2020
Lối mòn…
Lối mòn…
Có người đã từng nói: “Cuộc sống không bao giờ là bế tắc thực sự nếu con người dám rời bỏ những lối mòn và dũng cảm tìm ra những giá trị mới”. Vâng, tôi thiết nghĩ cuộc sống quanh ta, nơi gia đình, thôn xóm, phố phường, đất nước; nơi những người thân, bạn bè và các tương quan xã hội… đâu đó chúng ta sẽ bắt gặp những “lối mòn”.
Có những lối mòn là người bạn tốt, nhưng cũng có những lối mòn là một kẻ xấu. Nhà văn Charles R. Swindoll đã từng nói: “Cuộc sống bao hàm 10% những gì xảy ra với bạn, và 90% cách bạn phản ứng với chúng”.
Vậy, chúng ta phải làm gì để thoát ra khỏi vòng vây của những “lối mòn” không tốt trong suy nghĩ, hành động, công việc, quan điểm, lập trường, trong tương quan với người khác?
Nếu như đời ta cứ mãi ngủ vùi trong những suy nghĩ luẩn quẩn và gọi nó với một tên: “định mệnh” thì chẳng khác nào ta đang cầm tù chính mình. Nếu chúng ta cứ mãi tin vào số mệnh, vào vận may, rồi ngồi đó “há miệng chờ sung” từ trời cao thì chúng ta sẽ mau chóng trở thành kẻ ù lì, trống rỗng với một tâm hồn chỉ dừng lại như “chú ếch ngồi đáy giếng” mà thôi. Nơi cuộc sống, đất trời, con người và chính bản thân ta nữa luôn tồn tại những điều kỳ diệu “lối mòn” sẽ mãi là lối mòn cũ kỹ nếu ta ngừng khám phá.
Chính những “lối mòn” tự tạo cách rập khuôn, máy móc sẽ làm thui chột tài năng, trí tuệ, khát vọng sống vươn lên của ta. Nhưng thú vị thay cho những ai luôn luôn tìm kiếm không biết mệt mỏi những giá trị Chân, Thiện, Mỹ. Cho dù chúng ta vẫn bước trên cùng một con đường nhưng từng ngày con đường ấy luôn đầy mới mẻ, không bao giờ tẻ nhạt , không bao giờ buồn chán hay cô đơn. Nội tại sự vật là như vậy nó còn phụ thuộc vào cái nhìn của mỗi chúng ta. Bởi thế mà xưa kia Nguyễn Du từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” là thế.
Khi nhìn lại chính mình, tôi nhận thấy những “lối mòn” làm tôi quen chân bước tới và ở lại mãi trong những lối đường xưa cũ, có những “lối mòn” làm tôi chậm tiến và lười biếng, có những “lối mòn” là cái tôi bảo thủ không chấp nhận ý kiến, quan điểm của người khác và có còn những lối mòn làm tôi quay lưng với chính mình.
“Cuộc sống không ngừng diễn tiến, như dòng sông luôn chảy. Và bạn phải liên tục sống từ khoảnh khắc này qua khoảnh khắc khác, không ngừng nghỉ. Mỗi khoảnh khắc sẽ mang đến cho bạn những điều mới mẻ, những cơ hội để sống trọn vẹn hơn, ý nghĩa hơn và hạnh phúc hơn…” (Nguyễn Tuấn Quỳnh và Nguyễn Phi Vân).
Bạn và tôi dù chúng ta là ai, chúng ta ở địa vị hay giai cấp nào, dù bạn là người sống độc thân hay sống đời sống hôn nhân gia đình, dù chúng ta là những người ông người bà, những người cha người mẹ, những người con người cháu, là anh, là chị, là em… chúng ta được mời gọi trở thành nhịp cầu yêu thương, đánh thức và đưa nhau thoát khỏi bóng tối của những “lối mòn” hiện hữu chung và riêng. Vì chúng ta sinh ra không phải để sống riêng rẽ, cô độc một mình, không sống vì mình nhưng chúng ta cần có nhau, cần giúp nhau thăng tiến về mọi phương diện.
Chúng ta hãy chiếu sáng vào con người và thế giới tia sáng của hy vọng, để giữa một thế giới “vàng thau lẫn lộn” chúng ta biết được đâu là giá trị cuộc sống đích thực và bền vững mà chúng ta cần vươn tới cùng quyết tìm ra lời giải đáp cho cuộc kiếm tìm hạnh phúc vĩnh cửu. Từ đó, chúng ta sẽ thoát khỏi những “lối mòn” cố hữu đang kéo ghì bước tiến của ta.
Xin được trích dẫn bài thơ của một tác giả khuyết danh đăng trên blog: lienketviet.net như một khép lại suy tư về những “lối mòn” trong cuộc sống:
Ta bước loanh quanh mãi kiếm tìm
Chút gì tươi thắm nhịp con tim
Vô tình chân giẫm sang đường cũ
Rêu phủ xanh lòng khuất dấu xưa.
Ta chẳng ưng mùa nắng
Cũng chẳng thích mùa mưa
Xuân vừa qua ngang ngõ lại chối bỏ không nhìn
Rồi hạ đến thình lình cơn mưa rào chắn lối…!
Thu sang mùa vàng ối
Chiếc lá vội lìa cành…!
Đông ngỏ lời buốt lạnh…!…
Tuổi đời thật mong manh……
Con đường nọ chòng chành
Con đường kia khúc khuỷu…
Chân thất thểu đi tìm…
Lối mòn ẩn trong tim…
Têrêsa Rôsava
2020
Những điều mong ước gửi các tân linh mục
2020
12 Điều Mà Mọi Người Công Giáo Phải Trả Lời Được
12 Điều Mà Mọi Người Công Giáo Phải Trả Lời Được
Kính gửi đến quý độc giả bài sau đây để thêm chất liệu suy nghĩ về đời sống đức tin chúng ta.
Tự do ngôn luận là một điều cao quý. Tiếc rằng chúng ta phải trả một giá rất đắt cho nó: Khi dân chúng được quyền tự do muốn nói gì thì nói, họ đôi khi dùng sự tự do đó để nói những điều ngớ ngẩn. Và đó là 12 điều mà chúng tôi sẽ bàn ở đây.
Có một ít điều được nhắc đi nhắc lại, có những điều khác thì họa hiếm mới được nhắc đến, trong khi những người đề xướng những sai lầm này tự do quảng bá chúng, chúng ta là người Công Giáo có nhiệm vụ phải trả lời.
- “Không có gì là chân lý tuyệt đối cả. Ðiều đúng cho bạn chưa chắc đã đúng cho tôi.”
Người ta dùng lý luận này rất nhiều khi họ không đồng ý với một câu nói và không có cách nào khác để chống đỡ tư tưởng của mình. Vậy, nếu không có gì là đúng cho tất cả mọi người, thì họ muốn tin gì thì tin, và không thể nói gì để làm họ đổi ý cả.
Nhưng hãy nhìn lại câu nói “Không có gì là chân lý tuyệt đối cả” một lần nữa. Có phải chính câu này đã khẳng định nó là điều tuyệt đối không? Nói cách khác, nó áp dụng ít qui luật hay tiêu chuẩn cho mọi người — chính là điều mà những người theo tương đối nói là không thể được. Họ đã hóa giải lập luận của họ bằng cách đưa ra lập luận của họ.
Một vấn đề khác với câu này là không có một người theo thuyết tương đối nào lại thật sự tin điều đó. Nếu có ai nói với bạn, “Không có chân lý tuyệt đối nào cả,” và bạn thụi vào bụng người đó, người đó có lẽ sẽ nổi nóng. Nhưng theo niềm tin của anh ta, anh ta phải nhận rằng đấm vào bụng ai có thể sai đối với anh, nhưng có thể đúng đối với bạn.
