2020
Làm gì khi tình yêu tan vỡ?
Làm gì khi tình yêu tan vỡ?
Nếu được hỏi “cái gì là tuyệt vời nhất trên đời này”, có lẽ ta sẽ trả lời rằng đó là “tình yêu”. Tình yêu là một huyền nhiệm vô cùng cao sâu đến chẳng ai có thể giải thích được ngọn nguồn về nó. Có người còn cho rằng tình yêu không phải là cái được đem ra để phân tích, nhưng chỉ nên được cảm nghiệm mà thôi.
Khi đã yêu, lý trí nhường chỗ cho trái tim vì lý lẽ của lý trí không thắng được lý lẽ của con tim vào thời điểm ấy. Một tình yêu chân thật thì có đủ sức làm biến đổi một con người, có thể làm người ấy từ xấu thành đẹp, từ hung dữ nên hiền lành, từ yếu đuối nên mạnh mẽ. Tình yêu chính là chiếc cầu đưa người ta từ trái đất lên thiên cung, là ngọn đèn xóa tan cái màn đêm cô đơn buồn tủi, là nắng ấm dọi vào những giá lạnh thê lương. Chẳng có loài nào không thích mình được yêu. Chẳng có ai không muốn cho tình yêu của mình được trọn vẹn. Nhưng, lỡ như tình yêu ấy không thành, thì sao?
Ta gọi đó là “con tim tan vỡ”. Có một nỗi đau nào đấy cứ nhói nhói ở lồng ngực, nơi con tim nhỏ bé của ta cư ngụ. Ta nghe như có mũi tên xuyên qua, làm con tim ấy muốn vỡ ra nhiều mảnh. Một nỗi đau làm ảnh hưởng đến có toàn bộ con người. Một khi con tim bị một tình yêu không thành làm tổn thương, mọi thứ trong cuộc sống như đảo lộn. Ta chẳng có đủ sự tỉnh táo để làm việc, chẳng có chẳng có tâm trí để học tập hay nghỉ ngơi, chẳng có, hay thậm chí chẳng còn thấy ý nghĩa của cuộc sống. Có vẻ như động cơ để người ta sống là kiếm tìm một tình yêu, nên khi tình yêu không còn nữa, người ta cũng muốn mình chết đi, tiêu tan đi, không còn hiện diện nữa. Cánh hoa không còn đẹp nữa, khung trời xanh cũng trở nên u ám sầu buồn, thức ăn ngon cũng trở nên nhạt nhẽo vô vị, giọt cà phê hay khói thuốc lá chất chứa đầy những mối tâm tư. Thất bại trong tình yêu, chia cắt trong tình yêu, đích thực để lại trong ta một nỗi mất mát và trống trơn đau đớn khôn cùng. Vào giây phút này, điều duy nhất mà ta cảm thấy chỉ là một nỗi buồn. Nhưng liệu đó có là cái kết cho cuộc sống của ta?
Khi yêu, ta luôn mong tình yêu của mình được đi đến sự trọn vẹn. Nhưng mong ước là một chuyện, thực tế có đáp ứng mong ước ấy của ta hay không lại là chuyện khác. Tự cổ chí kim, đã có không ít những mối tình đẹp như mơ, vậy mà có được cái kết tốt đẹp đâu! Người ta đổ lỗi cho ông Trời đã nhẫn tâm chia cắt đôi lứa, trách ông đã tạo nên những nghịch cảnh khiến hai người không thể mãi chung đôi, đã nỡ cắt đi sợi chỉ uyên ương đang từ từ kết nối. Ông Trời vẫn cứ im lặng, không nói gì, để mặc cho người ta tha hồ oán hờn trách móc. Biết đâu tình yêu của ta là một tình yêu lệch đường, đi vào vùng cấm nào đó. Biết đâu tình yêu của ta không được xã hội chấp nhận. Biết đâu tình yêu của ta đi ngược lại với thuần phong mỹ tục… Tình yêu thì không có lỗi. Yêu một người thì không phải là tội, vì yêu là cứ yêu thôi, đâu ai có thể bắt mình yêu hay không yêu một người nào đó được. Yêu là tiếng nói của con tim, chứ không phải của lý trí. Thế nhưng, con người chúng ta không phải là hòn đảo đơn độc giữa đại dương nhân thế này. Ta có mối tương quan chằng chịt với những con người khác. Nếu tình yêu của chúng ta không đi vào con đường chung, ta không còn cách nào khác, ngoài việc chịu đau, cắt đứt đi tình yêu ấy. Thà có một cái kết đau, còn hơn là đau hoài mà không bao giờ kết.
