2020
Nghệ thuật đồng hành ơn gọi linh mục
NGHỆ THUẬT ĐỒNG HÀNH ƠN GỌI LINH MỤC
Dẫn nhập
Cha Anthony de Melo kể lại một câu chuyện rất ý vị: Một ngày nọ, có một chú chuột đi kiếm ăn. Chuột ta thấy một miếng thịt bò ở trong một tủ đựng thức ăn. Chuột tìm cách đề vào nhưng không có cách gì vào trong được. Tìm hết cách, bổng nhiên, chú chuộc phát hiện ra ở phía dưới của tủ, có một lỗ thông khí, nên nghĩ là sẽ chui vào trong được. Nhưng khổ nổi, lỗ thì nhỏ mà mình chuột thì to quá; sau bao nhiêu cố gắng cũng bất thành. Chuột mới phát sinh một sáng kiến, để vào trong đó, cần phải nhịn ăn để mình nhỏ lại. Thế là chuột đã nhịn ăn mấy ngày, và cuối cùng chuột thành công. Chú vào trong và ăn hết miếng thịt bò cách ngon lành. Sau khi ăn xong, chuột lại mập ù lên và không thể nào thoát ra được. Thế là chuột lại phải tìm diệu kế ăn kiêng, cuối cùng đâu vào đấy, chú chuột gầy ra và thoát chết sau khi được miếng thịt bò.
Câu chuyện ngụ ngôn này có thể giúp chúng ta xem lại quan niệm về thiên chức linh mục. Chức linh mục không phải như “miếng thịt bò trong mắt chuột”, cũng không phải là phần thưởng, “đặc ân” hay địa vị, bằng mọi cách, với mọi giá, “chấp nhận nín thở qua sông” để tìm kiếm và chiếm giữ cho bằng được, khi đạt được rồi thì muốn sống thế nào thì sống. Nhưng trở thành linh mục là sự đáp trả tình yêu cho một lời gọi cao quý của Thiên Chúa qua một quá trình rèn luyện, biến đổi mình nên giống Chúa Kitô, khuôn mẫu lý tưởng của linh mục.
Không ai có thể tự nhiên là thánh, cũng không ai có thể tự nhiên là quỷ, thánh hay quỷ là một quá trình trở nên. Ơn gọi linh mục cũng thế. Trở nên linh mục cần phải trải qua một quá trình huấn luyện “bởi, trong và cho” Giáo Hội. Tiến trình đó được cụ thể hóa trong tiến trình đồng hành.
I. Khái niệm và ý nghĩa
Trong tiến trình huấn luận, có ba hạn từ quan trọng mà chúng ta cần đặc biệt lưu tâm, đó là: giáo dục (education), huấn luyện (formation) và đồng hành (accompagnament). Educere có nghĩa là dẫn ra, phân biệt, làm cho rõ. Áp dụng trong đào tạo, nó có nghĩa là đào bới, kéo ra, là đưa ra ánh sánh sự thật về mình, giáo dục là giúp biết mình, giúp khám phá cái tôi hiện tại (actual self) của người thụ huấn.
Hạn từ huấn luyện trong tiếng Latinh dùng động từ formare, có nghĩa là “đưa ra một khuôn mẫu, tạo một hình thức mới để trở nên.” Huấn luyện là tạo nên căn tính mới, đời sống mới nơi ứng sinh, là tạo nên cái tôi lý tưởng (ideal self). Theo nghĩa này, huấn luyện không chỉ là năng động tự thể hiện mình (self-realization), mà còn là năng động tự siêu việt bản thân (self-transcendence) theo một khuôn mẫu lý tưởng là Đức Kitô.
Còn hạn từ đồng hành (accompagnament) từ thời Trung Cổ, trong tiếng Latinh dùng là từ “cum-panio”, có nghĩa là chung một tấm bánh. Tự bản chất, đồng hành có nghĩa chia sẻ. Theo ý nghĩa này, đồng hành là muốn nói đến sự chia sẻ, chia sẻ điều gì đó từ cuộc sống như “của ăn đàng,” đó là đức tin, là ký ức về Thiên Chúa, kinh nghiệm về cuộc chiến đấu thiêng liêng, về việc tìm kiếm và cả tình yêu dành cho Người.[1]
Theo ý nghĩa thần học, huấn luyện linh mục là công trình của Ba Ngôi: Chúa Cha giáo dục, Chúa Con huấn luyện và Chúa Thánh Thần đồng hành.
Theo ý nghĩa Giáo Hội học, huấn luyện là sứ vụ được giáo phó cho các nhà đào tạo và là trách vụ của các ứng sinh. Sứ vụ này được cụ thể hóa trong việc đồng hành ơn gọi.
Có nhiều cách định nghĩa về việc đồng hành thiêng liêng, trong số đó, chúng ta chỉ chọn một định nghĩa được nhiều người đón nhận. Đó là định nghĩa của cha Manenti SJ.: “Đồng hành là một sự giúp đỡ tạm thời (temporaneo) và như phương tiện (strumentale) mà một người làm cho người khác để họ có thể nhận ra hành động của Thiên Chúa nơi bản thân và đáp trả lại hành động này bằng việc dần dần sống kết hợp với Thiên Chúa qua việc bắt chước Chúa Kitô.”[2]
Liên quan đế vấn đề này, Bộ Giáo Sỹ nói rất chí lý như sau: “Trong các giai đoạn khác nhau của tiến trình đào tạo, chủng sinh cần những người có trách nhiệm về đào tạo đồng hành cách riêng, mỗi vị theo vai trò và thẩm quyền riêng của mình. Mục đích của việc đồng hành cá nhân là giúp phân định ơn gọi và đào tạo người môn đệ truyền giáo.”[3]
Khi nói đến những phương tiện đào tạo, Bộ Giáo Sỹ nói đến hai hình thức của việc đồng hành cá nhân và cộng đoàn: Về việc đồng hành cá nhân, Ratio hướng dẫn: “Vì nhắm đến sự ngoan ngùy (docibilitas) đối với Chúa Thánh Thần, nên việc đồng hành riêng với từng người là một phương tiện đào tạo thiết yếu. Những cuộc trao đổi riêng (colloquio personale) với các nhà đào tạo phải được diễn ra đều đặn và thường xuyên. Như vậy, trong thái độ ngoan ngùy với Chúa Thánh Thần, chủng sinh sẽ dần dần nên giống Chúa Kitô. Việc đồng hành này phải đưa vào mọi khía cạnh của nhân cách và phải giáo dục để chủng sinh biết lắng nghe, biết đối thoại, biết ý nghĩa đích thực của đức vâng lời và đạt được sự tự do nội tâm. Mỗi nhà đào tạo, theo lãnh vực và thẩm quyền riêng, có nhiệm vụ giúp chủng sinh ngày càng sẵn sàng đối với tác động của ân sủng, đồng thời sáng suốt về chính con người mình, về những tài năng đã lãnh nhận và cả về những mỏng giòn nơi chính mình.”[4]
Về thời gian đồng hành, Bộ Giáo Sỹ khuyên: “Việc đồng hành phải được thực hiện từ lúc khởi đầu của tiến trình đào tạo và suốt cả đời, mặc dù sẽ được làm theo một cách khác sau khi chịu chức.”[5]
Bộ Giáo Sỹ còn nói đến việc đồng hành cộng đoàn: “Đời sống cộng đoàn phải ảnh hưởng trên mỗi chủng sinh, thanh lọc ý hướng của họ, biến đổi cách sống của họ, để từng bước họ nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô.” Chủng viện là “ngôi nhà và trường của tình hiệp thông và có được mối hiệp thông từ sự hiệp thông của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, linh mục được mời gọi trở nên ‘con người của hiệp thông.’ Vì vậy, ở chủng viện, những mối dây liên kết được dệt nên giữa nhà đào tạo và chủng sinh cũng như giữa chính chủng sinh với nhau phải mang đậm dấu ấn tình phụ tử và tình huynh đệ.”[6]
II. Mô hình đồng hành
Có nhiều mô hình đồng hành như mô hình đồng hành của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ ông (x. Ga 1,29; 3,30), mô hình Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (x. Ga 4,5-15) v.v…, nhưng sau khi suy nghĩ và bàn luận, Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới về giới trẻ (2019) đã chọn mô hình đồng hành Emmaus để áp dụng cho việc huấn luyện người trẻ.[7]
Theo đó, hành trình Emmaus là sự đồng hành mà Chúa Giêsu đã thực hiện với hai môn đệ trên đường về quê khi trời đã về chiều. Sự đồng hành này là hình tượng của mọi hình thức đồng hành trong đức tin. Theo đó, Chúa Giêsu gặp gỡ, cùng bước đi với hai môn đệ, trò chuyện với họ, nói cho họ nghe những chuyện xảy ra, đi vào trong đêm tối của họ và giải thích cho họ hiểu các sự kiện dưới ánh sáng Lời Chúa. Rồi sau đó, cùng với họ Người “bẻ bánh,” họ nhận ra Người, lòng họ bừng lên, mắt họ sáng ra và liền quay trở về Giêrusalem để loan báo cho mọi người biết Chúa đã sống lại (Cf. Lc 24, 13-35).[8]
Theo mô hình hành, đồng hành là một tiến trình, trong đó có thể phân biệt ba giai đoạn, hay có 3 năng động: Nhìn (Vedere), hiểu (Comprendere) và hành động (Agire), hay nói cách khác có ba bước đồng hành: khởi đầu, cùng hợp tác và kết thúc.