Khi đó họ sẽ trở lại với một bổ túc cho câu nói nguyên thủy là: “Bao lâu bạn không làm đau người khác, bạn tự do muốn làm gì và tin gì tùy ý.” Nhưng đây chỉ là một sự phân biệt tùy ý (cũng như là câu nói tuyệt đối khác). Ai nói là tôi không được làm đau người khác? Cái gì là đau? Luật này từ đâu mà đến?
Nếu câu này được đưa ra dựa theo quyền của cá nhân, thì không có nghĩa gì đối với người khác. “Ðừng làm hại” chính nó là một thỉnh cầu đối với một cái gì cao trọng hơn – một loại phẩm giá chung của con người. Nhưng câu hỏi lại là phẩm giá từ đâu đến.
Như bạn có thể thấy, càng đi sâu vào những câu hỏi này, thì bạn càng hiểu biết rằng quan niệm về lẽ phải và chân lý không phải tùy ý, nhưng dựa vào một vài chân lý cao quý và phổ quát ngoại tại — một chân lý được viết trong chính bản tính của chúng ta. Chúng ta có thể không biết nó trọn vẹn , nhưng không thể chối rằng không có chân lý đó.
2. Kitô giáo không hơn gì các tín ngưỡng khác. Tất cả mọi tôn giáo đều dẫn đến Thiên Chúa.”
Nếu bạn không nghe đến câu này vài chục lần, bạn không rút ra được bao nhiêu. Ðáng buồn là những người nói lên điều này thương lại là Kitô hữu (ít ra trên danh nghĩa).
Những trở ngại với quan điểm này thật không phức tạp gì cả. Kitô giáo đưa ra một chuỗi những lời xác nhận về Thiên Chúa và con người: Rằng chính Chúa Giêsu Nadareth là Thiên Chúa, và Người đã chết và sống lại — tất cả để chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi. Mọi tôn giáo khác trên thế giới phủ nhận tất cả những điều này. Cho nên, nếu Kitô giáo là đúng, thì đạo này nói cho thế gian biết một chân lý sống còn — một chân lý mà tất cả các tôn giáo khác phủ nhận.
Chỉ điều này thôi đã làm cho Kitô giáo thành duy nhất.
Nhưng nó không ngừng ở đó. Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng Thánh Gioan. “Thầy là đường, sự thật, và sự sống; không ai có thể đến với Chúa Cha, mà không qua Thầy.” Trong Kitô giáo, chúng ta có trọn sự mạc khải của Thiên Chúa cho nhân loại. Ðúng là tất cả các tôn giáo chứa đựng một phần chân lý — số lượng thay đổi tùy theo tôn giáo. Tuy nhiên, nếu chúng ta khao khát mong muốn theo và thờ phượng Thiên Chúa, chúng ta có nên làm theo cách Ngài chỉ dạy không?
Nếu Chúa Giêsu quả thực là Thiên Chúa, thì chỉ Kitô giáo chứa đựng hoàn toàn chân lý này.
3. “Cựu Ước và Tân Ước trái ngược nhau ở nhiều chỗ. Nếu một Thiên Chúa toàn năng linh hứng Thánh Kinh, thì Ngài đã không để cho có sai lỗi.”
Ðây là một luận điệu thông thường, người ta có thể thấy khắp nơi trên Internet (nhất là những websites vô thần và tự do tư tưởng). Một bài trên website của Vô Thần ghi rằng “Ðiều lạ thường về Thánh Kinh không phải vì tác giả là Thiên Chúa; chính là những mâu thuẫn được bịa đặt vô nghĩa mà người ta có thể tin là được Thiên Chúa thượng trí viết ra.”
Những câu như thế thường được kèm theo một danh sách những câu “mâu thuẫn” trong Thánh Kinh. Tuy nhiên, những điều cho là mâu thuẫn có ít sai lầm đơn giản. Thí dụ, người phê bình không đọc những sách khác nhau trong Thánh Kinh theo thể văn mà các sách đó được viết. Xét cho cùng, Thánh Kinh là một sưu tập nhiều loại văn tự… lịch sử, thần học, thơ phú, và khải huyền,vv…. Nếu chúng ta đọc các sách này cùng một cách cứng ngắc như chúng ta đọc báo ngày nay, thì chúng ta sẽ bị bối rối kinh khủng.
Và danh sách “các mâu thuẫn” trong Thánh Kinh minh xác điều này. Thí dụ lấy điều đầu tiên trong danh sách Vô Thần của Mỹ:
“Hãy nhớ ngày Sabát, và giữ nó cách thánh thiện.” Xuất Hành 20:8
So với
“Người thì cho rằng ngày này trọng hơn ngày khác; người khác lại cho rằng ngày nào cũng như nhau. Vậy mỗi người phải xác tín trong thâm tâm mình.” Rom 14:5
Người vô thần la lên: Ðó! rõ ràng là một mâu thuẫn. Nhưng phê bình gia quên không nhắc đến điều mà mọi Kitô hữu đều biết: Khi Ðức Kitô thiết lập Giao Ước Mới, thì những đòi hỏi về nghi lễ của Giao Ước Cũ được làm trọn (và qua đi). Vì thế việc những luật lệ trong Cựu Ước về nghi lễ không còn được ứng dụng cho dân của Tân Ước là điều hoàn toàn hợp lý.
Nếu nhà phê bình hiểu giáo lý đơn giản này của Kitô giáo, thì anh đã không mắc phải một lỗi sơ đẳng như thế.
Ðiều kế tiếp trong danh sách của Vô Thần Mỹ cũng có khuyết điểm tương tự:
“…trái đất mãi mãi trường tồn.”
Giảng Viên 1:4
So với:
“…các nguyên tố vật chất sẽ cháy tiêu tan, trái đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ.” 2 Phr 3:10
Vậy Cựu Ước cho rằng trái đất sẽ tồn tại đến muôn đời, trong khi Tân Ước nói rằng nó rồi sẽ bị hủy diệt. Chúng ta dung hòa hai câu này thế nào? Thực ra rất dễ, lại theo sự hiểu biết về thể văn mà theo hai sách này được viết ra.
Thí dụ Sách Giảng Viên so sánh cái nhìn thế tục và tôn giáo – và hẩu hết sách này viết theo quan niệm thế tục. Ðó là lý do tại sao chúng ta thấy những dòng như, “Bánh được làm cho vui, và rượu làm cho cuộc đời thêm tươi, và tiền bạc giải quyết được tất cả” (GV 10:19).
Tuy nhiên, ở cuối sách, tác giả đưa ra một khúc quanh, không cần tất cả “sự khôn ngoan” ông tặng và bảo chúng ta “Kính sợ Thiên Chúa, và tuân giữ giới răn Ngài; vì đó là tất cả nhiệm vụ của con người..” (12:13).
Nếu một độc giả ngưng đọc trước khi đến cuối, thì người ấy sẽ bối rối như phê bình gia Vô Thần Mỹ. Tuy nhiên, vì quan điểm đó nảy ra khái niệm về một thế giới trường tồn bị gạt bỏ ở hàng cuối cùng của sách, hiển nhiên là không có mâu thuẫn với điều được mạc khải sau đó ở trong Tân Ước. (Và đây chỉ là một cách để trả lời tố cáo về sự khác biệt này)
Những “mâu thuẫn” khác giữ Cựu và Tân Ước có thể được trả lời cách tương tự. Hầu như với điểm nào, nhà phê bình cũng bị lầm lẫn về mạch văn, không để ý đến thể văn, và không để dành chỗ nào cho việc cắt nghĩa cách hợp lý.
Không một Kitô hữu biết suy nghĩ nào phải bối rối về những danh sách này.
4. “Tôi không cần đến Nhà Thờ. Bao lâu tôi là một người tốt, chỉ có điều đó mới đáng kể.”
Luận điệu này dược dùng thường xuyên, và rất gian xảo. Khi một người nhận mình là “người tốt,” người đó thật sự ám chỉ rằng họ “không phải là một người xấu.” — người xấu là người sát nhân, hiếp dâm, và trộm cắp. Phần đông người ta không cần cố gắng mấy để tránh các tội này, và đó là tư tưởng: Chùng ta muốn làm một số việc tối thiểu để được thông qua. Ðiều đó không giống Ðức Kitô lắm, phải không?
