2020
Lòng khoan dung: Món quà quý nhất của hôn nhân Kitô hữu
Nữ văn sĩ tài năng Helen Keller đã nói: “Khoan dung là món quà lớn nhất của tâm hồn”. Quả vậy, lòng khoan dung là một nguồn sức mạnh tiềm ẩn bên trong, là một trong những công cụ tuyệt vời nhất trong cuộc sống.
Trong cuộc sống, nếu không có sự khoan dung tha thứ, thì con người sẽ luôn sống trong hận thù. Tinh thần khoan dung là đức tính vĩ đại nhất của con người. Càng là người biết nhìn xa trông rộng, càng có tấm lòng rộng mở. Người không biết khoan dung, thì sẽ chẳng được ai khoan dung. Chỉ có khoan dung, cuộc sống của chúng ta mới được vui vẻ và hạnh phúc. [1]
Đó là nhận định về lòng khoan dung trong cuộc sống nói chung. Riêng trong đời sống hôn nhân gia đình thì sao?
Trước hết, chúng ta cần khẳng định rằng hôn nhân là một cam kết sống chung đến hết đời và là một cuộc đồng hành dài hơi, nên những khó khăn, phức tạp, va chạm là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Đúng như một danh nhân đã nói: “Hôn nhân là bãi chiến trường chứ không phải là luống hồng”. Những cuộc cãi vã, hờn dỗi do mâu thuẫn, bất đồng, bất hòa từ những chuyện vụn vặt thường ngày giữa hai vợ chồng có thể kéo dài từ ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, và cuối cùng có thể dẫn đến sự đổ vỡ không thể hàn gắn được.
Tuy nhiên, chúng ta tin rằng tình yêu sẽ chiến thắng tất cả và sự khoan dung có sức mạnh hóa giải mọi khác biệt, mọi bất đồng, mọi mâu thuẫn. Tục ngữ VN có câu: “Thương nhau chín bỏ làm mười”. Điều đó có nghĩa là khi yêu nhau thực tình, đôi bạn sẽ vượt qua mọi phiền toái, khó khăn trong cuộc sống chung, để cùng xây dựng một mái ấm hạnh phúc, bình an.
Trên thực tế, hai bạn phải biết học cách nhượng bộ nhau, học im lặng để lắng nghe bạn đời mình, học chia sẻ để chứng tỏ sự quan tâm của mình, học tha thứ để hàn gắn những rạn nứt trong mối quan hệ, học quảng đại để biết cho đi nhiều hơn là nhận lại. Nói tóm là phải đối xử với nhau bằng lòng khoan dung tuyệt vời nhất.
Trong quyển sách “9 dạng người bạn cần phải khoan dung trong cuộc đời“, tác giả người Trung Quốc Hồng Hoa đã nhấn mạnh, người bạn đời chính là một trong 9 dạng người bạn cần phải khoan dung. Bởi khoan dung là “cách cư xử tốt đẹp nhất trong hôn nhân. Yêu là một nghệ thuật, sự khoan dung chính là tinh túy của nghệ thuật đó”. Rất nhiều khi trong thực tế, chúng ta dễ dàng bỏ qua lỗi lầm của người khác dù họ làm ta buồn, ta thất vọng, nhưng lại khó lòng bỏ qua những lỗi lầm mà bạn đời của mình gây ra. Khoan dung với bạn đời, vì vậy cũng là một kỹ năng. [2]
Thực vậy, chỉ có lòng khoan dung mới giúp cho đôi bạn giữ được tình yêu nồng ấm, duy trì được sự trung thành lâu dài, gia tăng được sự tin tưởng cần thiết, nhờ đó dù gặp nhiều sóng gió và thử thách trên đời, đôi bạn vẫn song hành với nhau cho đến cuối đời.
Khoan dung để chấp nhận sự khác biệt của nhau
Chúng ta biết rằng, một trong những thử thách lớn nhất của hôn nhân, đó là trong cuộc sống lứa đôi, hai bạn nam nữ phải chấp nhận sự khác biệt của nhau. Vì thực tế, hai người nam-nữ vốn dĩ rất khác biệt nhau, về giới tính, tính cách, sở thích, văn hóa hấp thu, giáo dục gia đình, tôn giáo, tài năng, kiến thức, nếp sống, thói quen vv.
Khi về sống chung một nhà, hai người phải vượt qua cái rào cản khác biệt ấy để sống hòa hợp, hòa đồng, hòa thuận, hòa bình với nhau. Như người ta thường nói, “Ta với mình tuy hai mà một/ Ta với mình tuy một mà hai”. Điều đó có nghĩa là hai bạn phải tập thích nghi với nhau, vì anh là anh, chị là chị, hai người là hai cá thể đặc thù riêng biệt. Họ phải sống làm sao để từ nay, hai người không còn là hai mà là một xương một thịt (x.Mt 19, 6).
Có muôn vàn chi tiết khác biệt giữa nam nữ, nhưng họ được ơn gọi để kết hợp thành đôi-vợ-chồng, để sống với nhau suốt đời. Tình yêu và sự khoan dung là sức mạnh quan trọng hàng đầu giúp cho đôi bạn chấp nhận nhau, nương tựa nhau, khích lệ nhau. Một cuộc hôn nhân hạnh phúc là cuộc hôn nhân trong đó hai người nam nữ, thay vì loại trừ nhau do những khác biệt này nọ, thì lại bổ sung cho nhau. Họ chấp nhận “tương khắc” chứ không “xung khắc”. Ca dao VN có câu: “Yêu nhau vạn sự chẳng nề, / Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Đó cũng là ý nghĩa của việc nên-một-với-nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt giữa các ngôi vị trong cộng đồng gia đình. Chính nhờ sự khoan dung của hai bạn mà cuộc hôn nhân được êm đẹp và bền vững.
Khoan dung để biết lắng nghe nhau
Trong đời sống hôn nhân, biết lắng nghe là một nghệ thuật giao tiếp ứng xử rất quan trọng nhờ đó ta hiểu được người bạn đời và thông cảm với họ trong mọi tâm trạng và hoàn cảnh trong cuộc sống.
Các nhà tâm lý học hôn nhân gia đình đều quả quyết rằng nghệ thuật giao tiếp ứng xử quyết định phần lớn cuộc hôn nhân hạnh phúc. Vợ chồng dù bận rộn trăm công nghìn việc, nhưng cũng nên tìm mọi cơ hội để gặp nhau, nói chuyện với nhau, lắng nghe nhau, kể cho nhau nghe “chuyện đời chuyện người”, trao tâm sự cùng nhau, thậm chí có thể cùng nhau xem một chương trình giải trí trên truyền hình hay cùng nhau hát một bài hát vv. Đây có thể được coi như một “chìa khóa vàng” đảm bảo hôn nhân bền vững.