1. Nhìn (Vedere), “Người cùng đi với họ” (Lc 24,17-24)
Như Chúa Giêsu đã làm trên hành trình Emmaus, đồng hành là nghệ thuật tiếp cận, tiến lại gần, đi bên cạnh với một người được đồng hành, để nhận diện và tình trạng đời sống, cũng như thấy vấn đề của họ nhờ sự quan sát.
Trong gian đoạn khởi đầu này, trước hết, nhà đồng hành và người được đồng hành cần tạo những mối tương quan gần gũi, thân thiện, tin tưởng và cởi mở với nhau. Đặc biệt hai bên tạo nên “môi trường tin tưởng và chân thành” với nhau.
Sau đó, cần xác định phạm vi đồng hành: về thời gian, lúc nào, bao nhiêu lần? Đâu là mục đích của việc đồng hành thiêng liêng (ơn gọi); vai trò của nhà đồng hành (khác với vai trò của giám đốc, giáo sư, giám học, quản lý…).
Để việc đồng hành hiệu quả, cần tìm hiểu về lịch sử ơn gọi, lịch sử đời sống của ứng sinh, đọc lại hồ sơ của họ để hiểu biết họ đầy đủ hơn.
2. Thấu hiểu (Comprendere), “mắt họ mở ra” (Lc 24,25-27)
Nhờ sự gần gũi lắng nghe và chia sẻ dưới ánh sáng Lời Chúa, Chúa Giêsu làm cho hai môn đệ trên đường về Emmaus thấu hiểu những gì đang xảy ra và ý nghĩa của các biến cố trong cuộc sống của họ. Chúa thấu hiểu nỗi buồn, sự thất vọng và dự định của họ sau biến cố thập giá.
Đồng hành là nghệ thuật tiếp cận để thấu hiểu một hoàn cảnh, một vấn đề của người được đồng hành trong toàn bộ đời sống của họ. Trong đồng hành, Lời Chúa đóng vai trò rất quan trọng trong việc soi sáng để nhận biết thực tại và đương sự. Sự hiểu biết này không thể là sơ sài, hời hợt, bên ngoài, nhưng là sự hiểu biết đúng, đầy đủ và sâu xa; hiểu rõ hoàn cảnh, tình trạng và vấn đề của người thụ huấn, cùng nhau đào bới, đưa ra ánh sáng sự thật về mình, tìm hiểu lý do, nguyên nhân và hậu quả của chúng để tìm giải pháp và quyết định thay đổi dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
Đây là giai đoạn hợp tác giữa hai bên. Chỉ khi tương quan đồng hành được thiết lập cách ổn định và lành mạnh, chúng ta mới có thể thực hiện việc khám phá bản thân để hiểu biết mình. Trong giai đoạn này, đồng hành là giúp người thụ huấn khám phá và nhận thức một cách chính xác nếp sống, các hành vi, thái độ sống, thói quen, tâm tư, tình cảm, cảm xúc, động lực bên trong, chọn lựa nền tảng; giúp nhận diện những sở thích, sở trường, các phản ứng, phán đoán trước một hoàn cảnh v.v… Tất cả những điều này có phù hợp với các giá trị Tin Mừng và lý tưởng linh mục không?Quá trình đồng hành là cố gắng giúp ứng sinh khám phá những bất nhất nền tảng thuộc vô thức, nghĩa là làm cho người thụ huấn ý thức về điều mà họ đang sống trong cách thế vô thức và giải quyết những bất nhất nền tảng vô thức đó.
3. Hành động (Agire), “họ trở lại Giêrusalem” (Lc 24,28-35)
Sau khi đã gần gũi, chia sẻ với họ, Chúa Giêsu cùng cử hàng lễ Bẻ Bánh, nhờ Lời Chúa và Thánh Thể, mặt họ sáng ra, lòng họ bừng cháy lên lửa yêu mến và lòng nhiệt thành tông đồ, họ nhận ra Chúa đã phục sinh và quay trở lại Giêrusalem để loan báo cho mọi người.Mục đích của đồng hành là giúp người thụ huấn nhận ra chính Chúa đang hiện diện trong cuộc sống mình, nhờ sự chia sẻ kinh nghiệm đức tin, nhờ Lời Chúa và cử hành Thánh Thể, họ càng ngày càng gia tăng lòng yêu mến Chúa và trở nên người tông đồ nhiệt thành cho tha nhân.Trong giai đoạn cuối này, đồng hành là cùng nhau đưa ra chương trình hành động, là tìm ra giải pháp cho vấn đề đang xảy ra trong họ.Trong giai đoạn này, huấn luyện là tiến trình xây dựng nơi người thụ huấn con người mới trong Đức Kitô, hình thành nơi họ cách sống mới, thái độ sống mới, lối suy nghĩ mới, tâm tình và ước muốn của chính Chúa Kitô. Ở đây, mầu nhiệp thập giá và mầu nhiệm phục sinh gắn liền nhau. Phải qua hy sinh, tự hủy, chết đi thì mới phục sinh phục sinh con người mới trong Đức Kitô nhờ Thánh Thần. Nghĩa là trở nên đồng hành đồng dạng với Chúa Kitô, là Đầu và Mục Tử.Nhà đồng hành cần khôn ngoan biết dành khoảng trống cho người được đồng hành tự đảm nhận trách nhiệm của mình, tự quyết định và hành động để thay đổi cuộc sống mình tốt hơn. Nhà đồng hành cuối cùng cũng phải như Gioan Tẩy Giả, nghĩa là ý thức mình là người dọn đường, người dọn chỗ, mà không chiếm giữ họ, nhưng vui vẻ với sứ vụ của mình là “bạn của chàng rể”: “Giờ đây, niềm vui của tôi được trọn vẹn. Người phải lớn lên, con tôi phải nhỏ lại” (Gv 3,30).Ngày nay trong sư phạm giáo dục, người ta thích nói đến vai trò chủ động của người thụ huấn, nhờ sự đồng hành, cuối cùng họ được mời gọi trở nên tự trưởng thành, người có khả năng tự đứng vững trên đôi chân của mình, dù phải đối diện với những khó khăn thử thách.
III. Những phẩm chất và thái độ đồng hành
Ai trong chúng ta muốn hay chấp nhận đồng hành với một người nào đó trên hành trình tiến tới sự trưởng thành thiêng liêng và tự do nội tâm, người ấy cần phải được cảm hứng bởi một quan niệm tích cực về con người và mở ra giá trị hướng tới sự siêu việt.
Theo quan điểm triết học, con người không được nhìn như là một vấn đề (problème), nhưng là một huyền nhiệm (mystère) (x. Grabriel Marcel).
Theo quan điểm Kinh Thánh, con người là hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Bởi thế, người ta không được phép giảm thiểu con người chỉ là vấn đề. Con người cưu mang trong mình nguồn lực phong phú vô tận mà Thiên Chúa phú bẩm và những khát vọng vô biên, hướng tới sự tự siêu việt bản thân, tới giá trị cao cả.
Nhưng nơi con người cũng mang dấu ấn của những giới hạn và những nét mỏng giòn: bất toàn, yếu đuối, sợ hãi, tội lỗi v.v… Đây là thực tại nghịch lý hiện hữu trong chính con người. Mỗi ứng sinh là một “mầu nhiệm” đối với chính mình (Ratio 28).
Để thực hiện tốt việc đồng hành, nhà đào tạo và cả người thụ huấn cần có những phẩm chất và thái độ thiết yếu cho công việc này.
1. Đòi hỏi từ phía nhà đồng hành
Về phẩm chất, Bộ Giáo Sỹ đòi hỏi: “Các nhà đào tạo được mời gọi giữ kín về những gì liên quan đến cuộc đời chủng sinh. Nếu muốn đồng hành một cách đúng đắn, quân bình, với thái độ kính trọng sự tự do và lương tâm của người khác, cũng như giúp cho sự phát triển nhân bản và thiêng liêng của họ, thì mỗi nhà đào tạo phải có những điều kiện thích hợp và những khả năng về nhân bản, thiêng liêng, mục vụ và chuyên môn xứng đáng… Ngoài ra, bất cứ ai được trao cho trọng trách đào tạo cũng phải được chuẩn bị một cách chuyên biệt và phải có lòng tận tụy quảng đại. Nhà đào tạo phải hiện diện toàn thời gian, và trước hết, họ phải là chứng nhân qua lòng yêu mến và phục vụ dân Chúa, bằng cách xả thân hết mình cho Giáo Hội mà không tính toán” (số 49).[9]
2. Đòi hỏi từ phía người được đồng hành
Sau đây là những thái độ cần thiết mà người thụ huấn cần có:
* Tin tưởng: Bộ Giáo Sỹ nói rằng: “Sự tin tưởng lẫn nhau là một nhân tố thiết yếu trong tiến trình đồng hành. Trên bình diện giáo dục, cần xác định rõ những phương thức cụ thể nhằm nuôi dưỡng và nâng đỡ một sự tin tưởng như thế. Trước hết, cần phải tạo điều kiện để có được một bầu khi thanh thản thuận lợi cho sự tín nhiệm hoàn toàn và tin tưởng nhau.”[10] Hễ ai tin cậy Chúa Thánh Thần thì cũng tin cậy những trung gian của Người. Hễ ai biết phó mình trong tay Chúa Thánh Thần thì không lo sợ khi chia sẻ lịch sử đời mình với người đồng hành trong sự cởi mở, tin tưởng và phó thác.