Nếu ta phải chia ly vì hai người chọn hai con đường khác nhau thì việc ta nhớ đến lý do mình chia tay sẽ là một trợ lực rất nhiều giúp ta vượt qua được nỗi đau này. Chia tay là cách tốt nhất để hai người giải thoát cho nhau. Chia tay để trả lại cho mỗi người vùng trời riêng của mình. Chia tay vì hướng đến điều tốt đẹp của cả hai. Nỗi đau sẽ từ từ được hàn gắn nhờ niềm hy vọng vào một tương lai tốt đẹp sẽ dành cho cả hai.
Nếu hai người vẫn còn yêu nhau tha thiết, không thể sống cuộc sống này mà thiếu nhau và tình yêu ấy chẳng gặp ngăn trở gì nhưng chỉ vì những giận hờn, trách cứ vu vơ mà “trái tim tan vỡ” thì hãy chữa lành nó bằng cách chạy thật nhanh đến bên người mình yêu, nói thật nhiều lời ngọt ngào, ôm người ấy thật chặt và quyết tâm giữ người ấy đến cùng. Tình yêu cũng hệt như chiếc bình pha lê. Đẹp đấy, nhưng dễ vỡ vô cùng. Nó cần được nâng niu và chiều chuộng, cần được trân quý và yêu thương. Khi đã yêu, hãy gạt bỏ hết cái tôi, hãy luôn tỏ ra mình có lý. Một chút mềm và một chút nhẹ mới giúp giữ trọn vẹn tình yêu.
Nói chuyện lý lẽ với một người đang thất tình dường như là một điều vô ích. Khi ta thất tình, chung quanh họ chỉ còn một nỗi u buồn mà thôi. Tuy nhiên, dù nỗi đau có thể làm chúng ta suy sụp, nó không thể và không nên là cái cắt đứt hết mọi nguồn lực và lý tưởng của ta. Nếu Trời đã không muốn tình yêu của ta nên trọn là vì Ngài muốn dành cho ta một tình yêu khác trọn vẹn hơn. Nếu Trời muốn chúng ta chia ly, chắc là vì Ngài muốn dẫn chúng ta đến một cuộc hội ngộ khác sâu sắc hơn. Hãy cố gắng vượt qua nỗi buồn phiền vì còn có biết bao người đang cần đến ta, và bao nhiêu việc khác đang chờ ta hoàn tất. Tình yêu nam nữ đâu phải là cái duy nhất ta có trên đời. Ta còn có cha mẹ, anh chị em, bạn bè với bao nhiêu tình thương và trách nhiệm khác. Nếu vì chuyện tình yêu của riêng mình mà ta lãnh quên bổn phận với họ, ta thật là người ích kỷ. Nếu chỉ vì một tình yêu không có đoạn kết mà ta cứ buồn phiền, thất vọng, lơ là đạo nghĩa và đánh mất tương lai, ta thật là con người yếu đuối và vô dụng quá chừng.
Để không phải dẫn đến một cái kết đau, có đôi khi ta cần phải tỉnh thức và cảnh giác thật nhiều trước khi đi sâu vào một tương quan nào đấy. Đừng để cảm xúc và những thú vui mau qua che mờ đôi mắt. Đừng để cái tôi cao ngạo làm hại bản thân. Hãy biết làm chủ mình trước những lời mời mọc và ngọt ngào của cám dỗ. Nếu nhận thấy mình và người ấy không có một tương lai tốt đẹp, đừng dấn thân vào quá sâu, để rồi tự mình làm hại mình, tự mình chuốc họa vào thân.
Khi tình yêu tan vỡ, đó là khi con tim của ta tan vỡ, khi mà mọi kỳ vọng và ảo tưởng của ta không còn. Nhưng đó cũng là lúc ta học cách đứng lên, dùng nghị lực để chữa lành con tim mình. Và cùng với một niềm hy vọng vào tương lai, ta tập đứng lên để làm lại cuộc đời, đi tìm một tình yêu mới mà Tạo Hóa dành sẵn cho ta.
