2020
Đại dịch và tội sinh thái của chúng ta
Đại dịch và tội sinh thái của chúng ta
Khi thiên nhiên quay trở lại với Venice và Cox’s Bazar thì đó là một lời nhắc nhở rằng chúng ta phải thay đổi.
Người Bangladesh tập trung trên bờ để ngắm cảnh hoàng hôn trên bãi biển Inani, gần Cox’s Bazar[1]. Cá heo và vẻ rực rỡ buổi sáng trên bãi biển đã quay trở lại khu vực kể từ khi khách du lịch bị lệnh phong tỏa coronavirus cấm đến đó. (Ảnh: AFP)
Vào giữa tháng 4, một nhà sinh vật học đã quay một đoạn video cảm động về một con sứa lướt qua dòng nước sạch phản chiếu những danh thắng của Venice, thành phố Ý từng là một trong những điểm đến du lịch nổi tiếng nhất thế giới trước khi đại dịch Covid-19 ập vào.
Venice đã bị bỏ hoang kể từ khi nước Ý bị đại dịch tàn phá vào ngày 9 tháng 3. Đoạn video về loài sứa này đã lan truyền trên phương tiện truyền thông xã hội và một số người đã tỏ ra phấn khởi cho rằng thiên nhiên đang trở lại thành phố.
Venice, một di sản thế giới, được mệnh danh là một trong những thành phố lãng mạn nhất châu Âu nhờ các điểm tham quan về môi trường, kiến trúc và văn hóa. Di sản của nó cũng đã trở thành một gánh nặng khi ước tính có khoảng 30 triệu khách du lịch ghé thăm mỗi năm.
Venice thở hổn hển khi nước trong các con kênh của nó trở nên đục ngầu vì sự chuyển động không ngừng của những con thuyền quá tốc độ và những chiếc tàu du lịch. Ngoài ô nhiễm do du lịch, chất thải hóa dầu từ khu công nghiệp Porto Marghera gần đó cũng bị đổ lỗi cho việc làm hỏng hệ sinh thái của nó.
Cách đó hàng ngàn dặm, thành phố biển Cox’s Bazar của Bangladesh cũng trải qua một sự hồi sinh tự nhiên kể từ khi đất nước bước vào một cuộc phong tỏa toàn quốc vì Covid-19 vào ngày 26.
Sau nhiều năm, cá heo đã được phát hiện đang nô đùa ở Vịnh Bengal gần những bãi biển trống vắng vào tháng Tư. Cây Sagorlota (vẻ rực rỡ bãi biển buổi sáng), một thành phần then chốt của hệ sinh thái bãi biển, đã trở lại và phát triển xum xuê. Loại thảo mộc này, còn được gọi là cây muống biển, được cho là đã tuyệt chủng ở Cox’s Bazar do sự đi lại không kiềm chế của khách du lịch, ô nhiễm và việc xây dựng các tòa nhà dọc theo các bãi biển.
Mặc dù Cox’s Bazar không thu hút nhiều khách du lịch nước ngoài, nhưng đây là điểm đến phổ biến nhất đối với khách du lịch Bangladesh, là những người quá ít quan tâm đến bãi biển cát trải dài nhất thế giới này và để mặc cho nó bị rác rến phủ đầy.
Việc tái lập tự nhiên ở Venice, Cox’s Bazar và các nơi khác trên thế giới có thể là một trong số ít những khía cạnh tích cực trong thời điểm khó khăn to lớn này của thế giới.
Virus corona và suy thoái môi trường
Chúng ta đổ lỗi cho ai trong một cuộc khủng hoảng mà chúng ta chưa từng thấy ngay cả trong những cơn ác mộng tồi tệ nhất của chúng ta?
