhận thức một cách sai lầm rằng đó là phù hợp với đòi hỏi của ‘các can thiệp chữa trị’- chỉ chấp nhận sự sống dưới một số điều kiện nhất định và chối bỏ sự sống khi bị khiếm khuyết, tật nguyền, hay bệnh tật nào đó.” (EV 14)
4. Trường hợp thai ngoài tử cung
Hội Đồng Giám Mục Hoa kỳ tóm tắt nguyên tắc về xử trí GEU như sau: “Trong trường hợp mang thai ngoài tử cung, không can thiệp nào được coi là hợp luân lý nếu như gây ra việc phá thai trực tiếp.”[12]
Lý thú là bước tiến triển của lý luận Giáo Hội Công Giáo về điều trị GEU. Về mặt y-khoa,một khi thai ngoài tử cung đã được chẩn đoán thì phẫu thuật lấy thai ra càng sớm càng tốt cho bệnh nhân về mặt tiên lượng. Nếu sau khi GEU vỡ, bác sĩ mới tiến hành phẫu thuật thì tỉ lệ tử vong và biến chứng cho bệnh nhân cao hơn nhiều. Cho đến khoảng 20 năm gần đây, phương pháp điều trị GEU ở vị trí vòi trứng có hai cách, hoặc là xẻ phần vòi trứng chứa thai và lấy thai ra (salpingotomy), phần vòi trứng được bảo tồn, như vậy chức năng sinh sản được bảo tồn; hoặc là cắt bỏ luôn phần vòi trứng chứa thai (salpingectomy). Thuần lý y-khoa, phương pháp salpingotomy thường được chọn vì nó bảo tồn được chức năng truyền sinh của người phụ nữ.
Giáo Hội Công Giáo, cho đến trước năm 1933, chỉ cho phép phẫu thuật GEU khi phần thai ngoài tử cung đã bị vỡ. Lý luận nền tảng giải thích cho lối xử trí này là vào thời đó, thai nhi bị coi như là nguyên nhân trực tiếp gây nguy hiểm cho tính mạng của thai phụ. Nếu GEU chưa vỡ, thai nhi còn sống thì phẫu thuật coi như giết thai nhi để cứu mẹ: phá thai trực tiếp. Đến năm 1933, một luật gia về giáo luật, Lincoln Bouscaren, Dòng Tên, hoàn thành luận án tiến sĩ thần học tại Đại Học Gregorian, Rôma. Ông là người đầu tiên lý luận rằng thủ thuật salpingectomy là phá thai gián tiếp nên được phép về mặt luân lý. Vì vậy bác sĩ công giáo không phải chờ đến lúc GEU bị vỡ mới phẫu thuật cho bệnh nhân. Ông đã cứu được nhiều người nhờ bảo vệ thành công phương pháp salpingectomy trên phương diện thần học luân lý của Giáo Hội Công Giáo. Để đi đến được kết luận đó, Bouscaren lý luận rằng khoa học hiện đại chứng minh trong GEU, lớp mạch máu của đoạn vòi trứng chứa thai nhi trở thành bệnh lý, tăng sinh, và dãn phù nề, là nguyên nhân chính đe dọa vỡ gây xuất huyết nơi người mẹ. Động tác mổ cắt đoạn vòi trứng chứa thai nhi có hai tác dụng đồng thời: lấy đi đoạn vòi trứng bệnh lý (tác dụng tốt), và cái chết của thai nhi (tác dụng xấu). Ý định của thầy thuốc là lấy đi phần vòi trứng bệnh lý để cứu thai phụ chứ không phải giết thai nhi. Lý luận của Bouscaren đáp ứng được nguyên tắc “hiệu quả kép,” và do đó, từ 1933, salpingectomy được Giáo Hội Công Giáo cho phép.[13]
Việc tiêm methotrexate trực tiếp gây chết thai nhi, không hợp với nguyên tắc luân lý Công Giáo.