Do đó, để có được sự khoan dung trong cuộc sống gia đình, trước hết chúng ta cần phải học cách lắng nghe và tâm sự với nhau. Nếu ngay khi người bạn đời mắc sai lầm, bạn lập tức nổi giận, dùng những lời không hay để trách cứ, nhiếc móc thì quả là thất bại. Hãy tôn trọng để cho người ấy cơ hội trình bày và hãy tỉnh táo để lắng nghe. Càng không nên kết tội một cách vội vã. “Anh/em lại sai rồi”, hoặc “Chắc chắn đây là lỗi của anh/em” là những câu nói làm bạn đời mất tinh thần nhất. Họ sẽ thấy mình là người kém cỏi, một kẻ không ra gì và luôn luôn làm người khác thất vọng. Hoặc sẽ ngay lập tức “xù lông nhím” để bảo vệ cái tôi của mình. Bạn đời, người mà ta đã hết lòng yêu thương, đã tìm hiểu, đã cùng nhau vượt qua bao sóng gió để thành vợ thành chồng, vì thế xứng đáng để được lắng nghe, được cho một cơ hội. [2]
Khoan dung để tha thứ lỗi lầm của nhau
Một danh nhân đã nói: “Con người không ai toàn mỹ. Chuyện vợ chồng cũng thế. Biết phục thiện và tha thứ cho nhau thì gia đình ngày càng đầm ấm. Ngược lại, càng ngoan cố bao nhiêu, gia đình càng dễ dàng tan vỡ bấy nhiêu” (G. Lombroero). Lỗi lầm thì ai cũng có, vì “Nhân vô thập toàn”. Vì thế, mỗi người đều cần được thông cảm và tha thứ.
Thánh Phao-lô đã khuyên bảo tín hữu như sau: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau” (Cl 3, 12-13).
Trong Tông huấn “Niềm Vui Yêu Thương”, ĐTC Phan-xi-cô đã dựa vào “Bài ca đức mến” của thánh Phao-lô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô để đưa ra một vài lời khuyên nhằm củng cố hôn nhân với năm tháng được xây dựng trên một tình yêu chân thật. Ngài đưa ra mười ba lời khuyên cho một hôn nhân vững bền, trong đó có đoạn ngài nhấn mạnh đến tình yêu không hận thù:
“Đừng để những tình cảm xấu thâm nhập vào trong lòng, nhưng phải trau dồi đức tính tha thứ, tha thứ xây dựng một thái độ tích cực, tìm cách hiểu sự yếu đuối của người khác, tìm lý do để biện minh cho người khác. Chỉ có một tinh thần hy sinh cao cả mới cứu và hoàn thiện được sự giao tiếp trong gia đình. Nó đòi hỏi một tấm lòng rộng lượng và nhanh chóng thấu hiểu, bao dung, tha thứ, giải hòa…Tình yêu không để hận thù, khinh ghét, muốn làm điều xấu, muốn trả thù chế ngự. Lý tưởng trong tinh thần Kitô và đặc biệt trong gia đình, tình yêu bất chấp tất cả”. [3]
Khoan dung để bù đắp những thiếu sót của nhau
Một trong những lợi ích của hôn nhân, đó là đôi bạn có cơ hội bù đắp những thiếu sót của nhau. Kẻ mạnh nâng đỡ kẻ yếu. Người giỏi bồi đắp cho người dở. Người lanh lợi bù đắp cho kẻ chậm chạp. Nói chung, hai bạn sẽ bổ túc, bù trừ cho nhau để tiến tới một sự hoàn thiện chung.
Tuy nhiên trên thực tế, có nhiều đôi không làm được việc này, vì tự ái, vị kỷ, nông cạn. Họ không muốn người khác bù đắp cho mình mà cũng không quan tâm bồi đắp cho người khác. Điều này chứng tỏ cả hai đều thiếu khoan dung.
Theo D. Wahrheit, tác giả cuốn “Cẩm nang Hạnh phúc Gia đình Ki-tô” thì chúng ta cần nhìn nhận điều này là: “Sự đổ vỡ trong hôn nhân thường xảy đến khi hai người phối ngẫu không chấp nhận vai trò của nhau. Và từ đó không đạt được sự hòa hợp trong đời sống vợ chồng. Vì hòa hợp và bổ túc cho nhau, đó là nguyên tắc sống nền tảng trong đời sống hôn nhân…”. Và “Bổ túc cho nhau trên hết có nghĩa là mình có những gì mà người kia không có, điều mình có ít thì người kia lại có nhiều. Sức mạnh, vẻ đẹp, sự dịu dàng của tình yêu nằm trong sự bổ túc ấy…”
Khi mới kết hôn, đôi bạn thường cho rằng họ yêu nhau nên hiểu nhau, họ hiểu nhau nên cuộc sống vợ chồng sẽ thật êm ả, dễ chịu. Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian ngắn chung sống, họ bắt đầu vỡ mộng. Bởi vì cuộc sống chung quả là khó khăn, phức tạp. Một trong những điều khiến họ dễ rơi vào khủng hoảng nhất, đó là sự khác biệt, chênh lệch nào đó giữa hai vợ chồng. Đó cũng là một trong những nguyên nhân gây ra sự mất hòa hợp vợ chồng.
Thực ra, khi kết hợp với nhau thành vợ chồng, đôi bạn sẽ có điều kiện bổ túc, chia sẻ, hỗ trợ nhau về mọi mặt. Kẻ mạnh nâng đỡ người yếu. Người giỏi giang khuyến khích kẻ kém cỏi. Kẻ lanh lợi hỗ trợ người chậm chạp vv… Luật bù trừ trong hôn nhân là như vậy. Chẳng hạn, nếu chàng là người nói ít và trầm tĩnh thì hãy chấp nhận nàng nói nhiều và hay than vãn. Nếu chàng là người có đầu óc thực tế, quyết định nhanh chóng, dứt khoát thì cũng thông cảm bạn đời mình hay mơ mộng, ướt át tình cảm. Nếu chàng thích ra tay nghĩa hiệp bảo vệ người khác thì cũng nên chấp nhận nàng yếu đuối, thích được bảo vệ, thích nhờ vả giúp đỡ vv.
Khi cộng tác với nhau lo cho gia đình, các bạn phải hiểu nhau, cảm thông và nhất là giúp nhau phát huy điểm mạnh, đồng thời sửa chữa khiếm khuyết và bỏ qua những sai sót của nhau. Hãy luôn là bạn đồng hành với lòng khoan dung, chúng ta sẽ an toàn.