Có thể một ngày nào đó chúng ta sẽ biết điều gì thực sự gây ra thảm họa quốc tế này, hoặc có thể nó vẫn không được giải quyết như bí ẩn của Tam giác quỷ Bermuda. Ngay cả khi khu chợ cá Vũ Hán là đáng chê trách, thế giới không thể phủ nhận vai trò của mình trong việc không thể ngăn chặn việc giết hại tràn lan các loài động vật hoang dã và chim chóc để làm thức ăn và thuốc uống trong nhiều năm qua ở Trung Quốc và các nơi khác trên thế giới.
Trong nhiều năm qua, cuộc tấn công của loài người không chỉ giới hạn ở động vật hoang dã mà còn nhắm vào hầu hết mọi khía cạnh của thiên nhiên. Chúng ta tiếp tục trả giá. Ô nhiễm nặng nề trong không khí, đất và nước được quy trách nhiệm cho chín triệu ca tử vong mỗi năm, khoảng 16% tổng số ca tử vong.
Nhưng chúng ta đã không thay đổi và tiếp tục bám vào nỗi ám ảnh của chúng ta về một nền văn hóa duy tiêu dùng và phát triển kinh tế tàn nhẫn với giá phải trả là sinh thái.
Thật khó mà không đồng ý với những chuyên gia cho rằng có lẽ có một mối liên hệ trực tiếp giữa các đại dịch như Covid-19 và sự suy thoái môi trường. Trong nhiều thập kỷ, chúng ta đã phá hủy các khu rừng và tham gia buôn bán động vật hoang dã bất hợp pháp khiến con người tiếp xúc gần gũi với động vật hoang dã và từ từ tạo điều kiện cho một thảm họa ồ ạt.
Ở nhiều nước thuộc thế giới thứ ba như Bangladesh, chỉ một nhúm người tin rằng sự phát triển và bảo tồn tự nhiên có thể song hành với nhau. Vì vậy, nạn phá rừng, xâm lấn sông ngòi và cưỡng đoạt động vật hoang dã là chuyện rất phổ biến.
Gạt bỏ các cuộc biểu tình trong và ngoài nước, Bangladesh đã tiến lên phía trước với hai nhà máy chạy bằng than đốt gần rừng ngập mặn Sundarbans nổi tiếng, một động thái gây ra mối đe dọa lớn đối với môi trường và động vật hoang dã.
Những bóng ma của những hành vi sinh thái sai trái của chúng ta đã quay trở lại ám ảnh chúng ta. Tổ chức Y tế Thế giới gần đây đã cảnh báo rằng virus corona mới có thể không biến mất hoàn toàn khỏi thế giới, điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ không sớm được tha thứ tội lỗi chống lại tự nhiên.
Tồn tại hay không tồn tại
Năm 2015, Thông điệp mang tính đột phá về môi trường của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô “Laudato si”, đã gọi ô nhiễm là “một thứ tội” và đánh mạnh vào “những loại phát triển vô trách nhiệm”, gây ra những thiệt hại không thể khắc phục được cho môi trường.
Đức Thánh Cha cũng nhắc nhở chúng ta về những gì chúng ta thường hay quên: “Khi nói đến “môi trường”, người ta muốn nói về sự liên hệ đã có giữa thiên nhiên và xã hội đang hiện diện nơi đó. Điều này không cho phép chúng ta hiểu thiên nhiên như là một cái gì đó khác biệt với chúng ta hay chỉ là một khung cảnh đơn thuần chúng ta sống trong đó”. (Chương 4, Sinh thái học toàn vẹn).
Quá thường xuyên, chúng ta không nhận ra chúng ta cũng là một phần của tự nhiên và làm hại thiên nhiên có nghĩa là chúng ta đang hủy hoại bản thân và mối quan hệ của chúng ta với thiên nhiên.
Ngay cả trước khi Covid-19 ngẩng cái đầu xấu xí của nó lên, Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã thảo luận về “những tội sinh thái” trong Thượng hội đồng Giám mục cho vùng Amazon vào tháng 10 năm ngoái. Ngài thậm chí còn gợi ý về việc cập nhật giáo lý Hội thánh Công giáo để đưa vào một định nghĩa về “tội sinh thái”.