Nhưng bỏ qua trạng thái tâm lý đó, có một lý do quan trọng để người Công Giáo đền Nhà Thờ hơn là chỉ để thực hành việc đi thêm một dặm nữa. Thánh Lễ là viên đá góc của đời sống đức tin của chúng ta vì một điều nằm ở trọng tâm của nó: Bí Tích Thánh Thể. Ðó là nguồn mạch của tất cả đời sống cho người Công Giáo, là những người tin rằng bánh và rượu trở nên Mình và Máu thật của Ðức Kitô. Chứ không phải chỉ là biểu tượng của Thiên Chúa, nhưng là Thiên Chúa hiện diện cách thể lý với chúng ta bằng một phương thế mà chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm được bằng cầu nguyện.
Chúa Giêsu phán, “Thật, Thật, Ta bảo các người, trừ khi các người ăn thịt Con Người và uống máu Người, các người không có sự sống trong các người; ai ăn thịt và uống máu Ta có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6:53-54). Chúng ta tôn trọng lệnh của Chuá Giêsu và tin tường vào lời hứa của Người mỗi lần chúng ta đi dự Thánh Lễ.
Hơn nữa, bí tích Thánh Thể, cùng với tất cả các bí tích khác, chỉ dành cho những người ờ trong Hội Thánh. Là phần tử của Hội Thánh, nhiệm thể hữu hình của Ðức Kitô trên thế gian, đời sống chúng ta liên hệ mật thiết với đời sống của người khác trong Hội Thánh. Liên hệ cá nhân của chúng ta đối với Thiên Chúa thật quan trọng, nhưng chúng ta cũng có nhiệm vụ sống như những phần tử trung thành của nhiệm thể Ðức Kitô. Là “người tốt” mà thôi chưa đủ.
5. “Bạn không cần phải xưng tội với một linh mục. Bạn có thể đến thẳng cùng Thiên Chúa.”
Như một cựu mục sư Baptist, tôi có thể hiểu việc chống xưng tội của người Tin Lành (họ hiểu về chức linh mục một cách khác). Nhưng một người Công Giáo mà nói một điều như thế… thì thật là thất vọng. Tôi nghi rằng bản tính loài người là thế, người ta thường không thích nói cho người khác biết tội mình, nên đưa ra lý do để biện minh tại sao không làm thế..
Bí Tích Giải Tội đã có với chúng ta từ đầu, từ chính Lời của Ðức Kitô:
“Chúa Giêsu lại bảo các ông, ‘Bình an cho các con! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con.’ Nói rồi, Người thổi hơi vào các ông và bảo các ông, ‘Các con hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Nếu các con tha tội cho ai, thì người ấy được tha; nếu các con cầm buộc ai, thì người ấy bị cầm buộc.’” (Ga 20:21-23)
Nên ghi nhận rằng Chúa Giêsu ban cho các tông đồ quyền tha tội.. Tất nhiên, họ không biết phải tha tội nào nếu họ không được nói cho biết là tội nào chúng ta phạm.
Việc xưng tội cũng được chứng minh trong thư thánh Giacôbê:
Có ai trong anh em đau ốm? Hãy mời các kỳ mục của Hội Thánh, và hãy để họ cầu nguyện trên người ấy, xức dầu cho người ấy nhân danh Chúa; Và lời cầu nguyện do đức tin sẽ cứu người bệnh; và Chúa sẽ nâng người ấy dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha. Anh em hãy xưng tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được chữa lành. Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính có hiệu lực rất lớn lao. (Gia 5:14-16)
Ðiều đáng quan tâm là không có chỗ nào Thánh Giacôbê (hay Chúa Giêsu) bảo chúng ta là chỉ xưng tội với Thiên Chúa, nhưng các Ngài có vẻ nghĩ là ơn tha tội đến bằng cách xưng tội công khai.
Và lý do thật dễ hiểu. Khi chúng ta phạm tội, chúng ta làm tổn thương không những mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, mà còn với Nhiệm Thể Người, là Hội Thánh (vì tất cả mọi người Công Giáo nối kết với nhau như con cùng một Cha). Cho nên khi chúng ta xin lỗi, chúng ta phải xin lỗi tất cả mọi nhóm liên hệ – Thiên Chúa và Hội Thánh.
Hãy nghĩ về xưng tội cach này. Thử tưởng tượng rằng bạn vào một tiệm và ăn cắp vài món hàng. Sau đó, bạn áy náy và hối hận về hành động tội lỗi này. Giờ đây, bạn có thể cầu xin Thiên Chúa tha cho bạn vì đã phạm giới răn của Ngài. Nhưng còn một phần tử khác liên hệ; bạn phải trả lại món hàng và đền bù cho hành động của bạn.
Ðối với Hội Thánh cũng thế. Trong toà giải tội, linh mục đại diện cho Thiên Chúa và Hội Thánh, vì chúng ta có tội với cả hai. Và khi ngài công bố lời tha tội, thì sự tha thứ chúng ta lãnh nhận được trọn vẹn.
6. “Nếu Hội Thánh thật sự theo Chúa Giêsu, thì đã bán các nghệ thuật, tài sản, và các công trình kiến trúc lãng phí, mà cho người nghèo.”
Khi một người nghĩ đến Thành Vatican, họ liên tưởng ngay đến một vương quốc giàu sang, với nơi ở như cung điện cho Ðức Giáo Hoàng và các hòm đầy vàng cất ở các xó nhà, chưa kể đến các sưu tầm nghệ thuật và đồ cổ vô giá. Nhìn đến Vatican cách này thì dễ thấy tại sao một số người trở thành bực tức vì những điều họ nghĩ là sự khoe khoang tài sản cách phô trương và phí phạm.
Nhưng sự thật thì hoàn toàn khác. Các dinh thự chính gọi là “Ðiện Vatican” không phải được xây làm chỗ ở xa hoa của Ðức Giáo Hoàng. Thực ra, khu vực gia cư tương đối nhỏ. Phần lớn điện Vatican được dùng vào việc nghệ thuật, khoa học, điều hành công việc Hội Thánh, và điều hành chung của điện. Có một số đông nhân viên của Hội Thánh và hành chánh sống trong điện Vatican cùng ÐTC, làm cho nó thành trụ sở chính của Hội Thánh.
Còn về những sưu tầm nghệ thuật, thực sự là sưu tập quý nhất trên thế giới, Vatican coi đó như một “kho tàng không thể thay thế được,” nhưng không phải về diện tài chánh. ÐTC không làm chủ những tác phẩm nghệ thuật này, và nếu ngài muốn, ngài cũng không được phép bán chúng; chúng chỉ được đặt dưới sự săn sóc của Toà Thánh. Các tác phẩm này không đem nguồn lợi đến cho Hội Thánh, mà ngược lại, Tòa Thánh phải đầu tư một số tài nguyên không nhỏ để bảo tổn các sưu tầm này.
Sự thật của vấn đề này là Tòa Thánh có một ngân sách khá eo hẹp Nếu thế thì tại sao lại giữ những nghệ phẩm này? Vì tin vào một trong các sứ mệnh của Hội Thánh là một động lực truyền bá văn minh trong thế giới. Cũng như các thầy dòng thời trung cổ cẩn thận chép lại các sách cổ để cung cấp cho các thế hệ tương lai — nếu không thì những văn bản này không còn nữa — Hội Thánh tiếp tục bảo trì nghệ thuật để chúng không bị mai một với thời gian. Trong nền văn hóa sự chết ngày nay khi mà từ “văn minh” chỉ được dùng cách lỏng lẻo, sứ vụ truyền bá văn minh của Hội Thánh ngày nay còn quan trọng hơn bao giờ hết.
7. “Chống đối thực sự là điều tích cực, vì tất cả chúng ta phải có đầu óc cởi mở đối với những tư tưởng mới.”
