2021
Phác họa vài nét về chân dung vị mục tử thời hiện đại
Để nói về hình ảnh đặc trưng của người mục tử ngày nay, người ta thường nhắc đến con người và nếp sống của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, đương kim Giáo hoàng của Hội thánh Công giáo toàn cầu. Quả thực từ khi còn là Tổng giám mục ở Buenos Aires đến khi lên ngôi giáo hoàng, ngài luôn tỏ ra là một mục từ sống thánh thiện, đơn sơ, bình dân, khó nghèo và giản dị. Đây quả là mẫu gương mục tử thích hợp trong thời đại hiện nay.
Trong bài viết có tựa đề “Đức Thánh Cha Phanxicô, khuôn mặt người linh mục hôm nay”[1] , tác giả đã mở đầu như sau:
“Trong xã hội Việt Nam hôm nay, càng ngày giáo dân càng phản ảnh về những tiêu cực của đời sống linh mục, nhất là lối sống hưởng thụ, quyền hành, ngặt nghèo, xa cách giáo dân…Xin chia sẻ một số nét tiêu biểu trong tính cách rất dễ thương, và là khuôn mặt người linh mục rất dễ mến của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đó là tính cách rất hấp dẫn của con người linh mục, vì nó phác họa lại dung mạo của Đức Kitô, đem lại một sức năng động mới cho các linh mục hôm nay.”
Tiếp theo, nội dung bài viết nêu trên đã đề cập đến một vài lối sống tiêu biểu cụ thể của ĐTC Phan-xi-cô, có thể tóm tắt như sau:
– Sống khó nghèo và sống cho người nghèo: Sau khi được bầu, ĐTC đã chọn danh hiệu là thánh Phanxicô Assisi, và ngài giải thích: “Vì tôi muốn một Giáo hội nghèo cho người nghèo”. Trong một buổi lễ tại nhà nguyện thánh Matta, ĐTC đã công kích việc tôn thờ tiền bạc và tỏ ra rất phiền muộn. Ngài nói rằng, dính bén tiền bạc thì sẽ xa cách Thiên Chúa. “Tiền bạc làm cho tinh thần trở thành bệnh tật, làm đức tin trở thành tàn tật”. Ngài còn nói thêm rằng, tình yêu tiền bạc khiến các linh mục và giám mục phạm tội. Và nếu lòng tham nổi lên, thì “tinh thần hư hỏng, có nguy cơ coi tôn giáo như một nguồn thu lợi”.
– Mục tử nhân lành và chứng nhân lòng thương xót: ĐTC Phan-xi-cô đã từng khẳng định, người chăn chiên phải có “mùi chiên”, thì đoàn chiên mới nhận ra. Ngay từ những tháng đầu tiên, ngài đã diễn tả sứ vụ của mình: “Tôi thấy rõ rằng điều mà Giáo hội cần nhất lúc này là khả năng chữa lành những vết thương và sưởi ấm tâm hồn tín hữu, sự gần gũi, sự thân thiện. Giáo hội giống như một bệnh viện dã chiến sau một cuộc chiến… Chúng ta phải chữa những vết thương đã, sau đó mới trao đổi về những gì còn lại…” ĐTC cũng nhấn mạnh đến lòng Chúa thương xót, không ai được để cho mình thất vọng. Phải biết đón nhận lòng thương xót và trở nên người biết xót thương. Trong một bài giảng, ngài nói: “Điều con người ngày nay cần nhất là những chứng từ của chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, để sưởi ấm con tim, đánh thức niềm hy vọng, và lôi kéo người ta đến với điều thiện.”
– Quyền hành là phục vụ: “Quyền hành đích thực là phục vụ, như Chúa Giêsu đã phục vụ. Người vĩ đại nhất là người phục vụ nhiều nhất”. Trong bài giảng Chúa nhật 18-10-2015, khi suy niệm bài Phúc Âm Mc 10, 33-40, ĐTC Phan-xi-cô đã nói như sau: “Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy thay đổi não trạng và đi từ sự ham hố quyền hành đến niềm vui được ẩn mình và phục vụ; loại trừ bản năng thống trị người khác và thực thi nhân đức khiêm tốn…Chúa Giêsu chủ yếu thi hành một chức linh mục thương xót và cảm thông…Vinh quang của Người không phải là là thứ vinh quang tham vọng hoặc khao khát thống trị, nhưng là vinh quang được yêu mến con người, đảm nhận và chia sẻ yếu đuối của họ và ban cho họ ơn thánh chữa lành, tháp tùng hành trình sầu muộn của họ với lòng dịu dàng vô biên”.
– Chân thành và giản dị: Điều giúp ĐTC Phan-xi-cô gần gũi với đại chúng là sự chân thành, nhất là khi ngài đề cập cả đến những thiếu sót của Giáo hoàng: “Ngay cả giáo hoàng cũng đi xưng tội 2 tuần 1 lần, vì giáo hoàng cũng là một tội nhân…”. Các giáo hoàng khác cũng nói tương tự như thế, nhưng mang kiểu cách thánh thiêng, còn cách nói của Đức Phanxicô làm phá vỡ hết mọi bệ tượng. Mỗi ngày ngài đều rời phòng ở lúc 10g sáng để đến chỗ làm việc. Người ta có thể gặp ngài nơi hành lang, trong thang máy, có khi thấy ngài uống café và đang tìm tiền lẻ để trả tại máy bán café…
ĐTC chân thành nhưng cũng thẳng thắn tố cáo những tham nhũng trong Giáo hội, không ngại nói tới những giáo sĩ sống bất xứng với sứ vụ của mình, và chạy theo những của cải trần gian. Ngài đã than phiền: “Tôi đau buồn khi chứng kiến một linh mục hay tu sĩ đi chiếc xe hơi đời mới… Nếu con yêu thích chiếc xe hơi đẹp đẽ thì hãy nghĩ đến tất cả những đứa trẻ đang chết đói”. Đôi khi ngài gay gắt: “Điều làm tất cả chúng ta ghê tởm là thấy giữa chúng ta có những linh mục không chân chính hay nữ tu không chân chính”.
– Sống gần gũi thân tình và liên đới với mọi người: ĐTC Phan-xi-cô luôn tìm cách gặp gỡ con người, đụng chạm đến người ta và để người ta đụng chạm đến mình. Việc tiếp xúc về thể lý là một phần trong cung cách giao tiếp của ngài. Ngài không muốn trở thành bức tượng. Các tín hữu đều có thể ôm ngài, như trường hợp anh quân nhân người Ý sau trận chiến Afganistan trở về đã ở bên ngài thật lâu. Trong mọi cuộc lễ, Đức Phan-xi-cô không đặt khoảng cách với các tín hữu, không giữ khoảng cách nghi lễ. Ngài đón tiếp họ, lôi kéo họ, đụng chạm tới họ. Ngài nói chuyện, lắng nghe và nhìn vào mắt các tín hữu. Trời mưa, ngài vẫn để đầu trần như đám đông khách hành hương.
Trong chuyến tông du Đại hội Giới trẻ tại Rio de Janeiro, Đức Phan-xi-cô đã đến thăm khu dân nghèo Varginha. Ngài đã xuống khỏi xe để đi bộ dưới trời mưa trên những con đường lầy lội trong khu ổ chuột. Như một cha xứ, ngài vào thăm một gia đình trong căn nhà lụp xụp, cùng cầu nguyện và trao đổi với họ, chúc lành và ôm hôn tất cả những đứa con trong gia đình. Sau đó, từ khán đài nhỏ, ngài nói: “Tôi muốn gõ cửa từng nhà chào thăm anh chị em…”
Tác giả bài viết trên cho hay, có người đã thú nhận: “Tôi đã tách rời khỏi Giáo hội, và bây giờ Đức Phanxicô đã đưa tôi trở lại với Giáo hội”. Hoặc ông Marco Tarquinio, tổng biên tập tờ báo Avvenir trích lời một độc giả: “Đã từ lâu người ấy không cầu nguyện, nhưng bây giờ mỗi ngày đều cầu nguyện cho Đức Phanxicô. Giáo hoàng đã đốt nóng con tim người tín hữu, đụng chạm tới những người dè dặt, và tiếp xúc được với những người ở xa nhất”.
Trên đây là một thoáng chân dung mục tử nổi bật nơi ĐTC Phan-xi-cô. Chân dung ấy người ta có thể chiêm ngưỡng, khám phá và đụng chạm đến một cách dễ dàng, như lời Đức Hồng y Tauran đã nhận xét: “Người ta đến Rôma để xem Đức Gioan Phaolô II, để nghe Đức Bênêđictô XVI, và để đụng chạm đến Đức Phanxicô”.