Những lời kêu gọi mạnh mẽ và nồng nhiệt của Ngài về việc chấm dứt văn hóa vứt bỏ và tình yêu đối với thiên nhiên đã gây được tiếng vang trên khắp thế giới, nhưng vẫn còn một câu hỏi về việc thế giới đã chú ý hay thay đổi được bao nhiêu.
Suốt nhiều năm, Liên Hợp Quốc đã hành động không đủ để cứu hành tinh của chúng ta khỏi ô nhiễm và suy thoái mặc dù có một loạt các hội nghị về biến đổi khí hậu và Liên Hợp Quốc không thể đồng thuận với hai nước gây ô nhiễm nhiều nhất, là Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Công việc tiên phong của cựu phó tổng thống Mỹ Al Gore về biến đổi khí hậu đã được đánh giá cao trên toàn cầu. Cộng đồng quốc tế đã không giải quyết thỏa đáng tình trạng “khẩn cấp hành tinh” ngày càng gia tăng mà ông cảnh báo.
Lời kêu gọi của nhà hoạt động môi trường người Thụy Điển Greta Thunberg đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên thế giới đứng lên vì công bằng khí hậu, nhưng vẫn còn phải xem những nỗ lực của cô ấy có thể mang lại bao nhiêu tác động.
Không có gì – không có cuốn sách, tài liệu, bài phát biểu hay hội nghị tuyệt vời nào – có thể là đủ để cứu môi trường trừ khi chúng ta thay đổi lòng dạ của chúng ta và xem bản thân là một phần của thiên nhiên.
Một ngày nào đó đại dịch virus corona sẽ kết thúc. Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có trở lại với cuộc sống bình thường với tư cách là những con người đã được thay đổi và có tình yêu đối với thiên nhiên và động vật hoang dã. Nếu không, con sứa của Venice sẽ chết đi và cây hoa muống rực rỡ buổi sáng trên bãi biển của Cox’s Bazar sẽ lại biến mất.
Lịch sử và các thế hệ tương lai sẽ không tha thứ cho chúng ta vì chúng ta đã để lại phía sau mình một hành tinh tồi tệ hơn, bị đại dịch và biến đổi khí hậu gây họa.
_______________
[1] ND: Cox’s Bazar là một thị xã, một cảng cá và là nơi đóng trụ sở của chính quyền quận Cox’s Bazar ở Bangladesh. Ở đây nổi tiếng với bãi biển cát rộng và là bãi biển cát tự nhiên dài nhất thế giới. Rock Ronald Rozario
Phê-rô Phạm Văn Trung dịch từ ucanews.com
2020
Lời dạy con gây chấn động của một phụ huynh: ‘Chúc con gặp thật nhiều trắc trở”.
“Thường lệ, những người diễn thuyết trong các lễ tốt nghiệp, sẽ chúc con may mắn và mong mọi điều tốt đẹp trong tương lai sẽ đến với con. Ta sẽ không làm thế và ta sẽ nói với các con tại sao. Từ giờ đến nhiều năm về sau, ta hy vọng con sẽ bị đối xử bất công, bởi chỉ có như vậy con mới có thể cảm nhận được giá trị của sự công bằng…”
“Chúc con gặp thật nhiều trở ngại”.
John Roberts là thẩm phán cao nhất tại nước Mỹ. Nhiệm vụ của ông phải luôn là một con người khôn ngoan và rõ ràng phẩm chất đó không chỉ giới hạn trong tòa án.
Trong lễ tốt nghiệp trung học của cậu con trai của mình, ông đến với tư cách là một vị phụ huynh. Nhưng người cha nào lại chúc con mình bất hạnh và gặp những điều tồi tệ nhất trong đời?
John Roberts – Chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ.