Ngày nay có lẽ bạn đã nghe lập luận này nhiều rồi, nhất là trong vụ gương mù về lạm dụng tính dục trong Hội Thánh. Ai cũng muốn tìm giải pháp cho vấn đề, trong đó có người đưa ra những tư tưởng ngoài đức tin Công Giáo (như cho phụ nữ, hay mở cửa cho đống tính luyến ái làm linh mục, v.v…). Nhiều người đổ tội cho Hội Thánh vì quá cứng rắn về đức tin và không muốn thử những điều mới.
Sự thật là nhiều tư tưởng về cải cách được đề ra khắp nơi ngày nay không có gì là mới mẻ cả. Chúng đã được đề ra từ lâu, và Hội Thánh đã quan tâm đến chúng. Thực ra, Hội Thánh đã bỏ cả đời ra nghiên cứu cẩn thận các tư tưởng và quyết định rằng tư tưởng nào hợp với luật Thiên Chúa và tư tưởng nào không. Hội Thánh đã gạt ra hết lạc giáo này đến lạc giáo khác trong khi cẩn thận xây dựng giáo lý Ðức Tin. Chúng ta không ngạc nhiên gì khi thấy có cả ngàn giáo hội Kitô khác ngày nay — tất cả các giáo hội đó đều một thời có “những tư tưởng mới” mà Hội Thánh cho là ngoài Kho Tàng Ðức Tin.
Hội Thánh có môt nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ sự ven toàn của Ðức Tin. Hội Thánh không bao giờ loại bỏ ngay các tư tưởng như một số người chống đối kết án, nhưng đã có hai ngàn năm cầu nguyện và nghiên cứu đằng sau những gì phải tin và phải giữ gìn là chân thật.
Ðiều này không có nghĩa là chúng ta không bao giờ bất đồng ý kiến với nhau ở điểm gì. Luôn luôn có chỗ để thảo luận làm thế nào để đào sâu sự hiểu biết của chúng ta về chân lý — thí dụ, làm sao để cải tiến các chủng viện hay các tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân– tất cả đều trong phạm vi của những nguyên tắc Ðức Tin.
8. Nếu giải thích đúng, Thánh Kinh không lên án đồng tính luyến ái. Nhưng đúng hơn là chống lối sống bừa bãi – dù là đồng tính hay giữa nam nữ. Vì vậy, chúng ta không có lý do để chống liên hệ tình yêu đồng tính.”
Khi hành vi đồng tính luyến ái được chấp nhận rộng rãi hơn trong nền văn hóa của chúng ta, thì sẽ có nhiều áp lực hơn giữa các Kitô hữu để giải thích sự cấm đoán điều này cách tỏ tường trong Thánh Kinh. Hiện thời tiêu chuẩn của phe cấp tiến là cho rằng Thánh Kinh — khi hiểu đúng — không cấm những hành vi đồng tính.
Nhưng luận điệu này hoàn toàn trái ngược với những câu rõ ràng trong cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Các câu đầu tiên dĩ nhiên là câu chuyện thời danh về Sođôm và Gômôra. Nếu bạn nhớ lại chuyện hai thiên sứ được Thiên Chúa sai đến thăm ông Lót:
“Nhưng khi các ngài đi nằm thì dân trong thành, tức là người Sôđôm, bao vây nhà, từ trẻ đến già, tất cả mọi người không trừ ai. Chúng gọi ông Lót và bảo: “Những người vào nhà ông đêm nay đâu rồi? Hãy đưa họ ra cho chúng tôi chơi.” Ông Lót ra trước cửa gặp chúng, đóng cửa lại sau lưng,” rồi nói: “Thưa anh em, tôi xin anh em đừng làm bậy. Đây tôi có hai đứa con gái chưa ăn ở với đàn ông, tôi sẽ đưa chúng ra cho anh em; anh em muốn làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đừng làm gì họ, vì họ đã vào trọ dưới mái nhà tôi.” Chúng đáp: “Xê ra! Tên này là một kiều dân đến đây trú ngụ mà lại đòi xét xử à! Chúng tao sẽ làm dữ với mày hơn là với những tên kia!” Họ xô mạnh ông Lót và xông vào để phá cửa. Nhưng hai người khách đưa tay kéo ông Lót vào nhà với mình, rồi đóng cửa lại.(STK 19:4-10)
Thông điệp của đoạn này thật rõ ràng. Các người Sôđôm là người đồng tính luyến ái muốn liên hệ tính dục với những người thanh niên ở trong nhà. Ông Lót cho họ con gái ông, nhưng họ không thích. Ít giờ sau, Sôđôm bị Thiên Chúa thiêu hủy để đền tội dân chúng phạm — đó là các hành vi đồng tính luyến ái. Sự thật này được Tân Ứớc xác nhận:
Như Sôđôm, Gômôra và các thành lân cận cũng có cùng một thái độ như họ, buông tuồng trong việc tà dâm, và chạy theo những chuyện xác thịt trái tự nhiên, thì đã được dùng để làm gương, bằng cách chịu phạt trong lửa đời đời. (Giuđa 7)
Nhưng không phải chỉ có những đoạn này trong Thánh Kinh lên án hành vi đồng tính. Cựu Ước còn có một câu khác lên án cách rõ ràng: “Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm.” (Levi 18:22).
Và những câu này không chỉ được giữ trong Cựu Ước mà thôi.
“Vì lý do đó mà Thiên Chúa đã để mặc họ theo dục tình đồi bại. Phụ nữ của họ đã đổi những liên hệ tự nhiên lấy những liên hệ trái tự nhiên. Ðàn ông cũng thế, bỏ liên hệ tự nhiên với phụ nữ để nôn nao thèm muốn lẫn nhau. Ðàn ông làm việc tồi bại với đàn ông, và như thế chuốc vào thân hình phạt xứng với sự suy đồi của họ.” (Rom1:26-27)
Thật khó vô cùng cho những Kitô hữu cấp tiến giải thích câu này cách ngược lại. Ở đây không chỉ nói đến việc dâm loàn hay hiếp dâm của người đống tính; nhưng Thánh Phaolô chống lại bất cứ liên quan đồng tính nào (mà ngài diễn tả là “trái tự nhiên,” “tồi bại” và “đồi bại”).
Các Kitô hữu cấp tiến bị trói tay. Sau cùng, một người làm thế nào mà dung hòa đồng tính luyến ái với Thánh Kinh? Xem ra giải pháp của họ là lấy đi quyền về luân lý của Thánh Kinh, và giải thích vòng vo để tránh thông điệp thật rõ ràng này.
9. “Người Công Giáo nên theo lương tâm trong mọi sự… dù là phá thai, ngừa thai, hay phong chức thánh cho phụ nữ.”
Ðúng –Sách Giáo Lý nói rất thẳng, “Con người có quyền hành động theo lương tâm và sự tự do để tự mình quyết định về luân lý. “Không được cưỡng bách ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, đặc biệt là trong những vấn đề tôn giáo ” (1782). Giáo huấn này là trọng tâm của điều gọi là có ý chí tự do.
Nhưng điều đó không có nghĩa là lương tâm chúng ta không phải chịu trách nhiệm hay có thể gạt luật của Thiên Chúa ra ngoài. Ðây là điều mà Giáo Lý gọi là có “một lương tâm được huấn luyện chu đáo.”
Sách Giáo Lý trao cho lương tâm con người một trách nhiệm nặng nề:
“Lương tâm luân lý, hiện diện trong lòng người, ra lệnh vào lúc thích hợp cho con người làm lành lánh dữ…. Lương tâm chứng nhận quyền bính của chân lý bằng cách chiếu theo Sự Thiện Hảo tối thượng (Thiên Chúa), là Ðấng mà con người được thu hút và đón nhận mệnh lệnh. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể nghe tiếng Thiên Chúa đang nói” (1777).