Khoan dung để quên đi quá khứ của nhau
Người có lòng khoan dung sẽ không bao giờ nghĩ đến việc bới móc chuyện quá khứ của nhau. Thông thường trước kết hôn với nhau, ai mà chẳng có tình sử của riêng mình. Đối với người này cuộc tình cũ có thể chỉ là thoáng qua, nhạt nhòa, nhưng với người kia có thể đã mặn nồng, thắm thiết. Nhưng bây giờ một khi bạn đã quyết tâm đến với nhau trọn đời thì buộc phải quên đi quá khứ của nhau.
Trên thực tế đã có nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ chỉ vì một trong hai người cố tình bới móc chuyện quá khứ của người kia như để thách thức lòng chung thủy của bạn mình. Đó là một sai lầm lớn. Vậy nếu muốn xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc, đôi bạn hãy tự nguyện chôn vùi quá khứ của mình và của bạn đời, không phải với tâm trạng cay đắng mà là bằng một sự quyết tâm có định hướng: “Cưới được người con gái mình yêu đã là hạnh phúc, nhưng yêu được người con gái mình cưới còn hạnh phúc hơn” (Danh ngôn).
Khoan dung để chấp nhận đồng hành với nhau suốt đời
Văn hào pháp Antoine de St Exupéry nói: “Yêu nhau không là ngồi đó nhìn nhau, mà cùng nhau hướng về một lý tưởng”. Cũng có một danh nhân khác nói rằng, “Hôn nhân là một công trình mà hai người phải giúp nhau kiến tạo suốt đời” (André Maurois). Cũng câu nói: “Trong hôn nhân, gặp nhau là bước đầu, sống chung với nhau là bước kế tiếp, làm việc chung với nhau mới làm nên một gia đình êm ấm “ (James Thurber).
Vợ chồng phải ngồi lại với nhau, cùng nhau xây dựng một mục tiêu chung cho cuộc sống hôn nhân và cho gia đình mình. Một gia đình mà trong đó “Ông nói gà, bà nói vịt”, hay “Trống đánh xuôi kèn thổi ngược” thì đó là biểu hiện của sự phân hóa, chia rẽ, bất đồng.
Hai người phải dành thời gian để thảo luận, có thể là tranh luận, về những mục tiêu phải theo đuổi. Trong gia đình dường như lúc nào cũng có nhiều vấn đề phải giải quyết và đối phó, nếu hai bạn cùng hiệp lực, đồng tâm nhất trí nắm tay nhau thực hiện thì việc gì cũng xong. “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” hay “Một cây làm chẳng nên non / ba cây chụm lại thành hòn núi cao”.
Khi đồng hành với nhau trong suốt cuộc đời vợ chồng, đôi bạn phải hy sinh nhiều lắm. Trước hết là từ bỏ ý riêng của mình để hợp tác với bạn đời lo việc gia đình. Sau nữa là phải thích nghi với những suy nghĩ, hành động khác biệt của bạn đời. Kế đến là phải chấp nhận những biến chuyển của thời thế và hoàn cảnh để không rơi vào tình trạng bi quan, chán nản dẫn đến bỏ cuộc.
Nếu chúng ta có đủ kiên nhẫn và lòng khoan dung chấp nhận đồng hành với bạn đời cách tích cực và nghiêm túc thì cuộc hôn nhân của chúng ta sẽ bền vững và hạnh phúc lâu dài ./.
Aug. Trần Cao Khải
__________
[1] LM Giuse Đỗ Văn Thụy, MSV – Tân Phúc Âm hóa lòng tha thứ – NXB TG 2015 trang 123
[2] dep.com.vn
[3] ubmvgiadinh.org
2020
Lòng từ bi không sợ hãi trong đại dịch qua chuyện Thánh Roch
Đại dịch không chỉ mang đến đau thương, mà còn là cơ hội cho con người một lần nữa mặc khải về những điều cao quý nhất trong cuộc đời này. Đó là lòng dũng cảm, sự thiện lương, là chính nghĩa, là đức tin chân chính, là những giá trị thường xuyên bị cười cợt và quên lãng trong cuộc sống vật chất, nhưng lại là những điều mang con người vượt thoát khỏi đại nạn.
Đây không phải là lần đầu tiên nhân loại phải đối mặt với nỗi sợ hãi của một đại dịch sẽ cướp đi hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu nhân mạng. Cái Chết Đen đã từng khủng bố châu Âu vào thế kỷ 14, giết chết khoảng hơn 20 triệu người, và tiếp tục hoành hành trong các đợt bùng phát ở những phạm vi nhỏ hơn, mãi cho đến đầu thế kỷ 19.
Con người thời đó đã đối mặt với nỗi sợ hãi trong đại dịch như thế nào? Hầu hết đã lấy đức tin của mình làm nguồn an ủi. Một vài người lại lấy chúng để hợp pháp hóa việc đàn áp tín ngưỡng. Và cũng có những con người vĩ đại hơn, sử dụng đức tin làm nguồn sức mạnh của sự từ bi không sợ hãi trong đại dịch.
Tiến sĩ Lịch sử Nghệ thuật Louise Marshall viết về đức tin phổ biến tại châu Âu vào thời điểm ấy như sau: “Trong đại dịch, đối với nhiều thành phố thì các vị Thánh bảo trợ là lá chắn bảo hộ đầu tiên. Tại phiên tòa trên Thiên giới, các vị Thánh trở thành một sứ giả truyền tin, dựa vào sức mạnh và sự thành tín của cộng đồng cư dân mà xin Thiên thượng bảo hộ trong đại dịch.”
Vì thế, các tín đồ trong cơn hoạn nạn đều sám hối, đều cầu nguyện trước Chúa và các Thánh. Trong đại dịch Cái Chết Đen, có một số vị Thánh bảo hộ được đặc biệt nhắc tới như Thánh Sebastian, Thánh Rosalia hay Thánh Roch. Trong đó, Thánh Roch là một vị Thánh đặc biệt, dùng sức mạnh của đức tin để đi khắp nơi chữa trị cho con người, dù phải chịu rất nhiều cay đắng.
Theo cuốn “Cuộc đời các Thánh” (Lives of the Saints), Thánh Roch sinh ra ở Montpellier, trên biên giới giữa Pháp và Ý. Mẹ của ngài là một phụ nữ quý tộc bị hiếm muộn, nhờ cầu nguyện với Đức Mẹ Đồng Trinh mà sinh ra ngài. Khi sinh ra, Thánh Roch đã mang một cái bớt hình chữ thập và từ rất nhỏ tuổi đã là một con chiên sùng đạo.
Cha mẹ qua đời khi ngài 20 tuổi, lúc đại dịch đang hoành hành tại Ý. Thánh Roch đã cho đi hết của cải và bước vào hành trình giúp đỡ người đau yếu vì bệnh dịch. Ngài đi từ thành phố này sang thành phố khác, cứu vớt con người bằng cách cầu nguyện, làm dấu thánh giá, rồi chạm tay vào người bệnh, khiến bệnh tật biến mất.