Khoan hãy phán xét ông không biết thương yêu con”, hãy nghe những lời lẽ sâu sắc mà ông dành cho bọn trẻ cũng vì mong chúng trưởng thành… Vị chánh án này nói rằng, các bài diễn thuyết trong lễ tốt nghiệp thường tràn ngập những lời chúc tốt đẹp, nhưng ông cho rằng “ta sẽ không làm thế và ta sẽ nói với các con lý do tại sao”:
Mở đầu, ông John Roberts nói: “Ta rất lấy làm tiếc phải nói với các con một điều rằng, thời khắc vui vẻ nhất và thoải mái nhất trong cuộc đời của các con sắp trở thành quá khứ rồi…”
Ngài Chánh án đã bắt đầu bài diễn văn của mình trong sự ngỡ ngàng của đám học trò non nớt, chưa từng trải đời. Lũ trẻ vô cùng kinh ngạc, bởi điều chúng chờ đợi là những lời chúc may mắn, mong mọi điều tốt đẹp sẽ đến trong tương lai, nhưng ông đã không làm thế, và đây là lý do tại sao:
“Từ giờ về sau, ta hy vọng con sẽ bị đối xử bất công, bởi chỉ có như vậy con mới có thể cảm nhận được giá trị của sự công bằng.
Ta hy vọng con có thể nếm trải một chút mùi vị của sự phản bội, bởi chỉ có như vậy con mới có thể hiểu được tầm quan trọng của sự chân thành.
Xin lỗi phải nói thế này, nhưng ta hy vọng con cảm nhận được sự cô đơn hàng ngày, bởi chỉ có như vậy con mới hiểu được rằng, bạn bè không phải là điều đương nhiên mà con cần phải giữ gìn.
Ta hy vọng con có thể gặp xui xẻo một vài lần, bởi chỉ có như vậy, con mới hiểu được ý nghĩa của may mắn trong đời, để con khiêm tốn hiểu rằng, thành công mình có, có lẽ là nhờ vận may, và sự thất bại của người khác cũng không phải là đáng đời.
Và khi con gặp thất bại, từ nay về sau còn nhiều, đối thủ của con sẽ châm chọc và cười nhạo trên sự đau khổ của con. Bởi như vậy con mới hiểu có phong độ rốt cuộc quan trọng như thế nào.
Ta hy vọng thi thoảng con bị người khác coi thường, chỉ có như vậy con mới hiểu được học cách tôn trọng và lắng nghe là quan trọng tới mức nào. Và ta cũng hy vọng con sẽ học được đủ đau đớn, để học cách cảm thông.
Cho dù ta có hy vọng những điều này hay không, thì thật ra sớm muộn gì nó cũng sẽ xảy ra trong cuộc sống của con. Con có thể tiếp thụ giáo huấn hoặc thu hoạch được gì trong đó hay không, đều dựa vào việc con có nhìn thấy những bài học trong khổ đau của mình hay không.
“Ông còn căn dặn lũ trẻ rằng, thành công đến từ những người không biết sợ hãi. “Nếu các con có thất bại, con đứng dậy và thử lại một lần nữa. Nếu thất bại lần thứ 2, con hãy lại đứng dậy và thử lại lần nữa.
Và nếu con có thất bại một lần nữa – đó có thể là lúc hãy suy nghĩ làm một việc gì khác”.
Vị chánh án đã cho bọn trẻ bài học quý khi đối diện với cuộc đời nhiều khắc nghiệt.
Ông cũng khuyên các cậu bé trung học trong buổi diễn thuyết chân thành rằng, hãy nhận thức được mình sung sướng thế nào – một ngôi trường với tỉ lệ 1 giáo viên trên 4 học sinh, nơi học sinh được mặc vest và thắt cà vạt, và học phí và chi phí ăn ở tốn hơn 1 tỷ/ năm.
Thông qua con trai mình, Roberts biết rất nhiều học sinh nhà giàu này, nhưng không vì thế mà các cậu trở nên hư đốn.