Nói cách khác, lương tâm chúng ta không phải chỉ là “cái gì chúng ta cảm thấy đúng”; mà là những gì chúng ta phán quyết là đúng dựa theo những điều chúng ta biết là giáo huấn của Thiên Chúa và Hội Thánh. Và để phán đoán, chúng ta có nhiệm vụ học hỏi và cầu nguyện rất cẩn thận về những giáo huấn này. Sách Giáo Lý có trọn một phần dành riêng cho việc huấn luyện lương tâm cách kỹ lưỡng — và nó quan trọng thế nào trong việc quyếtb định đúng.
Và sau cùng, dù đúng hay sai, chúng ta vẫn chịu trách nhiệm về việc chúng ta làm: “Lương tâm giúp chúng ta gánh nhận trách nhiệm đối với việc chúng ta làm” (1781). Khi được đào luyện đúng, nó giúp chúng ta thấy khi nào chúng ta làm sai và cần được tha thứ tội lỗi chúng ta.
Bằng cách cố gắng để có một lương tâm được đào luyện hoàn toàn, chúng ta thật sự cảm nghiệm được sự tự do lớn lao, vì chúng ta được lôi cuốn lại gần chân lý vô cùng của Thiên Chúa. Nó không phải là một gánh nặng hay là một cái gì ngăn cản chúng ta làm điều chúng ta thích; nhưng là một sự hướng dẫn giúp chúng ta làm những gì là đúng. “Việc giáo dục lương tâm đảm bảo sự tự do và đem lại bình an trong tâm hồn” (1784).
10. Phương Pháp Tự Nhiên chỉ là một cách ngừa thai của Công Giáo.”
Phương Pháp Tự Nhiên (PPTN) có kẻ thù mọi mặt. Có người tin rằng đó là một cách ngừa thai khác thiếu thực tế (mà cách nào họ cũng không cho là có tội) trong khi người khác lại cho rằng nó cũng xấu chẳng khác gì ngừa thai.. PPTN phải đi giữa ranh giới của hai cực đoan.
Trước nhất, vấn đề chính của việc ngừa thai là nó ngược lại với bản chất của cơ thể chúng ta — và cách chung sự tự nhiên. Mục đích của nó là tách rời hành động (tính dục) ra khỏi hậu quả (có thai), chính là hạ sự thánh thiện của tính dục xuống thành sự theo đuổi lạc thú thuần túy.
PPTN, khi dùng vì lý do chính đáng, thì còn hơn là một dụng cụ được dùng để xem đôi hôn nhân có phương tiện (dù là tài chánh, thể lý, hay tâm lý) để đón nhận một đứa trẻ vào cuộc đời của họ. Nó liên quan đến việc hiểu biết chính thân thể của mình, cẩn thận lưu tâm đến hoàn cảnh của bạn trong cuộc đời, thảo luận vấn đề với bạn đời, và trên hết là cầu nguyện. Thay vì thoát ly thực trạng đầy đủ của tính dục, bạn tham gia vào đó với một sự hiểu biết hơn về mọi khía cạnh liên quan.
Những người ủng hộ việc hạn chế sinh sản chỉ vào những người không thể cố gắng có thêm con, hay sức khỏe có thể bị nguy hiểm vì mang thai thêm. Nhưng đó là những lý do hoàn toàn chính đáng để dùng PPTN — những hoàn cảnh mà phương pháp này hoàn toàn hiệu quả — và Hội Thánh cho phép dùng nó.
Những người khác nghĩ rằng dùng bất cứ phương thức nào để giới hạn số con trong gia đình là đóng vai Thiên Chúa, hơn là để Ngài cung cấp cho chúng ta như Ngài thấy cần. Ðúng là chúng ta phải tin tưởng vào Thiên Chúa và luôn chấp nhận sự sống Ngài ban cho chúng ta, nhưng chúng ta không phải hoàn toàn buông xuôi về phương diện này.
Thí dụ, thay vì phung phí tiền bạc lung tung và nói rằng “Thiên Chúa sẽ cung cấp,” các gia đình cẩn thận dự trù ngân sách tài chánh và cố gắng không tiêu xài quá khả năng của mình. PPTN cũng giống như ngân sách đó, giúp chúng ta suy nghĩ đến hoàn cảnh của chúng ta trong cuộc đời và hành động theo đó trong tinh thần cầu nguyện. Biết mình và dùng trí khôn cùng ý chí tự do, thay vì thụ động mong chờ Thiên Chúa lo liệu mọi sự, là một phần của bản tính con người. Chúng ta được mời gọi để trở nên những người quản lý tốt các hồng ân Chúa ban; chúng ta phải cẩn thận đừng coi thường các ân huệ này.
11. “Người ta có thể vừa ủng hộ phá thai (tự do chọn lựa) vừa đồng thời là Công Giáo.”
Trong khi đây là một huyền thoại thông thường nhất mà người Công Giáo hiểu về đức tin của họ, nó cũng là một điều dễ đánh tan nhất. Sách Giáo lý không chẻ một chữ nào khi nói về phá thai: nó được liệt kê cùng với tội giết người trong các tội phạm đến điều răn thứ năm, “Chớ giết người.”
Những đoạn sau nói rõ: “Sự sống con người phải được tôn trọng và bảo vệ cách tuyệt đối từ giây phút thụ thai” (2270). “Ngay từ thề kỷ thứ nhất Hội Thánh đã xác nhận sự dữ về luân lý của mọi cuộc phá thai cố tình. Giáo huấn này không thay đổi và sẽ không bao giờ thay đổi” (2271). “Hợp tác chính thức vào việc phá thai là tội trọng. Hội Thánh gán hình phạt vạ tuyệt thông cho các tội phạm đến sự sống con người” (2272).
Có thể nói rõ ràng hơn thế nữa. Tuy nhiên, có những người sẽ lý luận rằng là người “tự do chọn lựa” không có nghĩa là ủng hộ phá thai; nhiều người cho rằng phá thai là sai, nhưng không muốn áp đặt tư tưởng của mình trên người khác.
Ðó là lại là luận “điều đúng cho bạn có thể không đúng cho tôi” mà thôi. Hội Thánh cũng có câu trả lời cho lập luận này: “Những quyền bất khả xâm phạm của con người phải được xã hội dân sự và chính quyền nhìn nhận và tôn trọng. Những quyền này không lệ thuộc vào các cá nhân, hay cha mẹ, cũng không phải là một nhân nhượng của xã hội và của quốc gia, nhưng thuộc về bản tính con người và gắn liền với con người do chính hành động sáng tạo của Thiên Chúa mà từ đó sinh ra con người” (2273)..
Tính linh thiêng của sự sống là một chân lý phổ quát không thể coi thường được. Khuyên ai phá thai, hay ngay cà bỏ phiếu cho các chính trị gia cổ võ việc phá thai, là một tội trọng, vì nó đưa người khác đến tội trọng – là điều mà Sách Giáo Lý gọi là làm gương mù (2284).
Hội Thánh mạnh dạn và dứt khoát chống phá thai, và chúng ta là người Công Giáo cũng phải khẳng định lập trường của chúng ta như thế.
12. “Việc người ta nhớ lại cuộc sống ở kiếp trước chứng tỏ rằng luân hồi là đúng… và quan điểm của Kitô Giáo về Thiên Ðàng, Hỏa Ngục là sai.”
Khi xã hội trở nên mê hoặc nhiều hơn với những hiện tượng siêu hình, chúng ta có thể chắc sẽ thấy thêm những vụ nhận rằng “nhớ lại kiếp trước”. Quả thật, bây giờ có những tổ chức giúp bạn trở lại các kiếp trước của bạn bằng cách dùng thôi miên.
Trong khi điều này có thể thuyết phục một số người, chắc chắn rằng không thuyết phục được những người quen thuộc với thôi miên. Hầu như ngay từ đầu, các nhà khảo cứu đã ghi nhận rằng các bệnh nhân ngủ mê trong lúc bị thôi miên thường thêu dệt những câu chuyện ký ức phức tạp, mà sau đó được tỏ ra là không có thật. Những nhà chữa trị danh tiếng đã biết rõ hiện tượng này, và cẩn thận cân nhắc những gì bệnh nhân nói khi bị thôi miên.