III. LỜI KHUYÊN
Biện pháp đúng đắn, hợp luân lý Công Giáo trong trường hợp sức khỏe thai phụ bị nguy hiểm do mang thai là nhập viện theo dõi sát sức khỏe thai và mẹ; phải cố gắng dùng mọi tiến bộ y khoa để điều trị bệnh cho mẹ, cứu sống cả mẹ lẫn con, cố gắng duy trì thai đến tháng thứ bảy, thứ tám,…lúc này nếu thấy nguy cơ tính mạng của mẹ, có thể mổ lấy thai, với mục đích cứu cả mẹ lẫn con. Ngày nay với tiến bộ y khoa, thì có thể cứu sống thai từ bảy, tám tháng tuổi. Thậm chí có trẻ sinh non hơn, vẫn hy vọng nào đó cứu mẹ và bé. Khi thầy thuốc đã cố gắng hết sức mà không thể cứu cả mẹ lẫn con, thì đành chấp nhận như là một điều vượt quá khả năng con người.
Trường hợp khó khăn hơn là mang thai trong ổ bụng. Biện pháp hợp luân lý là chờ thai phát triển đến mức độ có thể sống ngoài cơ thể mẹ thì tiến hành phẫu thuật lấy thai mong muốn rằng mẹ tròn con vuông. Trường hợp khó khăn hơn nữa và tiến thoái lưỡng nan là mang thai trong gan, vì cả hai biện pháp mà y khoa dùng hiện nay là tiêm methotrexate hay phẫu thuật lấy bỏ thai nhi đều gây phá thai trực tiếp. Theo ý kiến cá nhân tôi, nếu phát hiện sớm thai trong gan, thì lý luận tương tự như trường hợp mang thai ở ống dẫn trứng, xem phân thùy gan có chứa thai là phần bệnh lý, có thể cắt bỏ phân thùy gan có chứa thai. Như thế có thể đáp ứng yêu cầu là không phá thai trực tiếp. Tuy nhiên, các thầy thuốc y khoa có lẽ rất khó chấp nhận biện pháp này, vì cắt phân thùy gan là cuộc đại phẫu. Rất may là thai trong gan rất hiếm. Cần nhắc lại rằng y văn thế giới đã ghi nhận có trường hợp thai trong ổ bụng và thai trong gan diễn tiến đến kỳ tự nhiên và cả mẹ và con đều may mắn sống còn.
Thật thử thách cho người mẹ trước nguy cơ mất đi mang sống để duy trì sự sống cho đứa con còn trong bụng. Đúng là đòi hỏi đức dũng cảm đến mức tử đạo. Tôi nhớ lại câu chuyện gương hy sinh của cô Caroline Aigle đã làm xúc động lòng người. Cô Caroline Aigle, nữ phi công lái máy bay chiến đấu đầu tiên trong không lực Pháp, đang được huấn luyện để trở thành phi hành gia vũ trụ, đã qua đời ở tuổi 33 còn nhiều hoài bão. Cô đang mang thai năm tháng khi cô được biết mình mắc phải bệnh ung thư. Là một người Công Giáo sống nghiêm túc niềm tin, cô đã cầu nguyện cùng với chồng, anh Christophe Deketelaere, và Caroline đã gạt bỏ lời khuyên phá thai của các bác sĩ. Hơn nữa, Caroline chọn hoãn việc trị liệu bệnh ung thư để cho đứa con trong bụng có con đường sống. Vào đầu tháng 8/2010, Caroline đã cho đứa bé chào đời sớm ba tháng rưỡi. Tuy nhiên, đứa bé vẫn tiến triển rất tốt. Người chồng cho biết: “Caroline không thể ngưng một sự sống mà nàng đã cưu mang năm tháng. Nàng nói với tôi rằng: ‘Đứa bé phải có được cơ may mà em đã có’”. Anh Christophe mô tả việc mang thai của Caroline như là trận chiến sau cùng của cô và cô đã chiến thắng. Cha Pierre, người đã làm lễ cưới cho cô Caroline nói: “Bài học lớn nhất mà Caroline để lại cho chúng ta là tính chất cấp bách của tình yêu. Không phải sự cấp bách của nỗi sợ, nhưng là sự cấp bách cần thiết phải hiểu rằng chỉ có tình yêu mới trao ban sự sống. Con người được sinh ra cho cuộc sống. Sự cấp bách này có thể làm cho tình yêu mạnh hơn và trao ban cho cuộc sống một kho tàng quý giá giữa ngay cả những nghịch cảnh trái ngang nhất”.[14]
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 84 (Tháng 9 & 10 năm 2014)
[1] Có nghĩa là 300.000 ca phá thai sớm, chiếm 20% tổng số phá thai, 80% còn lại là phá thai muộn, thai đã lớn.