* Cởi mở: Điều kiện để đồng hành và biến đổi là thái độ cởi mở. Ứng sinh sẵn sàng bộc lộ thế giới nội tâm của mình, những trở ngại và tổn thương, hy vọng và lo âu, thói quen và tật xấu, sở trường và sở đoản, cả sự bất nhất nền tảng vô thức và có ý thức v.v… với các nhà đào tạo, nhất là cha Linh hướng. Không có cởi mở không có đào tạo. Vì thế, việc đồng hành chỉ làm cho qua chuyện, là tán gẫu!
* Thái độ ngoan ngùy (Docibilitas): Đây là thái độ sẵn sàng của một người luôn “biết học để lớn lên.” Học từ mọi người, mọi hoàn cảnh, kể cả từ những sai lầm của mình và của người khác để trưởng thành. Người luôn ở trong tình trạng huấn luyện.
Ngoan ngùy cũng có nghĩa là trở nên dễ bảo, dễ uốn nắn, thay vì cứng cỏi, cứng đầu, cứng lòng.
Về điều này, Bộ Giáo Sỹ quả quyết: “Vì nhắm đến sự ngoan ngùy đối với Chúa Thánh Thần, nên việc đồng hành riêng với từng người là một phương thế đào tạo thiết yếu.”[11]
IV. Phương pháp đồng hành
Đồng hành với một người là một nghệ thuật của các nghệ thuật. Người thi hành sứ vụ này cần phải có sự hiểu biết, phương pháp và chiến lực đồng hành phù hợp thì mới hy vọng việc đồng hành đó có kết quả tốt.
Có nhiều phương pháp để áp dụng trong đồng hành ơn gọi, ở đây, chúng ta chỉ giới thiệu phương pháp của “trọng tâm nhân vị” của Carl Rogers. Ông cung cấp cho chúng ta một phương pháp mới để thực hiện sứ mạng này trong hành trình hướng tới sự trưởng thành nội tâm của người thụ huấn.
1. Carl Rogers và liệu pháp “trọng tâm nhân vị” (client-centered psychotherapy)
Carl Rogers (1902-1987) đưa ra một lối tiếp cận và phương pháp giúp làm sáng tỏ tầm quan trọng của những nguồn năng lực và những khả thể tiềm ẩn trong mỗi cá thể.
Carl Rogers phát triển lối tiếp cận tư vấn tâm lý “tập trung trên bệnh nhân hay trên nhân vị,” dựa trên một quan niệm tích cực (positive) về con người, khởi đi từ giả thiết rằng mỗi người có những giá trị nội lực vô tận, khả năng tự xác định, khả năng tự giải quyết và tự siêu việt chính mình. Theo lối nhìn này, Rogers cho rằng chính những “bệnh nhân” hay người được đồng hành là nhân vật chính trong việc khám phá khả năng tái lập sự quân bình cho mình cách tốt hơn; chính họ là người tự thân tìm ra giải đáp cho chính mình dựa trên “sức mạnh nền tảng” (forza di base); chính họ có khả năng để hiểu và tái cấu trúc, tái tổ chức bản thân từ những nguồn lực và sức mạnh nội tại nơi mình.
Theo phương pháp này, người tư vấn hay nhà đồng hành chỉ đóng vai trò là người “hộ sinh,” nói theo ngôn ngữ của triết gia Socrates. Nghĩa là chỉ đóng vai trò đi bên cạnh, trợ giúp và khơi thông những nguồn lực đó nơi bệnh nhân hay người được đồng hành để họ phát huy tối đa tố chất và năng lực của mình cho một sự phát triển toàn diện, cũng như để chính họ tìm ra giải pháp cho những khó khăn trong hành trình của mình. Nhiệm vụ của người hướng dẫn đơn giản chỉ là như thế, nghĩa là đi bên cạnh và giúp đỡ chứ không áp đặt cách một chiều mọi giải pháp cho người được đồng hành.
Đây là một phương pháp được gọi là “giúp những người khác biết tự giúp mình”. Hình thức giúp đỡ này đặt vai trò của người được đồng hành như là nhân vật chính trong hành trình của mình hướng tới sự trưởng thành. Chính vì lý do này mà ngày nay, người ta thường thích dùng hạn từ “đồng hành” (accompagnamento) để diễn tả công việc này hơn là hạn từ “hướng dẫn” (direzione).
2. Phát triển lối đồng hành “trọng tâm nhân vị”
Phát triển việc đồng hành “tập trung trên người thụ huấn” dựa trên bốn nguyên tắc nền tảng sau đây: tính phù hợp; đón nhận vô điều kiện, thấu cảm và không chỉ thị.
Những khía cạnh nền tảng này giúp thiết lập một tương quan lành mạnh giữa người đồng hành và người được đồng hành. Chúng kiến tạo một bầu khí dễ dàng cho việc đối thoại, phù hợp với sự tiến bộ của con người trong tương quan liên vị, linh hướng và huấn luyện.
Giờ đây chúng ta cần tìm hiểu từng phương diện:
2.1. Tính phù hợp (Congruence)
Trước hết, nhà đồng hành phải là một người chân thật, chân thành và trong sáng, không có gì giả tạo cũng như không che giấu cảm xúc và suy nghĩ của mình đằng sau chiếc mặt nạ chuyên môn hay giả hình. Nhà huấn luyện phải là người chân thực. Nếu nhà đồng hành là người chân thực, ngài sẽ có khả năng để thiết lập một tương quan trong sáng với chính mình, với người khác và cả với Thiên Chúa. Họ phải là người trong sáng trong tư duy, lời nói và cung cách nết ở của mình trước người thụ huấn. Để việc đồng hành có hiệu quả, họ phải biết xây dựng tương quan trong sáng với người thụ huấn.
Nhà đồng hành là người chân thành, nghĩa là phải có sự đón tiếp cách hồn nhiên và cởi mở, được gợi hứng từ sự kính trọng chân thành đối với người thụ huấn và tin tưởng, xác tín về những nguồn lực hiện diện trong mỗi con người. Sự chân thành phát xuất sự an nhiên tự tại sẽ trở thành nền tảng để xây dựng tương quan tốt trong tương lai.
2.2. Đón nhận vô điều kiện (Unconditional positive regard)
Nhà đồng hành không được đặt ra những điều kiện để đón nhận người khác, mỗi người được đánh giá và nhìn nhận vô điều kiện mà không rơi vào việc đánh giá có tính chọn lọc, thiên kiến hay thành kiến, nhưng xét như một nhân vị và huyền nhiệm, mỗi người được nhìn theo mức độ là một chủ thể phân biệt, đặc biệt và duy nhất, với những năng lực, tình cảm, tính cách, hoàn cảnh và kinh nghiệm riêng của họ. Đón nhận người khác vô điều kiện là đón nhận họ như họ là, với một thứ tình cảm tự nhiên, một lối tiếp cận tích cực, mà không được ưu tiên hay phân biệt, không có sự đánh giá chủ quan. Nó loại bỏ mọi hình thức của việc xét đoán hay suy đoán chủ quan về người khác theo hệ quy chiếu của mình.
Bởi thế, sự đón nhận vô điều kiện hệ tại trong những yếu tố sau:
Về sự kiện, tình trạng và giá trị của từng người phải được đón nhận như họ là (così come è). Đây là thái độ của Chúa Giêsu trong dụ ngôn “lúa và cỏ lùng” (Mt 13,24-30). Đó là thực tại tốt và xấu, nhân đức và tội lỗi đồng hiện hữu trong cuộc sống, nơi từng người mà chúng ta phải chấp nhận.
Không xét đoán và vội vàng đánh giá như Chúa Giêsu đã dạy và đã sống: “Đừng xét đoán, để không bị xét đoán” (Mt 7,1). Chẳng hạn đối với các tội nhân, Chúa Giêsu không kết án và lên án họ. Nếu ta kết án ai vì một lỗi lầm, điều đó có nghĩa là hiển nhiên ta việc hạ giá người đó với lỗi lầm của họ; sự la mắng vì sự yếu đuối được cảm nhận như sự từ chối con người yếu đuối và bất nhất. Vì thế, cần phải biết phân biệt giữa tội nhân và tội lỗi. Tội lỗi cần phải từ chối nhưng tội nhân thì cần đón nhận.
Tương quan “đích thực” của nhà đồng hành với người được đồng hành phải được xây dựng dựa trên nhu cầu căn bản là muốn được nhìn nhận như một nhân vị (persona).
2.3. Sự thấu cảm (Accurate empathy)
Marian Kinget định nghĩa sự thấu hiểu như sau: “Thấu hiểu là khả năng đặt mình ở vị trí của người khác, để thấy thế giới của họ như họ thấy.”[12] Theo Carl Rogers, đây là định nghĩa đầy đủ nhất về sự thấu hiểu: “Là sự cảm nhận thế giới cá vị của người khác như nó là của chúng ta mà không bao giờ đánh mất chất lượng của chúng như chúng là… cảm nhận sự sợ hãi, nóng giận, sự lo lắng của bệnh nhân như chúng là của chúng ta, tuy nhiên, chúng ta không thêm vào đó cơn giận của chúng ta, sự sợ hãi và cả sự lo lắng của chúng ta.”[13]
Như thế, thấu cảm là hành vi ra khỏi mình và đặt mình trong “tà áo của người khác” để nhìn và cảm nhận như họ. Thấu cảm cũng là hành vi tự siêu việt bản thân. Vì thế, sự thấu cảm quan trọng hơn cả kiến thức lý thuyết và kinh nghiệm riêng của bản thân.[14]
2.4. Không chỉ thị (non directive)
Như đã nói, đây là phương pháp “trọng tâm nhân vị,” chứ không tập trung trên nhà đồng hành, trên sự hiểu biết hay trên vấn đề mà chúng ta muốn giải quyết.