Nhân bài viết đã dẫn trên, xin mạn phép thử phác họa đôi nét về chân dung vị mục tử ngày nay dưới góc nhìn của một giáo dân. Nội dung bài suy tư này gồm 5 phần sau:
- Mục tử: người chăn chiên mang nặng mùi chiên
- Mục tử: thân phận người đầy tớ “bị ăn”
- Mục tử: người phục vụ khiêm nhu và khó nghèo
- Mục tử: chứng nhân lòng Chúa thương xót
- Mục tử: mẫu gương nhà truyền giáo nhiệt thành
- MỤC TỬ: NGƯỜI CHĂN CHIÊN MANG MÙI CHIÊN
Ngày thứ Năm Tuần Thánh 28-3-2013, tại Đền thờ Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô đã cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu vào lúc 9giờ30. Trong buổi lễ này, ngài đã nói với các linh mục: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”. Đức Thánh Cha đã gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng, đó là mục tử phải có mùi của chiên. Người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi của chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt mục tử. Linh mục, người chăn chiên về đàng thiêng liêng cũng phải như vậy. [2]
Thực vậy, linh mục là vị mục tử được sai đến với cộng đoàn dân Chúa phải “thấm mùi chiên” thì mới chứng tỏ ngài quan tâm chăm sóc chiên của mình, chấp nhận đồng hành và sống chết với họ. Mục tử càng gần gũi với chiên, thì ngài càng hiểu chiên, càng thông cảm và yêu mến chiên. Ngài không biến chức vụ, quyền hành của mình thành rào cản để xa dân Chúa, trái lại ngài sẽ luôn là điểm hấp dẫn mọi người đến với mình để chia sẻ với họ những gì họ đang thiếu, đang khát khao, đang mong đợi.
Cha Andrew Greeley, một tác giả viết sách và một nhà xã hội học đã định nghĩa: “Linh mục là người để người ta tìm đến”. Điều đó cũng có thể hiểu được là mục tử trở nên điểm hẹn đáng trân trọng của mọi tín hữu. Cộng đoàn tìm đến mục tử của họ là để được nói tiếng nói của chiên với chủ chăn, được giãi bày tâm sự, được khuyên giải, được trấn an vv. Sự thất vọng lớn nhất của người giáo dân đối với vị mục tử của họ là khi tiếng nói của họ không còn được nghe nữa. Lúc đó giữa chiên và chủ chiên như có một bức tường ngăn cách vô hình nào đó, và mối tương quan “ta biết chiên ta và chiên ta biết ta” không còn ý nghĩa gì nữa!
Lời của Ngôn Sứ Ê-dê-ki-en còn đây: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.” (Ed 34, 14-16)
- MỤC TỬ: THÂN PHẬN NGƯỜI ĐẦY TỚ “BỊ ĂN”
Linh mục Antoine Chevrier đã nói một câu đầy ý nghĩa như sau: “Linh mục là người bị ăn”. Điều đó có nghĩa là thân phận của người mục tử là thân phận của người đầy tớ “bị ăn”.
Các linh mục của Chúa được sai đi, không phải để được phục vụ mà là để phục vụ con người như lời Đức Ki-tô đã khẳng định (x. Mc 10, 45). Linh mục là người của muôn người, được sai đi để làm “đầy tớ” thiên hạ. Nói linh mục là “đầy tớ” vì các ngài không được tuyển chọn để làm quan trong thiên hạ, mà làm kẻ phục vụ người khác. Càng phục vụ tích cực, càng phải hi sinh hết mình. Càng lo cho người khác, càng chết cho chính mình. Càng yêu mến quan tâm người khác, trái tim càng đau khổ dày vò. Khi con người của linh mục bị vắt cạn sức lực, đó là lúc Đức Ki-tô Mục Tử lớn lên trong các ngài và tỏa lan sức nóng ấm áp trong cộng đoàn. Đó cũng là lúc hạt giống chun vùi trong lòng đất sinh hoa kết trái, “Nếu hạt giống rơi xuống đất mà thối đi, nó sẽ nảy sinh hoa trái” (Ga 12, 24).
Có lẽ không gì hùng hồn và thuyết phục bằng việc đơn cử mẫu gương mục tử sáng ngời của cha thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars. Ngài nổi tiếng là một linh mục rất nhiệt tình trong việc rao giảng và giải tội. Hai thánh vụ này đã làm hao tốn biết bao sức lực của một người tông đồ nhiệt thành và một đầy tớ chuyên chăm của giáo dân.
Về giảng dạy, cha quan tâm soạn bài giảng thật kỹ lưỡng. Cha thường dùng phòng áo để dọn giảng cho yên tĩnh. Cha nghiên cứu các tác giả, có khi xem tới 7 tác giả. Cha đánh dấu những đoạn cần phải chép lại và lắm khi phải phiên dịch tới 40 hay 50 trang sách. Học thuộc lòng trước vào thứ bảy và buổi tối sau khi bổn đạo về nhà, cha đi chung quanh nghĩa địa để lập lại những đoạn khó. Cha lại không quên cầu nguyện trước khi giảng…Cha giảng rất hùng hồn. Có người hỏi: “Tại sao lúc cầu nguyện thì cha nói nhỏ mà khi giảng cha lại nói to thế ?”. Cha trả lời : “Khi giảng phải nói to vì người nghe họ buồn ngủ và nặng tai, nhưng khi cầu nguyện với Chúa thì nói nhỏ vì Người không nặng tai”. Cha giảng rất hùng hồn và dạy dỗ với uy quyền. Bài giảng rất cụ thể với đời sống Dân Chúa và chỉ bảo phải làm gì hay làm như thế nào để giáo dân dễ thực hành.
Về việc giải tội, cha sở họ Ars là một LM nổi tiếng trong việc siêng năng giải tội. Có thể nói tội nhân đã chiếm đoạt tất cả tâm tư, lời cầu nguyện, hãm mình và mọi hành động của ngài. Cha thường ngồi tòa 15 giờ mỗi ngày, bắt đầu từ 1 hay 2 giờ sáng và kết thúc vào lúc đêm khuya…Người ta nối nhau để chờ xưng tội. Có thể nói là cha ngồi tòa liên tục, bởi vì giáo dân xứ Ars xưng tội thường xuyên, lại có các khách hành hương từ các nơi xa kéo đến, có khi lên tới 80.000 người hằng năm. Cha giải tội cả lúc đêm về, bất cứ lúc nào cha cũng sốt sắng với việc giải tội khi có người xin vào những lúc bất thường. Trước ngày qua đời 5 hôm, người ta còn thấy các tội nhân chen chúc bên giường bệnh của cha để lãnh nhận ơn tha thứ. Cha còn được ơn thấu suốt tâm tư và tâm hồn của người khác và ngài biết khôn ngoan đưa dẫn họ vào việc xưng tội, cả khi họ không có ý đi xưng tội khi gặp ngài. Đặc biệt cha còn làm việc đền tội với tội nhân. Cha nói: “Tôi ra cho họ việc đền tội nhẹ nhàng và tôi làm thay cho họ việc đền tội còn lại”….
Một linh mục sống và làm việc như thế thì hiển nhiên là người-bị-ăn đích thực rồi. Chính giáo dân vừa yêu mến ngài lại vừa “hành hạ” ngài. Nhưng nét đẹp diệu vợi và thánh thiêng của vị mục tử là ở chỗ đó. Mọi giáo dân đều có chung một ý nghĩ này là chỉ nguyên sự hiện diện thường xuyên tích cực và sống động của linh mục giữa họ thôi cũng đủ đem lại bình an và niềm vui cho cộng đoàn rồi. Tuy nhiên, trên thực tế, đôi khi trái ngược, có nhiều nơi được gặp linh mục đã là khó, được ngồi nói chuyện giãi bày tâm sự với các ngài còn khó hơn, và được ngài lắng nghe, chỉ bảo, tâm sự còn khó hơn gấp nhiều lần…
- MỤC TỬ: NGƯỜI PHỤC VỤ KHIÊM NHU VÀ KHÓ NGHÈO
Có thể nói, một trong những hình ảnh ấn tượng nhất về vị mục tử ngày nay đó là một con người phục vụ với đức tính khiêm khu và tinh thần khó nghèo. Chúng ta đều biết rằng, linh mục không phải là một nghề và linh mục được sai đến để sống và làm việc giữa dân Chúa như một người cha, người mẹ, người anh, người chị trong tư cách là một đầy tớ phục vụ, chứ không phải là một người cai trị. Trong khi phục vụ, ngài luôn nêu gương khiêm nhường và khó nghèo.
Công đồng Vat II đã nêu rõ: “Linh mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Ki-tô, vì đã sinh họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn (x.1Cor 4,15 và 1P 1,23). Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), linh mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của mình, để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo hội Thiên Chúa (x.1Cor 1,2; 2Cor 1,1) là danh hiệu riêng riêng biệt của toàn thể Dân Thiên Chúa là Dân duy nhất. Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ ra cho tín hữu và lương dân, cho người Công giáo và ngoài Công giáo thấy gương mặt của một thừa tác vụ thực sự tư tế và mục vụ, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống…” (x. Vat II, LG 28).
Và Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục (Presbyterorum Ordinis) cũng nói về những đòi hỏi của thừa tác vụ linh mục, “Thực hành việc khổ chế riêng biệt của vị chăn dắt các linh hồn, từ bỏ những tiện nghi riêng, không tìm kiếm tư lợi nhưng tìm lợi ích cho nhiều người để họ được cứu rỗi”.
