2020
Để con tự lập, cha mẹ đừng là vật cản
Để con tự lập, cha mẹ đừng là vật cản
“Khi người lớn làm hộ điều trẻ có thể làm, người lớn đang là vật cản trên con đường phát triển của trẻ”, bà Chiristine Munn, Chủ tịch Hiệp hội Montessori Mỹ chia sẻ.Trong hội thảo “Làm sao để trẻ tự lập” vừa được tổ chức tại Hà Nội, bà Chiristine Munn chia sẻ, thực tế người lớn thường không nhận ra trẻ con từ 2 tuổi đã khao khát tự mình làm mọi việc. Theo quan sát của bà, những câu trẻ 2 tuổi thường nói bên cạnh các từ “bố”, “mẹ”, “không” là “Con có thể tự làm được”, “Để con tự làm”…
Dựa trên kiến thức về sự phát triển của trẻ cũng như quá trình giáo dục trẻ ở trường mầm non, chuyên gia này khẳng định trẻ em 2 tuổi đã có thể tự lập ở 4 lĩnh vực cơ bản trong cuộc sống: ăn, ngủ, đi vệ sinh và tự mặc quần áo. Bà chia sẻ những bức ảnh thực tế ở Mỹ bé 2 tuổi có thể rót sữa từ một chiếc bình lớn và tự uống; bé 3 tuổi có thể tự cắt chuối, táo và tự làm một bữa ăn đơn giản… Thực tế, các con của nhà giáo dục này từ 5-6 tuổi đã có thể tự dậy, chuẩn bị đồ ăn sáng cho mình (bữa sáng đơn giản với bánh mì, ngũ cốc, sữa) và thậm chí phục vụ bố mẹ tận giường…
“Không thể tin được”, “làm sao con tôi có thể tự làm được việc đó?”, “tại sao ở trường con tự làm mọi thứ mà ở nhà con không thể làm việc gì?”… là những câu hỏi giáo viên trường bà thường gặp từ phụ huynh, cũng là một thực tế mà nhiều cha mẹ Việt băn khoăn. Theo bà Chris, vấn đề nằm ở chỗ người lớn thường làm hộ, ngăn cản trẻ con khi chúng đòi làm việc gì đó. “Chúng ta yêu thương con và muốn làm mọi điều tốt đẹp cho con, nhưng chúng ta không thể đi cùng chúng cả đời. Do vậy, hãy để trẻ tự làm”, bà nói.
Nhiều phụ huynh lo lắng khi trẻ đến trường Montessori được sử dụng kéo, dao (loại dao nhỏ phù hợp, an toàn cho trẻ em) để cắt đồ ăn. Họ thường hỏi: “Lỡ trẻ cắt đứt tay thì sao?”. Các giáo viên trả lời: “Cũng có trường hợp cắt phải tay, nhưng chỉ xây xước tí thôi, không nghiêm trọng. Đây chính là cách chúng ta học. Người lớn cũng thế, có ai chẳng một vài lần bị đứt tay. Chúng sẽ học sử dụng dao một cách khéo léo hơn. Và quả thật, thường các em chỉ cắt phải tay một lần”.
Khi nhìn vào danh sách việc trẻ có thể tự làm và bức ảnh làm việc thực tế của trẻ em, một phụ huynh đặt câu hỏi: Rất nhiều cha mẹ Việt vẫn đút cho con ăn, rót nước cho con uống, mặc quần áo, đi giày cho con…, thậm chí tới lúc con 5 tuổi, vẫn dọa nạt, dụ dỗ để đút từng thìa cơm, có phải chúng tôi đang là vật cản của con?
Một phụ huynh khác có con 4 tuổi chia sẻ, đã làm hộ con mọi thứ từ nhỏ đến giờ, hiện nay con chẳng chịu làm bất cứ việc gì, làm sao để con tự lập trở lại? “Hãy bắt đầu từ những việc mà con thích, làm từng việc một. Hãy thử cách làm cho việc đó thú vị. Chẳng hạn cha mẹ có thể đổ nước vào một bình nhỏ, cho con tự rót ra cốc. Trẻ em thường rất hào hứng với việc đó”.
Tư duy lại về việc “dạy con tự lập”
Dạy con tự lập là một chủ đề nóng, được nhiều cha mẹ quan tâm trong những năm gần đây. Những chủ đề như người Mỹ dạy con tự lập như thế nào, làm sao trẻ con Pháp, Đức có thể tự chủ, tự tin như vậy… là thông tin được tìm kiếm và trao đổi nhiều trên các diễn đàn và báo mạng.