Pr. Lê Hoàng Nam, SJ
2020
Nghệ thuật giáo dục con cái
Giáo dục là nghệ thuật dẫn đưa và thúc đẩy tiềm năng của cá nhân. Người làm công tác giáo dục tương tự công việc của một người hộ sinh, nghĩa là giúp trẻ sinh ra và có cuộc sống tự lập. Vì là một nghệ thuật, thế nên giáo dục không giống kiểu công thức có sẵn như mì ăn liền và có giá trị cho mọi trường hợp được.
Trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục con cái là hướng dẫn từng bước để chúng sống tự lập. Cha mẹ không chỉ dạy dỗ, hướng dẫn, đồng hành với con cái, mà còn phải giúp chúng biết chịu trách nhiệm về những nhu cầu cá nhân và biết tự giáo dục.
- Vai trò của các mô hình giáo dục tính tự lập
Cách thức giáo dục con cái –có thể tạo thuận lợi hoặc cản trở sự tự lập – sẽ đưa đến những kết quả khác nhau trong tiến trình phát triển và hạnh phúc của chúng.
Có rất nhiều cách để mô tả hành vi của cha mẹ đối với con cái. Ở đây chúng ta nói đến hai khía cạnh quan trọng trong cách hành xử của cha mẹ:
– Những đòi hỏi của cha mẹ (demandingness): đó là những điều mà cha mẹ yêu cầu con cái phải cư xử đúng mực và sống có trách nhiệm tương ứng với lứa tuổi của chúng, những quy tắc chính đáng phải tuân thủ trong đời sống hằng ngày về các sinh hoạt, giờ giấc, ăn uống, ngủ nghỉ, học tập, sống đạo.
– Những đáp ứng của cha mẹ (responsiveness): đó là những hỗ trợ, nâng đỡ về mặt tinh thần lẫn vật chất của cha mẹ trước những đòi hỏi chính đáng của con cái.
Từ hai khía cạnh trên trong cách giáo dục của cha mẹ, chúng ta có bốn mô hình giáo dục sau:
- Uy tín: cả hai khía cạnh đều ở mức cao
Cha mẹ có uy tín vừa đầy tình thương nhưng cũng rất cương nghị. Họ xác định những chuẩn mực tương xứng với lứa tuổi của con cái và buộc chúng phải nghiêm túc tuân thủ. Họ giúp con cái phát triển sự tự lập và tự quyết nhưng họ vẫn đảm đương trách nhiệm cuối cùng về hành vi của con cái. Cha mẹ cùng giải quyết với con cái những khó khăn, trao đổi và giải thích cho chúng những vấn đề liên quan đến kỷ luật. Cha mẹ thiết lập những kỷ cương cần tuân thủ, nhưng không phải là những luật lệ cứng ngắc, mà phải uyển chuyển và hướng đến việc thảo luận, đối thoại cách cởi mở và chân thành. Ngoài ra, các quy tắc phải được giải thích và thực thi trong bầu không khí của sự gắn kết, yêu thương và công bằng. Tình thân gia đình, sự nâng đỡ, khích lệ về tinh thần lẫn việc chu cấp những đòi hỏi thiết yếu và chính đáng của con cái sẽ giúp chúng biết tự chủ và sống có trách nhiệm.
- Độc đoán: cha mẹ đòi hỏi con cái nhiều (khía cạnh thứ nhất ở mức cao), nhưng lại không quan tâm và đáp ứng đúng mức những nhu cầu chính đáng của chúng (khía cạnh thứ hai ở mức thấp).