Như vậy, linh mục được chọn từ những người bình thường để làm những công việc phi thường. Để thực hiện những việc phi thường, linh mục luôn là người bận rộn và vất vả. Bản thân con người của linh mục qua bí tích Truyền chức thánh đã trở nên một hiến lễ vì cộng đoàn và cho cộng đoàn. Như Đức Ki-tô Mục Tử, linh mục có thể nói, “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Gio 10,10); “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).
Có thể nói con người và đời sống của linh mục như là tấm bánh bẻ ra cho nhiều người đang khao khát sự sống đích thực của Đức Ki-tô.
Cộng đoàn tín hữu là một gia đình trong đó linh mục được sai đến để chăm sóc, lo lắng và làm gương. Ngài xác tín tuyệt đối việc ngài đến là “để phục vụ”. Người phục vụ luôn luôn là người chịu thiệt thòi, lo trước cái lo của dân Chúa và vui sau cái vui của họ. Nỗi lo lắng của ngài không phải là an hưởng bản thân mà là gánh vác công việc cộng đoàn, ở đó bao con người đang mong đợi và cần sự hiện diện của ngài.
Linh mục sẽ luôn luôn phải thao thức về nhu cầu thiêng liêng của cộng đoàn, qua đó ngài biết nên làm gì và làm như thế nào để họ “được sống và sống dồi dào”. Nỗi băn khoăn thao thức thường xuyên của linh mục, đó là làm sao mình phải bé nhỏ, tiêu hao đi để cho Đức Ki-tô lớn lên trong cộng đoàn. Làm sao để Tin Mừng thực sự lan tỏa trong mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội-đoàn-nhóm tín hữu. Làm sao hạn chế được những chia rẽ, bất hòa, hành xử cục bộ, bè phái… để mọi người sống hiệp nhất yêu thương như Chúa đã dạy. Nguyên chỉ với những thao thức đó thôi, linh mục cũng đã phải “tự tiêu hao” biết bao dự phóng, bao sáng kiến, bao lo toan, bao kế hoạch riêng tư…Nói cách khác, khi lo cho người khác được lớn lên, linh mục sẽ hy sinh chính bản thân ngài.
Đức Giám mục GB Bùi Tuần, giáo phận Long Xuyên đã chia sẻ với các linh mục như sau: “Tôi nhận ra ơn gọi của người môn đệ Đức Ki-tô. Ơn gọi này không chỉ là truyền bá Tin Mừng, quy tụ dân Chúa, thông báo ý Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể, mà còn là hiến tế chính mình trong cuộc đời. Hiến tế bằng tình yêu và hi sinh. Cho dù một cách nào đó, người môn đệ Chúa sẽ phải chịu đóng đinh vào thánh giá, phải chịu cho trái tim mình bị đâm, để những giọt máu và nước sau cùng trong đó cũng đành đổ ra hết…” (Tĩnh tâm LM Gp Long Xuyên tháng 6-2002).
Nhìn vào một giáo xứ, có thể nhận ra ảnh hưởng của vị mục tử lớn lao như thế nào. Linh mục xây nhà thờ kiên cố thì giáo dân được yên lòng. Linh mục quan tâm đến người nghèo, bất hạnh thì cộng đoàn bớt đi nhiều cảnh khổ. Linh mục để mắt tới những người khô khan, nguội lạnh, những đôi vợ chồng rối, thì giáo xứ giảm bớt được gương xấu. Linh mục sống nghèo khó, khiêm tốn thì giáo dân có gương sáng sống động để dõi theo vv. Bao lâu linh mục chưa là tấm-bánh-được-bẻ-ra cho người tín hữu “ăn” thì bấy lâu cộng đoàn vẫn còn phải chịu đựng sự đói, sự khát, sự nghèo về tâm linh, về sự sống, về gương sáng chứng tá Tin Mừng Đức Ki-tô Phục Sinh.
- MỤC TỬ: CHỨNG NHÂN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Trong bài giảng lễ cầu nguyện cho linh mục nhân dịp ngày năm thánh Lòng Thương Xót dành cho các linh mục ngày thứ sáu 3-6-2016, ĐTC Phan-xi-cô đã giúp các linh mục chiêm ngắm trái tim đầy thương xót của Mục Tử Nhân Lành và mời gọi các ngài để cho con tim mục tử của mình được nung nấu bởi tình yêu mục tử của Chúa Kitô. [3]
ĐTC đã chia sẻ như sau: “Khi chiêm ngắm Trái Tim Chúa Giêsu, chúng ta đối diện với một câu hỏi căn bản về đời sống linh mục của chúng ta: Con tim của tôi hướng về đâu? Sứ vụ của chúng ta thường đầy những hoạch định và những công việc khác nhau: từ việc giảng dạy cho đến việc phụng vụ, các công việc bác ái, những dấn thân mục vụ và cả những công việc hành chánh nữa. Giữa vô số những hoạt động ấy, chúng ta vẫn luôn phải chất vấn bản thân mình: con tim của tôi gắn chặt vào đâu, con tim của tôi đang hướng về đâu, và đâu là kho tàng mà tôi đang tìm kiếm? Vì Chúa Giêsu đã nói: ‘Kho tàng của anh ở đâu, thì tâm hồn anh ở đó’ (Mt 5,21)”.
Ngài nhấn mạnh: “Con tim của các mục tử là con tim bị xuyên thấu bởi tình yêu Thiên Chúa. Chính vì thế, các mục tử không còn đăm đăm vào bản thân mình nữa, nhưng hướng về Thiên Chúa và đoàn chiên của mình. Đó không còn là một ‘con tim bị dao động’ hay bị cuốn hút bởi những ý tưởng nhất thời hoặc bỏ qua những bất đồng để tìm kiếm những thỏa mãn nhỏ nhen. Trái lại, đó là một con tim được bám rễ sâu vào Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần đốt nóng, để luôn sẵn sàng rộng mở giúp đỡ tha nhân.”
Ngài cũng lưu ý các linh mục điểm quan trọng này: “Chúa Kitô yêu thương và biết các con chiên của Ngài, Ngài hiến mạng sống vì chúng và không ai là người xa lạ với Ngài (Ga 10,11-14). Đàn chiên chính là gia đình và cuộc sống của Ngài. Ngài không phải là những ông chủ để rồi đàn chiên phải khiếp sợ, nhưng Ngài là Mục Tử đồng hành với đàn chiên và gọi đích danh từng con (Ga 10,3-4). Ngài muốn tập họp những chiên còn chưa trở về chuồng của Ngài (Ga 10,16). Đối với các linh mục của Chúa Kitô cũng vậy. Linh mục được xức dầu để phục vụ dân Thiên Chúa, chứ không phải được chọn để làm theo ý riêng của mình, nhưng là gần gũi với đàn chiên mà Thiên Chúa đã trao phó. Không ai bị loại trừ ra khỏi trái tim của các mục tử, cũng không ai bị loại trừ ra khỏi lời cầu nguyện và nụ cười của các linh mục. Với cái nhìn đầy yêu thương và với trái tim của người cha, các linh mục đón nhận, hòa nhập và những khi cần phải sửa dạy ai đó, các linh mục phải gần gũi với con chiên của mình hơn. Họ không bao giờ được phép khinh thường một ai, nhưng phải sẵn sàng để bị ‘vấy bẩn’ đôi bàn tay của mình.”
Thực vậy, mang trái tim hiến tế như Chúa Ki-tô, linh mục đến với tha nhân nhất là những người đau khổ, tội lỗi, khô khan, để biểu tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với thân phận, hoàn cảnh, con người của họ. Sự cảm thông đôi khi không nhiều lời, không ồn ào, mà chỉ cần là một sự hiện diện đồng cảm, một sự im lặng cầu nguyện, một thái độ chan hòa yêu thương. Các tín hữu có cảm giác gần gũi với linh mục chính nhờ cung cách phục vụ khiêm hạ và dễ thương như thế của ngài.
- MỤC TỬ: MẪU GƯƠNG NHÀ TRUYỀN GIÁO NHIỆT THÀNH
Nếu truyền giáo là bản chất của Hội thánh thì truyền giáo cũng là nhiệm vụ trọng tâm của các linh mục và các ngài chính là những nhà truyền giáo chuyên trách. Do vậy, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù đang thi hành chức vụ gì thì linh mục cũng luôn sống và làm việc trong bầu khí truyền giáo. Truyền giáo như hơi thở, như nhịp đập trái tim của các ngài. Có thể khẳng định một điều là truyền giáo luôn là mối ưu tư hàng đầu của các chủ chăn.
ĐTC Phan-xi-cô rất quan tâm đến công cuộc truyền giáo, đặc biệt là đến sứ vụ loan báo Tin Mừng của các mục tử. Ngài đã từng nói:
“Cha muốn mọi người ra đi. Cha muốn Giáo hội ra ngoài đường phố…Cha muốn chúng ta tự bảo vệ chống lại những gì là thế gian, là định lập, là thoải mái, là giáo sĩ trị, là khép kín vào chính mình…”
“Cha muốn một Hội thánh ra đi truyền giáo nhiều hơn, một Hội thánh không quá tĩnh lặng. Một Hội thánh xinh đẹp khi biết ra đi.”