[2] Hoàng Mai, “Tỉ lệ phá thai Việt-Nam cao nhất Đông Nam Á”, (11/7/2013), http://tuoitre.vn/Chinh-tri-xa-hoi/Song-khoe/558619/300-000-ca-nam-ti-le-pha-thai-cua-vn-cao-nhat-dong-nam-a.html
[3] Vũ Thị Nhung, Chủ tịch Hội phụ sản Tp. HCM, “Cách tránh thai hiệu quả cho cả nam và nữ”, (10/6/2013), buổi nói chuyện chuyên đề Nụ hoa tính dục do Hội quán các bà mẹ tổ chức tại Tp. HCM.
http://suckhoegioitinh.edu.vn/cach-tranh-thai-hieu-qua-cho-ca-nam-va-nu/
[4] X. Bộ Môn Phụ Sản, Đại Học Y Dược Tp. HCM, Sản Phụ Khoa, Tập 1, (Nhà xuất bản Y học, chi nhánh Tp. HCM, 2011), tr. 331, 339,354, 469, 503,511
[5] Sản Phụ Khoa, Tập 2, tr. 1013-23.
[6] Sản Phụ Khoa, Tập 2, tr. 1013-23.
[7] “Full-term extrauterine abdominal pregnancy: a case report”
<http://www.jmedicalcasereports.com/content/5/1/531>
“Người phụ nữ mang thai ngoài tử cung vẫn sinh con khỏe mạnh”
[8]Thiên Chương, “Một sản phụ có thai nhi trong gan”,<https://vnexpress.net/mot-san-phu-co-thai-nhi-trong-gan-2266549.html>
[9]Bộ Giáo lý Đức Tin, “Instruction on Respect for Human Life in Its Origin and on the Dignity of Procreation,” (Rome, 22/2/1987), Donum Vitae, Origins (Vol.16, n.40, 3/ 1987) 701.
[10]Gioan Phaolô II, “Address to the Fourth General Assembly of the Pontifical Academy for Life (24/2/1998) L’Observatore Romano, 25/2/1998, 5
[11] Sách Giáo Khoa Bộ Môn Phụ Sản, Đại Học Y Dược dành riêng một bài về “Các biện pháp phá thai kế hoạch”, x. Sản Phụ Khoa, Tập 2, tr. 1013-1019.
[12] Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, Ethical and Religious Directives for Catholic Health Care Services
Fifth Edition, tháng 11/ 2009, n. 48
[13]Xem Lincoln Bouscaren, Ethics of Ectopic Operations (Chicago: Loyola University Press, 1933).
[14]Thúy Dung, “Phi công lái máy bay chiến đấu Pháp Caroline Aigle là một người mẹ Công Giáo phi thường”, Vietcatholic News, 1/10/2007.
2021
Đức Tổng Giám Mục Roche: Việc cải cách Thánh Lễ của Công Đồng Vatican II là việc ‘không thể đảo ngược được’
Trong bài thuyết trình công khai đầu tiên, với tư cách là Bộ trưởng Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Đức Tổng Giám mục Arthur Roche nói rõ về đường hướng mà Bộ sẽ thực hiện dưới sự lãnh đạo của ngài. Ngài đã thực hiện điều này bằng việc trích dẫn những lời của Đức Giáo hoàng Phanxicô, khi đề cập đến việc cải cách phụng vụ đã được Công đồng Vatican II chuẩn nhận: “Với thẩm quyền của Huấn quyền, chúng tôi có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng cải cách phụng vụ là việc không thể đảo ngược được.”
Vị tổng giám mục sinh ở Anh, người được Đức Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm kế vị Hồng y Robert Sarah để làm bộ trưởng của bộ này vào ngày 27 tháng 5, đã được mời đến đọc diễn văn khai mạc cho nhân viên và sinh viên nhân dịp khai giảng năm học tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Anselm ở Rome. Trường đại học này được điều hành bởi các tu sĩ dòng Biển Đức, bao gồm một học viện phụng vụ nhằm huấn luyện về phụng vụ cho các thành viên của các dòng tu, cho giáo sĩ và giáo dân.