Cha mẹ độc đoán thường chỉ đưa ra mệnh lệnh và kỷ luật phải tuân thủ. Họ không thích trao đổi, thảo luận bởi vì họ cho rằng con cái cần chấp nhận vô điều kiện các chuẩn mực bất biến của họ. Những bậc cha mẹ theo phương cách giáo dục này không khuyến khích mà lại giới hạn tính tự lập của con cái. Trong các gia đình độc tài, nơi mà các quy tắc được thực thi một cách cứng nhắc, và rất hiếm khi có sự giải thích hay điều chỉnh, dễ xảy ra những khó khăn, nhất là trong giai đoạn con cái đến tuổi vị thành niên. Cha mẹ độc đoán nghĩ rằng việc con cái không lệ thuộc vào họ là dấu hiệu sự nổi loạn và thiếu tôn trọng người lớn, và họ sẽ tìm cách ngăn cản tính độc lập của chúng. Thay vì khuyến khích sự tự lập, cha mẹ độc tài vô tình có thể giữ sự phụ thuộc của con, không cho phép chúng học cách tự đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm về việc mình làm. Trong trường hợp con cái ở ngoài tầm kiểm soát của cha mẹ kèm với việc thiếu tình thương của cha mẹ, trẻ ở tuổi vị thành niên có thể công khai nổi loạn chống lại cha mẹ hòng khẳng định sự độc lập của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp này, các cuộc nổi loạn không phải là dấu hiệu của sự độc lập thực sự về mặt tình cảm, mà chỉ là một cuộc dấu chỉ cho thấy sự thất vọng của tuổi vị thành niên trước sự cứng nhắc quá mức và thiếu hiểu biết của cha mẹ.
- Nhu nhược và nuông chiều: ngược với mô hình thứ hai, nghĩa là cha mẹ ít đưa ra những đòi hỏi (khía cạnh thứ nhất ở mức thấp), nhưng bày tỏ tình thương và sự nuông chiều thái quá (khía cạnh thứ hai ở mức cao)
Cha mẹ theo mô hình này biểu lộ sự nhân nhượng và thụ động đối với vấn đề kỷ luật. Họ chỉ đòi hỏi con cái vài thứ lặt vặt và cho chúng tự do hành động như chúng muốn. Họ nghĩ rằng sự kiểm soát là một trở ngại cho việc tự do hành động, và như thế sẽ cản trở sự phát triển lành mạnh của con cái nói chung. Thay vì lưu tâm đến hành vi của con cái, họ lại xem mình như nguồn tài nguyên mà con cái có thể khai thác tùy thích.
- Dửng dưng: cả hai khía cạnh đều ở mức thấp
Cha mẹ thờ ơ với bổn phận nhằm giảm bớt thời gian và công sức cho những tương tác với con cái; trong những trường hợp cực đoan, họ bỏ bê chúng. Cha mẹ biết rất ít về đời sống và các hoạt động của con mình, ít quan tâm đến những trải nghiệm của chúng ở trường và với bạn bè, ít khi nói chuyện với chúng và hiếm khi để tâm đến các quan điểm của chúng khi chúng phải quyết định điều gì đó. Những bậc cha mẹ theo mô hình này thường quy hướng mọi sự về mình, và tổ chức gia đình trước hết chỉ cho nhu cầu và lợi ích bản thân.
Trong những gia đình theo mô hình thứ ba và thứ tư nảy sinh những vấn đề khác biệt so với các gia đình độc tài (mô hình thứ hai). Mô hình ba và bốn cho thấy cha mẹ không hướng dẫn đúng mức con cái khiến chúng không có được những chuẩn mực cho hành vi.
Bốn mô hình giáo dục nêu trên đưa đến các kết quả khác nhau về sự phát triển tâm lý của trẻ. Con cái có bố mẹ theo mô hình uy tín dễ thích ứng về mặt tâm lý xã hội, sống có trách nhiệm, tự tin, thích nghi, sáng tạo, ham thích học hỏi, có kỹ năng xã hội tốt hơn và thành công hơn ở trường học so với các bạn đồng trang lứa mà được giáo dục theo các mô hình khác. Ngoài ra các trẻ này thường cảm thấy hạnh phúc, có đời sống tâm lý ổn định, và chúng cảm thấy hài lòng với những mối quan hệ trong gia đình.
Trẻ có cha mẹ độc đoán thường sống phụ thuộc, thụ động, ít thích ứng về mặt xã hội, kém tự tin và ít ham thích học hỏi.
Còn các em có bố mẹ nuông chiều thì kém trưởng thành, sống thiếu trách nhiệm, thích sống tuân thủ hơn là giữ các vị trí lãnh đạo.
Con cái của cha mẹ dửng dưng thường bốc đồng và nhiều khả năng sau này chúng sẽ tham gia vào các hành vi nguy cơ (tình dục bừa bãi, rượu chè, ma túy, phạm pháp).
- Tại sao mô hình uy tín có tính ưu việt?