Nhà giáo dục Maria Montessori đã khẳng định, trẻ em tự phát triển. Trẻ 0-6 tuổi có trí tuệ thẩm thấu, khả năng học hỏi kỳ diệu từ môi trường, như một miếng bọt biển có thể thấm hút mọi thứ xung quanh mình. Chỉ cần cung cấp một môi trường an toàn, hỗ trợ, với những đồ đạc vừa kích cỡ, các dụng cụ thực hành mời gọi trên giá, trẻ sẽ háo hức tự mình làm mọi thứ.
Những quan sát và trải nghiệm của bà đã và đang được chứng minh ở các trường học Montessori. Khi được ở trong môi trường phù hợp, với đầy đủ vật dụng, trẻ sẽ tự lấy đồ dùng học tập, tự cất vào giá khi sử dụng xong, tự lau dọn bàn ghế và phòng học, tự đi vệ sinh, mặc quần áo, đi giày và các hoạt động thực hành cuộc sống khác…
Cũng tương tự như vậy, để trẻ có thể tự lập, việc của bố mẹ không phải là giảng dạy hay ép buộc, mà chìa khóa nằm ở chỗ: Tạo ra môi trường để khuyến khích mời gọi trẻ tự làm – vốn dĩ là nhu cầu lớn lao của các em bé 2-3 tuổi.
“Khi tự làm thành công một việc gì đó, trẻ sẽ tự tin vào chính mình, có hình ảnh bản thân tốt đẹp, cảm thấy mình có giá trị, khi lớn lên trẻ sẽ tự chủ, có khả năng để đối phó với những thách thức của cuộc sống”, bà Christine Munn nói.
Một yếu tố khác mà nhà giáo dục này nhắc đi nhắc lại là sự kiên nhẫn của bố mẹ. “Trẻ con chân ngắn hơn chúng ta, bước chậm hơn chúng ta. Thay vì bế để con đi nhanh hơn, bố mẹ hãy đi chậm lại. Lúc đầu làm việc gì, con cũng sẽ vụng về, lóng ngóng, nhưng dần dần con sẽ tự làm được”, bà nói.
Những gợi ý cụ thể để trẻ tự lập:
– Nếu trẻ có thể tự đi, không bế.
– Cho con thấy cách bố mẹ lau dọn và để con tự làm.
– Nếu có thể, hãy chuẩn bị cho con những đồ đạc, dụng cụ vừa cỡ: Để nước ở nơi con có thể tự rót được, chuẩn bị giẻ lau sặc sỡ để con yêu thích việc lau chùi bàn ghế, để quần áo ở nơi con có thể tự lấy được, mua quần áo đơn giản, dễ mặc vào cởi ra để con có thể tự làm…
– Dạy con bằng cách làm mẫu cho con, không chỉnh sửa lỗi sai của con.
– Chỉ giúp đỡ khi con cần, không nhảy vào làm hộ khi thấy con gặp khó khăn hoặc làm chưa tốt.
Hằng Nguyễn
2020
9 quan điểm của một người cha tốt
Một người cha tốt có thể tạo ra tất cả sự khác biệt trong cuộc sống của một đứa trẻ. Anh ta là trụ cột sức mạnh, nâng đỡ và rèn luyện con cái hình thành nhân cách. Công việc của người cha là bất tận, và thường thường, không đòi hỏi sự biết ơn. Nhưng để là một người cha tốt, đôi lúc cũng không phải dễ dàng.
Sau đây là những quan điểm của một người cha tốt trong cuộc đời của những đứa con.
5. Người cha dành thời gian cho con cái. Người cha biết sẽ thú vị như thế nào nếu cùng con mình vui đùa, xem phim hay cổ vũ con cái trong những trận thi đấu nào đó… Người cha sẽ dành thời gian lắng nghe những đứa con mình và có những cuộc chuyện trò vui vẻ, dễ chịu với chúng. Người cha cũng sẽ dành thời gian để giúp con mình làm bài tập nhà mỗi tối nếu cần thiết.
6. Người cha đem lại sự thông cảm. Mặc dù người cha có thể là một fan của bóng đá, nhưng nếu con trai của ông không cùng sở thích thì ông vẫn sẵn sàng chấp nhận. Người cha có thể trung thành với những ước mơ của ông nhưng nếu con trai ông ta có những ước mơ không như cha mình, người cha vẫn ủng hộ sự quyết định của con và giúp con vạch ra con đường khác để đi.
7. Người cha… thách thức con mình. Người cha muốn con mình phải đạt đến mức tốt nhất mà chúng có thể và cho chúng những sự thách thức để giúp chúng phát triển hơn. Điều này có ý nghĩa rằng, người cha sẽ cho chúng những tự do để đối diện và giải quyết những xung đột trong cuộc sống của chúng.