“Hãy sống tích cực, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và đồng thời, hãy ra đi, sẵn sàng gặp gỡ mọi người, đặc biệt những ai bị khinh rẻ và bất hạnh. Đừng sợ phải đi ngược dòng.”
Trong thư Mục vụ năm 2014 chủ đề “Tân Phúc Âm hoá đời sống các giáo xứ và đời sống thánh hiến”, HĐGMVN đã khẳng định: “Chúng tôi xác tín rằng việc Phúc-Âm-hóa giáo xứ phải được bắt đầu từ chính hàng linh mục. Chúng tôi cảm ơn anh em đã tận tụy và trung kiên với công việc phục vụ cộng đoàn được trao phó cho anh em. Tuy nhiên chúng ta không được quyền tự mãn với những gì đã làm, nhưng phải không ngừng canh tân đời sống bản thân cũng như cung cách thi hành tác vụ linh mục. Vì thế, xin anh em nghe lại lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô, và hãy xem đó như kim chỉ nam cho tác vụ linh mục tại giáo xứ: Cùng với hàng giám mục, các linh mục ‘phải luôn luôn nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo trong giáo xứ của mình, theo lý tưởng của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Để thực hiện điều này, có khi ngài sẽ đứng trước dân, chỉ đường cho họ và giữ cho niềm hy vọng của họ luôn sống động. Khi khác, ngài chỉ cần ở giữa họ bằng một sự hiện diện khiêm tốn và nhân từ. Khi khác nữa, ngài sẽ phải đi theo họ, giúp đỡ những ai bị bỏ lại ở đằng sau, và trên hết, để cho đoàn chiên tự mình mở ra những lối đi mới’ (Niềm Vui Tin Mừng, số 31).”[4]
Giáo xứ luôn là yếu tố thúc đẩy việc truyền giáo quan trọng nhất: Giáo xứ phải là môi trường thuận lợi nhất giúp giáo dân học hỏi và thực thi mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Ki-tô. Nếu giáo xứ quá thiên về “quản trị hành chánh” thì giáo dân sẽ rơi vào tình trạng thụ động.
Chúng ta thử tham khảo vài chỉ dẫn của ĐGM Phao-lô Nguyễn Thái Hợp, giám mục giáo phận Hà Tĩnh theo Thông báo ngày 28-6-2019, như sau:[5]
“Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm và là sứ vụ của các linh mục đã được Thiên Chúa mời gọi: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15). Linh mục quản xứ không chỉ được mời gọi ‘giữ chiên’ mà còn có bổn phận phát triển đoàn chiên tại nơi mình được sai đến.
“Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm của mọi thành phần dân Chúa, mọi ban ngành, đoàn thể, HĐMV giáo xứ, các giáo họ, các hội đoàn trong giáo xứ và của mỗi người giáo dân. Loan báo Tin Mừng là mục tiêu của mọi hoạt động của giáo xứ và của từng người Kitô hữu.
“Quan tâm đến việc tìm kiếm ‘chiên lạc’ và đến với những người chưa biết Chúa, đang có thiện chí muốn vào đạo.
“Quan tâm đến việc đối thoại và hướng dẫn họ trong việc truy tầm chân lý; phải đến với mọi thành phần trong xã hội.
“Quan tâm chương trình dạy Giáo lý tân tòng và củng cố giáo lý đức tin hậu tân tòng.
“Quan tâm đào tạo nền tảng giáo lý vững chắc cho thế hệ trẻ trong giáo xứ.
Vậy người chịu trách nhiệm chính về công cuộc truyền giáo của giáo xứ chính là cha xứ và các tu sĩ nam nữ giúp xứ. Nếu cha xứ lơ là, không quan tâm đến công việc quan trọng này thì chẳng ai có thể thay thế ngài được. Nếu trong một năm, cha xứ chỉ “nói” đến công cuộc truyền giáo một hai lần nhân dịp lễ nào đó, còn ngoài ra không có những hoạt động xuyên suốt nào gọi là “Truyền giáo” thì chắc chắn giáo dân sẽ ít có cơ hội làm việc tông đồ truyền giáo!
Thực vậy, “Các giáo xứ cần quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng trong mọi hoạt động của giáo xứ. Xin các cha xứ quan tâm, đồng hành và khích lệ để hoạt động loan báo Tin Mừng được kết quả. Xin các cha quản xứ làm nhân tố nối kết mọi hoạt động để việc loan báo Tin Mừng có hiệu quả thực sự. Cần trao trọng trách loan báo Tin Mừng cho một số hội đoàn như Legio, Thiếu nhi Thánh Thể vv… để có kết quả tốt hơn.”[6]
[1] http://www.simonhoadalat.com/giaoducgd/tuduc/179DTCPhanxico.htm
[2] https://www.tonggiaophanhanoi.org/qmuc-tu-phai-mang-lay-mui-chienq/
[3] https://dcctvn.org/trai-tim-muc-tu/
[4] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/-thu-muc-vu-2014-tan-phuc-am-hoa-doi-song-cac-giao-xu-va-doi-song-thanh-hien-17874
[5] https://giaophanhatinh.org/thong-bao-cua-ban-loan-bao-tin-mung-2-11716
[6] https://giaophanhatinh.org/thong-bao-cua-ban-loan-bao-tin-mung-2-11716 Aug. Trần Cao Khải
2021
Chút tâm tình trước cái chết của người đau khổ
Chút tâm tình trước cái chết của người đau khổ
Thăm viếng mục vụ tại vùng miền sơn cước hết sức cần thiết đối với những ai đang thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng cho dầu đường sá xa xôi hay cách trở. Vì bà con giáo dân ở rải rác khắp mọi vùng trong cả 3 huyện, nên khi có chuyện vui hay chuyện buồn, chúng tôi, những người đang làm mục vụ nơi đây không thể không hiện diện với họ, không thể không thăm viếng và gặp gỡ họ. Vui với người vui, khóc với người khóc (Rm 12,15) là vậy.
Chính vì thế, sáng nay, vào lúc 6h30, ngày 27/7/2021, với gần 20km, tôi cũng lên đường để đến với hoàn cảnh éo le, nghèo khổ, có bà mẹ Maria Lang Thị Quý, 85 tuổi qua đời. Bà là người có thể được coi là cô thể cô thân tuy có 5 đứa con. Cách đây 7 năm, sau khi lên nhận sứ vụ tại vùng miền đặc biệt này, tôi đã tìm ra bà và từ đó, chúng tôi đã thường xuyên thăm viếng, chu cấp thức ăn và tiền hàng tháng cho bà qua sự giúp đỡ của ân nhân. Thân thể tiều tuỵ và teo tóp của bà nói lên sự đơn chiếc và quá khổ đau cũng như đói khát. Dường như cái thập tử nhất sinh đang kề cận bà. Chúa nhật 17 thường niên 25/7, tôi đến thăm bà và lo của ăn đàng cho bà. Sáng hôm qua, bà được chăm sóc, tắm giặt và cắt tóc qua bàn tay của quý nữ tu. Buổi chiều tối hôm qua 26/7/2021, vào lúc 17h, bà đã an nghỉ cách âm thầm mà không có một đứa con nào bên cạnh. Tội nghiệp bà dù vẫn có con ở kề bên nhưng không được chăm sóc đàng hoàng và được yêu thương trìu mến, chưa nói đến những đứa con phải lấy chồng xa. Bà đã về bên Chúa. Với sự im lặng phó thác và lòng tin tuyệt đối vào Chúa, chúng ta tin rằng linh hồn bà Maria sẽ sớm Chúa thưởng về thiên đàng cùng Ngài.
Hôm nay, đến với đại gia đình tang quyến, tôi bắt gặp nhiều đứa con từ phương xa đang ngồi khóc bên linh cửu của người mẹ. Họ khóc vì không được gặp mẹ trước khi mẹ nhắm mắt lìa đời. Họ khóc vì phần nào đó vì sự lơ đãng, vô tâm và thiếu sót của đứa con đối với mẹ mình. Họ khóc vì mất đi khúc ruột, là người mẹ. Họ khóc vì hối hận vì đã không quan tâm đủ cho mẹ. Họ khóc vì sự bạc bẽo của đứa con. Liệu chăng tiếng khóc lúc này đây có làm mẹ thức dậy không? Liệu chăng tiếng khóc đó có làm cho mẹ vui hơn không? Liệu chăng tiếng khóc đó có xoá hết được những vô tâm, vô cảm của chính mình trước người mẹ khổ đau? Có lẽ mẹ cần hơn sự gần gũi, sẻ chia, quan tâm và cho mẹ ăn đôi miếng khi mẹ còn sống. Có lẽ mẹ thèm miếng khi đói, mong muốn cốc nước khi khát hơn là tiếng khóc bây giờ. Có lẽ mẹ cần hơn bao giờ hết là khi đang còn sống có con bên cạnh, có sự an ủi vỗ về khi ốm khi đau. Lúc này đây có lẽ bà mong anh chị em hiệp nhất, yêu thương và liên đới với nhau hơn. Từ nay, có lẽ bà mong muốn con cái cháu chắt sống hoà thuận, cố gắng sống tốt từng ngày hơn.