Ông thúc giục chúng, khi sang trường mới, hãy tự giới thiệu mình với mọi người “nhặt lá, xúc tuyết và dọn thùng rác. Nhớ tên của mọi người, cười và gọi họ bằng tên của họ.”Điều tồi tệ nhất xảy ra, khi người ta chỉ nhớ đến các con là một chàng trai trẻ nào đấy, biết cười và nói xin chào”.
Ông nói: “Lời khuyên của ta là: Đừng hành động như thể mình ở mâm trên.”
Rất nhiều người sau khi nghe được những lời diễn thuyết này, đã tỏ ra vô cùng đồng thuận. Những lời “khó nghe” này, giống như lời cảnh tỉnh. Đó là những điều tinh túy nhất được chắt lọc lại, từ một con người thông tuệ từ kiến thức xã hội đến kinh nghiệm sống cá nhân.
Đời người vốn có rất nhiều nỗi khổ, khi bạn thấy “học hành rất khổ”, “làm việc rất khổ”, “cuộc đời rất khổ”…, thì xin chúc mừng, bạn đã trưởng thành hơn rất nhiều người, còn đang ngủ quên trong cái “bẫy ảo tưởng” đầy cám dỗ, chưa thoát nổi để bước vào cuộc sống thực. Bởi vì, “khổ” là một điều tất yếu trong thế gian này.
(Cardigan Mountain School)
2020
Đường Giêsu – Đường con đi
Đường Giêsu – Đường con đi
Trong những ngày đầu tháng 02 năm 1990, có một con đường ở huyện ngoại thành đã được báo chí làm cho nổi tiếng. Con đường ấy một đầu là giăng ngang biểu ngữ khai trương phòng vật lý trị liệu trá hình, còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng làm nhà riêng của người biển thủ, chức danh là giám đốc. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những vụ tai tiếng.
Từ hai mươi thế kỷ nay, trong Giáo Hội, người ta biết có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng. Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường ấy trải dài tin yêu để lâng lâng vươn lên sự sống. Con đường ấy thấp sáng hy vọng để dẫn tới Nhà Cha trên trời. Đường mở về miên viễn, Đường dẫn đến vĩnh hằng. Đó là đường mang tên Chúa Giêsu.
1. Đường hy vọng tin yêu.
Nếu có một câu hỏi được các Tông đồ đặt ra nhiều nhất thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn. “Thầy ở đâu?” là câu hỏi của Gioan đặt ra trong lần đầu gặp gỡ, để được gọi đến xem và bước vào ơn gọi; “Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua ở đâu?” là câu hỏi của các Tông đồ đặt ra để có được địa chỉ chính xác cho Bữa Tiệc Ly; và hôm nay lại là Tôma nôn nóng bật ra câu hỏi “Thầy đi đâu?” trước một tương lai vẫn còn ẩn khuất.
Bận tâm về nơi chốn là bởi vì trong đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, mà cuộc hành trình cuối cùng là tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết. Có khối ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa để trở thành con đường thất vọng của mình. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Người lại bị đóng đinh như tên tử tội. Công dã tràng! Khi mọi vốn liếng hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bỗng dưng lật ngửa trắng tay, người ta như rớt từ trên cao quay cuồng chao đảo. Thế mới hay ước vọng thì rộng lớn nhưng khung đời lại chật hẹp mà thực tế lại phũ phàng!
“Thầy đi đâu?” Ẩn sâu dưới câu hỏi ấy là một tâm trạng hoang mang trước một quá khứ vừa mới khép lại mà tương lai chưa kịp mở ra. Tương lai ấy mới mẻ hay chỉ là quá khứ được lặp lại ở thì sẽ đến? Đã một lần vỡ mộng, các Tông đồ băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần phải bỏng, hễ thấy lửa là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế, nghe trong câu hỏi “Thầy đi đâu?” có âm hưởng lo âu tự hỏi “mình đi đâu?”