8. Gia đình đối với người cha là vô giá. Không cần phải đắn đo, người cha sẽ bảo vệ gia đình mình bằng bất cứ điều gì mà ông ta có thể làm được. Người cha cũng sẵn sàng làm thêm công việc để giúp cho cuộc sống gia đình tốt hơn.
9. Tình thương của người cha luôn mênh mông – vô điều kiện. Đây là phẩm chất vĩ đại nhất của một người cha tốt. Dù rằng người cha có thể thất vọng trước những lỗi lầm của con cái, về những hy vọng dành cho chúng không thành, nhưng người cha vẫn yêu thương con mình mà không cần quan tâm đến những điều đó… st
2020
Nên thánh đối với các bệnh nhân
Thân phận con người là hữu hạn: “hữu sinh, hữu tử”, nghĩa là có sinh ắt phải có tử. Nhưng ngày sinh thì biết, ngày tử thì không. Chết ở đâu, khi nào và chết bằng cách nào chúng ta không hề hay biết. Chỉ biết rằng sinh ra trong cõi đời này, sống trong cõi tạm này và ngày nào đó ta sẽ phải buông bỏ tất cả, chấm dứt cuộc đời chóng qua. Đời người được ví như một chuyến đi, một hành trình có khởi đầu và kết thúc mà không ai thoát khỏi.
‘Sinh, Lão, Bệnh, Tử’ đã trở thành quy luật của một đời người và là định mệnh của con người. Nói đến bệnh, ai trong chúng ta lại không cảm nghiệm được sự đau đớn, khó chịu, buồn bực, âu lo, sợ hãi… có nhiều người đã chán nản, thất vọng, buông xuôi, hụt hẫng, khi được tin bản thân có bạo bệnh. Điều này không ai phủ nhận và chê cười, nhưng điều quan trọng là làm thế nào, dù đau buồn với căn bệnh nơi thân xác nhưng chúng ta vẫn phải giữ được trạng thái của mình mà sống bình an, phó thác; sống lạc quan và yêu đời, mới mong có thêm tuổi thọ.
Nên thánh đối với bệnh nhân là giúp họ nhận ra ý nghĩa của đau khổ trong Thánh Kinh và đón nhận bệnh tật với cái nhìn đức tin. Quả vậy, nếu bệnh tật và tuổi tác là một thực trạng gắn liền với thân phận con người, và con người không sao thoát nổi, chỉ thì còn cách đón nhận nó và sống chung với nó. Người tin vào Chúa tìm được nơi Ngài nguồn trợ lực siêu nhiên để nhờ đó, những đau đớn thể xác được giảm bớt. Đức tin cũng hướng họ về cuộc sống vĩnh cửu, nơi không còn bệnh tật chết chóc và đau khổ. Giáo Hội yêu thương mọi con cái mình, trong số đó có các bệnh nhân. Giáo Hội cũng có nhiều hình thức giúp đỡ phục vụ người bệnh về tinh thần cũng như vật chất. Chủ đề “nên thánh đối với các bệnh nhân” cũng giúp các tín hữu là những người đang khỏe mạnh suy tư, cầu nguyện và thực thi bác ái đối với anh chị em đang gánh chịu nỗi đau thể xác và tinh thần do bệnh tật.
1- Bệnh tật như một tình trạng của đời sống
Trong tất cả mọi trường hợp, nói đến bệnh tật là nói đến một sự thay đổi về thể chất, một tình trạng trong đời sống, ảnh hưởng đến cá tính con người, các tương quan với bản thân, với người khác và thế giới. Trong thời gian đầu, người bệnh quan tâm đến cơ thể hay các bộ phận bị ảnh hưởng bởi bệnh tật, đến thân nhiệt, thuốc men, các kết quả xét nghiệm. Người bệnh tự quan sát mình, so sánh tình trạng hiện thời với các thành tích trong quá khứ và cảm thấy mình yếu kém: “mình không còn là mình”. Trước kia mình lãnh đạo, quyết định, hành động. Bây giờ mình phải chờ đợi quyết định và sự giúp đỡ của người khác. Với thời gian, người bệnh quen với bệnh tình của mình, với nếp sống và thế giới bị nhiều hạn chế do bệnh tật gây nên.