Trước hết, mô hình này mang lại cho trẻ một sự cân bằng tối ưu giữa kiểm soát và được phép, mang lại cho chúng tính độc lập, cung cấp cho chúng cơ hội để phát triển khả năng tự quyết và đồng thời cung cấp các tiêu chuẩn, giới hạn rạch ròi và những hướng dẫn khi chúng cần đến. Chúng có được sự tự lập theo kiểu tiệm tiến, và điều này giúp chúng tự tin và tự quyết. Mô hình này cũng thúc đẩy sự phát triển các kỹ năng và tăng cường khả năng đề kháng những ảnh hưởng tiêu cực, bao gồm những căng thẳng và những ảnh hưởng xấu của bạn bè.
Kế đến, các bậc cha mẹ theo mô hình này đối thoại nhiều với con cái, thế nên chúng phát triển tốt về mặt trí tuệ là cơ sở của sự trưởng thành về tâm lý xã hội. Các cuộc thảo luận trong gia đình, việc giải thích các quyết định, quy tắc và kỳ vọng từ phía người lớn giúp trẻ hiểu được hệ thống xã hội và quan hệ xã hội.
Thứ ba, vì mô hình uy tín dựa trên mối quan hệ yêu thương, cho nên con cái sẽ gắn bó với cha mẹ và lưu tâm đến những bận tâm của cha mẹ. Điều này tạo điều kiện cho những ảnh hưởng tốt của cha mẹ trên con cái về những giá trị cũng như cách ứng xử.
Cha mẹ uy tín có trách nhiệm đối với con cái, biết cách hướng dẫn và đồng hành với chúng. Họ rất nhạy cảm với nhu cầu của con cái, nhưng họ cũng tính đến khả năng của họ trong việc giải quyết những nhu cầu chính đáng của con cái. Họ khuyến khích con cái trao đổi về những đòi hỏi của chúng. Họ thảo luận với chúng về những lối hành xử trong những tình huống khác nhau. Họ cũng đánh giá cao và khuyến khích sự phát triển của một ý chí tự chủ của con cái, đưa ra những quy tắc về trách nhiệm tương xứng với từng lứa tuổi, và hướng chúng đến việc tự rèn luyện kỷ luật bản thân.
Tóm lại, trong lãnh vực giáo dục nói chung, mô hình uy tín thích hợp hơn các mô hình khác. Mô hình này giúp con cái và người thụ huấn nói chung phát triển tư duy phê phán, sự tự tin, tự chủ, và cảm thấy hạnh phúc. Mô hình này cho phép người ta có được cách hành xử trưởng thành và đúng mực trong những tình huống khác nhau của cuộc sống.
Lm. Giuse Đặng Chí Lĩnh
SÁCH THAM KHẢO
CICOGNANI E. – B. ZANI, Genitori e adolescenti, Roma, Carocci, 2003.
MAIOLO G., L’occhio del genitore. L’attenzione ai bisogni psicologici dei figli, Trento, Erickson, 2000.
MAIOLO G., Adolescenze spinose. Come comunicare senza fare (e farsi) del male, Trento, Erickson, 2002.
PALMONARI A., Gli adolescenti, Bologna, il Mulino, 2001.
RENAUD H. – J. P. GAGNÉ, Essere genitore. Avviamento alla professione, Milano, San Paolo, 2003.
2020
Mục đích của việc dạy giáo lý là kết hiệp với Chúa Kitô
Mục đích của việc dạy giáo lý là kết hiệp với Chúa Kitô
Phỏng vấn bà Pauline Dawance, giám đốc Ban Phục vụ Quốc gia giáo lý và tân tòng của Hội đồng Giám mục Pháp. Bà trả lời về Chỉ nam Huấn giáo được Tòa Thánh công bố ngày thứ năm ngày 25 tháng 6.
La Croix: Chỉ nam mới về Huấn giáo được Tòa Thánh công bố ngày 25 tháng 6 mang lại những đổi mới nào?