Sau khi Thánh Roch đi qua một số thành phố, một Thiên Thần xuất hiện để báo với ngài rằng chính ngài cũng sẽ mắc phải Cái Chết Đen. Những người dân trong thị trấn Piacenza, Ý đã vì thế mà trục xuất ngài. Thánh Roch phải sống khổ nhọc trong một khu rừng kế cận, trong một túp lều bằng cành cây và lá đơn sơ. Tuy vậy, ngài vẫn đều đặn dành thời gian để cầu nguyện trong hạnh phúc.
Một con suối kỳ diệu đã xuất hiện để ngài có nước uống. Một con chó sống gần đó thường xuyên mang thức ăn tới và liếm vết thương cho ngài. Sau đó, trong một chuyến đi săn, Bá tước Gothard đã được con chó dẫn tới, và trở thành môn đồ của Thánh Roch.
Sau khi có thể đi lại được, dù đang mang bệnh, Thánh Roch vẫn lên đường tiếp tục sứ mệnh của mình. Ngài đi đến một thành phố gần đó để chữa lành cho các bệnh nhân. Không lâu sau, khi ngài cầu nguyện, Chúa chữa lành bệnh cho ngài.
Thánh Roch trở về quê hương, nơi đang xảy ra chiến tranh. Ngài bị chú của mình bắt giam vì không nhận ra, và nghi ngờ ngài là gián điệp. Thánh Roch đã bình tĩnh chấp nhận ngồi tù và dành thời gian những năm trong tù để tiếp tục cầu nguyện.
5 năm qua đi, khi ngài cận kề cái chết, một luồng sáng xuất hiện bên trong nhà giam. Lời nguyện cầu cuối cùng của Thánh Roch chính là nếu có ai cầu nguyện với Ngài nhân danh Chúa thì sẽ được giải thoát khỏi bệnh dịch. Sau khi ngài tạ thế, một Thiên Thần đã đặt một chiếc bảng bằng vàng dưới đầu ngài. Chiếc bảng vàng này ghi lại lời nguyện cầu lúc hấp hối của ngài, cùng với danh tính thực sự, để thế nhân biết ngài là ai.
Nhiều năm qua đi, Cái Chết Đen vẫn chưa biến mất khỏi châu Âu khi Peter Paul Rubens, một tín đồ sùng đạo, vẽ bức tranh thờ về Thánh Roch tại Bỉ, dành cho hạt Aalst. Đây là một bức tranh mang thật nhiều hàm nghĩa.
Suốt đỉnh điểm của Cái Chết Đen, nỗi sợ hãi đã khiến nhiều người bỏ rơi cả những người thân và gia đình bị nhiễm bệnh của họ. Câu chuyện về Thánh Roch gợi cho chúng ta thông điệp gì về đức tin, về sự dũng cảm, thiện lương, về sự cứu rỗi bên trong đại dịch?
Trong thời khắc sinh tử, con người nghĩ tới bản thân mình, đó là điều dễ hiểu. Nhưng chúng ta cũng nên nhớ rằng đừng để nỗi sợ hãi ngăn cản chúng ta quan tâm tới người khác.
Đức tin và lòng từ bi là điều chúng ta học được từ câu chuyện của Thánh Roch. Một đức tin chân chính, kiên định, một lòng từ bi không sứt mẻ, không vì bản thân. Bởi vậy, dù ngài đã ra đi trong nhà ngục, nơi không một ai biết đến ngài, nhưng 700 năm sau, chúng ta vẫn nhắc lại câu chuyện về cuộc đời Thánh Roch.
Và điều đặc biệt trong bức tranh của Peter Paul Rubens là ở chỗ, vị Thiên Thần là người duy nhất đang nhìn vào chúng ta, ánh mắt của ngài như nói với chúng ta rằng “Thiên thượng không quên các vị”. Với những con người có thể thực sự sám hối, thực lòng xem xét lại những ác niệm trong cuộc đời của bản thân, thực tâm quy chính, quay lại với lương tri và chính nghĩa, không thờ ơ trước cái ác, thì chắc chắn họ sẽ được cứu chuộc.
Trong nỗi sợ hãi mình có thể là người mắc bệnh tiếp theo, hãy luôn nhớ rằng lòng trắc ẩn và lương tri sẽ khiến bạn trở nên mạnh mẽ.
Quang Minh
2020
Làm Gì Trong Thời Gian Cách Ly ?
Làm Gì Trong Thời Gian Cách Ly ?
Thủ tướng Chính phủ vừa ra lệnh “cách ly toàn xã hội” 15 ngày, bắt đầu từ 0g ngày 1/4/2020 để tránh dịch lây lan. Bao người khốn đốn vì lệnh cách ly, vì lệnh cấm hành nghề, nhất là những “nghề” kiếm ngày nào, xào ngày nấy như dân buôn bán dạo, lao động phổ thông, người già, người tàn tật, trẻ em bán vé số. Lấy gì để ăn, làm gì ra tiền để sống qua cơn dịch này, nói chi đến chi phí chữa bệnh nếu bị nhiễm ?
Sức mạnh đáng sợ của con Coronavirus khiến cả thế giới phải đều sợ hãi, vì sự lây nhiễm, tốc độ lây lan và thiệt hại về nhân mạng quá khủng khiếp của nó. Ai sợ thì sợ, vẫn có nhiều người chủ quan, tự tin một cách ngốc nghếch, coi thường những biện pháp phòng ngừa cần thiết, không sợ mất mạng đã đành, mà còn chẳng lo cho những người khác có thể bị liên luỵ.
Làm gì cho qua ngày đoạn tháng?
Đảng và Nhà nước vừa phát động phong trào đừng chạy lung tung, “cứ ngồi yên một chỗ” là chung tay đẩy lùi Covid-19. “Ở nhà là yêu nước” (và nằm yên là cứu cả thế giới). Nhưng làm gì đây khi cứ ở nhà, lấy gì ăn khi ngồi yên một chỗ và Nhà nước đã có sự trợ cấp nào trong tình thế cấp bách này? Ở nông thôn còn tý đất chút vườn có thể “tăng gia sản xuất”, chứ thành phố ở nhà hộp nhà ống vài chục mét vuông, thì làm gì? Coi phim, nghe nhạc, lên phây, chơi gêm mãi rồi cũng chán và chẳng mấy chốc sẽ phát sinh những tệ nạn xã hội.