Thay đổi sâu sắc nhất thường xảy ra trong tương quan của người bệnh với người khác: người bệnh cảm thấy mình bị đối xử như một người yếu kém về tinh thần cũng như thể xác, một người sống bên lề những người khỏe mạnh, thậm chí như một người vô dụng. Được thân nhân bạn bè thăm hỏi động viên, nhưng người bệnh vẫn cảm thấy mình thuộc một thế giới khác. Bác sĩ, y tá quan tâm chăm sóc, nhưng họ cũng chỉ là những chuyên viên điều trị, tuy gần gũi nhưng vẫn xa cách. Người bệnh có thể tạo được những tương quan mới với người đồng cảnh ngộ: giữa người bệnh với nhau, người ta nghe nhau kể lể bệnh tình, và âm thầm động viên nhau.
Như vậy, bệnh tật không phải là một hiện tượng sinh học hay một hiện tượng xã hội. Bệnh tật chi phối toàn bộ con người tạo nên một tình trạng đời sống, một nếp sống ảnh hưởng sâu sắc đến cách suy nghĩ, phê phán, phản ứng và xử sự.
2- Phản ứng và thái độ
Ta có thể nói: có bao nhiêu người bệnh thì có bấy nhiêu phản ứng. Mỗi người phản ứng theo cách thế và thái độ của mình. Những phản ứng và thái độ này cũng có thể biến chuyển, thay đổi mau chóng, bất ngờ:
– Trong giai đoạn đầu, người bệnh thường tỏ ra mất tinh thần khi thấy sức khỏe suy sụp, tiêu hao. Bệnh tật gây hoảng sợ và phẫn nộ: tại sao lại tôi, chứ không phải người khác? Tôi đã làm gì để phải chịu một hình phạt bất công? Bạn bè ông Gióp trong Kinh Thánh Cựu ước cũng đã phản ứng như vậy.
– Từ phẫn nộ, người bệnh đâm ra sợ hãi: sợ đau, sợ mổ; sợ sống lệ thuộc vào người khác, sống xa người thân, sợ bị bỏ rơi, sợ cho tương lai, sợ chết, và đặc biệt sợ sự im lặng đồng lõa của những người thân cận.
– Trong một số trường hợp, đau đớn ở mức độ cao làm tê liệt sinh lực: người bệnh không còn biết đau, chỉ còn biết chịu đựng. Trong một số trường hợp khác, người bệnh trở thành sáng suốt hơn, có ý thức hơn, gồng mình chịu đựng đau khổ như một hình phạt bất công. Người bệnh nổi loạn chống đau khổ, chống người thân, bạn bè, thậm chí chống lại cả Thiên Chúa.
Trong những trường hợp này, người Kitô hữu cầu nguyện để vượt qua cơn cám dỗ. Trong tâm trạng cô đơn, không nơi nương tựa, người bệnh ý thức sâu sắc hơn thân phận con người mong manh hữu hạn. Không còn bị chi phối bởi các lo lắng trần tục, người bệnh chỉ còn nghĩ đến “điều cần thiết duy nhất” trong bối cảnh phù vân của cuộc đời. Người bệnh trở thành trầm lặng hơn, bình tĩnh hơn, có chiều sâu hơn. Được nuôi dưỡng bởi Đức tin, người bệnh đi từ thế giới chóng qua để vươn tới thế giới vĩnh cửu. Khi không còn tìm được nguồn trợ lực nơi trần gian, người bệnh kêu cầu và cậy trông vào Thiên Chúa. Một lúc nào đó, họ nhận ra rằng, sự đau khổ, nếu được chấp nhận, sẽ trở thành một sức mạnh có khả năng vươn lên, một môi trường có khả năng cứu độ và thánh hóa.
3- Ý nghĩa của đau khổ bệnh tật dưới cái nhìn Đức tin Kitô giáo
Con Thiên Chúa làm người đã không xóa bỏ bệnh tật và đau khổ khỏi kinh nghiệm nhân loại, nhưng chính Ngài đã đảm nhận chúng, đã biến đổi và mang lại cho chúng một chiều kích mới. Đức Giê-su khẳng định: sự chết không phải là tiếng nói sau cùng. Chết không phải là hết, mà là tái sinh biến đổi. Chính Chúa Giêsu đã đón nhận cái chết. Người sánh ví cái chết của Người như hạt giống gieo trong lòng đất, bị mục nát để nẩy mầm, sinh hoa kết trái. Chúa Giêsu là con đường và chúng ta có thể bước theo Người để gặp gỡ Chúa Cha, nhờ sức mạnh và ơn phù trợ của Chúa Thánh Thần. Như Chúa Cha đã ban Con Một vì yêu thương, và Chúa Con đã hiến mạng sống mình cũng vì yêu thương, nên chúng ta cũng có thể yêu thương tha nhân như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, bằng việc hiến mình cho anh chị em chúng ta.