Ðáng buồn là đây không phải là trường hợp đối với những người muốn tìm “bằng chứng” của luân hồi. Có lẽ thí dụ điển hình nhất của sự bất cẩn này là trường hợp nổi tiếng của Bridey Murphy. Nếu bạn không biết chuyện đó, thì đây là một tóm lược: Năm 1952, một bà nội trợ ở Colorado tên là Virginia Tighe được thôi miên. Bà bắt đầu nói giọng Ái Nhĩ Lan và cho rằng có thời bà là một phụ nữ tên là Bridey Murphy sống ở Cork, Ái Nhĩ Lan.
Câu chuyện của bà ta được viết thành cuốn sách bán chạy nhất, “Cuộc tìm kiếm Bridey Murphy,” và được nhiều chú ý. Các ký giả lục xoát khắp Ái Nhĩ Lan để tìm người nào, hay chi tiết nào có thể xác nhận việc trở lại kiếp trước này. Trong khi không tìm được gì, trường hợp của Bridey Murphy tiếp tục được dùng để chống đỡ các lý luận về luân hồi.
Ðây là một điều bẽ bàng, vì Virginia Tighe bị phanh phui là giả trá vài chục năm qua. Thử nghĩ xem, các bạn bè của Virginia nhớ lại trí tưởng tượng linh động của bà, và khả năng bày đặt những câu chuyện phức tạp (thường xoay quanh tài nhái giọng mà bà ta đã đạt đến mức hoàn bị). Không những chỉ có thế, mà bà còn rất thích Ái Nhĩ Lan, một phần vì tình bạn với một phụ nữ người Ái mà tên họ là — bạn oán xem — Bridie.
Hơn nữa, Virgiania thêm vào câu chuyện trong lúc bị thôi miên nhiều điều khác nhau từ chính đời sống của bà (mà không cho nhà thôi miên biết sự song đôi này). Thí dụ, Bridey diễn tả về “Bác Plazz,” mà các nhà nghiên cứu cho là cách nói sai của người Gaelic “Bác Blaise.” Tuy thế họ bị cụt hứng khi khám phá ra rằng Virginia có một người bạn khi còn nhỏ mà bà gọi là “Bác Plazz.”
Các nhà nghiên cứu ngạc nhiên khi Virginia nhảy điệu jig của Ái Nhĩ Lan trong một lần bị thôi miên.. Làm sao mà một bà nội trợ ở Colorado lại học được cách nhảy jig? Ðiều huyền bí này được giải quyết khi người ta biết rằng Virginia đã học điệu nhảy này khi còn bé.
Như trường hợp Bridey Murphy cho thấy, những việc nhận là trở lại tiền kiếp luôn luôn gợi cảm hơn thức tế. Cho đến ngày nay, chưa có một trường hợp nào chứng minh được là có một người nhớ lại được kiếp trước. Chắc chắn là cò nhiều câu chuyện đã được kể lại dưới sự kiểm soát của một nhà thôi miên, tuy nhiên, bằng chứng của luân hồi (giông như Nàng Tiên Răng) vẫn tiếp tục tránh né chúng ta.
Tác giả: DEAL HUDSON
GLV Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
2020
Hậu quả của quan hệ tình dục ngoài hôn nhân
Hậu quả của quan hệ tình dục ngoài hôn nhân
Khi kết hợp tình dục xảy ra chưa đến thời điểm chín muồi, nghĩa là trong những quan hệ trước hôn nhân, thì sẽ nảy sinh nhiều vấn đề. Một số hậu quả về mặt cảm xúc có thể nhận thấy ngay, và một số khác thì ít rõ rệt hơn và xảy đến từ từ, có khi hàng năm sau đó.
- MỘT Ý NGHĨ SAI LẦM
Chắc chắn tất cả chúng ta đều biết quan hệ tình dục là một hoạt động thuộc thể xác. Vì thế nhiều bạn tuổi mới lớn tin rằng nếu họ tránh tất cả những hậu quả về thể xác, như các bệnh lây qua đường tình dục hay việc mang thai, thì tình dục sẽ vô hại. Ngoài điều này ra, không có sai lầm gì nhiều.
Tuy nhiên, hàng triệu những mẩu chuyện từ đời sống thật và đôi khi ngay cả trong phim ảnh, cũng cho thấy điều ngược lại. Một số phim có vẻ như không cho chúng ta thấy một chút gì về đức trong sạch hay sự thật nhưng lại biểu lộ một cái nhìn thoáng về thực tại rất đáng ngạc nhiên.
Trước khi Frau và Dr. Evil quan hệ tình dục trong phim Austin Power II: Điệp viên đeo bám (The spy who shagged me), họ thỏa thuận với nhau rằng sẽ không có gì “kỳ lạ” cả sau khi họ quan hệ tình dục. Trong ngôn ngữ của họ, “kỳ lạ” có nghĩa là bất cứ một sự gắn bó nào về tình cảm vốn thường đi đôi với quan hệ tình dục. Tuy nhiên, một hay hai hôm sau, cả hai đều thừa nhận “đã có cái gì kỳ lạ!” Họ đã không thể tuân giữ thỏa thuận của họ. Họ muốn tình dục chỉ là thú vui vô hại, nhưng không phải vậy: “Cuối cùng Frau giận dữ vì Dr. Evil đã không gọi điện thoại cho cô, và cô tuyên bố sẽ không bao giờ yêu người đàn ông nào nữa!”
“Yếu tố kia” luôn luôn có đi kèm, ngay cả khi chúng ta cố giả vờ rằng nó không hề có. Dù muốn dù không, thì tình dục cũng tạo nên một mối liên kết giữa hai cơ thể. Hai tâm hồn, hai khối óc và hai linh hồn quyện vào nhau. Các khía cạnh phi thể lý của tình dục xem có vẻ không có ảnh hưởng gì do hoạt động tình dục, nhưng thật ra là có.
Việc kích thích tình dục luôn ảnh hưởng đến tâm hồn, cho cả người nam lẫn người nữ. Mối liên kết với cảm xúc này không xảy ra ngẫu nhiên nhưng gắn liền với chính hành động thể lý ấy. Phụ nữ cảm thấy có một dòng chảy oxytocin – cũng là thứ hoóc-môn tiết ra khi làm việc hay khi cho con bú. Oxytocin gây ra lãng quên nơi người phụ nữ, giảm khả năng suy nghĩ theo lý trí và làm cho người phụ nữ gắn bó hết sức mạnh mẽ với người đàn ông đang ở bên mình. Đàn ông cũng tiết ra oxytocin trong quá trình giao hợp. Nhưng cơ thể của họ còn tiết ra một hoóc-môn khác được gọi là vasopressin. Vasopressin, được gọi là “phân tử một vợ một chồng”, được tiết ra sau hoạt động tình dục, và có ảnh hưởng làm tăng thêm ý thức trách nhiệm của người đàn ông [1].
Xét về mặt sinh học, Thiên Chúa ban cho chúng ta hoóc-môn để bảo đảm tình dục tác động đến cảm xúc của chúng ta. Tình dục nhằm phát sinh ra một mối liên kết mạnh mẽ đến độ có thể giúp cho vợ chồng gắn bó với nhau trọn cuộc đời.