Bà Pauline Dawance: Cơ quan làm tài liệu đã khác so với các Chỉ nam đã công bố trước đây năm 1997, vì bây giờ là Hội đồng Giáo hoàng về Tân Phúc âm hóa công bố, hội đồng được Đức Bênêđictô XVI lập ra, có trách nhiệm dạy giáo lý, và không còn thuộc Bộ giáo sĩ. Đây là điều đáng kể, vì năng lực truyền giáo theo sau Thượng Hội đồng về Tân Phúc âm hóa ở trong chiều hướng này, và cũng nhấn mạnh đến các giáo huấn đã đi theo chiều hướng trước. Ở đây chúng ta thấy có nhiều tài liệu tham chiếu của Đức Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô. Có Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, đường hướng này nhắc chúng ta nhớ mục đích của việc dạy giáo lý là kết hiệp với Chúa Kitô. Mầu nhiệm Phục sinh là trọng tâm của đức tin kitô giáo và sự loan báo này luôn trên môi miệng của giáo lý viên. Đức Bênêđictô XVI cũng đã nói, việc dạy giáo lý là cuộc gặp gỡ với nhân vị Chúa Kitô. Gốc rễ thần học này đưa ra một định hướng cho việc dạy giáo lý, dựa trên mô hình dự tòng. Vai trò của cộng đồng kitô thể hiện rất rõ trong tài liệu giáo huấn này, trong đó có một chương dài nói về các giáo lý viên: đâu là cơ sở hành động của việc dạy giáo lý, mục tiêu của việc dạy giáo lý, ai sẽ dạy… Ở đây chúng ta thấy tầm quan trọng trong việc quan tâm đến đời sống thiêng liêng và đào tạo giáo lý viên, tất cả những điều này thuộc thẩm quyền của giám mục là người giáo lý viên đầu tiên.
Nó có thực sự mới không?
Người Pháp thấy mình rất tốt trong đường hướng này, vì văn bản quốc gia về định hướng dạy giáo lý của các giám mục Pháp năm 2005 đã yêu cầu đưa việc dạy giáo lý vào mô hình dự tòng. Ngoài ra chúng ta còn thấy ở đây về sự phát triển và đồng hành, những người thiết thân với đường hướng của Đức Phanxicô. Các nhà biên khảo Chỉ nam mới đã xem xét những gì đang xảy ra ở tất cả các quốc gia, và Pháp không vắng mặt trong kết quả này… Trong hoàn cảnh khó khăn, với ít nguồn nhân lực, chúng tôi đã có thể chứng minh rất nhiều cho tinh thần sáng tạo. Chúng tôi đã thấy điều này trong thời gian cách ly, trong mối quan tâm hàng đầu là nâng đỡ các dự tòng không được rửa tội vào dịp Lễ Phục sinh.
Việc đào tạo các giáo lý viên, trong đức tin thần học, Kinh thánh và thiêng liêng là thường trực, đặc biệt vì ở Pháp, các giáo lý viên là các tình nguyện viên và thường thay đổi. Việc đào tạo này trước hết là việc nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng của họ. Đây là lãnh vực có các thách thức quan trọng về tinh thần hoán cải và đổi mới đức tin của chính họ.
Chỉ nam mới này sẽ được thực hiện như thế nào?
Vào tháng 1 và tháng 6 năm năm 2021, chúng tôi sẽ có các buổi làm việc với các người và các nhóm có trách nhiệm trong giáo phận, họ sẽ giúp chúng tôi xem kinh nghiệm cách ly gần đây để có thể có một số phát triển và các suy tư trong những năm vừa qua về sự tiến hóa của người học giáo lý, các giáo lý viên, các phương tiện… Vấn đề kỹ thuật số cũng có mặt rất nhiều trong Chỉ nam mới.
Chúng ta biết việc giảm sút số người học giáo lý đi kèm với việc các nhóm của giáo phận được cung cấp ít hơn, nhưng đồng thời chúng tôi cũng phát triển công việc của liên giáo phận. Các mô hình và tổ chức mới đang được thiết lập, với nhịp điệu khác, nhân vật khác để cố gắng tạo lại mối liên kết trong giáo hội.
Một giờ học giáo lý mỗi tuần, như đã làm trước đây vẫn còn giá trị trong một thế giới vẫn còn theo kitô giáo trên toàn cầu. Nhưng nó không thể thay thế một liên kết giáo hội. Do đó, có các mô hình mới xuất hiện như “giáo lý trong kỳ nghỉ hè”, học cầu nguyện, các loại hướng dẫn khác nhau… Chúng ta không có câu trả lời duy nhất nào có thể. Và điều này đã và đang phát triển ở nhiều nơi nhưng không vì thế chúng ta từ bỏ những nơi mà việc dạy giáo lý cổ điển vẫn hoạt động, kèm theo đời sống bí tích.