– Người bệnh nhìn lên Đấng Chí Tôn
Thánh Kinh dạy chúng ta ý nghĩa cuộc đời này là cõi tạm để bước vào đời sống vĩnh hằng:
“Đời chúng con tàn tạ, kiếp sống thoảng qua, một tiếng thở dài. Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi” (Tv 90,9-10). Thánh vịnh 90 dạy cho ta biết, cuộc đời mai sau mới là chốn để chúng ta hướng đến và đi tới. Vì thế, bệnh là cơ hội để chúng ta đến gần sự chết và qua cái chết để mỗi người bước vào ngưỡng cửa của đời sống vĩnh hằng. Cái chết không là ngõ cụt hay tận cùng, nhưng là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Chúa Kitô và cùng với Ngài trong cõi Thiên Quốc.
Khi ý thức cuộc đời này là cõi tạm, con người sống tỉnh thức và khôn ngoan với năm tháng Chúa ban mà hướng về đời sống vĩnh cửu mai sau. Khi đặt niềm tin vào Thiên Chúa, thì dù bệnh tật hay khổ đau chúng ta vẫn được Thần Khí hướng dẫn, ban sức mạnh để vác lấy thập giá khổ đau. Qua thập giá chúng ta sẽ nhận ra được sự khôn ngoan đích thực của Thiên Chúa nơi phận người. Vì thế, chúng ta luôn xác tín vào Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu: “Xin dạy chúng con biết đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv. 90,12).
– Thiên Chúa nhìn xuống người bệnh
Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa làm Người và ở giữa chúng ta. Ngài đến với nhân loại để chia sẻ phận người và cứu độ chúng ta. Ngài không chỉ đến với tội nhân nhưng Ngài đến với những con người khổ đau và bệnh tật. Chính Ngài đã trở nên, như Vị Lương y để chữa lành và ban lại sự sống cho những người ốm đau bệnh tật.
Rất nhiều dẫn chứng trong Tin Mừng cho chúng ta thấy Đức Giê-su chữa lành bệnh nhân cả thể xác cũng như tâm hồn: Câu chuyện Chúa cho anh Lazaro đã chết bốn ngày sống lại (Ga 11.1-45); Câu chuyện người đàn bà bị băng huyết (Mc 5, 25-43); Những phép lạ Chúa làm luôn đòi hỏi đức tin nơi người đang ao ước được chữa lành. Với người đàn bà bị băng huyết, Chúa nói: “lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5,34).
4- Nên thánh đối với bệnh nhân
Nên thánh là ơn gọi chung của mọi tín hữu. Đối với các bệnh nhân, nên thánh là xác tín vào Chúa và nhận ra ý nghĩa của đau khổ trong cái nhìn Đức tin, để rồi lạc quan chuẩn bị cho cuộc lên đường cuối cùng của cuộc đời.
– Không đồng hóa bệnh tật với tội lỗi:
Bệnh tật là dấu chỉ một sự suy yếu của thể xác và như thế không phải là hậu quả do phạm tội hoặc chống đối Thiên Chúa. Đức Kitô đã chống lại quan niệm thông thường của người Do Thái thời đó, đồng hóa bệnh tật và tai họa với tội lỗi của các nạn nhân: “Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôa đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ có tội nặng hơn những người ở Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: “không phải thế đâu” (Lc 13,4). Các môn đệ hỏi Đức Giêsu về người mù từ thuở mới sinh: “Ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta”? Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội, nhưng những chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Đối với Đức Kitô, đau khổ không phải là hình phạt phát sinh từ tội lỗi cá nhân, mặc dù có một liên quan chặt chẽ giữa đau khổ và tội lỗi. Thật vậy, tội lỗi đã tạo nơi con người sự chống đối Thiên Chúa, và vì thế, đã gây nên một sự xáo trộn trong thế giới được tạo dựng mà đau khổ và bệnh tật là những hậu quả và biểu hiện. Vì thế, khi chữa lành các vết thương người bệnh, Đức Kitô cứu chuộc con người toàn diện, nhất là cứu chuộc con người khỏi tội lỗi.