Rogers gọi liệu pháp của mình là “liệu pháp không chỉ thị” (non-directive therapy). Ông khám phá ra rằng nếu có hai điều kiện sau đây thì trình trạng của thân chủ thường sẽ được cải thiện: một là, khi nhà tư vấn có thể biểu hiện sự quan tâm tích cực đối với thân chủ, không phán xét thân chủ và biết đón nhận thân chủ như một con người mà không hề đặt một điều kiện tiên thiên nào cho sự đón nhận đó; hai là, khi nhà tư vấn có thể cho thấy mình thấu cảm đối với thân chủ.
Ông nhấn mạnh vào tính chất đặc trưng của nhà trị liệu là không hướng dẫn bệnh nhân của mình. Mục đích trị liệu là tạo ra một bầu không khí cởi mở và không can thiệp. Đây là phương pháp diễn tả một ý nghĩa kép: trước hết là phương pháp hướng chủ thể tới một mục đích mà người hướng dẫn muốn; thứ đến là phương pháp để chứng thực một cách cụ thể sự tin tưởng của nhà đồng hành vào người được đồng hành có những nguồn năng lực nội tại và về khả năng hướng tiến tới sự thực hiện bản thân.
Chúng ta dẫn chứng ở đây một minh họa về phương pháp này: Người ta kể rằng có một người phụ nữ rất buồn khổ, bà đến gõ cửa rất nhiều cha linh hướng và các nhà tâm lý trị liệu để được giải thoát khỏi tình trạng đau khổ này. Bà được chữa lành một cách nhanh chóng chỉ nhờ cuộc gặp gỡ với cha Maurice Zundel, một nhà thần học, một tác giả tu đức nổi tiếng người Thụy Sĩ, cũng là bạn thân Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Khi người ta hỏi bà rằng, cha Zundel đã khuyên bà lời khuyên nào mà làm cho bà được chữa lành nhanh như thế, bà trả lời: “Cha không nói một lời nào cả, ngài chỉ đơn giản lắng nghe tôi, ngài nhìn tôi khóc. Và sau đó, ngài đã khóc với tôi. Chúng tôi đã khóc với nhau một hồi lâu.” Sự thấu cảm sâu xa với nỗi đau của người khác nhiều lúc không chỉ an ủi họ mà còn chữa lành những tổn thương bên trong những dòng nước mắt. Sự thấu cảm càng hiệu quả hơn trong tương quan đồng hành. Nó trở thành hình ảnh của sự đón tiếp đầy nhân ái mà Chúa Cha trên trời đã dành cho mỗi tội nhân. Đó là dấu chỉ hữu hiệu về lòng thương xót, hay là bí tích của sự chữa lành mà Thiên Chúa dành cho tội nhân.
Trong những phương pháp chỉ thị (directive), sự hướng dẫn đóng một vai trò trực tiếp khuyên bảo, chỉ dạy, hướng dẫn làm theo ý của mình; ngược lại, trong phương pháp không chỉ thị, người đồng hành tự giới hạn để hoạt động một cách gián tiếp mà không đưa ra chỉ thị trực tiếp, không áp đặt theo ý riêng, nhưng gợi ý và giúp người được đồng hành trở về với chính nguồn lực của mình.
Phương pháp không chỉ thị là một hình thức can thiệp trong đó người hướng dẫn tập trung nơi sự phát triển của con người, khi giúp họ tự ý thức về chính thế giới cảm xúc của mình, để suy tư về những phương diện khác nhau của tình trạng được bày tỏ, và đánh giá ý nghĩa nhân bản, luân lý của chính thái độ của mình, và đi đến quyết định khi dám chịu trách nhiệm về những quyết định đó.
Kết luận
Đồng hành ơn gọi là một nghệ thuật của các nghệ thuật. Để việc đồng hành này có kết quả, cần hội đủ nhiều yếu tố:
1) Yếu tố ân sủng của Thiên Chúa và tác động của Chúa Thánh Thần.
2) Yếu tố đáp trả của ứng sinh là thiết yếu và cần thiết.
3) Yếu tố Giáo Hội học, đó là vai trò của các nhà đào tạo và cộng đoàn huấn luyện.
Nhờ hội đủ những yếu tố trên, công cuộc huấn luyện linh mục mới hứa hẹn những kết quả tốt đẹp như Chúa và Giáo Hội mong muốn.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Tài liệu tham khảo
- Manenti, Comprendere e accompagnare la persona umana, EDB, 2016, 205.
- Sinodo dei Vescovi XV, Documento finale, Giovanni, Fede e Discernemento vocazionale, Vaticano 2018.
- Bộ Giáo Sỹ, Đào Tạo Linh Mục. Hồng Ân và Ơn Gọi Linh Mục, Tôn Giáo, Tp. HCM, 2016.
- Cencini, I sentimenti del Figlio. Il cammino formativo della vita consacrata, Bologna 1998.
- Di Fabio, Counseling. Dalla teoria all’applicazione, Giunti, Firenze 1999.
- Rogers C. R., Client-centered therapy: its current practice, implications, and theory, Houghton Mifflin, Boston 1951.
- Giordani –A. Mercatali, La direzione spirituale come incontro di aiuto, Antonianum, Roma 1984.
[1] Cf. A. Cencini, I sentimenti del Figlio. Il camino formativo della vita consacrata, Bologna 1998, 48-49.
[2] A. Manenti, Comprendere e accompagnare la persona umana, EDB, 2016, 205.
[3] Bộ Giáo Sỹ, Đào Tạo Linh Mục. Hồng Ân và Ơn Gọi Linh Mục, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, 2016, số 44.
[4] Ibidem, số 45-46.
[5] Ibidem, số 48.
[6] Ibidem, số 50.52.
[7] Trong ĐGH. Phanxicô, Tông Huấn Chúa Kitô đang sống, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM 2019, số 291-297.
[8] Cf. Sinodo dei Vescovi XV, Documento finale, Giovanni, Fede e Discernemento vocazionale, Vaticano 2018, n. 4.
[10] Bộ Giáo Sỹ, Đào Tạo Linh Mục, số 45.
[11] Bộ Giáo Sỹ, Đào Tạo Linh Mục, số 45.
[12] C. R. Rogers, – Marian Kinget, Psychothérapie et relations humaines: théorie et pratique de la thérapie non-directive, Publications Universitaires, Louvain 1962-1965, p. 92.
[13] Cf. A. Di Fabio, Counseling. Dalla teoria all’applicazione, Giunti, Firenze 1999, pp. 130-131.
[14] Cf. Ibidem.
Chuyên đề khai giảng năm học 2020-2021
Đại Chủng viện Thánh Phanxicô Xaviê
2020
Thánh giá – Ánh sáng cuộc đời
“Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì ngoài Thập Giá của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Gl 6,14).
Thập Giá của Đức Giêsu, biểu tượng của tình yêu, một tình yêu hiến thân vì người mình yêu (x. Ga 15,13). Chính trong tình yêu ấy chất chứa cả một thế giới diệu kì. Với cây Thánh Giá, sức mạnh của tình yêu, như một chìa khóa vạn năng, có thể giải cứu mọi vấn đề, mở ra mọi cánh cửa cuộc đời để dẫn con người vào con đường hạnh phúc. Tuy nhiên, trong cuộc sống, con người vẫn mãi tìm đến chìa khóa của thành công khác như: tiền bạc, danh vọng, địa vị và nhu cầu xác thịt. Vậy hạnh phúc thật sự bắt nguồn từ đâu? Phải chăng những hạnh phúc chóng qua cõi tạm trần gian có giúp con người thoát khỏi đau khổ không?
Nhìn vào lịch sử cứu độ, cho ta thấy: Dân Israel, một dân được tuyển chọn, một dân được gọi là dân riêng của Thiên Chúa và một dân tộc sống bằng nghề du canh du cư, nay đây mai đó. Trải qua năm tháng du mục, dân tộc Israel đã viết lên một trang sử oai hùng và hào kiệt.
Trong suốt dòng lịch sử đi về đất hứa, đoàn dân riêng của Chúa đã đi qua biết bao cuộc hành trình dài ngắn, song song bên các cuộc hành trình này dân Chúa đã để lại đằng sau những bước chân lên đường là vật chất, tinh thần và cả các bậc tổ tiên của họ. Trong tất cả những khó khăn gian khổ mà dân phải đối diện trong cuộc hành trình về đất hứa ấy, dân Israel đã tin vào ai? Họ đã đi tìm sức mạnh nơi đâu để vượt qua những khó khăn? Câu trả lời nào cho sự sống còn của một dân tộc? Thứ thuốc nào để chữa lành các dịch bệnh và đau khổ mà họ gặp phải?
Phải chăng câu trả lời đó chính là “Ngươi hãy làm một con rắn đồng và treo lên một cây cột. Tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống” (Ds 21,8). Tại sao lại nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ thì ngươi được sống, cả dân tộc ngươi được tồn tại thịnh vượng. Nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ, cả dân tộc ngươi đủ sức đi về đất hứa. Tại sao ngươi không phải nhìn vào mặt trời, mặt trăng, các tinh tú, hay Môsê người dẫn đường?