Thất vọng về quá khứ và hoang mang trước tương lai, đó là những con đường các Tông đồ đã nếm trải. Nhưng mở đầu Tin Mừng hôm nay lại là lời của Chúa Giêsu: “Các con đừng xao xuyến.” Đó là lời an ủi vỗ về, đồng thời cũng là lời cắt băng khai mở một con đường mới trong hy vọng tin yêu.
2. Đường mang tên Giêsu.
“Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” Trả lời cho Tôma, cùng lúc Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy nhất được mở ra trong ơn cứu độ, và tên gọi con đường ấy lại chính là Người.
Người là Đường Sự Thật bởi Người là Chân Lý, một chân lý sống động khả tín làm nền tảng và hướng đi cho mọi cuộc đời, một thực tại năng động đầy Thần Khí làm sức mạnh giải thoát cho mọi kẻ tin. Đường Sự Thật không phải là một hệ thống tín điều do Chúa Giêsu thiết định, nhưng là toàn thể cuộc sống lời nói việc làm của Người trong ý nghĩa cứu độ. Nhưng đâu phải ai cũng nhận ra? Giữa phiên tòa dịp lễ Vượt Qua, trước mặt Chúa Giêsu, Philatô đã hỏi một câu ngớ ngẩn: “Sự Thật là chi? – Quid est Veritas?” Chúa Giêsu không trả lời, vì Sự Thật hiện thân chính là Người đứng đó. Có biết đâu hỏi là đã trả lời, chỉ cần sắp xếp lại thứ tự các mẫu tự sẽ thành hàng chữ: “Est Vir qui adest” (x. Tihamet Toth, Chúa Cứu Thế Với Thanh Niên, p. 95).
Người là Đường Sự Sống bởi Người là Sự Sống thượng nguồn phát sinh các sự sống khác trong công trình sáng tạo, và là Sự Sống cội nguồn mà mọi sự sống khác phải tìm về trong công cuộc tái tạo của ơn cứu độ. Người thông ban sự sống cho mọi sinh linh, và luôn đi bước trước để lôi kéo mọi người về với Sự Sống của Thiên Chúa. Người chịu chết để nhân loại được sống, và Người sống lại để mãi mãi mở ra nẻo đường dẫn vào cõi sống. Mọi sự sống trần gian có thể đổi thay tan biến, nhưng Sự Sống Người là vĩnh cửu trường tồn. Người hằng sống hằng trị muôn đời.
Người là Đường dẫn tới Nhà Cha bởi Người và Cha không thể tách lìa: Chúa Con ẩn mình trong Chúa Cha, và Chúa Cha tỏ hiện trong Chúa Con. Vẫn là Một từ ngàn xưa và mãi là Một tới ngàn sau. Thế nên Đường mang tên Giêsu tất yếu cũng là địa chỉ Nhà Cha, và ngược lại tìm đến Nhà Cha cũng là hành trình vào Đường Sự Thật và Sự Sống.
3. Đường con đi
Dẹp bỏ con đường cũ của thất vọng hoang mang để khai mở con đường mới bằng toàn diện con người mình, Chúa Giêsu muốn truyền lại cho các Tông đồ cái kinh nghiệm hiện sinh phong phú liên kết với Cha qua Chân Lý và Sự Sống; đồng thời đó cũng chính là lời mời gọi Giáo Hội cất bước lên đường với những hành trang đi về hạnh phúc.
Đi trên Đường Giêsu là đi bằng cả niềm tin gắn bó hiệp thông của những con người biết mình có một lý tưởng để theo đuổi, và sẵn sàng hy sinh tất cả để đạt được lý tưởng ấy. Trút bỏ những hành trang cồng kềnh của danh lợi thú, đoạn tuyệt với những ngõ cụt lối mòn sao gợn sỏi đá của cuộc sống khô khan, chấp nhận canh tân để có được bước đi vừa thanh thót vừa thanh thản của đời nhân đức chính là hát lên khúc ca mới trên con đường mới. Vì lý tưởng ấy chính là lẽ sống, cũng chính là vinh dự một đời: “Anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là chủng tộc thánh thiện, Dân riêng của Chúa…” (bài đọc thứ hai).