– Vai trò ngôn sứ của người bệnh
Sự đau khổ của Đức Kitô biến đổi sự đau khổ của người bệnh: giữa những người mạnh khỏe, người bệnh sống như một chứng nhân, như một ngôn sứ không ngừng nói lên rằng con người sinh ra cho đời sống vĩnh cửu, từ những đau khổ và bất hạnh của đời này. Thật vậy, đại đa số những người sống ở đời này thường tỏ ra quá gắn bó với đời sống trần gian và không ý thức được rằng sự gắn bó này chỉ dẫn đến diệt vong. Họ tin có Thiên Chúa – một Thiên Chúa mà họ có thể kêu cầu trong trường hợp khẩn cấp – nhưng họ hy vọng sẽ không bao giờ phải sử đụng đến Thiên Chúa. Trên lý thuyết, họ tin rằng hạnh phúc là ở nơi Thiên Chúa, nhưng bao lâu họ còn tìm được hạnh phúc nơi khác, họ không cần đến Thiên Chúa.
Bệnh tật cũng nhắc ta tìm lại được tinh thần mà ta phải có khi sống ở trần gian: tiền tài, vật chất và trái đất này không phải là Thiên Chúa ta thờ, và kho báu đích thực ta phải tìm kiếm chính là Đức Kitô. Và đây là điều mà ta có thể gọi là vai trò ngôn sứ của người bệnh, Thiên Chúa dùng họ để nói với người khỏe mạnh rằng đời sống trần gian chỉ là đời tạm và mọi người đang trên con đường đi tới đất hứa để được an nghỉ trong bình an của Thiên Chúa. Người bệnh sống trong sự phó thác vào Thiên Chúa là con người sống trong sự thật.
– Hướng về đời sau
Bệnh tật nhắc ta rằng hạnh phúc con người quả thật mỏng manh và ta mang trong người một sự “thiếu thốn” mà cuối cùng ta sẽ khám phá ra. Ngày mà ta phải đối diện với Thiên Chúa, ta chỉ có thể tiến dâng Người một cái gì nhỏ nhoi mà ta còn giữ lại được. Ý thức sự mong manh của thân phận con người, chúng ta phải gắn bó và vươn tới cuộc sống vĩnh cửu. Chúa Giêsu loan báo Nước Trời như quê hương đích thực của chúng ta. Ai cũng phải trải qua sự chết để khởi đầu cuộc sống mới. Chính Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại. Người bảo đảm với chúng ta: những ai cũng chết với Người, thì cũng được sống lại với Người. Tin vào đời sau sẽ giúp chúng ta có nghị lực để chống chọi với bệnh tật, đồng thời luôn lạc quan tâm trí, thanh thản cõi lòng và sẵn sàng đón nhận những đau đớn do bệnh tật gây nên.
5- Bí tích Xức dầu bệnh nhân
Thánh Giacôbê đã viết: “Ai trong anh em đau yếu, hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh đến; họ sẽ cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân Chúa” (Gc 5,14).
Trước đây, người ta quan niệm việc lãnh nhận Bí tích Xức dầu như một thủ tục trước khi chết. Vì vậy, có nhiều người sợ hãi bí tích này, coi đó là một điều xui xẻo. Trước cải cách Phụng vụ của Công đồng Vatican II, Bí tích này được gọi là Bí tích xức dầu sau hết. Ngày nay, chúng ta gọi là Bí tích xức dầu Bệnh nhân. Bí tích Xức Dầu bệnh nhân ban ơn nâng đỡ bệnh nhân và người già yếu về phần hồn cũng như phần xác. Bằng việc đặt tay, xức dầu thánh và lời cầu nguyện của linh mục, Hội Thánh phó thác các bệnh nhân cho Chúa Kitô đau khổ và vinh hiển để Người an ủi và cứu độ họ. Khi cử hành Bí tích xức dầu bệnh nhân, Giáo Hội nhấn mạnh tới ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ngài vừa tha thứ tội lỗi, vừa chữa lành những bệnh tật đau đớn phần xác. Bí tích này còn ban cho bệnh nhân sức mạnh thiêng liêng để chống lại những cám dỗ trong những giây phút cuối cùng, trước khi kết thúc hành trình trần thế để về nhà Cha trên trời.
– Những ơn ban do Bí tích Xức Dầu bệnh nhân:
* Ân sủng trợ giúp đặc biệt của Chúa Thánh Thần để thêm tin tưởng, bình an và phó thác trong tay Chúa.
* Kết hợp với Đức Kitô chịu khổ nạn để sinh ơn cứu độ.
* Ơn tha thứ mọi tội lỗi đã phạm và mọi hình phạt do tội (qua việc lãnh ơn Toàn Xá).
* Ơn sức mạnh để chuẩn bị cho cuộc ra đi lần cuối, giúp họ an tâm trong cuộc chiến đấu cuối cùng trước khi về Nhà Cha.