Ôn cố tri tân
Có lẽ trong thời gian này, ngoài việc ưu tiên suy nghĩ lại về tính ưu việt của những giá trị thiêng liêng hơn vật chất, coi trọng giá trị hơn giá cả, sẽ giúp bản thân và đời sống trở nên tốt đẹp hơn. Những bài học trong Thánh kinh, Lời Chúa hàng ngày trong Mùa chay sẽ soi sáng cho chúng ta biết việc phải làm và giúp sức để chúng ta vượt thoát cơn đại dịch tăm tối chết chóc này.
Đó là những bằng chứng hiển nhiên của mầu nhiệm lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa thi thố trong lịch sử của một dân tộc. Thiên Chúa giải phóng cha ông họ khỏi ách nô lệ Ai Cập, đưa vào đất hứa. Cuộc vượt qua hùng tráng này không được để rơi vào quên lãng; những sự ra tay uy quyền giải cứu người Do thái khỏi những tai ương, bảo vệ họ khỏi những cơn dịch bệnh cho thấy Thiên Chúa hằng quan tâm tới những người tin tưởng vào Người.
Trước tình trạng nhiễu thông tin hiện nay, sự hoang mang lo sợ hoặc vô tư nhởn nhơ nghĩ rằng “có Chúa giúp rồi” là điều dễ hiểu. Tất cả những tâm trạng ấy phản ánh trong tâm hồn chúng ta, hoặc không có hoặc đã hiểu sai, hoàn toàn sai về sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa.
Đừng nghĩ việc tin theo Đức Giêsu chịu khổ nạn “đã mang lấy các tật nguyền của ta, và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17) là Kitô hữu được “miễn nhiễm” khỏi những khó khăn, đau khổ và bịnh tật; đừng tưởng tin vào Đức Kitô phục sinh là người tín hữu không phải chết, nhưng là Người có quyền năng cứu ta khỏi cái chết đời đời; đừng quên việc trở nên giống Chúa Kitô là việc chấp nhận “chịu đóng đinh” vào thân xác như Người (x. 2Cr 4,10 / Gl 2,19-20)
Trong thư của Đức cha Phêrô Huỳnh Văn Hai, Chủ tịch Ủy Ban Giáo Dục Công Giáo gửi cho sinh viên học sinh ngày 31 tháng 3 năm 2020 có viết: “Ngay lúc này, như cha đã nói ở trên, chúng ta đang phải đối diện với những đe dọa rất nghiêm trọng của đại dịch Covid – 19, cha luôn nghĩ đến và muốn viết lại lời của Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở chúng con: “Đức Kitô đang sống và Ngài muốn bạn sống! Ngài ở trong bạn, Ngài ở cùng bạn và Ngài sẽ không bao giờ rời bỏ bạn. Bao lâu bạn tìm cách lánh xa, thì chính Đấng Phục Sinh ở gần bên bạn, mời gọi và chờ đợi bạn làm lại từ đầu. Khi bạn cảm thấy sự già nua vì buồn bã, thù hận, sợ hãi, nghi ngại hay thất bại, Ngài sẽ ở đó để một lần nữa trao cho bạn sức mạnh và hy vọng” (x. Christus Vivit, 1-2).
Nếu Đức Kitô chỉ phục sinh nơi mộ đá lạnh lùng của năm xưa, mà không sống lại nơi con người chúng ta, thì sự kiện ấy vẫn là câu chuyện của dĩ vãng. Với ơn Chúa giúp, nếu mỗi người chúng ta không quyết tâm sống tốt hơn, lành thánh hơn, thì dù ta có hát trăm lần Hallêluia mừng Chúa sống lại cũng sẽ trở thành vô nghĩa và vô ích. Cho nên, chúng con cần phải canh tân con người của chúng con theo tinh thần phúc âm của Chúa Phục Sinh.”
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR
2020
Người Vẽ Hy Vọng
Những ngày nghỉ sau lễ thụ phong, không ai biết anh đi đâu? Trong Dòng anh vẫn có biệt danh là “họa sĩ bí hiểm”. Anh ít nói nhưng khi cần pha trò thì nói rất nhiều, nói một cách dí dỏm khiến cho người nghe muốn nghe hoài và nhiều lúc phải bật cười, chẳng ai có thể đoán được những sáng kiến của anh. Anh “tỉnh” đến nỗi dám chế lại cả cái tật “rằng…thì…là…” của cha giáo. Ngày tiến lên bàn Thánh, anh là người duy nhất không có ông bà cố đi bên cạnh, chỉ có mấy người bạn thân và nhóm sinh viên anh giúp.
“Các con hãy nhận lấy Phúc Âm Đức Kitô mà các con sẽ trở thành người rao giảng, con hãy biết là con phải tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy.” Lời của Đức Giám mục vang lên chầm chậm như ba giọt nước nhỏ vào tai, nó man mác len lỏi vào mọi ngõ ngách từng thớ thịt trong anh. Bên ngoài, vẻ mặt an nhiên vẫn toát ra trên đôi mắt và vầng trán rộng. Bỗng hình ảnh “người họa sĩ” vẽ chiếc lá thu vàng cho người phụ nữ bất hạnh trong “chiếc lá cuối cùng” của O’Henry hiện ra trong tâm trí anh. Vẽ là đam mê của anh từ thủa nhỏ, nhưng anh còn một khát vọng lớn hơn là có thể vẽ được niềm “Hy Vọng” trong tâm hồn những người nghèo của Chúa. Họ có thể nghèo đức tin, nghèo ân sủng, tình thương, sức khỏe, tự do, tri thức hay vật chất… nhiệm vụ ấy cao cả mà cũng đầy thách đố cho anh trên lối đường đã chọn.
Kinh tạ ơn kết thúc, Đức Giám mục ban phép lành cuối lễ, người người ùa ra chúc mừng các tân chức. Họ đi mà chẳng khác gì chạy. Mai thúc khửu tay Lan Anh và nháy nhìn cả nhóm.
- Chúc mừng Thầy… à mà…con quên… Tuấn chỉnh lại: Chúc mừng cha.
Mai thì diễn tả sự ngượng nghịu của mình:
- Eo ôi, gọi thầy quen rồi, giờ kêu cha cứ như gà mắc tóc trong cổ họng ấy, hay thầy miễn chuẩn cho con được không? Để về nhà con tập lại đã.
Anh cười dí dỏm. Lan Anh hý hửng cầm bó hoa chạy lại, nghiêng bên phải rồi ngó bên trái chiếc áo lễ vẫn còn thơm mùi vải mới. Mọi người cười ngả nghiêng trước điệu bộ của Lan Anh. Lan Anh vẫn có khiếu làm mọi người cười như thế mỗi khi nhóm tụ tập. Bỗng cả nhóm cất lên bài hát : “Chúc mừng chúc mừng ngày vui…”, giữa hội trường, ai cũng phải ghé nhìn đám bạn trẻ bên “ông cha trẻ”.Thấy vậy, Hùng lấy tay xuỵt:
- Đây là nhà tu, đâu phải chốn tự do của tụi mình mà mà hát với hò. Nay là ngày vui của cha, đông người cực độ, lát nữa ra ngoài sở thú thao hồ mà hát với ca.