Tuy nhiên, khi kết hợp tình dục xảy ra chưa đến thời điểm chín muồi, nghĩa là trong những quan hệ trước hôn nhân, thì sẽ nảy sinh nhiều vấn đề. Một sự kết hợp thể xác phát sinh do tình dục thì mâu thuẫn với quan hệ chưa có liên kết hôn phối thể hiện trên mặt cảm xúc, tâm trí và thiêng liêng. Một số hậu quả về mặt cảm xúc có thể nhận thấy ngay, và một số khác thì ít rõ rệt hơn và xảy đến từ từ, có khi hàng năm sau đó:
“Ở trường đại học, tôi, Heather, đã quyết định chọn sống trong sạch. Khi nghe bạn bè cùng trang lứa kể về những sinh hoạt tình dục của họ, tôi chú ý đến những hậu quả không lường trước của việc quan hệ tình dục trước hôn nhân, những hậu quả đó khác xa với niềm vui thú thể xác và tình yêu mà bạn bè tôi đã mong đợi. Sau khi xong đại học, tôi tiếp tục quan sát tất cả những hậu quả tiếp theo việc quan hệ tình dục ngoài hôn nhân trong mọi hoàn cảnh đời sống của người lớn mà chúng tôi trình bày sau đây”.
- HẬU QUẢ CỦA TÌNH DỤC NGOÀI HÔN NHÂN
- Làm giảm giá trị của tính dục
Mỗi khi chúng ta quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là chúng ta đã tự nói với chính mình rằng tình dục không quan trọng đến nỗi phải gìn giữ cho hôn nhân. Chúng ta đã hạ giá tình dục, coi nó thấp hơn giá trị thật của nó, ngay cả khi chúng ta đang thật sự yêu nhau. Chúng ta đã làm giảm thiểu quà tặng thường xuyên để chỉ còn là món nợ vay tạm thời.
- Vướng vào các mối quan hệ không lành mạnh
Phần lớn người ta cảm thấy khó lòng mà từ bỏ sự an toàn và sự quan tâm trong một mối quan hệ lãng mạn. Khi có quan hệ tình dục thì sự khó khăn càng tăng thêm. Nhiều mối quan hệ kéo dài lâu hơn mong muốn cũng vì sự ràng buộc này.
- Các kỹ năng đối thoại và giải quyết vấn đề kém đi
Một cặp đôi không sống trong sạch thường để cho các hành vi thể lý lấn át trong mối quan hệ đến nỗi hy sinh sự phát triển trí tuệ, tình cảm và tâm linh. Các cặp đôi hay quan hệ tình dục thường dùng nó để giải quyết các vấn đề. Họ thường sống các mối quan hệ của họ qua việc dành thời gian để quan hệ tình dục hơn là để đối thoại với nhau. Trong khi những khía cạnh về thể xác trong mối quan hệ phát triển thì những khía cạnh khác phải chịu hy sinh. M. nói: “Tôi tự nhủ D. là người con gái dành cho tôi. Tuy nhiên, mỗi khi chúng tôi cãi vã thì chúng tôi thường kết thúc bằng quan hệ tình dục, và rồi khi mọi thứ trở lại bình thường thì tôi không còn lo lắng về mối quan hệ của chúng tôi nữa. Mọi thứ có vẻ tốt đẹp và D. thật tuyệt vời chừng nào chúng tôi còn quan hệ tình dục. Nhưng một lần chúng tôi ngưng quan hệ tình dục và cố gắng giải quyết vấn đề chỉ bằng đối thoại thôi. Than ôi, tôi chợt nhận ra cô ấy không phải là người con gái phù hợp với tôi”.
- Làm cằn cỗi việc phát triển nhân cách
Các cặp đôi trẻ có thể đắm mình trong các quan hệ tình dục nhiều đến nỗi họ tự tách mình ra khỏi các sinh hoạt, các sở thích và các mối tương quan khác vốn có thể giúp họ phát triển nhân cách.
- Cảm giác ghen tuông và ngờ vực
Mối dây liên kết mà tình dục tạo nên đã được hoạch định để hiệp nhất vợ chồng một cách trọn vẹn. Trong hôn nhân, cảm giác an toàn tuyệt đối phát sinh do sự kết hiệp này. Ngoài hôn nhân, ý nghĩa hiệp nhất giả tạo này sẽ tạo ra một sự bất an lớn. Người phụ nữ có khuynh hướng “đeo bám” và các chàng trai có thể trở nên kẻ chiếm hữu nhiều hơn.
- Cảm thấy như đồ vật bị đem ra sử dụng, tự đánh giá mình thấp kém
Trong một mối quan hệ chỉ biết có tình dục thì việc làm tình thường chiếm phần ưu tiên nhất. Điều này thường dẫn đến tình trạng một người hay cả hai người đều cảm thấy mình chỉ như một đồ vật bị đem ra sử dụng. J., một cô gái trẻ, cho biết: “Chắc chắn tôi không cảm thấy mình cao giá khi biết anh ấy lái xe hai tiếng đồng hồ để đến gặp tôi, mà là anh ấy chỉ muốn quan hệ tình dục thôi. Khi tôi nhận thấy rằng anh ấy chẳng muốn nói chuyện hay đi dạo bên tôi, tôi biết anh ấy muốn sử dụng tôi để quan hệ tình dục. Cho dù anh ấy có nói gì khác, nhưng hành động của anh ấy chứng tỏ là anh ta chẳng quan tâm gì đến tâm hồn tôi cả.”
- Lo lắng bị lây bệnh qua đường tình dục hoặc có thai
- đã không quan hệ tình dục cho đến ngày vào đại học. Ở đó cô gặp một chàng trai mà cô cho là tuyệt vời nhất. Cô muốn lần đầu tiên của mình thật đặc biệt và cô thật sự nghĩ rằng người mà cô muốn quan hệ là C.. Tuy nhiên, trong lần quan hệ tình dục đầu tiên, dù có dùng bao cao su bảo vệ, cô lại mắc bệnh lây qua đường tình dục. Ở tuổi 28, tất cả các cơ quan sinh sản của cô đều bị cắt bỏ vì ảnh hưởng của căn bệnh ấy. M. không bao giờ có thể có con được nữa.
Bao cao su không thể bảo vệ cơ thể chống lại mọi thứ, và nhiều bệnh đường tình dục lại lây nhiễm qua việc da tiếp xúc với nhau, như HPV (Human Papilloma Virus). Chỉ riêng HPV đã thấy nơi 75% những người Mỹ có quan hệ tình dục. Căn bệnh này hiếm khi được phát hiện (chẳng hạn chỉ có thể nhận thấy triệu chứng trong 8% đàn ông nhiễm bệnh), tuy nhiên HPV gây ra 99% ung thư tử cung ở phụ nữ [2].
Nếu bạn quan hệ tình dục mà không lo lắng gì về các bệnh lây qua đường tình dục thì bạn nên chú ý. Chỉ một bệnh về đường tình dục thôi cũng có thể dễ dàng và âm thầm đi vào cơ thể bạn để giết chết hoặc gây vô sinh cho bạn hay người bạn yêu.
- Thiếu tin tưởng hoặc sợ cam kết cho tương lai
Khi mối quan hệ tan vỡ thì theo sau là nỗi đau. Khi chúng ta bị tổn thương, khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là tự bảo vệ mình. Khi tình cảm chúng ta bị tổn thương do tình dục, thì do tự vệ chúng ta thường trở nên cứng tin hơn và không dám trao trọn quả tim của mình cho ai nữa.
- Trầm cảm hay tự tử
Đôi khi nỗi đau đớn do tan vỡ quá lớn làm người ta không chịu đựng nỗi. Các nghiên cứu cho thấy rằng các bạn tuổi mới lớn có quan hệ tình dục thì dễ bị trầm cảm và muốn tự tử hơn nhiều so với các bạn không có quan hệ tình dục[3].
Br. và E. yêu nhau say đắm suốt thời trung học. Họ quan hệ tình dục và từ đó cảm thấy gắn kết với nhau. Khi cô ấy chia tay với anh vào cuối năm học cuối cấp, anh bị trầm cảm nghiêm trọng và cuối cùng đã tự tử. Nỗi đau mất E. quá lớn khiến anh không chịu đựng nỗi.