Nhìn lên con rắn đồng treo trên cây gỗ trở thành ánh sáng tình yêu chiếu soi vào cuộc đời của dân Chúa, trở thành sức mạnh, trở thành loại thuốc chữa lành và đem đến sự sống cho dân tộc Israel. Chính từ đây, Thiên Chúa đã làm cho Israel trở thành một nước hùng mạnh cho đến ngày hôm nay: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” (x. Ga 19,37).
Hình bóng con rắn đồng treo lên cây cột đã cứu dân Israel trong thời Cựu Ước. Hình bóng đó đã được làm sáng tỏ nơi chính Đức Giêsu trong Tân Ước, khi Ngài mời gọi con người “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”. Nhìn lên Đấng họ đâm thâu trên cây gỗ giá, nhân loại nhìn ngắm gì trên đó? Phải chăng nhìn ngắm một con người trần trụi không miếng vải che thân, xác thịt bê bết máu me và kiệt sức. Hay nhìn lên Đấng bị đâm thâu trên cây gỗ giá để thấy tội của nhân loại mà Đức Giêsu phải chấp nhận bị treo trên cây khổ giá ấy. Đây chính là “Giá Chuộc” trần gian khi Con Thiên Chúa vâng phục và tự hủy chính mình trên cây khổ giá!
Ẩn sau tất cả những đau khổ, lên án, nhạo báng, đòn roi, gai nhọn, hy sinh và tội lỗi của nhân loại mà Đấng treo Mình trên cây gỗ giá đã oằn mình gánh chịu, đó chính là tình yêu đến cùng, tình yêu hiến dâng, tình yêu cứu độ, và là sự vâng phục ý Cha đến tột cùng mà Đức Giêsu dành tặng cho Chúa Cha và nhân loại.
Chính từ điểm quy tụ “nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu” trên cây gỗ giá mở ra một luồng ánh sáng vĩnh hằng, ánh sáng chiếu vào mọi ngóc ngách của đời sống nhân loại và trao ban một sự sống mới, sự sống viên mãn cho toàn thể vũ trụ, là cửa ngõ dẫn vào sự sống đời đời.
Với thân phận con người, ai trong chúng ta cũng mang những thập giá riêng đời mình: Thập giá của mưu sinh, thập giá của bệnh tật, thập giá của gia đình, thập giá của học hành, thập giá của tính nết… và biết bao những thập giá nhỏ bé, không tên nhưng không kém phần nặng nề. Và chúng sẽ trở thành khổ giá cho những ai mất niềm tin và mất hy vọng vào Đức Kitô. Chúng sẽ là thánh giá cho những ai biết kết hợp đời mình và sống thân tình với Chúa Giêsu Kitô.
Sống Mầu Nhiệm Thánh Giá Đức Kitô, mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy chiêm ngắm Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh vì nhân loại. Đây cũng là lời mời gọi mỗi Kitô hữu nhìn lên Đấng Chịu Đóng Đinh mỗi ngày.
Nhìn lên “Đấng họ đã đâm thâu” để thân thưa với Ngài biết bao chuyện vui buồn của nhân loại, của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta.
Nhìn lên “Đấng họ đã đâm thâu” để học yêu như Ngài đã yêu, để học biết vâng phục ý Cha như Ngài đã vâng phục và thi hành trọn vẹn.
Nhìn lên “Đấng họ đã đâm thâu” để xin Ngài chữa lành và tha thứ cho tội của nhân loại và tội của mỗi người chúng ta.
Nhìn lên “Đấng họ đã đâm thâu” để xin Ngài ban ơn, giúp sức cho chúng ta biết chu toàn bổn phận hằng ngày.
Nhìn lên “Đấng họ đã đâm thâu” để chúng ta kín múc ánh sáng tình yêu từ trên cao và soi chiếu vào mọi vấn nạn của trần gian.
Cuối cùng, chiêm ngắm Mầu Nhiệm Thập Giá để chúng ta hiểu thấu đáo: Chúa Cha là tình yêu sáng tạo; Chúa Con là tình yêu cứu chuộc; và Chúa Thánh Thần là tình yêu thánh hóa và canh tân chúng ta mỗi ngày nơi những thập giá của phận người.
Cứ mỗi khi nhìn lên Thánh Giá Đức Kitô, dõi theo từng vết thương của Người, ta như thấy mình được vơi đi với những nỗi khổ đau mà ta đang trải qua. Cũng chính từ nơi Thánh Giá Chúa Kitô, ta mới nghiệm thấy quyền năng Thiên Chúa thật lớn lao dường nào! Quyền năng của Thiên Chúa được biểu hiện ở nơi Ngài và làm cho những khổ đau của chúng ta được bừng lên vị ngọt tình yêu. Nơi Thánh Giá Đức Kitô: Một tình yêu chỉ biết cho đi, một tình yêu quên cả mạng sống. Nơi Thánh Giá Đức Kitô cho ta một niềm tin, niềm hy vọng và lòng mến. Tuy nhiên, chúng ta có đủ tin yêu và có dám vác thập giá mình, đi lên đỉnh đồi “Calve cuộc đời” cùng với Chúa Kitô Chịu Đóng Đinh không?
Lạy Chúa Giêsu, Đấng đã treo mình trên Thánh Giá, xin cho con luôn qui chiếu cái nhìn của con vào Chúa, để khi nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu trên Thánh Giá mỗi ngày, con được kín múc tình yêu, sức mạnh, ánh sáng từ Thánh Giá Chúa tuôn trào. Xin giúp con luôn hân hoan, hạnh phúc, bình an để đem Tin Mừng Chúa đến cho mọi người con gặp và xin Thánh Giá Chúa luôn là ánh sáng soi vào cuộc đời con và là ánh sáng soi đường cho toàn nhân loại Amen. Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường, SVD
2020
Tản mạn “thuyền, biển” và đời tu
Tản mạn “thuyền, biển” và đời tu
Từ lâu, hình ảnh thuyền và biển luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong thi ca với những áng thơ tình giàu cảm xúc và là nỗi niềm chan chứa yêu thương của các đôi nam nữ. Từng cơn sóng biển dạt dào cứ cuộn trào như tình yêu đôi lứa dành cho nhau và mãi mãi khát khao đợi chờ. Chính những hình ảnh đó đã làm nên vẻ thi vị cho ngôn ngư thi ca.
Với Xuân Quỳnh thì:
…………………………….
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mông nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu, về đâu.
Đối với Xuân Thắng:
Biển nhấp nhô, gió giăng buồm gợn sóng
Hoàng hôn tà dựng bóng mái chèo nghiêng
Thuyền ta về ươm đầy mình hy vọng
Biển và thuyền lưu luyến nỗi niềm riêng.
Sơn Ca Linh lại nhìn thấy thân phận con người nơi “biển” và “thuyền”:
Có ai biết cái thuở nào duyên nợ,
“Biển” và “Thuyền” đã khắng khít cùng nhau.
Thuyền chắp cánh dệt mộng ước ngàn sau,
Biển xanh ngát bao la trời tít tắp !
…
Có những ngày thuyền nổi cơn gan góc,
Quyết đương đầu khi biển nổi cuồng phong.
Mang kiếp “thuyền” đành chấp nhận long đong,
Bạn với “biển” tử sinh là chuyện nhỏ !…[1]
Trải qua bao nghìn năm gắn chặt với nền “văn hoá sông nước”, con người Việt nam, cuộc sống Việt Nam gần như luôn thấp thoáng hình ảnh chiếc thuyền đâu đó, gắn chặt với “ngang dọc đời thường trong thô sơ mộc mạc” hay tồn tại đậm nét trong ký ức xa xăm nhưng chất chứa cả kho tàng lịch sử !
Ngược dòng thời gian nhìn lại lịch sử hơn 400 năm Loan báo Tin Mừng tại Việt Nam, cách riêng Giáo phận Qui Nhơn, có thể nói được, hạt giống đức tin đã “trôi dạt” đến với con dân Việt Nam trên những chiếc thuyền nhỏ bé lênh đênh giữa một thời loạn ly cấm cách. Thật vậy, chính những chiếc thuyền, có khi thật mỏng manh, đã chuyên chở các vị thừa sai đầy nhiệt huyết xuôi ngược vô Nam ra Bắc, bất kể những mùa biển động, len lỏi men theo những con sông dài thâm u khuất nẻo để tung gieo hạt giống Tin Mừng.