- Hôm nay, “kế hoạch B” được không cha? Tuấn vừa hỏi vừa nháy mắt cả đám.
- Cám ơn các bạn rất nhiều vì đã đồng hành và cầu nguyện cho thầy trong suốt thời gian qua, hôm nay bỏ đi thì thì không được rồi. Thầy sợ anh em trong Dòng sẽ viết thông báo “tìm cha lạc” mất. Cả lũ cười vang và không năn nỉ nữa.
- Mà ngày mai cũng là sinh nhật nhóm, có chỗ này hay lắm, không biết mấy đứa có hứng thú không?
Cả nhóm háo hức như đàn cá lóc gặp cơn mưa rào. Từ ngày anh nhận đồng hành với nhóm sinh viên này dường như cái “chủ nghĩa xê dịch” đã ngấm vào huyết quản từng thành viên.
***
Vậy là anh về làng nhưng không phải một mình như những lần hiếm hoi trước. Làng đón anh như đón đứa con cưng. Anh thấy mình chẳng khác gì đứa trẻ của ba mươi ba năm về trước. Ba mươi ba năm là thời gian đủ cho một thế hệ già đi và một thế hệ khác ra đời. Những đứa trẻ trong làng chỉ còn được nghe ba mẹ chúng kể về gia đình ông K’Thích như một mẫu gương, ông tốt bụng nên “Yàng” thương cho có người cháu ruột đi tu làm cha. Anh nhận ra bức tượng Đức Mẹ đầu làng. Nay một cái trạm phát thuốc được xây lên bên cạnh trông bớt hoang sơ hơn. Bức tượng không còn nguyên vẹn như xưa. Có lẽ mưa nắng, thời gian đã làm cho bức tượng loang lổ, khuôn mặt Đức Mẹ ngang dọc những vệt chằng chịt như những nếp nhăn của một bà mẹ quê già nua. Đôi tay Mẹ cụt luôn nhưng ai đó đã khoác lên hai cái mỏ mấy cỗ tràng hạt bạc phếch màu thời gian…
Chiều…
Sau khi nhóm văn nghệ “tự phát”của thôn 13 ra về, tiếng trẻ khuất dần sau con dốc, trên chiếc võng tự chế bằng bao bố cột chặt vào thân hai cây dầu già bên ngôi nhà nguyện nhỏ, có cô bé ngồi gọn lỏn, đôi chân đen nhẻm đu đưa như chờ đợi ai đó:
- Ai đưa con đến đây?
- Con tự đi ạ.
- Nhà con ở đâu?
- Kia kìa chú, ngón tay nhỏ xíu chỉ về phía đồi cafe.
- Con tên gì?
- Dạ, Hải. Mẹ con nói Hải là biển, phải không chú?
- Ừ, đúng rồi đó, biển xinh như con vậy! Nó cười hì hì hồi lâu như thể lâu lắm rồi mới có người khen.
- Sao con không về cùng các bạn?
- Mẹ con đi làm mướn xa, về muộn lắm, chú cho con ở lại đón trung thu được không? Anh vừa gật đầu vừa mỉm cười với nó. Nụ cười hiền như người cha trong trí tưởng tượng của con bé. Chiều Đamb’ri se lạnh, ngó thấy đôi chân trần, anh quay đầu nhìn nó hỏi trìu mến:
- Dép con đâu?
- Dạ rách rồi, chờ mẹ mót được nhiều cà, bán có tiền, mẹ sẽ mua dép mới cho con. Anh lặng im không nói. Bên ngoài, một đám mây vật vờ, xám xịt đang trôi về phía làng.
Tối…
Mưa, cơn mưa thu vội vã đến rồi đi như chiều lòng người. Bên ngoài ngôi nhà nguyện nhỏ nhộn nhịp tiếng nói cười của trẻ nhỏ. Lâu nay, lũ trẻ trong làng này chỉ biết đến trung thu qua chiếc tivi bé xíu của nhà ông Năm. Chúng thèm thuồng được một lần thấy ông địa, đầu lân, đèn lồng… đứa nào cũng đếm từng ngày, mong cho mau đến rằm trung thu vì nghe người lớn nói, sẽ có người sẽ tổ chức trung thu hoành tráng cho chúng ngay tại làng. Và cuối cùng, giây phút chờ đợi đã đến…
Mấy nhóc đến sau thở hổn hển, rồi xếch dép ra gốc câu dầu đập đất, cơn mưa làm đất đỏ dính chặt vào dép chúng. Đêm trung thu không trăng, những bóng điện mà anh và mấy bạn sinh viên chuẩn bị ban chiều đủ sáng rực cả một khoảng không mù mịt giữa núi rừng. Lũ trẻ ngoan ngoãn ngồi xệp xuống nền sân đổ sỏi, cổ đứa nào cũng nghển lên, mắt long lanh như thể chuẩn bị xem chiếu bóng. Hai anh em nhà cuội lần lượt xuất hiện với màn chào hỏi, rồi trống, lân, đèn lồng và bong bóng được trao cho các em. Một chùm sáng nối đuôi nhau kèm theo âm thanh vang dội phá tan cái tĩnh mịch của làng.“Ông Địa”phe phẩy cái quạt tiến sát bắt tay từng đứa trẻ. Anh soi thấy mình trong ánh mắt của chúng, rồi như đo thấy một khoảng cách vô hình nhưng dài vô tận giữa lũ nhóc nơi đây với đám “cục cưng” con nhà giàu nơi thành phố. Những ánh mắt, dụt dè ngây thơ như thế luôn cuốn hút rồi cứ theo anh vào những bức vẽ từ thủa còn đi tông đồ Miền Tây.
Sau một vòng nhảy lân và rước đèn quanh làng, dép đứa nào đứa nấy nặng một ụ đất, nhưng không bận tâm vì còn háo hức xem văn nghệ. Lan Anh và Hùng đã nhanh trí óm được mấy em dạn dĩ hơn tập tành được vài tiết mục bỏ túi từ chiều qua. Mấy phụ huynh đưa con đến đứng xa xa như ngạc nhiên vì giọng hát cao vót và ngang phè của thằng K’Long. Còn hai chị em nhà Nick, Sương và Hạnh thì múa cũng dẻo lắm, ai cũng phải trầm trồ. Mấy người già còn nhận ra anh thì cứ gật đầu, đầy vẻ tự hào bởi anh cũng là đứa con của làng này. Mấy cô cậu sinh viên ngạc nhiên khi thấy anh trò chuyện bằng tiếng dân tộc. Khuôn mặt họ mừng xiết như thể đã quá lâu không gặp lại một người thân quý. Có những ông già, bà già vẫn cố lết hai chiếc nạng tiến lại, tay bắt mặt mừng, miệng thì không ngớt “ơ bèp, ơ bèp!” (lạy cha, lạy cha ạ!), lũ trẻ thì truyền tai nhau: “Bèp sơnđàc bol hi ngăn!” (ông cha thương tụi mình lắm!)
