2021
Cầu nguyện Taizé: Một hình thức chiêm niệm bằng vẻ đẹp
Cầu nguyện Taizé: Một hình thức chiêm niệm bằng vẻ đẹp
Cầu nguyện Taizé không còn là một điều quá lạ lẫm với người trẻ Công Giáo Việt Nam. Được du nhập vào Việt Nam đã hơn hai thập kỉ do Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn khởi xướng ban đầu tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn (năm 2000), rồi sau đó lan ra các nhóm như Nhóm Cầu Nguyện Mạctynho (Sài Gòn) và các nơi khác, các giờ cầu nguyện Taizé đã thu hút nhiều bạn trẻ tham dự và đem lại nhiều hiệu quả thiêng liêng trong đời sống của người trẻ trong thế giới đương đại. Nhìn vào các giờ cầu nguyện Taizé, chúng ta có thể thấy nhiều vẻ đẹp. Xin đơn cử ba vẻ đẹp chính của những giờ cầu nguyện này.
- Vẻ đẹp của việc cầu nguyện:
Người trẻ đến với giờ cầu nguyện để làm gì? Dĩ nhiên là để cầu nguyện. Quang cảnh của những giờ cầu nguyện theo Lời Chúa thật là đẹp. Chúng ta có thể thấy những người tham dự, nhất là những người trẻ yêu mến đời sống cầu nguyện, lặng lẽ ngồi trước ánh sáng lung linh của những ngọn nến, chiêm ngắm những bức Icône cổ kính, cùng với những bình hoa lá, những tiểu cảnh được trang trí rất đơn sơ nhưng khéo léo. Chắc hẳn những người tham dự đều cảm nhận được sự bình an trong tâm hồn, vẻ đẹp của việc cầu nguyện và nếm cảm được những giây phút ngọt ngào trong tương quan với Chúa, khi gặp được Ngài trong những giờ phút tĩnh lặng của trái tim, khi tạm xa cách những xô bồ bon chen của nhịp sống cuốn quay hằng ngày. Thêm nữa, những giai điệu, tiết tấu và hòa thanh du dương của âm nhạc, qua các nhạc cụ và ca đoàn có thể giúp người tham dự cảm nghiệm sự phong phú của đời cầu nguyện: những bài hát lúc thì êm ái du dương, lúc thì tưng bừng ca ngợi, lúc thì tha thiết khẩn nài, lúc thì xác tín tin tưởng… Việc cầu nguyện thật đẹp đẽ và đơn sơ, tinh khiết và có sức gợi hứng cho đời sống thường ngày. Nhiều bạn trẻ cứ ngỡ trước giờ mình đã biết cầu nguyện khi đọc kinh, dự lễ… lại cảm thấy họ chưa thực sự biết cách cầu nguyện cho tới khi họ tiếp xúc với việc cầu nguyện theo phong cách gần gũi và đơn sơ này. Những giờ cầu nguyện này là những khoảng lặng vô cùng cần thiết để giúp người cầu nguyện dừng lại và nghỉ ngơi, để có thêm sức mạnh để tiếp tục hoạt động, học hành, làm việc, sống Tin Mừng và loan báo Tin Mừng ấy cho thế giới hôm nay. Những người trẻ cầu nguyện, dù là ở Taizé, Pháp hay dù ở bất kì nơi nào trên thế giới, họ đều ý thức mình sống tinh thần hiệp thông với nhau trong Giáo Hội, vốn là một điều tối quan trọng trong bầu khí thế giới nhiều chia rẽ, nhiễu nhương và đau khổ hiện nay. Giữa một thế giới xao động và ồn ào, cầu nguyện Taizé giúp cho người tham dự thấy vẻ đẹp của thinh lặng và vẻ đẹp của một tâm hồn cầu nguyện, một trái tim khát khao mở ra với Thánh Ý Thiên Chúa trong cuộc sống mình.