Trên những cuộc hải hành vượt trùng dương đầy khó khăn tưởng chừng như vô định, hình bóng những chiếc thuyền bị vùi dập mất hút giữa đại dương đã khắc hoạ rõ nét những gian nan thách đố và khó khăn dường nào của công cuộc truyền giáo. Đúng là “Chỉ có biển mới biết. Thuyền đi đâu về đâu”. Chuyến vượt biển đến Đàng Trong lần đầu tiên của Đức cha Lambert cách đây 350 năm trong ký sự của Cha Vachet, người bạn đồng hành với ngài, sẽ cho chúng ta thấy rất rõ điều đó:
“Chúng tôi lên thuyền ngày 20/7/1671. Đó là một thứ thuyền mà tiếng Đàng Trong gọi là thuyền bầu. Con thuyền được lèo lái bởi duy nhất bốn dân chài người Đàng Trong. Nói cho thực, chớ có kém lòng tin vào Thiên Chúa khi ra đi trên một con thuyền như vậy. Bạn hãy cứ tưởng tượng một con thuyền không đinh, không rợ, không mảnh sắt, không vải buồm và không hoa tiêu, mà dám rời xa đất liền. Bạn hãy hình dung một mớ vài ba mảnh ván nối lại với nhau cách sơ sài và buộc chung lại với nhau bằng những sợi giây tựa như những sợi mây thô thiển, những mỏ neo thì làm bằng gỗ, những cánh buồm là các mảnh chiếu gắn vào những cái cột là mấy thân cây tre, và bánh lái thuyền nằm ở một cái lỗ phía sau con thuyền, chỗ ấy nước dạt ra dạt vào rất dễ dàng. Chính là với những trang thiết bị như vậy mà chúng tôi khởi hành một chuyến đi xa cả hai trăm dặm đường vào một mùa đã thật cuối kỳ đi biển, đến một xứ sở đang lúc chiến tranh, và trên một vùng biển bão tố lúc nào không hay và đầy dẫy hải tặc. Nếu chỉ lấy cái khôn ngoan của con người làm mẫu mực trong những tình huống như thế, thì rất nhiều kẻ sẽ kết án là liều lĩnh dại dột mà ra đi như vậy. Một ông khu trưởng người Anh quốc, là người mà tôi chỉ cho thấy con thuyền của chúng tôi, đã quả quyết với tôi rằng dù người ta hứa với ông cho ông ăm ắp những vàng ròng chất đầy con thuyền người Đàng Trong đó, thì ông cũng chẳng hề ao ước sự gì hơn trên cõi đời này là đừng phải bước chân lên con thuyền đó. Ông tuyên bố vậy cho dù chính ông đã tìm tới vùng Ấn Độ Dương này là chỉ để lo làm giầu mà thôi. Nhưng đấy không thể nào là lời ăn tiếng nói, cũng không thể nào là tư tưởng của một thừa sai giảng đạo được. Vì chẳng được liều mạng cách vô lý, ta chẳng phải lo sợ quá đáng khi đưa mình vào nguy nan nào đó hầu lo cho việc đạo được phát triển. Ta phải luôn luôn sắp sẵn một con thuyền thiêng liêng nhỏ mà thân thuyền là đức tin, bánh lái thuyền là lòng bác ái, cột buồm là đức cậy, cánh buồm là lòng nhiệt thành, giây dợ, mỏ neo và mái chèo là lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa. Linh hồn đã có sẵn những nhân đức ấy thì dập dềnh lướt sóng trên một con thuyền bầu nhỏ cũng an toàn như trên một con tàu to lớn nhất, điều mà ngừi ta nhận thấy qua chuyến đi biển thành công nhất của chúng tôi”.[2]
Vâng, hành trình gieo vãi hạt giống đức tin là thế, đầy hiểm nguy và thử thách, nếu không kiên vững niềm tin sẽ không thể nào vượt qua được. Người xưa vẫn nói: “Vạn sự khởi đầu nan”. Cái gì mới bắt đầu mà chẳng mong manh, gian khó và nhiều chướng ngại; nhưng nếu chúng ta có một niềm tin cùng với ý chí kiên cường, vững chắc và một niềm trông cậy phó thác hoàn toàn cho tình yêu quan phòng của Chúa, chắc chắn “thuyền đời sẽ tới bến thành công”. Và như thế, hình ảnh những chiếc thuyền nan mong manh nhỏ bé kia lại bừng sáng lên như “những con thuyền vĩ đại”, chở đầy những thế hệ tông đồ, chứng nhân ra đi với tâm hồn đầy lòng yêu mến Chúa.
Nếu ai đó có dịp đi về Miền Tây ta có thể thấy được hình ảnh chiếc thuyền quan trọng như thế nào đối với người dân ở đây. Thuyền là nhà, là phương tiện đi lại và mưu sinh hằng ngày của họ. Trải qua bao thăng trầm dâu bể, chiến tranh, ly loạn…, hình bóng con thuyền luôn “nhấp nhô trong ký ức Việt Nam”. Có thể nói được, khái niệm “thuyền” và “biển” luôn chuyên chở một nét đẹp nhân văn cao cả đầy ắp nghĩa tình: tình cha, tình mẹ, tình chị, tình em, tình làng nghĩa xóm, tình yêu nam nữ…
Người ta còn nhận ra nơi hình ảnh chiếc thuyền và biển cả là “biểu tượng” của cả một “trời tâm trạng”: Có khi là sự lãng mạn của tình yêu với hạnh phúc ngập tràn, có khi là một sự đợi chờ hồi hộp với trăm ngàn mối nghi nan, thất vọng, có khi lo sợ trước giông tố bão bùng, sóng to biển động, có khi chứng kiến bao cảnh thương tâm cho những mảnh đời nghiệt ngã vì cuộc sống mưu sinh… Lúc này biển rộng mênh mông lòng thuyền không sao hiểu thấu và biển như đi vào cõi bất tận, vô biên mang theo nhiều nỗi khổ cho riêng mình. Phải chăng cuộc đời này quá nhiều nỗi truân chuyên sầu muộn mà con người phải đối diện từng ngày?
Biển giận hờn khoét thuyền sâu đau điếng,
Hay điên cuồng, thuyền vỡ nát tan hoang.
Sóng dâng cao dập dìu những khăn tang,
Thuyền gác mái thâu đêm chờ vô vọng…![3]
Sống trên thế gian này hầu như ai ai cũng có nỗi khổ. Người giàu có nỗi khổ của người giàu và người nghèo cũng có nỗi khổ của riêng mình. Không ai nói rằng tôi không khổ cả. Đức Phật Thích Ca đã nói: đời là bể khổ. Và nguyên nhân của nỗi thống khổ ấy chính là dục vọng, là Tham – Sân – Si, ba kẻ thù lớn nhất có thể phá hủy và đưa chúng ta vào con đường lầm lạc và mê muội, khiến con người có thể mất hết lý trí và bất chấp tất cả khi có thể để đạt được mục đích của mình… Để nhận ra mình, biết mình sống trong tình trạng đó đã là một vấn đề rất khó huống chi quyết tâm chống trả và diệt trừ thì khó biết bao.
Cuộc đời mỗi người chúng ta tựa như “chiếc thuyền đang vượt biển trần gian”, đang đối mặt với biết bao cơn giông tố bão bùng; chúng ta phải cật lực chèo chống từng ngày để chinh phục bến bờ hạnh phúc. Chúng ta, như người cầm chắc tay chèo, cố gắng chống chọi với phong ba bão tố để lèo lái “con thuyền đời mình” tiếp tục đi về phía trước, bất chấp mọi hiểm nguy đang chờ đón. Mỗi một cuộc đời trên dương gian đều như thế, một cuộc “vượt qua” không ngừng để thực hiện dự phóng và ước mơ dẫu chân trời tương lai xán lạn hay đường dài phía trước mờ mịt, tối tăm…, ta vẫn cứ đi.
Đời ta đã bao mùa biển động,
Ngã nghiêng theo đợt sóng xô bờ.
Một chút xôn xao rồi mặc sóng,
Thuyền vẫn bình yên dẫu chơ vơ.[4]
Có những lúc biển dữ dội làm cho thuyền đến mức phải bất lực nhưng không thiếu những lúc biển dịu dàng, nhẹ nhàng, lăn tăn gợn sóng như hiểu thấu nỗi âu lo, mệt mỏi của thuyền trước những thách đố, và:
Trong bài ca của muôn trùng sóng vỗ
Em có là nốt nhạc của tình yêu
Để biển xanh thành phố những buổi chiều
Hòa khúc hát bài tình ca thương nhớ
Ôi con đường hạnh phúc như trong mơ
Thuyền và biển hai tâm hồn say đắm
Qua tháng năm, qua mưa gió thăng trầm
Nỗi nhớ tình yêu viết bài ca thuyền biển[5]
Quả thật, hình ảnh thuyền và biển đã khắc hoạ nhiều “chiều kích nhân sinh”. Con thuyền của thế giới hôm nay như đang chống chọi từng ngày, từng giờ với làn sóng của đại dịch Covid- 19 đang hoành hành và cướp đi nhiều sinh mạng của người dân ngay tại Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới. Cuộc đời chúng ta không ai biết trước được ngày mai mình sẽ như thế nào, còn sống hay chết, bao nhiêu kế hoạch và dự tính sẽ đi về đâu?
Hơn lúc nào, cuộc sống hôm nay giống như người lữ khách đang ngồi trên chiếc “thuyền nan” để vượt biển trần gian đầy khó khăn thử thách và trôi dạt về những bến bờ vô định. Cũng như biển khơi, lúc dâng cao sóng vỗ, lúc gió dịu trời êm…, biển đời cũng không thiếu những cung điệu buồn vui, những thăng trầm hạnh phúc, đau thương và khổ luỵ… Làm sao khi sống ở trần gian này mà tránh khỏi những “nhịp điệu, cung đàn” như thế…!
Nếu như “thuyền và biển” là nét đẹp thơ mộng trong “ngôn ngữ thi ca” dành cho những chuyện tình nam nữ:
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau – rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió “
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố! (Xuân Quỳnh. Thuyền và Biển)
thì “thuyền và biển đời” cũng mang lại rất nhiều cảm xúc cho cuộc đời những người tu sĩ.