Hỡi ai còn cha còn mẹ, hãy yêu thương và quan tâm các ngài. Hãy trao yêu thương bằng cử chỉ hành động khi các ngài đang còn sống hơn là để các ngài cô đơn, buồn sầu và chết dần chết mòn. Đừng để khi các ngài tạ thế rồi, chúng ta mới sắm chiếc quan tài thật đắt tiền, sắm hoa thật nhiều, viết các bức trướng đầy dẫy, cũng như khóc than và la ó thật thảm thiết trước mọi người. Có lẽ khi sống cần hơn khi chết. Khi sống mà không hề chăm sóc, không màng tới, không quan tâm chưa muốn nói là hắt hủi, chửi rủa, đánh đập các ngài, thì khi chết mà khóc thật to, lo thật hoàng tráng các vật dụng hậu sự, xem ra người ta không ngần ngại nói rằng “đồ giả tạo”, “đồ bất hiếu”.
Tôi đang đối xử với cha mẹ của tôi như thế nào? Tôi có thường xuyên gọi điện thoại, thường xuyên thăm viếng, thường xuyên hỏi thăm, thường xuyên tiếp cận gần gũi các ngài không? Tôi có hay la ó, nạt nỗ, khinh bỉ, miệt thị hoặc đánh đập cha mẹ của tôi không? Tôi có sống tử tế, có vâng lời các ngài? Tôi có làm cho bố mẹ buồn không? Tôi có dính vào các tệ nạn xã hội và nhũng việc làm xấu để nước mắt của các ngài đã khô ráo vì tôi? Tôi đang là ai đối cha mẹ tôi: là người con gần gũi hay người xa lạ? Quả thật, đôi khi chúng ta quá dễ dàng, nhẹ nhàng và quảng đại với người lạ cũng như người ngoài, còn cha mẹ và người thân, tôi đã la mắng, khinh thường, bỏ qua, keo kiệt, bon chen và giết chết! Cha mẹ đang cần tôi khi ngài đang còn sống chứ không chỉ là đã nhắm mắt xuôi tay đâu nhé!
Linh mục Phaolô Phạm Trọng Phương
2021
Cuộc đời là một lời ca tạ ơn
Cuộc đời là một lời ca tạ ơn
Tạ ơn vì được làm người, tạ ơn vì được làm con Thiên Chúa, tạ ơn vì được làm nữ tu trong hội dòng hay nói cách khác được chọn gọi riêng để làm chứng nhân cho Chúa.
Chúa đã dựng nên ta từ hư không! Từ không mà có. Đó là lời tạ ơn muôn đời rồi.
Lại được làm Con Chúa khi ta lãnh nhận bí tích Rửa tội và trở thành anh chị em, chi thể của nhau trong thân thể Giáo hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kito, chính Ngài là Đầu: “Anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận” (1Cr 12, 27).
Hơn thế nữa, được chọn gọi vào công đoàn tu trì để hiến dâng thân mình từ nay thuộc chọn về Chúa và thuộc trọn về cộng đoàn để được Chúa huấn luyện, và sai đi làm chứng nhân cho Ngài ở giữa trần gian.
Tạ ơn Chúa là điều chính đáng khi Chúa đã dùng bậc sinh thành, là cha mẹ, là anh chị em trong gia đình để sinh ra dưỡng nuôi và trưởng thành.
Tạ ơn Chúa vì nhờ Giáo hội qua các trung gian là những linh mục, là những bề trên, qua các bí tích, mà ta được đón nhận nhiều ân sủng.
Tạ ơn Chúa vì được gọi vào công đoàn Tu Trì, cụ thể là công đoàn dòng Phaolô Đà Nẵng để được ở lại, đụng chạm, gặp gỡ, hiện diện, học hỏi, trao đổi, yêu thương, tha thứ qua những trung gian là bề trên, quý chị đồng hành, quý chị em và những tác nhân khác.
Tạ ơn Chúa vì Ngài đã chọn gọi để chúng ta ở lại với Chúa để qua Ngài, với Ngài và trong Ngài, chúng ta học hỏi sự hiền lành và khiêm nhường, học hỏi cái sự tiếp cận của Chúa nơi những người nghèo, nơi những người bệnh hoạn tật nguyền, nơi những người bị loại bỏ ra khỏi xã hội, nơi những người cô thế cô thân. Như vậy, ở lại với Chúa để biết cảm thông và yêu thương những mảnh đời đau khổ. Ở lại với Chúa để biết tha thứ và yêu thương ngay những kẻ không ưa mình. Ở lại với Chúa để học hỏi cách truyền giáo của Chúa là thánh thiện, là cởi mở, là quảng đại, là cho đi, là sẵn sàng ra đi dẫn thân miễn sao tin mừng của chúa được truyền giao. Ở lại với Chúa để được bổ sức và bồi dưỡng. Ở lại với Chúa để có những hành trang tốt đẹp và đúng đắn để ra đi giặt gieo tin mừng. Ở lại với Chúa để biết được rằng sống là Đức kitô và chết là một mối lợi như thánh Phaolô đã cảm nhận. Sống là Đức Kitô có nghĩa rằng là từ suy nghĩ, từ lời nói, từ hành vi cử chỉ của bản thân, thuộc chọn về chúa và thực thi như chúa. Điều này thánh Phaolô đã mời gọi: “ Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa.” (1Cor 10, 31). “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, chết là một mối lợi” (Pl 1,21), Sống là Đức Kitô, nghĩa rằng là yêu như Ngài, tha thứ như Ngài, quảng đại như Ngài, hi sinh như Ngài, giảng dạy như Ngài, làm chứng như Ngài, chịu đau khổ như Ngài, chịu chết như Ngài và cũng sẽ được sống lại những Ngài. Sống với Đức Kitô để kín múc tình yêu và nguồn ân sủng từ Ngài để như thành Phaolô chúng ta cũng mau mắn khẳng định rằng tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi. Thúc bách tôi điều gì vậy? Thúc bách tôi lên đường để làm chứng nhân cho Ngài bằng cuộc sống đượm tình bác ái yêu thương. Quả thật, chứng nhân thì quan trọng hơn là thầy dạy. Một khi đã ở lại với Đức Giêsu Kitô, chúng ta không thể không ở lại với anh chị em của chúng ta nơi môi trường được sai đến để làm mục vụ. Một khi đã hiện diện với Đức Giêsu Kitô, chúng ta được mời gọi hiện diện với anh chị em đồng loại, nhất là với những người có hoàn cảnh khó khăn và đau khổ. Một khi đã gặp gỡ Đức Giêsu kitô, chúng ta không thể không được biến đổi để trở nên giống Đức Giêsu Kitô, nên đồng hình đồng dạng với Ngài trong mọi tư tưởng, lời ăn tiếng nói và con tim cũng cùng một nhịp đập với trái tim của Chúa. Như vậy, khi được sai đi, nghĩa là chúng ta đi làm chứng, đi quảng cáo, đi giới thiệu tình yêu Đức Giêsu Kitô cho muôn người, nhất là nơi những vùng miền mình được sai đến. Giới thiệu Đức Giêsu kitô không phải là nói về lý thuyết và nhồi nhét một giáo thuyết cho một ai đó, Nhưng đòi hỏi sát sao là trở nên chứng nhân đích thực qua lời ăn, tiếng nói, hành vi cử chỉ của chúng ta: là thân thiện, là gần gũi, là gặp gỡ, là đồng hành, là yêu thương, là vui vẻ dâng hiến, là dấn thân phục vụ. Nghĩa rằng là chúng ta phải là hình ảnh hữu hình của Đức Giêsu Kitô ở trần gian, là hiện thân lòng thương xót của Ngài trong môi trường sống. Được sai đi bởi Đức Giêsu ngang qua quý bề trên, các chị em được mời gọi sống thanh thoát và không được màng tới những của cải tiện nghi, nhưng một niềm phó thác cho sự quan phòng của Chúa cũng như sự giúp đỡ của anh chị em. Vì làm thợ thì đáng được trả công. (Lc 10,7). Được sai đi là để gieo rắc bình an và tình yêu, chứ không phải là sự bất an, nỗi buồn và sự chết. Gieo rắc nền văn minh tình thương, văn hóa sự sống, chứ không phải nền văn minh sự chết. Được sai đi là để thi thố cái tình yêu và lòng thương xót của Thiên chúa đối với nhân loại, cụ thể đối với con người, nhất là đối với những mảnh đời eo le, cô đơn cô thể, bệnh hoạn tật nguyền, những người nghèo về vật chất cũng như tinh thần, nghèo về Lời Chúa. Được sai đi là để chúng ta ở lại bên cạnh những anh chị em đó để cùng cảm thông khi họ buồn phiền, để vui với người vui, và khóc với người khóc. (Rm 12,15). Được sai đi là để đồng hành và dấn thân phục vụ mà không đòi hỏi lời đáp trả. Được sai đi là để bao dung, nối kết, hiệp nhất thay vì loại trừ và vô cảm. Vì “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không.” (Mt 10,8), đó là điều Chúa muốn. Trở nên chứng nhân của Đức kitô đối với nhân loại, đối với con người nơi vùng miền được sai đến là điều hết sức cần thiết và tối quan trọng đối với nữ tu thuộc hội dòng Phaolô Đà Nẵng theo tinh thần của thánh Phaolô.