- Vẻ đẹp của việc phụng thờ Thiên Chúa:
Cầu nguyện Taizé toát lên vẻ đẹp cao cả của việc phụng thờ Thiên Chúa. Việc cầu nguyện không chỉ là chuyện tương quan mật thiết và cá nhân với Thiên Chúa dù đúng theo bản chất là như thế. Khi cầu nguyện cùng với nhau, chúng ta còn đang phụng thờ Thiên Chúa cho xứng với vinh quang cao cả của Người. Người ta thường hay nghĩ người trẻ là những người năng động (đến mức tăng động chăng?), nhiệt huyết, sôi nổi, và thường không có khả năng suy tư, lắng đọng và tĩnh tâm. Nhưng hãy nhìn vào một giờ cầu nguyện Taizé thử xem. Người ta thấy biết bao bạn trẻ ngồi đó, thinh lặng và chiêm niệm. Những bạn trẻ này đang cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa của họ. Giờ cầu nguyện Taizé thật đẹp, bởi vì cho người ta thấy được vẻ cao cả của những tâm hồn biết quỳ gối, như có danh nhân xưa đã từng nói: “Ai có can đảm đủ để quỳ gối trước Thiên Chúa thì có thể mạnh mẽ không bao giờ quỳ gối trước thế lực nào của phàm trần.” Cấu trúc của một giờ cầu nguyện Taizé thực sự là một buổi phụng vụ Lời Chúa, trong đó người ta kêu xin sự hiện diện của Thánh Linh Thiên Chúa, ca ngợi Thiên Chúa giữa toàn thể công hội dân Ngài, rồi lắng nghe tâm tình của Thánh Vịnh, cao điểm là lắng nghe Lời của Chúa, phút thinh lặng thánh, một vài lời khẩn cầu cho những nhu cầu hiện tại, và kinh Lạy Cha được xướng lên trong niềm hiệp thông liên kết của mọi người, rồi có thể duy trì thêm giờ cầu nguyện bằng vài bài hát. Giữa một thế giới nhiều bận tâm tới những thú vui hào nhoáng bên ngoài, với những hấp dẫn cuồng quay của nó, cầu nguyện Taizé là một gợi ý để người tham dự thấy được vẻ đẹp của việc phụng thờ Thiên Chúa, Đấng là cội nguồn hạnh phúc, suối mạch của sự sống của cả nhân loại này mà rất thường khi đã loại trừ, lãng quên và hững hờ.
- Vẻ đẹp của đức tin:
Cầu nguyện Taizé còn cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của đức tin. Những bài thánh ca Taizé, đa phần được rút ra từ chính Lời Chúa hay các nguồn mạch của phụng vụ và đời sống thiêng liêng với các tư tưởng của các vị thánh và các nhà linh đạo lớn, cho thấy vẻ đẹp khôn tả của đức tin diễn tả bằng sự rung cảm của trái tim, trào ra cử chỉ của thân xác, bằng ngôn ngữ của âm nhạc. Những bức Icône vốn dĩ nhiều ý nghĩa sâu xa được chiêm ngắm và khám phá. Những vẻ đẹp rất truyền thống như tiếng chuông Nhà Thờ vốn đã im tiếng ở nhiều nơi ở phương Tây, vẫn vọng vang trước mỗi giờ cầu nguyện ở Taizé, gây xúc cảm đặc biệt cho tâm hồn. Tôi khá xúc động bởi lắng nghe tiếng chuông của Taizé trước mỗi giờ cầu nguyện, nó nhắc chúng ta tới một truyền thống Công Giáo xa xưa và thúc giục chúng ta đến với Chúa, quy tụ bên nhau để được Người huấn dụ và nuôi dưỡng. Và một điều rất đặc biệt, Taizé là một cộng đoàn đan tu mang tính đại kết. Các thầy (frère) của cộng đoàn này thực sự là những đan sĩ, với những kỉ luật đời tu chặt chẽ nhưng vẫn đủ cởi mở để đón tiếp người trẻ khắp nơi trên thế giới. Và hơn nữa, ở đây, chúng ta thấy một cộng đoàn đại kết: bạn sẽ thấy người Công Giáo La Mã, người Chính Thống Giáo, người Tin Lành và người Anh Giáo có thể nói chuyện với nhau, cầu nguyện cùng nhau. Mỗi bên, dù vẫn tuân giữ những kỉ luật riêng về việc phụng tự (thánh lễ) kĩ lưỡng, nhưng những gì có thể cùng nhau thực hiện, họ thực hiện cùng nhau, để thực hiện mong ước của Đức Giêsu xưa: “Xin cho họ nên một” (Ga 17,11). Họ không tìm những điểm khác nhau, nhưng tìm những điểm chung để đối thoại và chia sẻ. Mỗi năm, có một cuộc hành hương đức tin được Cộng Đoàn tổ chức để giúp người trẻ tìm lại đức tin. Rất nhiều bạn trẻ trong những cuộc hành hương tìm về Taizé đã tìm được nguồn mạch đức tin của đời sống họ vốn đã khô cạn từ lâu, hay không được cha mẹ và gia đình truyền lại, hay có những người khác làm mới lại tương quan giữa họ và Thiên Chúa trong những cuộc bừng tỉnh nội tâm mới mà họ tìm thấy trong việc cầu nguyện Taizé. Đó không phải là những vẻ đẹp quý giá của đức tin sao? Giữa một thế giới mà đức tin vào Thiên Chúa và Đức Giêsu dễ bị nhạt nhòa, phai phôi, thì việc cầu nguyện Taizé nhắc cho chúng ta về vẻ đẹp của đức tin Kitô giáo.