Ngài bắt đầu bài thuyết trình của mình bằng việc lưu ý nhân viên và sinh viên rằng ngài nói chuyện với họ không chỉ với tư cách là bộ trưởng Bộ Phụng tự ở Vatican, mà còn dựa vào kinh nghiệm 46 năm làm linh mục, 20 năm làm giám mục (10 năm với tư cách là giám mục giáo phận, gần 10 năm là thư ký của Bộ Phụng tự) và với tư cách là một người Công giáo đã “kinh qua thời trước và sau Công đồng Vatican II.”
Đức Tổng Giám mục nhắc nhở các sinh viên về “tầm quan trọng sống còn” của việc nghiên cứu có tính học thuật của họ “đối với sức sống và sức khỏe của Giáo hội.” Nhấn mạnh về “sức khỏe của Giáo hội,” ngài nói, bởi vì “chúng ta cần những người được chuẩn bị kỹ lưỡng và quân bình, những người yêu mến Giáo hội như Giáo hội đang là!”
Ngài kêu gọi họ “hãy trở thành những người nam và người nữ đích thực của Giáo hội, những người “có cùng cảm thức với Giáo hội” (“sentire cum ecclesia”) và không bị ảnh hưởng bởi các hệ tư tưởng mang tính giáo hội, bởi những sở thích cá nhân hay những ý tưởng mới lạ, hay bởi ước muốn nhào nặn Giáo hội theo hình dung của mình, nhưng bởi những gì Giáo hội đang mời gọi anh chị em hôm nay, đó là trở nên những nhà truyền giáo của Giáo hội trong một thời đại mới với một nhiệm vụ rõ ràng cụ thể.”
Khi nhấn mạnh đến nhu cầu Giáo hội cần có những người “được chuẩn bị tốt và quân bình,” những người có cùng cảm thức với Giáo hội, Đức Tổng Giám mục phản ánh mối quan tâm của nhiều giám mục, đó là các tân linh mục ngày nay thường thiếu “sự chuẩn bị và quân bình” trong các vấn đề phụng vụ. Họ rơi vào “các hệ tư tưởng mang tính giáo hội” hay đơn giản là tự tiện có cái nhìn về Giáo hội và thực hành phụng vụ. Những lo ngại như vậy cũng là một phần lý do dẫn đến sắc lệnh “Traditionis Custodes” ký ngày 16 tháng 07 của Đức Giáo hoàng Phanxicô, nhằm hạn chế việc cử hành Thánh lễ tiếng Latinh từ thời Công đồng Trentô, trước Vatican II.
Đức Tổng Giám mục Roche kêu gọi các sinh viên chú ý đến “lịch sử lâu dài và hấp dẫn của phong trào phụng vụ” trước Công đồng Vatican II và những lựa chọn của các nghị phụ liên quan đến phụng vụ cũng như lý do của những lựa chọn ấy.
Ngài nhắc nhở họ rằng Đức Giáo hoàng Phanxicô, trong bài phát biểu trước những người tham dự Tuần lễ Phụng vụ Quốc gia Ý lần thứ 68 vào tháng 08 năm 2017, đã nhắc lại rằng Thánh Phaolô VI đã nói với các hồng y trong một cuộc họp Cơ Mật Viện (consistory) một năm trước khi ngài qua đời: “Đã đến lúc phải dứt khoát loại bỏ các yếu tố gây chia rẽ, có hại như nhau theo cả hai nghĩa, để áp dụng trọn vẹn, theo các tiêu chuẩn đúng đắn đã gợi hứng cho cuộc cải cách được chúng tôi chấp thuận khi thể hiện những nguyện vọng của Công đồng.”
Sau đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói thêm, “Vẫn còn nhiều việc phải làm theo đường hướng này, nhất là bằng cách tái khám phá những lý do đưa đến những quyết định liên quan đến việc cải cách phụng vụ, bằng cách loại bỏ những lối đọc vô căn cứ và hời hợt, lối đón nhận nửa vời và những lối thực hành làm nó bị méo mó.”
Đức Giáo hoàng kết luận: “Sau huấn quyền này, sau cuộc hành trình dài này, với thẩm quyền của Huấn quyền, chúng tôi có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng việc cải cách phụng vụ là việc không thể đảo ngược được.”
Trong bài thuyết trình của mình, Đức Tổng Giám mục Roche kêu gọi nhân viên và sinh viên tại Học Viện Thánh Anselm “hãy là những người nam và người nữ, những học giả và bậc thầy trong những nỗ lực khoa học khác nhau, đúng vậy, nhưng trên hết hãy là những môn đệ trung thành, những người xây dựng Giáo hội, chứ không phải là nguyên nhân gây ra sự phân mảnh trong Giáo hội.”