Mặt khác, có lẽ cũng nên nhắc lại một chút ở đây, sống với Đức Kitô là sống trung thành trong ba lời khuyên phúc âm một cách rõ ràng và quyết liệt trong khi thi hành sứ vụ nơi đời sống thường ngày. Không phải không có khó khăn khi chúng ta sống ba lời khuyên Phúc âm nơi môi trường chúng ta phục vụ. Chính vì thế, chúng ta không cậy vào sức riêng của mình, nhưng khiêm tốn này xin sức mạnh từ Chúa để Ngài gìn giữ, chở che và bảo vệ. “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cor 12,10). Nếu không có Chúa chúng ta chẳng làm được gì. (Ga 15,15). Chỉ có Chúa mới là gia nghiệp của con! Làm gì thì làm, phục vụ thì phục vụ, ra đi thì ra đi, nhưng tất cả và trên hết vẫn là để Chúa chỉ đạo, hướng dẫn và đồng hành với chúng ta trong mọi sự. Do đó, chúng ta không kiêu căng và tự quyết, nhưng một lòng phó thác và cậy trông vào Chúa. Bởi Chúa là sức mạnh và là nguồn thánh thiện của đời ta. Amen.
Linh mục Paul Phạm Trọng Phương
2021
Thử bàn về một số mặt tích cực của Covid đối với Kitô hữu
Thử bàn về một số mặt tích cực của Covid đối với Kitô hữu
Bây giờ nói đến Covid-19, ai cũng rùng mình khiếp sợ. Không phải chỉ ở các nước nghèo đói, lạc hậu người ta mới sợ Covid, mà ngay cả các nước tiên tiến, giàu có, mọi người cũng rất hoang mang sợ hãi. Từ gần hai năm nay, Covid-19 đã trở thành đại dịch cho toàn nhân loại, đó là một thảm họa kinh hoàng đã đẩy toàn thế giới loài người rơi vào một cơn khủng hoảng chưa từng thấy. Xem ra bức tranh về Covid trên toàn cầu ngày càng đen tối và bi đát.
Ngày 15-7-2021 vừa qua, trên tờ VnExpress có bài viết tựa đề “Khi nào đại dịch Covid-19 chấm dứt?”, theo đó tác giả cho rằng cuộc chiến với kẻ thù vô hình Covid-19 có thể sẽ kéo dài, khi nhiều chuyên gia cảnh báo nCoV sẽ tiếp tục tồn tại bất chấp tiêm chủng.[1] Bài báo dẫn lời của tiến sĩ Vinod RMT Balasubramaniam, nhà virus học phân tử kiêm giảng viên cấp cao tại Trường Khoa học Y tế và Sức khỏe Jeffrey Cheah thuộc Đại học Monash, Malaysia nói rằng, “Với hàng triệu ca nhiễm trên toàn cầu, trong đó có nhiều ca nhiễm tăng mạnh ở những người tiêm vaccine, Covid-19 có thể sẽ là bệnh đặc hữu, cùng tồn tại với con người và tiếp tục lây lan bất chấp tiêm chủng. Theo tôi, nó sẽ trở thành một căn bệnh theo mùa như cúm.”
Bài báo trên cũng nhắc lại là, Covid-19 bắt đầu bùng phát ở thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc (TQ) vào cuối năm 2019. Tới đầu tháng 3-2021, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố Covid-19 là đại dịch và kêu gọi các quốc gia quyết liệt đối phó. Hơn một năm qua, Covid-19 đã lan tới hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, khiến hơn hơn 187 triệu ca nhiễm và hơn 4 triệu ca tử vong. Mặc dù đến nay, ở nhiều khu vực, số ca Covid-19 đã giảm mạnh so với lúc đỉnh điểm nhờ các biện pháp kiểm soát và tiêm vaccine, nhưng cuộc chiến chống lại kẻ thù vô hình của thế giới trong hơn một năm qua chưa thực sự thắng lợi. Nhiều chuyên gia y tế và chính phủ các nước tin rằng miễn dịch cộng đồng là con đường giúp thế giới thoát đại dịch.
Trong khi đó, Tổng giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus mới đây đã đưa ra nhận định rằng: “Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của làn sóng Covid-19 thứ ba”. Số người chết vì Covid-19 tăng trở lại, thế giới đang ở giai đoạn “rất nguy hiểm”. Số ca nhiễm và tử vong toàn cầu tăng trở lại do sự xuất hiện của biến chủng SARS-CoV-2 làm tiêu tan hy vọng trở lại cuộc sống bình thường của nhiều quốc gia.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ngày 14-7-2021 đã cho biết, trong tuần qua, số ca tử vong vì Covid-19 toàn cầu đã tăng trở lại sau 9 tuần giảm. Cụ thể, thế giới ghi nhận thêm hơn 55.000 ca tử vong trong tuần qua, tăng 3% so với tuần trước đó. Số ca nhiễm cũng tăng 10% lên gần 3 triệu ca, trong đó nhiều nhất ở Brazil, Ấn Độ, Indonesia và Anh.[2]
Riêng tại VN, tình hình dịch cúm Covid-19 xem ra ngày càng diễn biến phức tạp và nguy cơ bùng phát cao. Theo tin từ tờ Tuổi Trẻ Online ngày 15-7-2021, Thủ tướng sẽ ban hành chỉ thị mới về chống dịch COVID-19 tiếp theo việc Bộ Y tế vừa trình Thủ tướng ban hành chỉ thị mới về phòng, chống dịch COVID-19 khi dịch bùng phát trên diện rộng, phức tạp, với sự xuất hiện của biến chủng Delta có khả năng lây lan rộng theo chùm, qua không khí.[3]
Theo tờ trình của Bộ Y tế, đến nay cả nước đã trải qua 4 giai đoạn bùng phát dịch COVID-19, tổng số ca nhiễm bệnh ghi nhận khoảng 30.000 ca, đã có 9.878 người khỏi bệnh và 125 người chết vì dịch. Điều đáng nói, trong 3 giai đoạn trước cả nước chỉ có hơn 1.700 ca nhiễm bệnh, riêng giai đoạn 4 bùng phát từ ngày 27-4-2021 đến nay có khoảng 27.000 người dương tính với COVID-19.
Bộ Y tế đánh giá đợt dịch thứ 4 bùng phát có quy mô lớn, nhiều nguồn lây, nhiều chủng, ổ dịch, đặc biệt sự xuất hiện biến chủng Delta lây lan rất nhanh, nguy hiểm, làm tăng ca bệnh nặng. Trong giai đoạn 4 dịch đã xâm nhập vào cơ sở y tế, khu công nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ sở tôn giáo tập trung đông người và lây nhiễm trong cộng đồng ở các đô thị đông dân cư.
Nguyên nhân theo Bộ Y tế xác định do chủng virus Delta có khả năng lây lan nhanh, lây nhiễm theo chùm, qua không khí. Thời gian qua, Thủ tướng đã ban hành 3 chỉ thị chống dịch số 15, 16, 19, nhưng theo Bộ Y tế, với diễn biến phức tạp của dịch bệnh hiện nay, một số giải pháp chống dịch cần điều chỉnh, bổ sung, thay đổi cho phù hợp.
Trên đây là một vài nét về tình hình đại dịch Covid-19 hiện nay trên thế giới và tại VN. Các chuyên gia không thể dự đoán được tương lai của nhân loại sẽ như thế nào trước sự hoành hành khủng khiếp của đại dịch. Chúng ta, các Ki-tô hữu chắc chắn cũng sẽ không khỏi hoang mang trước cơn đại dịch khủng khiếp này. Mọi sinh hoạt tôn giáo bị ngưng trệ. Mọi gặp gỡ, quy tụ đều không được phép. Thánh đường im tiếng chuông và thiếu vắng mọi lễ nghi tôn giáo. Cộng đoàn mất kết nối. Mục tử và giáo dân xa cách nhau…
Tuy nhiên, với cái nhìn của đức tin, chúng ta hoàn toàn không thất vọng và rơi vào tâm trạng bi quan. Covid dù “hung dữ” đến mấy đi nữa thì nó cũng có mặt tích cực. Nó giúp ta sống tỉnh thức hơn, sống tín thác mạnh mẽ vào Chúa hơn, biết sống châm ngôn “buông bỏ từng ngày”, cố gắng thực hành đời sống đức tin cách triệt để và tạo nhiều cơ hội thực thi lòng mến Ki-tô giáo tốt đẹp.
- COVID GIÚP SỐNG TỈNH THỨC
Có thể nói, “Tỉnh thức” là đặc điểm sống của người Ki-tô hữu. Lời Chúa kêu gọi hãy luôn tỉnh thức và siêng năng cầu nguyện luôn thúc giục chúng ta sống tỉnh táo và khôn ngoan, biết nhận ra ý nghĩa các biến cố xảy ra trong đời sống thường ngày của ta. Đặc biệt trong khi xảy ra đại dịch Covid, chúng ta phải sống tỉnh thức hơn lúc nào hết bởi vì bất kỳ ở đâu, bất kỳ thời khắc nào, mỗi người trong chúng ta đều cũng có thể “chạm” đến con vi-rút corona cực kỳ nguy hiểm, từ đó sinh bệnh và nguy cơ mất mạng!