Khuya…
Cao nguyên sương xuống lạnh, anh chợt nhớ Chúa nói: “Nước trời dành cho những ai có tâm hồn trẻ thơ”. Anh biết chắc một đêm trung thu hay một vài chuyến từ thiện trong cuộc đời chưa thể đủ giúp các em và những người nghèo của Chúa định nghĩa được thế nào là Nước Trời nhưng anh tin tưởng những gì mình và những bạn trẻ kia đang làm vẫn có thể như những hạt giống đang gieo vào lòng đất. Trên mỗi mảnh đất anh đến, hay trong tâm hồn những người anh gặp, anh không cần biết tấm lòng của mình sẽ trôi về đâu, nhưng chắc chắn ở một nơi nào đó, tấm lòng ấy sẽ trổ sinh hoa trái. Anh ôm cây ghita ra ngồi với nhóm sinh viên bên đống lửa gần tàn. Ngước nhìn trời đêm, trăng ẩn khuất đâu đó, nhưng mấy ngôi sao nhỏ vẫn ánh lên đầy hy vọng cho một ngày mai tươi sáng.
***
Từ trạm phát thuốc chạy vào làng khoảng 3 km, hoa cafe phủ trắng xóa một vùng đồi núi. Thung lũng nhỏ ôm làng lọt thỏm. Từ đỉnh dốc nhìn xuống, làng nhỏ dần như một dấu chấm chơi vơi giữa khoảng không, làng tách biết với thế giới bên ngoài bởi những con dốc dựng đứng lởm chởm đá bôxít. Hai bên đường là những gốc cafe vối lâu năm bị bỏ hoang đứng trơ trơ như thách thức với mùa khô đang tới. Phía cuối làng là hơn một trăm ngôi mộ đắp bằng đất, qua mỗi mùa mưa là những nấm mộ tròn tròn biến dạng như những bắp tay, bắp chân của những người dân trong làng. Cây Thánh Giá làm bằng thân cây cafe sần sùi nghiêng ngả giữa những bụi lau phất phơ trong gió chiều hanh hanh.
Anh sinh ra ở làng nhưng không lớn lên ở đó, anh là con người cùi nhưng con vi rút hansen không có trong anh. Anh đã quên đi nhiều thứ về làng chỉ có kí ức về Bức Tượng Mẹ Cùi thì vẫn vẹn nguyên. Đó là dấu ấn đi liền với cuộc đời anh.
Ba mươi năm trước, vào một ngày tháng mười một, hai vợ chồng kia từ thành phố xuất hiện ở làng, họ đi thăm nhiều người bệnh, quan tâm từng gia đình không kể người Kinh hay Châu Mạ, ai cũng được chia sẻ chút gạo, chút muối. Cuối năm ấy, họ về làng với nhiều người hơn, rồi tổ chức cùng bà con làm con đường rộng từ mặt lộ Gia Lộc vô làng. Con đường hoàn thành vào ngày áp lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm 08/12. Đó là món quà tặng mà Bà Mẹ Trên Trời gửi cho những đứa con đang bị cách biệt và trói buộc bởi muôn vàn nỗi oan khiên do căn bệnh quái ác kia. Họ đặt một bức tượng ở đầu làng, rồi họ cũng chính là người mang anh rời khỏi làng… Với trí vẽ của một đứa trẻ thì nó hiểu rằng họ mang bức tượng người Phụ Nữ kia đến để đổi lấy cậu. Cậu bé năm tuổi ấy đã khóc thét lên trước khi lên xe cùng hai người lạ mặt. Cậu biết mình không thể làm gì và cũng không hiểu những người lớn đang nghĩ gì. Cậu ngoái nhìn Bức tượng Người Phụ Nữ đầy hờn giận, nhưng bà vẫn mỉm cười. Cậu muốn hét vào tai Bà, để bà biến đi, để cậu được về với ba và nội.
Suốt một thời gian dài cậu mới làm quen được với hai người lạ mặt mà không lâu sau đó cậu gọi họ là ba mẹ. Chẳng có gì có thể cảm hóa tâm hồn một đứa trẻ nhanh hơn tình thương. Cậu có một gia đình mới và nơi đó cậu gặp lại bức tượng Người Phụ Nữ kia. Dù vẫn còn giận, nhưng cậu không gào lên được vì lúc nào Bà cũng mỉm cười với cậu. Một nụ cười hiền như mẹ cậu lúc sống. Nụ cười ấy ngọt ngào hơn cả những chiếc kẹo mút mà mấy đứa trẻ con thành phố hay nhâm nhi.
Thời gian róc rách chảy trôi như con suối, tâm hồn trẻ thơ cũng trong như dòng nước ấy, những vẩn đục, nhớ thương, giận hờn mau quên trong chớp mắt nhờ tình thương của ba mẹ nuôi bù đắp. Cậu bé được đi học và bắt đầu có những người bạn. Ngày nào cậu cũng đến nhà thờ cùng ba mẹ. Và một thế giới linh thiêng bắt đầu được nuôi dưỡng trong tâm hồn cậu.
Suốt những năm học cấp I, hè nào cậu cũng được đưa về thăm làng. Cậu được gặp lại ba và nội. Những ngày ở lại làng, kết quả là cái đầu trọc lóc. Trấu cafe bụi bặm và cái mùi thơm nồng của hương cà quện vào cậu. Cậu nhìn những người cùi cắt tóc cho nhau mà tự hỏi: “Bao nhiêu lần cắt tóc mới đủ vun thành đống chấu cà phê trước cửa nhà họ?”. Cậu theo những đứa trẻ trong làng chăn trâu bên sườn rãy. Chúng chơi ở nghĩa địa, mặc lũ trâu bò gặm cỏ thoải mái trên những “chiếc giường” của người chết. Cậu đang rợn rợn thì mấy chú bò chợt giương mắt nhìn cậu, nó phì vào mặt cậu như muốn nói: “Cậu quá may mắn so vớicậu chủ của tôi rồi…”. Cặp sừng của con trâu nhà bạn Dỉn như hai dấu hỏi úp vào nhau. Bao nhiêu thắc mắc về làng trong cậu như khựng lại. Và cậu biết cậu cũng sinh ra từ chốn này.