Thật vậy, khi tình yêu và lòng trung thành với lý tưởng, với ơn gọi còn ngự trị trong tâm hồn thì “sóng biển thế tục” cũng lặng êm; lúc đó “thuyền đời” lướt đi nhẹ nhàng trong rạng rỡ tin yêu hy vọng và cuộc đời đầy hạnh phúc. Nhưng khi “tình yêu phai nhạt”, thất tín, bất trung… thì “những cơn sóng thế tục” bủa vây giăng mắc; cuộc sống như bị dập vùi trong những trận cuồng phong dữ dội. Chính những lúc như thế, người tu sĩ mới thấy được con người thật quá mỏng manh yếu đuối, và việc bám víu vào hoa tiêu vững chắc là Đức Kitô chính là con đường bảo vệ, là điểm tựa an toàn nhất.
Chúng ta đừng quên, với chiếc thuyền của Phêrô, Chúa đã cho các môn đệ nhận ra quyền năng của Thiên Chúa và cũng là dịp để các ông thể hiện niềm tin của mình “Hãy ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5,4). Với khả năng hữu hạn của con người, Phêrô chỉ có thể làm theo lệnh truyền của Chúa vì lòng vâng phục. “Vì lời Thầy, con xin thả lưới”. Thuyền của các môn đệ đang cùng với Thầy Giêsu vượt trùng khơi mịt mù trong cuồng phong bão táp xô đẩy “Đang khi các ngài đi thuyền, thì Đức Giêsu thiếp ngủ. Một trận cuồng phong ập xuống, các ngài bị ngập nước và lâm nguy”(Lc 8, 23), “Đức Giêsu xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người. Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ”(Mt 8, 24).
Khi con thuyền chơi vơi giữa dòng bị sóng đánh chập chờn, sóng ập vào thuyền, bị giông tố dập vùi… cũng là lúc lòng người lữ khách âu lo, sợ hãi, chao đảo, nghi ngờ sự hiện diện của Chúa trong đời. Nhưng trải qua bao giông tố cuộc đời, dù thế nào đi nữa thì chỉ còn một niềm hy vọng, một điểm tựa và một phao cứu hộ duy nhất là Chúa Giêsu, dù Ngài ngủ hay thức nhưng có Ngài hiện diện trên chiếc thuyền đời của ta thì chúng ta tin rằng mọi sự sẽ bình yên.
Cũng đừng quên, như những ngư phủ thường trông lên vì sao “Bắc Đẩu” để định vị và định hướng cho những cuộc hải hành, nhất là những khi trôi dạt lạc đường khi bão tố, những người tu sĩ cần ngước trông về một “Vì sao Bắc Đẩu” khác, như lời thơ:
Nên chỉ biết khi sang mùa biển động,
Thuyền có ra khơi xin nhớ hướng lên trời.
Có một vì sao Bắc Đẩu rạng ngời,
“Maris Stella”, Mẹ Maria chính là vì sao ấy ![6]
Như chiếc thuyền nan chòng chành trên sóng nước, như biển cả bao la với muôn ngàn con sóng vỗ…, cuộc sống đời tu luôn đối diện với những khó khăn trở ngại, thất bại lo âu, thiếu cảm thông, thiếu cậy trông tin tưởng vào Chúa, và lắm lúc cũng ngả nghiêng theo từng cơn sóng… Chính trong những lúc như thế, người tu sĩ luôn biết nhận ra sự hiện diện của Chúa, và hãy để cho Chúa dẹp yên những giông tố bão bùng trong biển lòng của mình. Có như thế, mỗi ngày chúng ta sẽ bình yên bước đi trên sóng nước bằng chính chiếc thuyền đời của mình với một niềm tin yêu phó thác vào tình yêu thương quan phòng của Chúa.
Nt. Anna Hiền Linh – MTGQN
[1] Sơn Ca Linh. Bài thơ: Thuyền, biển và “Vì Sao Mẹ”.
[2] Trích ký sự của cha Vachet viết về cuộc hành trình của Đức cha Lambert thăm viếng Đàng Trong lần đầu từ Xiêm La đến Đàng Trong.
[3] Sơn Ca Linh. Bài thơ: Thuyền, biển và “Vì Sao Mẹ”.
[4] Sơn Ca Linh: Bài thơ Mùa biển động và em.
[5] Trích chùm thơ Thuyền và Biển của nhiều tác giả
[6] Sơn Ca Linh. Bài thơ: Thuyền, biển và “Vì Sao Mẹ”
2020
Khái niệm giáo dục, huấn luyện và đồng hành trong tiến trình đào tạo ơn gọi linh mục và thánh hiến
Khái niệm giáo dục, huấn luyện và đồng hành
Khái niệm giáo dục, huấn luyện và đồng hành trong tiến trình đào tạo ơn gọi linh mục và thánh hiến
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
WGPHT – Đào tạo ơn gọi linh mục và thánh hiến là một tiến trình mang tính năng động, tiệm tiến và sư phạm. Tiến trình này phải được thực hiện qua các giai đoạn giáo dục, huấn luyện và đồng hành. Giáo dục, huấn luyện và đồng hành là ba khái niệm nền tảng quan trọng của một tiến trình huấn luyện. Đào tạo phải có giai đoạn giáo dục và giai đoạn huấn luyện kết hợp với sự đồng hành. Để hiểu rõ về tiến trình năng động này, chúng ta tìm hiểu ba khái niệm nền tảng này.
- Giáo dục (Education)
Theo nguyên từ, giáo dục trong tiếng Latinh – educere – có nghĩa là dẫn ra, phân biệt ra, làm cho rõ. Theo nghĩa đó, giáo dục là “đào bới,” “lôi ra,” hoặc đưa ra sự thật con người của mình lên bình diện ý thức, sự thật mà ta ý thức hay không ý thức. Giáo dục là giúp một người nhận biết chính mình, ý thức về sự thật chính mình, khám phá những tiềm năng và nhược điểm, đồng thời giúp người thụ huấn phát huy các tiềm năng con người một cách tối đa và tự thể hiện mình một cách đầy đủ.
Giáo dục phải đụng chạm tới toàn bộ con người của người thụ huấn. Theo Tông huấn về Đời Sống Thánh Hiến, việc giáo dục “phải quan tâm đến toàn thể con người, tức là mọi khía cạnh trong nhân cách, hành vi và ý hướng của người thụ huấn.”[1]
Nếu một nền giáo dục chỉ nhấn mạnh hay chỉ tập trung vào việc huấn luyện các kỹ năng và cung cấp kiến thức, hoặc chỉ chú trọng giáo dục phần bên ngoài con người thụ huấn, thì nền giáo dục đó có nguy cơ bị giảm thiểu, thiếu tính toàn vẹn và không mang lại sự biến đổi bên trong con người của người thụ huấn. Công cuộc đào tạo linh mục – tu sỹ không phải là đào tạo các ‘công chức’ hay các ‘chuyên viên’ cho Giáo Hội, mà là đào tạo những “con người của Thiên Chúa và của Giáo Hội.”
Giáo dục phải là một quá trình giúp người thụ huấn biến đổi toàn bộ con người mình: Từ hành vi, thái độ, tình cảm, động lực thúc đẩy và cả chiều sâu thẳm của lòng họ. Theo tiến trình này, giáo dục là giúp người thụ huấn khám phá và nhận thức một cách chính xác các hành vi, cử chỉ, lời nói, sở thích, tập quán, thói quen, thái độ sống, lối phản ứng trước một hoàn cảnh, trước một sự kiện. Những hành vi và thái độ sống này có phù hợp với các giá trị và lý tưởng tu trì không?
Không dừng lại ở bên ngoài và hài lòng với những gì thay đổi ở bên ngoài, người thụ huấn phải được giáo dục từ bên trong là chính con tim của mình, nghĩa là họ được giúp đỡ để nhận biết tình cảm và cảm xúc sâu xa bên trong, kể cả những cảm xúc mà mình không ý thức. Giáo dục là giúp họ nhận ra trong họ những tình cảm “hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục” có phù hợp với đời tu không, từ đó giúp họ thay đổi, trưởng thành về tình cảm và cảm xúc của mình.
Sâu hơn nữa, người thụ huấn cũng phải được giáo dục cả về động lực thúc đẩy. Việc giáo dục không dừng ở chỗ hướng dẫn họ “làm gì” mà còn phải giáo dục họ nhận thức được “tại sao tôi làm,” “động lực nào thúc đẩy tôi hành động?” Từ việc nhận biết các động lực thúc đẩy, người thụ huấn nhận ra những khuynh hướng đang lèo lái đời sống của họ: Khuynh hướng quy ngã, quy xã hội, cá nhân chủ nghĩa, lập dị, thích tiền hay quyền lực, gây hấn, hay quá khích, ấu trĩ hay nhu nhược… và cả sự mơ hồ trong chọn lựa căn bản.
Việc giáo dục phải quan tâm đến tất cả những yếu tố làm nên “con người thật” của ứng sinh. Theo ngôn ngữ chuyên môn, các nhà tâm lý giáo dục gọi đây là “cái tôi hiện tại – actual self” của ứng sinh. Do đó, việc huấn luyện phải can thiệp trực tiếp vào cái tôi hiện tại của người thụ huấn. Giáo dục là lôi ra ánh sáng những gì không phù hợp, những gì là “ấu trĩ” và thiếu trưởng thành của người thụ huấn.