- Cảm thấy tội lỗi, xấu hổ và hối tiếc
Khi quan hệ tình dục trước hôn nhân, có thể chúng ta cảm thấy tội lỗi, một cảm giác thích đáng khi chúng ta làm điều gì sai trái. Chúng ta có thể cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình không xứng đáng vì điều mình đã làm. Có thể chúng ta cảm thấy bối rối vì những điều người khác sẽ nghĩ về mình. Chúng ta có thể cảm thấy hối tiếc, nhận thấy rằng mình đã làm cho người khác và chính mình bị tổn thương qua những việc mình đã làm.
- Cái nhìn hoen ố về người bạn tình của mình
Chúng ta có thể sẽ có một cái nhìn lệch lạc về người bạn trai hay bạn gái của mình. Một khi đã có sự ràng buộc về quan hệ tình dục, chúng ta trở nên gắn bó với người ấy và bắt đầu đánh giá cao hơn về người ấy. Trong hôn nhân, kết quả này thì rất lành mạnh. Mối liên kết về tình dục giúp cho các mối quan hệ trở nên bền chặt và hiệp nhất.
Ngoài hôn nhân, mối liên kết này hoàn toàn không lành mạnh chút nào. Mới chỉ hôn Chad thôi, tôi, Heather, đã lơ đi các bạn bè khác. Những người bạn này vốn đã cho tôi biết về việc Chad thiếu đức tin và có vướng vào ma túy. Tôi ngưỡng mộ vẻ thanh lịch và điển trai của anh đến nỗi không còn chú ý nhiều đến những chuyện khác. Chỉ nghĩ đến những nụ hôn, tôi hầu như coi nhẹ những khác biệt chính yếu về lối sống của anh ấy. Nếu như chúng tôi mà có quan hệ tình dục hoặc có gì sâu xa hơn về mặt thể xác thì hẳn là tôi đã tiếp tục mối tình ấy với Chad.
- Khao khát chờ đợi tình dục trong hôn nhân bị giảm đi
Việc khám phá tình dục của cặp đôi có thể là một cuộc phiêu lưu. Tuy nhiên nếu cặp đôi đã thực hiện việc kết hợp tình dục trước hôn nhân, thì họ còn mong đợi điều ấy bao nhiêu vào đêm tân hôn, tuần trăng mật và những năm đầu cuộc hôn nhân? Một số khu nghỉ mát cho biết rằng ngày càng có nhiều cặp vợ chồng đi hưởng tuần trăng mật chỉ tìm các hoạt động vui chơi ngoài trời; phòng ngủ không còn là nơi hấp dẫn nhất của tuần trăng mật nữa[4].
- So sánh với những người yêu cũ
Ký ức về chuyện tình dục thường rất mạnh mẽ. Chúng ta nhớ lại những giây phút nhạy cảm và thân mật nhiều hơn các hoạt động khác. Xét về mặt thực tế, chúng ta cũng nhớ lại những gì làm người kia kích thích và rồi đem những ký ức và những kinh nghiệm đó vào giường của vợ chồng. Người vợ hay người chồng đã trải kinh nghiệm có thể hay có những so sánh. Người bạn đời không có kinh nghiệm thì có thể chiến đấu với những bóng ma những người bạn tình trước kia của vợ hay chồng mình.
Jennifer thừa nhận: “Tôi biết rằng chồng tôi đã quan hệ với nhiều cô gái khác trước tôi. Đôi khi tôi thấy mình cứ băn khoăn liệu mình có tốt như họ không, anh ấy có mong tôi tốt hơn không và điều chúng tôi chia sẻ cho nhau có thể nào làm anh ấy vỡ mộng sau tất cả những điều anh ấy đã trải qua? Lý tưởng mà nói thì những chuyện chỉ về xác thịt thôi trong quá khứ không thành vấn đề. Tôi biết anh ấy yêu tôi hơn những người kia, nhưng tôi cũng nhận ra rằng anh ấy có san sẻ về tâm hồn và cả quả tim với những người phụ nữ kia. Dù cho tôi vẫn hy vọng là chuyện quá khứ không là vấn đề, nhưng những ý nghĩ ấy vẫn cứ có trong tâm trí tôi”.
- Xa cách Thiên Chúa
Tội dâm dục là nặng nề vì tội ấy là việc sử dụng sai trái món quà Chúa ban cho chúng ta. Hãy tưởng tượng rằng bạn bỏ ra nhiều giờ để thực hiện món quà Giáng Sinh hoàn hảo cho mẹ của bạn. Bây giờ lại tưởng tượng tiếp, vừa khi mở món quà ra, mẹ liền nói: “Đây đâu phải là món quà mẹ cần”, rồi mẹ hủy nó, quăng nó vào thùng rác. Có lẽ bạn sẽ thấy tổn thương do hành động của mẹ, và chắc chắn nó sẽ có ảnh hưởng đến mối tương quan giữa hai mẹ con. Điều này cũng giống như trong mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và cách chúng ta thường đối xử với món quà tính dục mà Chúa đã trao ban cho chúng ta.
Đối với những ai đã quan hệ tình dục trước hôn nhân (tà dâm) hay ngoài hôn nhân (ngoại tình), thánh Phaolô viết: “Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, trụy lạc… sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1Cr. 6,9-10). Rời xa ân sủng mà Chúa ban và ra khỏi quan hệ với Ngài là chọn lựa của chúng ta, chứ không phải do Thiên Chúa. Ngài muốn chúng ta được sống trong tình yêu chân thật, luôn tôn trọng sức mạnh cũng như món quà tính dục và không nếm hưởng điều gì thấp kém hơn sự biểu lộ cao nhất của tính dục.
Dĩ nhiên, không phải tất cả những hậu quả này sẽ xảy ra mỗi lần người ta quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Một số hậu quả xảy ra bất cứ lúc nào, chẳng hạn như làm chúng ta xa cách Thiên Chúa và hạ thấp giá trị tính dục. Một số khác có thể không ảnh hưởng đến cá nhân người quan hệ tình dục như họ không cảm thấy xấu hổ hay chán chường. Dĩ nhiên, những hậu quả tiêu cực này cũng có thể xảy đến trong những mối quan hệ không có tình dục, nhưng sẽ ít hơn và rõ ràng là ít trầm trọng hơn.
Nhiều bạn tuổi mới lớn cho rằng những hậu quả tiêu cực của việc sống thiếu trong sạch sẽ không xảy đến với họ. Một số bạn lại cho rằng các bạn đủ trưởng thành và sẵn sàng giải quyết các hậu quả. Tuy nhiên trong thực tế hai lối suy nghĩ ấy không thể chấm dứt hậu quả của việc quan hệ tình dục trước hôn nhân.
- viết:“Bởi vì tôi đã trưởng thành, 22 tuổi rồi và tôi chờ đợi đến tuổi này để có thể quan hệ tình dục, nên tôi nghĩ tôi đã sẵn sàng cho kinh nghiệm này. Điều mà tôi đã không nhận ra đó là không phải là tuổi tác là yếu tố chuẩn mực để người ta sẵn sàng cho một việc như thế, nhưng chính sự cam kết trọn vẹn trong hôn nhân mới là yếu tố cần được trình bày trước tiên. Tôi cảm thấy hối tiếc về quyết định của mình bởi vì tôi nhận thấy rằng tình dục sẽ trống rỗng nếu không có mức độ cao hơn về cảm xúc bên trong của người đã cam kết.”
___________
[1] Bonacci & Mary Berth, “Chastity”, 16-7-2002 (staycatholic.com).
[2] Viện Y Khoa, “Các sự kiện về virút Papilloma ở người”, 16/7/2002 (medinstitute.org).
[3] Peterson, Karen S., “Nghiên cứu về tình dục tuổi mới lớn có liên quan đến trầm cảm và tự tử”, USA Today, 06/6/2003 (usatoday.com).
[4] Harris, Joshua, “Boy Meets Girl: Say Hello to Courtship”, Portland, Ore. NXB Multnomah, 2000, 151..
Heather Gallagher, Peter Vlahutin
Gm. Luy Nguyễn Anh Tuấn và Gioan Lê Quang Vinh chuyển ngữ