Ngài khuyến khích họ đào sâu đời sống thiêng liêng qua các nghiên cứu phụng vụ của họ, và ngài chia sẻ rằng đời sống đức tin của ngài đã trở nên phong phú hơn nhiều, nhờ 20 năm làm việc với những bản dịch của bộ Sách Lễ Rôma đã được Đức Giáo Hoàng Phaolô VI phê chuẩn. Ngài tiết lộ, qua công việc này, ngài mới nhận ra rằng “những lời cầu nguyện, những bản văn này, không chỉ là sự sáng tạo của một bộ óc tinh tế hay một ngòi bút đơn lẻ, nhưng đến từ chính bàn tay Thiên Chúa, qua di sản phong phú của Kinh Thánh và các giáo phụ mà ta gặp thấy ở đó, cùng với lời dạy sâu xa về bản chất của Giáo hội như được thấy trong Hiến Chế ‘Lumen Gentium.’”
Đức Tổng Giám mục phát biểu: “Di sản này kết nối chúng ta với đức tin của Giáo hội như được diễn tả qua các thời đại và phù hợp với thời đại lẫn sứ mạng của chúng ta.”
“Sách Lễ Rôma do Đức Giáo hoàng Phaolô VI phê chuẩn là Sách Lễ phong phú nhất mà Giáo hội từng soạn ra cùng với Bộ sách Bài Đọc (Missale Romanum Lectionarium),” Đức Tổng Giám Mục Roche đã nói với cử tọa của ngài như thế. Hơn nữa, theo ngài, “có thể nói một cách đúng đắn rằng tầm nhìn trong Hiến chế về Phụng vụ Thánh (‘Sacrosanctum Concilium,’) và trong Hiến Chế Tín lý về Mặc Khải Thánh (‘Dei Verbum’), giờ đây đã trở nên rõ ràng hơn trong lời cầu nguyện và trong ý thức của Giáo hội, nhờ sự thức tỉnh mới về Kinh Thánh trong Nghi Lễ Rôma.”
“Biết những lời cầu nguyện trong Sách Lễ là khởi đầu cho việc học cách cầu nguyện theo Kinh Thánh. Đây là một món quà quý giá dành cho Dân trung tín của Thiên Chúa, điều đó sẽ đem lại những hạt giống của canh tân,” Đức Tổng Giám mục Roche nói.
Trước Công đồng Vatican II, hầu hết tất cả các bản văn phụng vụ đều bằng tiếng Latinh. Nhưng Hiến chế phụng vụ — văn kiện công đồng đầu tiên được các nghị phụ phê chuẩn vào ngày 4 tháng 12 năm 1963 — đã thay đổi tất cả điều đó bằng cách cho phép sử dụng tiếng bản địa. Trong bài giảng của mình, từ kinh nghiệm cá nhân, Đức Tổng Giám mục Roche nhắc lại rằng tuy công việc phiên dịch có “tầm quan trọng to lớn,” nhưng nhiệm vụ này chẳng hề dễ dàng bởi vì “có nhiều lý thuyết và tranh luận” có thể dẫn đến “một cuộc bút chiến giữa những quan điểm đối nghịch và tương phản.”
“Ngay cả những người ủng hộ kém cỏi nhất cũng có ý kiến riêng, cũng có thể to tiếng và cố chấp.” Ngài hóm hỉnh gợi lại câu ngạn ngữ về việc “có thể thương lượng với những kẻ khủng bố, nhưng không thể thương lượng với những chuyên gia phụng vụ.” Ngài nói rằng bất kể những hạn chế của các bản dịch trước đây là gì, ngài cảm thấy các bản dịch mới đã được cải thiện.