Đi trên Đường Giêsu cũng là đi bằng niềm hy vọng bền vững. “Thầy đi dọn chỗ cho các con.” Vận mệnh tương lai đã mở ra. Không còn xa xôi tít tắp, nhưng đã châm rễ từ cuộc đời này. Sống hôm nay là chuẩn bị sống ngày mai, và ngày mai tại Nhà Cha đã được định hình ngay từ bây giờ trong bước đường lữ thứ của Hội Thánh ở giữa lòng đời. Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng về một cứu cánh, được tái sinh trong giới hạn nhưng không ngừng hướng về vô hạn. Thiết tưởng lời kinh của Thánh Augustinô có thể là tóm kết của bước đi hy vọng đã biến thành khát vọng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con để cho Chúa, nên con mãi khắc khoải cho tới khi được nghỉ ngơi trong Ngài.”
Đi trên Đường Giêsu còn là đi bằng cả tình yêu chan hòa phục vụ. Bài đọc thứ nhất là hình ảnh đẹp về một Giáo Hội trẻ đang cựa mình vươn vai tiến tới. Có những phân công khác biệt: kẻ phục vụ bàn thánh, người phục vụ bàn ăn; kẻ chuyên chăm rao giảng Lời Chúa, người chuyên lo hạnh phúc anh em. Nhưng vẫn là nhịp bước đồng hành. Có thể nói được rằng tình yêu và phục vụ là đôi chân của Giáo Hội lữ hành đặt bước chân mình trong dấu chân Chúa. Và cũng có thể hiểu được rằng cách nhìn “con người là con đường của Giáo Hội” (Gioan Phaolô II) chính là tốc độ mới của tình yêu chan hòa phục vụ trên Đường Giêsu hôm nay.
Và lời cuối cùng sẽ là một lời kinh, dệt nên khúc hát hy vọng cho những ai đang băn khoăn tìm kiếm một con đường sống, và biến nên hành khúc tin yêu cho những ai đã một lần cất bước hành trình: “Chúa muốn nhận con đường con đi, nên Ngài đã sinh xuống dương gian. Chúa đã nhận đôi bàn tay con, dìu từng bước, bước đi trên đường. Chúa ôi, khi nhìn đời con, con không hiểu từng giọt lệ sầu. Chúa ôi, khi nhìn đời Ngài, con đã gặp đường hướng con đi.”
ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
trích trong “Với Cả Tâm Tình”
2020
Ơn biết cầu xin
(Bài viết của Patricia Mitchell, Biên tập nội dung của Tạp chí The Word Among Us)
Phòng để thức ăn của tôi đã đầy. Rất nhiều đồ ăn. Nhiều đến nỗi tôi lấy làm thẹn, vì thức ăn đó chỉ phục vụ cho ba người đang ăn ở đây trong những ngày này – chồng tôi, tôi và người mẹ 91 tuổi của tôi, người ăn rất ít.
Khi tin tức về coronavirus được đăng tải, tôi đã cố gắng không tích trữ hay hoảng sợ. Nhưng sau đó tôi cứ tự hỏi, nếu hết thức ăn và tôi không thể đến cửa hàng thì sao đây? Hoặc điều gì sẽ xảy ra nếu các nguồn cung ứng bắt đầu cạn kiệt? Vì thế mà ở nhà chúng tôi phải tích trữ thực phẩm để đủ dùng cho một tháng trở lên.