Chúng tôi sẽ tiếp tục suy nghĩ về cách đào tạo con người, và tiếp cận với những người đang đi tìm, như phụ huynh các em học giáo lý. Với mối quan tâm trong nỗ lực loan báo Chúa Kitô, vừa ngầm vừa rõ ràng. Một dự án to lớn, dù đã có cả một công trình khổng lồ kể từ Công đồng Vatican II đã đặt Sách Thánh trong việc dạy giáo lý. Việc các giáo lý viên đã nói lên Kinh Thánh là thứ trật của kinh nghiệm và hoán cải.
Một dự án khác mà chúng tôi muốn thực hiện là sự liên kết giữa các linh mục và giáo dân trong việc dạy giáo lý. Bản Chỉ nam mới nói về sứ vụ của giáo lý viên. Sự hiện diện của các linh mục trong việc dạy giáo lý là rất quan trọng, nhưng không phải chỉ để có mặt. Các cha xứ phải đào tạo giáo lý viên, biết rằng đối với họ, việc tuyên xưng đức tin là lớn lên trong đức tin.
NTL
2020
Nên thánh khi lên mạng
NÊN THÁNH KHI LÊN MẠNG
Khi nói nên thánh, nhiều người nghĩ ngay đến những gì cao cao, siêu siêu,… Vì thế, các bạn trẻ thường ngại ngùng khi đề cập đến đề tài này với lý do là mình không thể cao siêu.
Nếu hiểu theo cách đó, nhiều bạn trẻ sẽ không có cửa để nên thánh, khi mà sự nghiệp còn dang dở, bước đường tương lai còn ngổn ngang với bao ước mơ chưa thành hiện thực, áp lực việc học và công việc ngày càng nhiều.
Với tình yêu trong cuộc sống, chúng ta mới có thể hạnh phúc và vui tươi khi làm việc. Bình thường tôi vẫn chăm chú học tập, lo lắng làm việc, tất bật với cuộc sống nhưng ít có tình yêu. Bây giờ, tôi đem tình yêu vào đó nhiều hơn, nghĩa là tôi đang thánh hoá nó, đang hướng việc học, việc làm vào sự thánh thiện. Vì vậy, tôi nên thánh hơn. Dù là việc bình thường, nhưng tôi ý thức thực hiện với một tình yêu lớn, tôi đang thổi hồn vào việc bình thường đó, làm cho nó được thánh hoá.
Đức Thánh Cha Phanxicô đưa ra một thí dụ: “Một phụ nữ đi mua sắm, gặp một người hàng xóm và bắt đầu nói chuyện, rồi việc bép xép bắt đầu. Nhưng chị ấy tự nhủ lòng: “Không, tôi sẽ không nói xấu ai cả”. Đây là một bước tiến trong sự thánh thiện. Sau đó, ở nhà, một đứa con của chị muốn nói chuyện với chị về những điều nó hy vọng và ước mơ, mặc dù mệt mỏi, chị vẫn ngồi xuống kiên nhẫn và ưu ái lắng nghe. Đó là một sự hy sinh khác mang lại sự thánh thiện. Sau đó, chị gặp đôi điều khiến phải lo âu, nhưng nhớ lại tình yêu của Đức Trinh Nữ Maria, chị lấy tràng hạt ra và cầu nguyện bằng đức tin. Lại một nẻo đường nên thánh nữa. Lát sau ra đường, gặp một người nghèo, chị dừng lại nói với người ấy một lời dịu dàng tử tế. Ấy là thêm một bước nữa”. (2)
Mỗi ngày tôi lên mạng bao nhiêu lần, tôi đem tình yêu vào đó bấy nhiêu lần. Từng ngón tay chạm trên màn hình có hơi thở vào, hơi thở của lựa chọn thông tin, hơi thở của con tim làm chủ bản thân. Thế là tôi… nên thánh khi lên mạng.
Tác giả: L.m Gioan Lê Quang Việt
Trình bày: Nguyên Linh
__________
(1) ĐGH Phanxicô, Tông huấn Vui Mừng và Hân Hoan, số 14
(2) ĐGH Phanxicô, Tông huấn Vui Mừng và Hân Hoan, số 16
(3) ĐGH Phanxicô, Tông huấn Chúa Kitô Đang Sống, số 16