Cũng như Thánh Tẩy, Thêm Sức và Thánh Thể hợp thành “ba bí tích khai tâm Kitô giáo”, thì Giải Tội, Xức Dầu bệnh nhân và Thánh Thể hợp thành “các bí tích chuẩn bị về Quê trời” hay là “các bí tích hoàn tất cuộc lữ hành trần thế”.
5- Trách nhiệm của những người khỏe mạnh và của cộng đoàn
Ngày nay, Chúa Giêsu cũng cần lòng tin của chúng ta để chữa lành cho thế giới. Lòng tin ấy được thể hiện bằng những hành động cụ thể như: an ủi, cảm thông, giúp đỡ, động viên, sẻ chia. Lòng tin ấy chính là một thể hiện tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Mỗi người chúng ta liên đới với những người đau khổ, những bệnh nhân của những căn bệnh hiểm nghèo. Người Kitô hữu luôn lấy đức tin để nhìn vào những đau khổ của mình và tha nhân hiệp với đau khổ của Đức Kitô trên Thánh Giá.
– Cảm thông: Chúng ta phải đồng cảm với những người đau khổ, tức là thực sự sống với những mất mát đau thương của họ, từ đó sẽ dễ dàng yêu thương và kiên trì giúp đỡ họ.
– Giúp đỡ: Lúc bệnh ai cũng có cảm giác đau khổ, cô đơn, buồn tủi và sức lực yếu đi. Lúc ấy họ muốn buông xuôi và sợ hãi trước cái chết, nếu biết cái chết gần kề với căn bệnh hiểm nghèo. Vì thế, họ cần nhiều bàn tay nâng đỡ, ủi an và yêu thương. Họ cần lòng nhân ái và sự bao dung của người mạnh khỏe. Họ cần lời động viên khích lệ của y bác sĩ và người thân hơn là cho họ món quà vật chất.
– Yêu thương: Yêu thương là cốt lõi của Tin Mừng, nhất là với người bệnh. Ước gì mỗi người chúng ta luôn có được đôi mắt nhân từ, trái tim thương cảm, vòng tay rộng mở của Chúa để nhạy bén với những nhu cầu, nỗi đau, thất vọng, mệt mỏi của bệnh nhân. Từ đó, chúng ta thông hiệp khổ đau và bệnh tật của người khác vào trong lời cầu nguyện với lòng tin được chữa lành qua sự chuyển cầu từ mẫu của Mẹ Maria và lòng thương xót của Thiên Chúa.
Kết luận: Chúa Giêsu mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11,28). Hãy đến với Chúa để được Người ban ơn trợ giúp, nhờ đó, người bệnh sẽ được Chúa chữa lành thể xác và tinh thần, hoặc nếu không được chữa lành thể xác vì con người phải chết, thì ít ra cũng được thanh thản tâm hồn, phó thác và lạc quan trong những giây phút cuối đời. Chúa Giêsu cũng đồng hóa với người đau khổ, bệnh tật và bị bỏ rơi quên lãng. Người khẳng định: những ai giúp đỡ người bệnh tật, tù đày, trần truồng là giúp đỡ chính Chúa (x. Mt chương 25). Trong thời gian dịch bệnh Covid-19 này, chúng ta đều nhận ra sự trân quý của cuộc sống. Sức khoẻ là quà tặng quý giá Thượng đế ban cho con người. Dịch bệnh cũng là cơ hội để chúng ta nhận ra sự mong manh mỏng dòn của kiếp người. Những nghĩa cử quảng đại bác ái chia sẻ đã làm ấm lên tình người và tình đồng loại. Đại họa viêm phổi Vũ Hán chắc chắn sẽ qua đi, và chúng ta hy vọng tình liên đới chia sẻ sẽ còn đọng lại mãi và không ngừng được nhân lên. Xin cho các bệnh nhân được vững tin vào Chúa, và xin cho mọi người cùng nhau thực hiện đức bác ái yêu thương, giúp xoa dịu nỗi đau của người bệnh, giúp họ tìm thấy sự nồng ấm yêu thương của tình Chúa tình người.
Hà Nội, tháng 7-2020
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
2020
Bốn cái bẫy mà ma quỷ thường bày ra cho chúng ta khi cầu nguyện
Những trò gạt gẫm của ma quỷ rất phổ biến: khi cầu nguyện, tất cả mọi người, cách nào đó luôn gặp phải điều này. Dưới đây là một số lời khuyên hữu ích để tránh những cái bẫy của ma quỷ khi cầu nguyện trong bình an.
Tên cám dỗ làm mọi thứ để ngăn cản con người cầu nguyện. Vì vậy, thật khó để chúng ta không rơi vào cám dỗ. Chúng ta hãy mở to đôi mắt để cố gắng nhận ra những lời dối trá, để mình không bị ma quỷ lừa bịp.