Chúng ta tỉnh thức để nhận ra rằng con người bất lực, yếu đuối, mong manh so với loài vi-rút quá nhỏ bé nhưng có sức mạnh hủy hoại kinh khủng. Khi mới xảy ra trận dịch Covid ở TP Vũ Hán, người ta đã chứng kiến cảnh tượng các nạn nhân nhiễm bệnh và chết tơi tả khắp nơi khắp chốn trong thành phố, đến nỗi một nhà báo đã mô tả cảnh tượng ở đó giống như ngày tận thế vậy.
Quả thực, như trang Vietnamnet ngày 11-4-2020 vừa qua đã có bài viết như sau:
“Dường như cái gì con người cũng làm được. Chúa tể của muôn loài mà. Nhưng, đến loài virus thì dường như loài người khốn đốn.
“Nước Mỹ hùng mạnh với tầu vũ trụ lên mặt trăng, tầu ngầm vượt đại dương, tên lửa vượt châu lục, quốc gia giàu nhất thế giới nhưng cũng bị virus Covid làm cho thất điên bát đảo. Nước Ý xinh đẹp bên bờ Địa Trung Hải thì hơn 18. 000 người chết. Phi thuyền, tầu ngầm, tên lửa hạt nhân,… dường như không địch nổi những con virus vô hình và biến đổi chủng loại khôn lường. Các nền kinh tế thị trường hùng mạnh cũng bị khủng hoảng. Giá dầu lao dốc. Hơn 10 triệu ngườ lao động ở Mỹ đệ đơn xin trợ cấp thất nghiệp. Các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đang điên đảo bởi những con Covid vô hình.
“Virus Covid 19 không từ một ai, từ công dân hạng bét đến thượng lưu quý tộc. Thái tử Charles con trai cả Nữ hoàng Elizabeth II, người kế vị ngai vàng nước Anh cũng dương tính virus corona. Phó tổng thống Iran và hàng hoạt quan chức cao cấp của đất nước tấm thảm bay cũng nhiễm Covid từ đầu tháng 3-2020. Mới nhất, Covid đã kịp làm cho ông Matt Hancock – Bộ trưởng Y tế Anh và ngài Boris Johnson – Thủ tướng Anh dương tính virus corona phải tự cách ly. Loài người bị những virus vô hình quật cho tơi bời, chẳng biết về sau có ngạo nghễ coi mình là Chúa tể của muôn loài với cái nghĩa quyền sinh quyền sát không?”[4]
Trong khi đó, LM Phêrô Nguyễn Văn Hương trong bài viết tựa “Đại dịch Covid 19, dấu chỉ thời đại” trên trang web của ĐCV thánh Phan-xi-cô Xa-viê GP Vinh cũng đã chia sẻ những suy tư sau: [5] “ ‘Một trận cuồng phong nổi lên’ (Mc 4,37). Thật dễ dàng để chúng ta nhận ra hình ảnh của cả nhân loại hiện nay trong trình thuật Tin Mừng này. Cơn cuồng phong đại dịch covid 19 nổi lên và bùng phát khắp toàn cầu: nỗi sợ hãi, lo lắng, bệnh tật, chết chóc, đói kém ập đến như muốn nhấn chìm con thuyền nhân loại. Đây là “đêm tối tâm hồn” mà mọi người đang trải qua. Tất cả chúng ta đều ở trên con thuyền ấy. Tất cả đều cảm thấy mong manh, mất phương hướng và kêu lên: “Lạy Chúa, chúng con chết mất” (Mc 4,38). (…)
“Nhân loại hôm nay đang gặp giông bão, nhưng xem ra Chúa như đang ngủ. Sao Chúa im lặng? Giờ đây, khi chúng ta đang ở giữa vùng biển động, chúng ta khẩn cầu Chúa: ‘Lạy Chúa, xin hãy thức dậy!’
“Nhưng theo tôi, đại dịch covid 19 như dấu chỉ thời đại nhắc nhở nhân loại và mỗi người chúng ta cần ‘phải thức dậy’:
“Nó nhắc nhở chúng ta nhận ra sự yếu đuối dễ tổn thương của mình, nhận ra mình không phải là những người sáng tạo, là bất tử, nhưng là các thụ tạo nghèo hèn biết bao khi đối mặt với sức mạnh của thiên nhiên; chúng ta hiện hữu là do có Đấng ban sự sống cho chúng ta. Và đây cũng là thời gian thích hợp để chúng ta hết lòng trở về với Thiên Chúa.
“Nó nhắc nhở chúng ta nắm lấy thời điểm thử thách này như một thời khắc chọn lựa và phân định: chọn lựa điều gì là đáng kể và điều gì là chóng qua, tách điều cần thiết ra khỏi điều không cần để điều chỉnh lại hành trình cuộc sống của chúng ta hướng về Chúa và hướng về tha nhân.
“Nó nhắc nhở chúng ta biết liên đới, kết nối với nhau vì một cái gì đó ảnh hưởng đến một người thì nó cũng có sự ảnh hưởng đến mọi người. Phải thay đổi từ những điều rất nhỏ bé dường như vô hại, như hắt hơi, khạc nhổ, cách lấy đồ ăn trên bàn ăn, tiếp xúc, nói nhỏ lại v.v… Đồng thời trong thời gian này, chúng ta có cơ hội tái khám phá giá trị của gia đình, tình bạn, các mối liên hệ mà chúng ta thường bỏ qua, sự liên đới, lòng quảng đại, chia sẻ, gần gũi cụ thể trong những điều nhỏ bé. Chúng ta cần tha nhân, cần xã hội.
“Nó nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta bị bệnh vì ngôi nhà chung của chúng ta đang bị bệnh. Chúng ta cần phải bảo vệ ngôi nhà chung này bằng thay đổi thói quen và thái độ sống đối với môi trường.”
- COVID GIÚP SỐNG TÍN THÁC
Hơn lúc nào hết, hiện nay dịch cúm Covid đe dọa mạng sống từng người, gây lo lắng hoang mang cho từng nhà, từng cộng đoàn. Đức tin mời gọi chúng ta hướng về Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, chính Người sẽ nâng đỡ chúng ta trong lúc khó khăn khăn này. Hãy sống tín thác vào Chúa.
“Mạnh bạo lên, can đảm lên! Đó chẳng phải là lệnh Ta đã truyền cho ngươi sao? Đừng run khiếp, đừng sợ hãi, vì Thiên Chúa, Thiên Chúa của ngươi, sẽ ở với ngươi bất cứ nơi nào ngươi đi tới.” (Gs 1, 9)
“Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 27, 14)
“Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Chúa Kitô Giêsu.” (Pl 4, 6-7)
“Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em.” (1Pr 5,7)
“Nếu như Thiên Chúa để anh em phải chịu nhiều đau khổ, thì đó là dấu Người đã có những chương trình lớn lao dành cho anh em, và chắc chắn Người muốn biến đổi anh em thành một vị thánh.” (Thánh Inhaxiô Loyola)
“Bản chất của đau khổ chẳng có giá trị gì. Nhưng ân huệ lớn nhất chúng ta có thể hưởng được là khả năng chia sẻ cuộc khổ nạn của Đức Kitô.” (Thánh nữ Têrêsa Calcutta)
- COVID GIÚP SỐNG BUÔNG BỎ
Hằng ngày, thông tin trong và ngoài nước đều cho chúng ta biết con số người nhiễm Covid và số nạn nhân tử vong vì Covid gia tăng liên tục. Những điều xảy ra đó giúp chúng ta nhận ra rằng “Đời là vô thường” và rằng chúng ta không còn lý do gì để tích trữ cho mình những thứ hư nát đời này. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày chúng ta tập buông bỏ những bám víu vật chất mau qua.
Ngày nay người ta nói nhiều đến hai chữ “Buông bỏ” như là phương thế giúp ta sống an nhiên tự tại. Buông bỏ để thoát khỏi vòng kiềm tỏa của “Tham, sân, si”, để thoát khỏi những những ràng buộc của vật chất hư vô, của cái “Tôi” nặng nề ích kỷ, của cuộc sống quá ư là đa đoan phức tạp…
Sự dứt khoát buông bỏ của chúng ta lúc này chắc chắn là một chọn lựa khôn ngoan và thích hợp nhất. Thực vậy, “Đối với chúng ta, những người còn đang sống, chúng ta nhận ra rằng thế giới vật chất này là vô thường, bản thân mình chỉ là thụ tạo yếu đuối mỏng manh. Nhờ đó chúng ta biết khiêm tốn hơn, biết từ bỏ những gì là phù du, biết sám hối và định hướng lại cuộc đời để hướng tới sự sống vĩnh cửu, sự sống dồi dào, sự sống đích thực.”[6]
“Đừng để bất cứ điều gì làm bạn xao động và sợ hãi. Mọi sự đều đang qua đi. Thiên Chúa không bao giờ thay đổi. Sự nhẫn nại chịu đựng đem lại tất cả. Ai có Thiên Chúa thì không thiếu thốn gì, một mình Thiên Chúa đã đủ.” (Thánh nữ Têrêsa Avila)
- COVID GIÚP SỐNG ĐẠO TRIỆT ĐỂ
Không phải đợi đến khi xảy ra đại dịch Covid chúng ta mới sống đạo. Sống đạo là sống đức tin và thực hành đức mến xuyên suốt đời sống của Ki-tô hữu. Tuy nhiên, trong thời điểm hiện tại khi mà đại dịch Covid-19 vẫn còn tồn tại với nguy cơ diễn biến phức tạp, để phòng chống dịch hiệu quả, chúng ta phải chấp nhận mọi sinh hoạt tôn giáo bị ngưng trệ và thay đổi. Quả thực, đây là lúc chúng ta phải sống đạo một cách triệt để.