Điều này khiến tôi có suy nghĩ là: thật chính đáng khi tôi không thể dự trữ ân sủng. Vì giả sử nếu chuyện hết lương thực xảy ra với tôi, tôi sẽ muốn có một phòng đựng thức ăn đầy đủ, sẵn sàng và chờ đợi phục vụ tôi bất cứ lúc nào tôi cần. Nhưng ân sủng thì giống như manna trong sa mạc: tôi cần một nguồn cung cấp mới mỗi ngày. Và điều đó thúc bách tôi phải đến với Chúa mỗi buổi sáng và xin Người ban cho tôi “của ăn” mới – điều mà chính Chúa muốn ban cho tôi. Chúa muốn tôi trông cậy vào Người, chứ không phải vào tôi. Người cũng muốn tôi tin tưởng rằng Người sẽ ban mọi ân sủng mà tôi cần để tôi trở nên môn đệ của Người và đi theo Người.
Sau khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, một người lính đã đâm thủng cạnh sườn Người và máu cùng nước đã chảy ra từ đó. Theo các Giáo phụ của Giáo Hội, nước đó là biểu tượng cho Bí tích Rửa Tội. Tôi thường tưởng tượng ân sủng của Thiên Chúa như một dòng nước không bao giờ cạn chảy ra từ cạnh sườn của Chúa Giêsu. Chúng ta được ngụp lặn vào trong sự sống thánh thiêng và nước ân sủng này khi chúng ta lãnh phép Rửa Tội. Nhưng đó không phải là điều gì đó xảy ra một lần duy nhất. Mỗi ngày khi chúng ta đến trước Chúa trong cầu nguyện, chúng ta lại có cơ hội đứng dưới chân thập giá của Chúa và được đổ tràn đầy ân sủng của Người.
Bây giờ, tôi đặc biệt cần ân sủng đó. Đã hơn một tháng kể từ khi chúng tôi phải ở nhà vì giãn cách xã hội. Lúc đầu, tôi nghĩ đến tất cả những điều tích cực có thể làm trong vài tuần ở nhà. Chẳng hạn như cuộc sống của tôi sẽ chậm lại, tôi sẽ không phải chạy từ đây đến đó, và tôi sẽ có thời gian để làm những việc tôi đã trì hoãn nhiều năm. Nhưng như một đồng nghiệp của tôi gần đây đã nói: Cái hào hứng sẽ mất dần dần. Tôi nhớ các con và các cháu của tôi. Tôi nhớ các bạn hữu và các đồng nghiệp của tôi. Tôi đặc biệt nhớ Bí tích Thánh Thể.
Nhưng việc không được lãnh nhận Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể đã làm cho tôi nhận ra mình đã có biết bao ân sủng. Qua phép Rửa Tội, tôi là người dự phần vào cuộc sống thánh thiêng của Thiên Chúa (x. 2 Pr 1,4). Chúa Kitô sống trong tôi! Không chỉ thế, mà mỗi ngày, nhờ phép Rửa Tội, tôi có thể đi đến tận nguồn ân sủng của Thiên Chúa, và đôi tay sẵn sàng mở ra để lãnh nhận tất cả những gì Chúa dành cho tôi ngày hôm đó.
Phục Sinh là thời gian trong năm khi chúng ta làm mới lại những lời thề hứa khi lãnh Bí tích Rửa Tội. Còn mùa nào tốt hơn trong năm để suy gẫm về ân sủng của Bí tích Rửa Tội và tất cả những gì mà Bí tích ấy có ý nghĩa đối với chúng ta? Các bài viết trong số báo về Phục Sinh của chúng tôi năm nay nhằm tìm hiểu về bí tích nền tảng này. Chúng tôi hy vọng và cầu nguyện mong cho các bài viết có thể giúp bạn đánh giá cao quà tặng rất tuyệt vời mà tất cả chúng ta đã được ban tặng – một quà tặng không ngừng được trao ban mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta.
Theo The Word Among Us [wau.org
Chuyển ngữ: Sr. Maria Trần Thị Ngọc Hương