Chẳng có người ông nào lại nỡ rời xa đứa cháu của mình, nhưng khi đó vì tương lai của anh, nội và ba đành trao anh cho hai vợ chồng lạ tốt bụng. Họ không có con, chính họ đã cho dân làng biết đến “Yàng”, Đấng không bao giờ bỏ quên những con người nghèo khổ, bệnh tật…Ngày anh vào lớp bẩy, nội mất, ba không còn đi lại được. Anh không về kịp để nghe giọng nội lần cuối, nơi cánh tay còn sót lại trên thi thể nội, anh vẫn thấy một cỗ tràng chuỗi gỗ với hình Mẹ Ban Ơn. Anh thầm cám ơn ba mẹ đã không bao giờ cấm cản mỗi khi anh muốn về làng, và họ cũng chẳng bao giờ muốn giấu anh bất cứ điều gì về nguồn gốc của mình. Bởi họ là Kitô hữu, trái tim và tấm lòng họ có Chúa, để anh được có Chúa và thuộc về Chúa như ngày hôm nay.
Có nhiều kỷ niệm xuyên suốt cuộc đời anh về ba mẹ nuôi, nhưng anh vẫn thích nhất khi ai đó nói anh rất giống mẹ, giống từ một phần ngoại hình với khuôn mặt bầu bầu, rồi cái nốt ruồi ở tay ăn vay cả đời… đến tâm tính (chỉ ngoại trừ cái máu lang bạt kỳ hồ là do anh xin được của ông Trời), ba anh thường đùa thế. Chẳng lạ gì khi anh cũng có cảm quan màu sắc giống hệt như mẹ. Anh thích những màu tôi tối và ẩn khuất. Khi sửa lại căn nhà ven thành phố, ba cho hai mẹ con chọn màu sơn, màu gạch và cả hai cùng hài lòng với màu mộc giản dị. Vậy là ngôi nhà chỉ có một màu nổi bất duy nhất đó là cụm hoa violet tím mà cậu Phú, em út của mẹ trồng tặng, mừng ngày chuyển về nhà mới.
Những lần ba mẹ tổ chức những chuyến từ thiện nơi vùng xa, anh cũng lục đục ba lô đi theo. Ngôi nhà nhỏ lại lặng lẽ khép đó. Ba mẹ anh đã vắt cạn ước mơ của mình để chia sẻ với những con người bất hạnh mà chưa một lần biết mặt đặt tên. Họ cũng đã ươm trồng rồi vun vén cho ước mơ của anh thành hiện thực. Nhưng ngày anh tiến lên bàn Thánh, tất cả những người thân yêu của anh chỉ có thể nhìn anh từ Trời Cao. Đêm ấy, chiếc xe cẩu điên dại cắt dọc làm đôi chiếc xe con trở mười hai hành khách trên đường Sài Gòn – Bảo Lộc, đã mang ba mẹ anh đi. Anh thưa với Chúa: Tại sao Chúa lại gọi ba mẹ con đi lúc này?. Anh bật khóc. Chúa vẫn thinh lặng. Mẹ cũng lặng thinh. Những năm tháng trong Dòng, anh đã được tiếp cận nhiều giáo huấn về Thánh giá, nhưng biến cố ấy anh mới thực sự đụng chạm tới thực tế của đau khổ, mới cảm nhận được chính trong bản thân mình sự nhói buốt của nó. Anh biết niềm tin trong anh vẫn là niềm tin của con người trần thế bé bỏng, chịu tác động của hoàn cảnh và chập chờn trước sóng gió. Thì hơn ai hết con người ấy cần được Thiên Chúa nâng đỡ, “mà sự nâng đỡ của Thiên Chúa thường đến qua con người” Chính ba mẹ anh đã tâm niệm và dạy anh điều đó. Anh em trong Dòng trở thành gia đình, người thân cho anh. Và nhất là tình nghĩa của những người dân làng cùi. Nỗi đau trong anh dịu lại vì biết mình được chia sẻ nỗi đau với Mẹ dưới chân thập giá. Ba mẹ anh đã và sẽ mãi là những thợ gặt, sẵn sàng gieo, mục nát, để anh được nảy mầm, sinh trưởng rồi trổ bông. Họ dạy anh nhận ra đường lối khôn ngoan của Chúa trong chính kinh nghiệm cuộc đời mình.
***
Cơn gió nhẹ mang theo làn sương mỏng làm cây nến nhỏ bập bùng trong căn nhà nguyện nhỏ. Anh giật mình về với hiện tại, trang quá khứ đã quá dài nhưng anh không thấy chán ngán vì đâu đâu anh cũng thấy dấu vết của Chúa. Anh sực nhớ đến Thánh lễ ngày mai, Thánh lễ đầu tay ở nơi anh đã được sinh ra. Anh quỳ xuống trước bức tượng Đức Mẹ và xướng lên lời kinh Magnificat. Trên hành trình xa tắp mà hôm nay mới là khởi điểm, anh mới tháy được quyền năng thực sự của lời ca ngợi. Lần nữa anh phó mình vào bàn tay ân cần nâng đỡ của Mẹ. Sau Thánh lễ sớm mai anh sẽ trở về để nhận nghi thức sai đi.
Hai người bạn cùng lớp với anh có bài sai sang Lào, còn anh ở lại, mong âm thầm như nắm men trong bột, hy vọng có ngày bột dậy men trên dẻo đất tận cùng Tổ Quốc.
***
Nhiều năm sau…
Ước nguyện năm xưa đã thấp thoáng ánh nắng của mùa xuân, sau những năm tháng miệt mài cho đi… Trong Thánh Lễ tạ ơn hai mươi năm năm Linh mục, vị chủ tế đang nhắc lại lời dặn dò những tân Linh mục năm xưa: “Các con hãy nhận lấy…”
Bên dưới gian cung Thánh, trong đám đông tín hữu, có người nữ tu trẻ rưng rưng tự sánh ví: “Linh mục, sao giống người họa sĩ vẽ chiếc lá hy vọng trong câu chuyện của O’Henry đến thế!”. Chưa bao giờ chị quên hình ảnh người cha có ánh mắt hiền hậu và đôi dép màu hồng cùng cuốn truyện tranh nhỏ xinh có hình người họa sĩ đang vẽ chiếc lá phong dưới đêm trời mưa tuyết. Chị đã nhận được món quà ý nghĩa ấy trong đêm trung thu xưa. Chị nghiệm ra rằng: Trong cuộc đời mỗi người, chẳng có biến cố, hay cuộc gặp gỡ nào là vô thưởng vô phạt. Trong con mắt đức tin thì tất cả đều là những nâng đỡ âm thầm nhỏ bé nhưng thật cần thiết biết bao.
Kính tặng những linh mục của Chúa.
Sr. Anna Bích Hạt,