Quả thế, đây là một quá trình trở về với chính bản thân, nhận biết mình, khám phá bản thân, chấp nhận chính mình và thay đổi chính mình. Tiến trình này được thực hiện trong khó khăn, dài thăm thẳm, tiệm tiến và rất năng động. Theo nghĩa này, công cuộc đào tạo không phải là một cuộc dạo chơi trong công viên mà là một hành trình đầy gian khó đi về Giêrusalem như hành trình của Đức Giêsu. Và đây là logic mầu nhiệm thập giá xảy ra trong việc huấn luyện: Phải qua đau khổ để tới Phục Sinh vinh quang. Giáo dục phải đi qua kinh nghiệm của ngày Thứ Sáu để tới ngày Chúa Nhật phục sinh. Nếu ai muốn bước vào quá trình siêu việt chính mình và hoàn thiện bản thân, có nghĩa người đó phải chấp nhận bị tổn thương, gột rửa và lột xác con người của mình. Chấp nhận thay đổi cấu trúc con người, động lực, tình cảm, lối suy nghĩ và cách hành động của mình để có thể tới một giai đoạn khác mà ta gọi đó là giai đoạn huấn luyện.
- Huấn luyện (Formation)
Giáo dục mà thôi thì chưa đủ. Cần có huấn luyện. Trong tiếng Latinh động từ formare có một ý nghĩa đặc biệt: “Đưa ra một khuôn mẫu, tạo một hình thức.” Theo đó, việc huấn luyện là đưa ra một gương mẫu rõ ràng mà người thụ huấn được mời gọi phải hướng tới và cưu mang trong lòng. Đó là một thể thức hay một lối sống mới mà họ chưa có, nhưng họ phải đạt tới một cách tiệm tiến và đó cũng là yếu tố làm nên căn tính mới nơi họ. Theo nghĩa này, huấn luyện không chỉ là năng động tự thể hiện (self-realization), mà còn là năng động tự siêu việt (self-transcendence) theo một khuôn mẫu hoặc một lý tưởng. Huấn luyện không chỉ dừng lại ở việc biết mình hay chiêm ngắm bản thân, mà còn phải hướng tới việc khám phá và hình thành cái tôi lý tưởng (ideal self) mới mẻ và đích thật của mình.
Chính vì thế, trong các tài liệu về đào tạo linh mục và tu sỹ,[2] Giáo Hội chọn mô hình Chúa Con làm khung quy chiếu cho dự phóng huấn luyện. Theo đó, Đức Giêsu Kitô là khuôn mẫu lý tưởng mà người thụ huấn luôn được mời gọi để trở nên đồng hình đồng dạng với Người.[3]
Nói cách khác, việc huấn luyện là một tiến trình xây dựng nơi người thụ huấn con người mới trong Đức Kitô, hình thành nơi họ cách sống mới, thái độ mới, lối suy nghĩ mới, tâm tình và ước muốn của chính Đức Kitô. Vì thế, việc huấn luyện không được hiểu như là một sự bắt chước bên ngoài, nhưng là sự trở nên giống từ bên trong, là “mặc lấy những tâm tình của Chúa Kitô như Người đã biểu lộ với Chúa Cha.”[4]
Nếu nói quá trình giáo dục là chết đi con người cũ, thì quá trình huấn luyện là phục sinh con người mới trong Đức Kitô. Nếu trong cuộc đời Đức Giêsu, Mầu Nhiệm Tử Nạn gắn liền với Mầu Nhiệm Phục Sinh, thì trong quá trình huấn luyện đau khổ và vinh quang cũng rất gắn bó với nhau. Phải chấp nhận thay đổi, tự hủy, chết đi thì mới phục sinh con người mới, con người nhân đức và thần khí.
Việc huấn luyện chỉ có hiệu quả thực sự khi có sự biến đổi nơi ứng sinh. Việc huấn luyện giúp ứng sinh nhận ra căn tính của mình nơi Chúa Kitô. Chân – thiện – mỹ của giá trị dần dần trở thành chân – thiện – mỹ của chủ thể. Tâm tình của Chúa Kitô ngày càng trở nên tâm tình của người thụ huấn. Huấn luyện là để cho Thiên Chúa uốn nắn thái độ, lời nói, ý nghĩ và ước muốn của mình mỗi ngày nên giống Chúa Kitô.
Chính việc huấn luyện này tác động trên trái tim, để họ say mê Thiên Chúa; tác động trên trí tuệ, để họ có thể chiêm ngắm và tìm kiếm Thiên Chúa và tác động trên ý chí, để họ biết khát khao như Thiên Chúa khao khát.
III. Đồng hành (accompagnement)
Từ thời Trung Cổ, hạn từ đồng hành trong tiếng Latinh là cum-panio, có nghĩa là “chung một tấm bánh.” Tự bản chất, đồng hành có nghĩa là chia sẻ. Vì thế, việc đồng hành với người thụ huấn muốn sống đời sống tu trì không chỉ là hướng dẫn họ trong đời sống tâm linh, dạy dỗ, hay thiết lập tương quan một chiều với họ, nhưng là cùng nhau thực hiện hay cử hành và chia sẻ kinh nghiệm đức tin. Đồng hành không chỉ có nghĩa là đi bên cạnh người khác trên một quãng đường nhất định, mà là cùng nhau bước đi trên đường, cùng nhau chia sẻ “của ăn đàng” là đức tin, kinh nghiệm về Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thánh Thần.
Theo nghĩa đó, toàn thể tiến trình huấn luyện không chỉ là truyền đạt hay chỉ cho biết con đường phải đi, mà là một kinh nghiệm dấn thân và “tuyên xưng” đức tin của nhà huấn luyện với người thụ huấn.
Lối đồng hành này là hình thức mà Chúa Giêsu đã thực hiện trên đường Emmaus và là hình tượng của mọi việc đồng hành trong đức tin. Chúa Giêsu gặp gỡ, cùng bước đi với họ, trò chuyện với họ, nói cho họ nghe những chuyện xảy ra và giải thích cho họ hiểu các sự kiện dưới ánh sáng Lời Chúa. Rồi sau đó, cùng với họ Người “bẻ bánh,” họ nhận ra Người, lòng họ bừng lên, mắt họ sáng ra và liền quay trở về Giêrusalem để loan báo cho mọi người biết Chúa đã sống lại (Cf. Lc 24, 13-35).
Người đồng hành không phải là người quyết định ơn gọi của người thụ huấn, cũng không phải là người nắm giữ mọi “bí mật” về tương lai của ứng sinh. Người đồng hành đóng vai trò của Gioan Tẩy Giả, người đưa môn đệ mình tới gặp Chúa, giới thiệu họ với Chúa, rồi từ từ rút vào bóng tối, để “Người lớn lên, còn tôi nhỏ lại” (Ga, 3,30).
Tuy nhiên, việc đồng hành tiên vàn là phương thức hành động của Chúa Thánh Thần, “vị khách dễ thương của linh hồn,” người bạn đường thần linh của chúng ta và là nhà điêu khắc nội tâm, Đấng uốn nắn khuôn mặt mỗi người theo hình ảnh Chúa Kitô một cách vô cùng sáng tạo.
Do đó, điều cơ bản là người thụ huấn phải cảm nhận Chúa Thánh Thần như là bạn trung tín của mình, như là Đấng sẽ giúp họ am hiểu toàn vẹn và sự khôn ngoan của trái tim, như một người dẫn đường đăm đăm nhìn về Chúa Giêsu và những kẻ được kêu gọi, để làm cho họ trở thành chứng nhân của Chúa Giêsu.
Một khi người thụ huấn nhận biết và cảm nghiệm Chúa Thánh Thần như là “bạn đường,” họ sẵn sàng đón nhận những người đồng hành mà không đòi hỏi người đồng hành phải hoàn hảo; họ dễ dàng đón nhận những phương tiện, điều kiện và cả những giới hạn nhân loại của người đồng hành. Hễ ai tin cậy Chúa Thánh Thần thì cũng tin cậy những trung gian của Người. Hễ ai biết phó mình trong tay Chúa Thánh Thần thì không lo sợ khi chia sẻ lịch sử đời mình với người đồng hành trong sự cởi mở, tin tưởng và phó thác.
Kết luận
Theo đường hướng mà chúng ta vừa suy nghĩ, nếu giáo dục có nghĩa là đào bới sự thật của chủ thể, huấn luyện là hình thành con người mới của chủ thể, thì đồng hành là quy tụ của chủ thể. Người thụ huấn được mời gọi hướng tất cả cơ cấu nội tâm, con tim, lý trí và ý chí lại với nhau để đáp lại tiếng gọi của Chúa Thánh Thần. Có thể ví quá trình huấn luyện bằng một hình ảnh bình dị hơn của nhà nông làm ruộng, thì giáo dục được ví như là vun xới đất đai, huấn luyện là gieo hạt giống tốt vào lòng đất, còn đồng hành là sự chăm sóc, vun tưới, bón phân cho cây lớn lên, trổ bông và kết trái.
Tài liệu tham khảo
- A. Cencini, I Sentimenti del Figlio. Il cammino formativo nella vocazione presbiterale e consolata, EDH, Bologna 2005.
2. Pontificia Opera per le Vocazioni Ecclesiastiche, Nuove vocazione per una nuova Europa. Documento finale del Congresso sulle Vocazioni al Sacerdozio e alla vita Consecrata in Europa, Roma 5-10 Maggio 1997.
3. Giovanni Paolo II, Apostolic Esortazione Apostolica Vita ConsecrataMarch 25, 1996.
4. Giovanni Paolo II, Apostolic Esortazione Apostolica Pastores dabo vobis, December 25, 1992.
[1] Vita consecrata, 65
[2] Vita consecrata, op. cit.
[3] Pastores dabo vobis, số 3 tt.
[4] Vita consecrata, op. cit.