Bẫy số 1 : “cầu nguyện thật vô ích”
Nếu dựa vào những tiêu chuẩn thông thường của chúng ta về tính hiệu quả của cầu nguyện, thì thực sự cầu nguyện không giúp được gì cả. Theo quan điểm của con người, cầu nguyện là lãng phí thời gian. Đây là câu hỏi lớn mà các tu sĩ nam nữ nêu ra cho thế giới xung quanh họ: đời sống cầu nguyện giúp được gì cho những người này? Dưới cặp mắt của nhiều người thì cuộc sống của họ xem ra quá lãng phí.
Chúng ta thường mắc cùng một sai lầm này khi từ bỏ việc cầu nguyện với lý do chúng ta có quá nhiều việc phải làm. Bởi vì chúng ta đặt mình vào cái luận lý về hiệu suất, thay vì theo luận lý của tình yêu. Trái lại, nếu biết suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy trong cuộc sống dường như những thứ xem ra vô dụng nhất thực ra là những thứ quí giá nhất; chẳng hạn như cưng chiều một đứa trẻ, hôn vợ hoặc chồng, chiêm ngắm một phong cảnh đẹp. Cầu nguyện có vẻ vô ích, nhưng thực ra đó là điều tuyệt đối không thể thiếu.
Bẫy số 2: “Bạn không biết cầu nguyện”
Kẻ thù tăng thêm nhiều lý lẽ để cho chúng ta thấy rằng cầu nguyện quá khó đối với chúng ta, rằng chúng ta cần được đào tạo trước khi bắt đầu cầu nguyện… Ngay cả trong trường hợp này, quả thực, chúng ta không biết cầu nguyện. Lời cầu nguyện của chúng ta đầy lơ đãng, đầy những tìm kiếm lợi lộc cho riêng mình, đầy những bất trung và hàng nghìn những cái bất toàn khác. Rồi sao? Có người cha nào khi bồng đứa trẻ sơ sinh trên tay, đứa bé bắt đầu bập bẹ và tươi cười, đặt nó ngay ngắn lại rồi ông nói với nó : “Khi nào con biết nói thì hãy nói chuyện với cha?”. Tất nhiên là không! Trái lại, ông sẽ cảm động và ngạc nhiên trước những lời nói bập bẹ đầu tiên này. Điều đó thật giá trị đối với những bậc cha mẹ trên trần gian, thậm chí còn giá trị hơn trước mặt Thiên Chúa của chúng ta.
Bẫy số 3: “Bạn sẽ cầu nguyện khi có thời gian”
Nếu chúng ta đợi đến khi có thời giờ để cầu nguyện, chắc chắn một điều chúng ta sẽ không bao giờ cầu nguyện, bởi vì chúng ta sẽ có muôn nghìn việc rất khẩn thiết để làm. Nếu hôm nay chúng ta có ý cầu nguyện, nhưng không biết thiết đặt thời gian cụ thể, nguy cơ chúng ta sẽ đi ngủ vào buổi tối mà không tìm thấy dù chỉ một phút để tự mình xắp xếp.
Người cầu nguyện thường xuyên không nhất thiết là người có nhiều thời giờ rảnh rỗi, mà là người quyết định dành thời giờ cho việc cầu nguyện. Đó là một chọn lựa. Vậy ưu tiên của chúng ta là gì? Chúng ta muốn đặt việc cầu nguyện làm trung tâm của đời sống không hay chúng ta coi đó như là điều xa xỉ, không bắt buộc? Nếu đó là điều cần thiết thì nó phải được xếp vào hàng đầu tiên trong lịch trình hằng ngày của chúng ta.
Bẫy số 4: “Công việc của tôi đã là cầu nguyện”
Ma quỷ thì thầm vào tai chúng ta: “Nếu bạn làm việc hết lòng, dâng công việc của bạn cho Chúa, vì vậy bạn sẽ được miễn cầu nguyện”. Thực may mắn cầu nguyện không phải là cách duy nhất để đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa, để được ở gần và phục vụ Chúa. Nếu không chúng ta sẽ chỉ dành một phần nhỏ trong ngày của chúng ta cho Chúa. Tuy nhiên, nếu chúng ta không cầu nguyện thật lòng, không biết dừng lại trong ngày, chúng ta sẽ khó mà cầu nguyện trong mọi lúc. Chúng ta có thể thành công cầu nguyện trong khi làm việc, nếu từng ngày chúng ta biết học cách cầu nguyện ngay cả khi không làm gì cả.
G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