Sống đạo triệt để nghĩa là chúng ta ra khỏi làn ranh của những thói quen giữ đạo bình thường như trước. Nhà thờ đóng cửa không thánh lễ, không nghi thức phụng vụ, không bí tích, không kinh kệ, không quy tụ cầu nguyện, không giáo lý, không sinh hoạt mục vụ đoàn thể vv. Tuy nhiên, không phải vì những cái “không” này mà ta bỏ Chúa, quên Chúa, hay lơ là đức tin. Dù hoàn cảnh như thế nào chăng nữa, chúng ta vẫn có thể tập trung vào Chúa Ki-tô, để kết hợp với Ngài, lắng nghe Ngài và thực hành những điều Ngài dạy. Nhiều người đã dành thời gian trong ngày để theo dõi thánh lễ on-line, đọc và suy niệm Lời Chúa, rước lễ thiêng liêng, lần chuỗi Mân Côi, cầu nguyện riêng và chung trong gia đình…
Sống đạo triệt để cũng có nghĩa là chúng ta nhận ra rằng chọn Chúa thì quan trọng hơn là chọn những việc của Chúa (Đức cố HY Phx. Nguyễn Văn Thuận).
Khi chúng ta chọn Chúa, thì Chúa sẽ ra tay làm chủ vận mệnh, con người và cuộc sống của ta. Chúng ta sẽ không còn phải quan tâm tới thành công, thất bại hay kết quả sẽ như thế nào nữa. Khi chọn Chúa, chúng ta sẽ được liên kết mật thiết với Chúa, như cành liên kết với cây, nhờ đó cành có sự sống và sự sống sẽ sinh nhiều hoa trái theo ý muốn của Chúa. Bởi xét cho cùng, không có Chúa, chúng ta không làm được gì. “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5).
- COVID LÀ CƠ HỘI GIÚP THỰC THI LÒNG MẾN THIẾT THỰC
Đối với Ki-tô chúng ta, dịch bệnh Covid là dịp thúc đẩy ta thực thi bác ái huynh đệ cách thiết thực. Covid đã giúp người ta đến gần nhau hơn, các quốc gia với nhau, các cộng đồng với nhau, các nhóm với nhau, các tôn giáo với nhau, các khu xóm với nhau.
ĐTC Phan-xi-cô đã có lần nhấn mạnh rằng hãy đối phó với đại dịch bằng tình yêu không giới hạn và vì công ích.[7] Ngài nhấn mạnh: Câu trả lời của Kitô giáo đối với đại dịch và những khủng hoảng kinh tế xã hội, hậu quả của đại dịch, được dựa trên tình yêu, trên hết là tình yêu của Thiên Chúa, Đấng luôn đi trước chúng ta (x. 1Ga 4,19). Người yêu thương chúng ta trước, Người luôn đi bước trước trong tình yêu và trong các giải pháp. Người yêu chúng ta cách vô điều kiện, và khi chúng ta đón nhận tình yêu này của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng có thể đáp lại theo cách tương tự.
Tại VN, người Ki-tô lúc nào cũng sẵn sàng để thể hiện tình bác ái đối với những người anh em gặp khó khăn vì dịch bệnh. Từ những nhóm nhỏ tại các giáo xứ, các hội-đoàn-nhóm đến các cộng đoàn lớn như giáo phận, dòng tu, tổ chức bác ái Caritas, tất cả đều đồng lòng chung sức, góp công góp của ra tay cứu trợ khẩn cấp những hoàn cảnh cần giúp đỡ, “một miếng khi đói bằng một gói khi no” hay “lá lành đùm lá rách”.
Được biết, ngày 2-6-2021, Đức cha Chủ tịch HĐGMVN đã gửi thư kêu gọi tinh thần liên đới và tương thân để phòng chống đại dịch. Trong thư có đoạn viết như sau:[8]
“Trước hết, hãy xem trận đại dịch này như một cơ hội để yêu thương. Theo lời Chúa dạy, Kitô hữu phải nhìn nhận tất cả nạn nhân Covid-19 là “người lân cận” (Lc 10,28-29), sẵn lòng “vui với người vui, khóc với người khóc” (Rm 12,15) dù họ là ai. Tứ hải giai huynh đệ. Tất cả mọi người đều là đồng bào, là thành viên của đại gia đình dân tộc và nhân loại. Người Công giáo không được phép loại trừ, kỳ thị, “điểm mặt” hoặc kết án bất kỳ ai đã hoặc chưa bị lây nhiễm.
“Hãy vận dụng hết trí sáng tạo để hỗ trợ các trung tâm nghiên cứu y học, cộng tác với các bộ phận chức năng, thông cảm và tiếp sức cho các y bác sỹ và bệnh viện, tạo điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi cho mọi người và khu vực cách ly, giúp đỡ gia đình bệnh nhân đang điều trị, tử vong và những người đang lâm cơn túng quẫn kinh tế.
“Một miếng khi đói bằng một gói khi no; Lá lành đùm lá rách; Nhiễu điều phủ lấy giá gương! Hơn bao giờ hết, bao nhiêu người khó khăn đang trông chờ anh chị em thực thi giáo huấn của Chúa: “Ai đón tiếp anh em mình là đón tiếp chính Ta…Ai cho một trong những kẻ bé mọn này uống, dù chỉ một bát nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Ta, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10, 40-42).”
Đặc biệt, ngày 9-7-2021 vừa qua, ĐTGM Giuse Nguyễn Chí Linh, chủ tịch HĐGMVN cũng có thư gửi đồng bào Công Giáo VN, với nội dung khẩn thiết kêu gọi các tín hữu quan tâm hỗ trợ bà con TP Saigon đang gặp khó khăn bởi đại dịch Covid đợt thứ 4 này. Trong lá thư kêu gọi, có đoạn như sau:
“Hơn bao giờ hết, tôi kêu gọi đồng bào trong nước hãy hướng nhìn về thành phố đáng yêu này, nơi đã từng là trung tâm tình thương trước khi trở thành ổ dịch. Tôi kêu gọi bà con hải ngoại hãy nhớ đến khung trời kỷ niệm đã một thời vang vọng câu hát “Sài Gòn đẹp lắm Sài Gòn ơi”. Tôi kêu gọi tín hữu Công giáo, mọi thành phần Dân Chúa, các giáo phận, dòng tu, giáo xứ, tổ chức từ thiện, Bác ái – Caritas, đoàn thể, ngành giới, nhóm thân hữu hãy coi đây là cơ hội thực thi bác ái theo Lời Chúa dạy. Tôi kêu gọi các tổ chức truyền thông và cộng đồng mạng hãy mau mắn chuyển tải thông tin này đến mọi địa chỉ quen biết. Hãy khẩn cấp ra tay. Hãy làm tất cả những gì có thể làm được để ứng cứu đồng bào ruột thịt của chúng ta đang vật lộn với thực tế đầy nông nỗi. Chúng ta hãy im lặng để nghe lại lời vàng ngọc này của Chúa Giêsu: “Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không” (Mt 10,8b)
“Một cách cụ thể, mỗi giáo phận hoặc mỗi cụm cộng đoàn, đặc biệt là các cấp Caritas, hãy khẩn trương lập một đường dây nóng, một địa chỉ để tập trung phẩm vật và tiền cứu trợ trong khu vực. Các nhu yếu phẩm Saigon đang cần là rau quả, nông phẩm, lương khô, thiết bị phòng chống dịch (khẩu trang, nước kháng khuẩn, máy thở, bình ôxy, bộ xét nghiệm nhanh). Ngoài lương thực, đồng bào thành phố cũng cần hổ trợ tài chánh cho người nghèo, vô gia cư, vỉa hè, khám chữa bệnh v.v…”[9]
Chúng ta biết rằng hiện nay, sau lời kêu gọi của Đức cha Chủ tịch HĐGMVN, các giáo phận đã rất nhanh chóng đáp ứng ngay và hàng ngày các hàng cứu trợ đã và đang ùn ùn chuyển đến Saigon để kịp tới tay những bà con cần giúp đỡ. Quả thực Covid đã trở thành cơ hội quý báu giúp chúng ta thực thi bác ái Ki-tô giáo một cách thiết thực cụ thể nhất ./.
Aug. Trần Cao Khải