Đức Tổng Giám mục Roche nhớ lại rằng khi các hội đồng giám mục của các nước Anh và Wales, Scotland và Ireland ban hành một tuyên bố về Bí tích Thánh Thể vào năm 1998, Đức Hồng Y Basil Hume, lúc đó là Tổng Giám mục của Westminster cũng là một tu sĩ dòng Biển Đức, đã viết:
“Người Công giáo tin gì về Bí tích Thánh Thể? Khi cho rước lễ, vị linh mục nói với tôi “Mình Thánh Chúa Kitô,” tôi đáp “Amen.” … Lời thưa “Amen” của tôi không chỉ bày tỏ đức tin của tôi vào thân mình Chúa Kitô là Bí tích Thánh Thể, mà còn bày tỏ đức tin của tôi vào thân mình Chúa Kitô là Hội thánh. Bí tích Thánh Thể và Giáo hội gắn bó với nhau không thể tách rời.”
Bình giải về điều này, Đức Tổng Giám mục Roche nhận xét, “Chính trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta tìm thấy mã di truyền của Giáo hội.”
Ngài lưu ý đến “hai chiều kích của phụng vụ mà chúng ta không được phép bỏ quên, vì chúng mô tả chính bản chất của Giáo hội.” Thứ nhất, chiều kích đồng đại (the synchronic dimension) như sau: “với tư cách là người Công giáo, ngay lúc này và ở đây, chúng ta được hiệp nhất với mọi người Công giáo khác trên khắp thế giới, và qua giám mục địa phương, chúng ta được hiệp nhất với Đức Giáo hoàng, người kế vị Thánh Phêrô.”
Ngài nói: “Mối liên hệ này đánh dấu và đảm bảo sự thuộc về của chúng ta; không có điều đó, chúng ta sẽ cô đơn, đứng ngoài cộng đoàn được Đức Kitô thiết lập và được xây dựng trên nền tảng Tông đồ Phêrô.”
Chiều kích thứ hai, chiều kích lịch đại (the diachronic dimension) như sau: “trong Giáo hội, chúng ta cũng được hiệp nhất với mọi tín hữu đã từng sống và tin, cũng như với mọi người Công giáo sẽ sống và tin trong tương lai.”
Tóm tắt điều này, Đức Tổng nói, “Chúng ta có thể nói về chiều kích đồng đại của phụng vụ như hợp nhất toàn thể Giáo hội trên thế giới, và về chiều kích lịch đại như chạy xuyên qua thời gian để vào vĩnh cửu.”
Đức Tổng Giám mục người Anh nhắc nhở cử tọa của ngài rằng “bất cứ khi nào chúng ta quy tụ để cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta không chỉ quy tụ trong tư cách là cộng đoàn này, ở nơi cụ thể này, nhưng chúng ta đứng giữa những giao lộ của mọi sự sống, và ở ngưỡng cửa nơi thời gian giao cắt với vĩnh cửu – sự quy tụ của chúng ta lớn hơn những gì mắt thường có thể thấy. Chúng ta đang đi vào mầu nhiệm Chúa Kitô. Nhờ mầu nhiệm nhập thể và mầu nhiệm vượt qua, Đấng ấy làm cho dòng chảy hay ‘dòng trôi của thời gian’ đi vào cõi ‘vĩnh hằng đời đời,’ để được nâng lên và biến đổi.”
Nói cách khác, ngài nói, “phụng vụ là nơi hai thế giới gặp nhau.” Ngài lưu ý rằng “nhiều hiểu lầm về phụng vụ trong quá khứ và hiện tại, có thể bắt nguồn từ việc không nhận ra đặc tính này, dù lẽ ra nó phải được thể hiện rõ ràng trong toàn bộ phụng vụ Công giáo.”
Đức Tổng Giám mục Roche nói: “Việc cải cách phụng vụ như được ghi lại trong Sách Lễ Rôma đang là và vẫn còn là kim chỉ nam cho chúng ta hiểu và thực hiện một đánh giá đúng đắn về phụng vụ.”
Đức Tổng kết luận bằng cách nhắc nhở các giáo sư và sinh viên tại Học Viện Thánh Anselmo, cũng như Giáo Hội nói chung: “Chúng ta không tạo ra hoặc cải cách phụng vụ; điều đó đã được thực hiện bởi thẩm quyền cao nhất của Giáo hội rồi, đó là một Công đồng chung. Trách nhiệm của chúng ta là thực hiện cuộc cải cách đó, trung thành với những gì chúng ta đã lãnh nhận, và không ủng hộ những điều không thuộc tâm thức của Giáo hội, dù chúng được quảng bá cách rầm rộ.”
Chuyển ngữ: Tu sĩ Vinh Sơn Nguyễn Hoàng Vũ, SJ