Trong một cuộc sống càng ngày càng có nhiều căng thẳng, nhất là trong những tháng ngày gần đây, nhiều người trẻ hay đổ xô đi tìm những lợi ích của việc thiền định. Đã hẳn, việc thiền định có những lợi ích nhất định và những người thực tập thiền cách đắc đạo như những thiền sư là những vị có đạo đức thâm sâu, nhưng là người Công Giáo, chúng ta cũng có những phương pháp để tĩnh tâm rất đẹp đẽ, cao quý và hữu ích, đó là việc cầu nguyện và chiêm niệm. Sao chúng ta lại không tận dụng? Phải chăng vì chúng ta chưa thấy được vẻ đẹp của việc cầu nguyện và chiêm niệm Kitô giáo? Hay chúng ta chưa biết cách cầu nguyện hay đã cầu nguyện sai cách khi cứ chỉ mãi đọc kinh mà thôi, không biết cầu nguyện thật sự chẳng hạn? Những lợi ích của thiền định còn bị lợi dụng để thổi phồng lên một cách vô tội vạ nhiều khi chỉ để kinh doanh, để kiếm lời, hay để quên đi những thực tế nghiệt ngã trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Cầu nguyện Kitô giáo thì vừa giống, vừa khác như thế. Giống, là việc cầu nguyện có thể cho chúng ta sự bình tâm và tĩnh lặng, giải thoát chúng ta khỏi nô lệ cho những thực tại thế gian để tự do sống trong thế giới vĩnh hằng của Chúa. Nhưng khác, là cầu nguyện Kitô giáo không phải là một liều thuốc mê để chạy trốn thực tại. Kitô giáo vẫn đối diện với tất cả mọi thực tế của đời sống, dẫu nó có khắc nghiệt, đắng cay, vất vả nhọc nhằn cách mấy. Nhưng nhờ sức mạnh của Thiên Chúa, chúng ta vượt qua nhờ sức mạnh có được khi cầu nguyện. Cầu nguyện Taizé nói riêng và cầu nguyện Kitô giáo nói chung cho chúng ta thấy những vẻ đẹp, để từ sức quyến rũ của những vẻ đẹp của việc cầu nguyện, của việc phụng thờ Thiên Chúa và đức tin Kitô giáo, chúng ta có thể đối diện mọi thứ trong đời với não trạng, ánh mắt, đôi tai, miệng lưỡi đã được đổi mới trong giờ cầu nguyện. Có lẽ vì thế mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trích lại lời của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII khi ngài nói về cộng đoàn Taizé: Đó là một khoảnh khắc mùa xuân nho nhỏ! Đó là một thời xuân nho nhỏ nhưng có sức hồi sinh nhiều tâm hồn cho Giáo Hội. Nó có tác động âm ỉ, nhưng lớn lao trong Giáo Hội bất cứ nơi nào nó hiện diện. Cùng với tất cả các hình thức cầu nguyện truyền thống đẹp đẽ khác như Phụng vụ Thánh Lễ, kinh Mân Côi, Chặng Đàng Thánh Giá, Lectio Divina…, cầu nguyện Taizé đóng góp vào kho tàng phong phú của Giáo Hội. Đó là một hình thức chiêm niệm bằng vẻ đẹp.
Con Chiên Nhỏ
2021
Có nên đưa người già vào nhà dưỡng lão?
Có nên đưa người già vào nhà dưỡng lão?
Con thấy Phương Tây con cái gửi cha mẹ già vào nhà dưỡng lão là chuyện bình thường. Tuy nhiên đạo hiếu Á Đông dường như không cho phép. Không biết quan điểm của Giáo Hội Công giáo như thế nào về điều này?
Chia sẻ:
Câu hỏi của bạn thực sự là mối bận tâm của những ai khi có cha mẹ, ông bà lớn tuổi. Nhiều người cũng tranh cãi có nên gửi họ vào nhà dưỡng lão hay không. Hẳn nhiên mỗi Châu lục nhìn về điều này có chút khác biệt. Tuy vậy văn hóa dân tộc nào cũng xem trọng chữ hiếu. Có điều mỗi nơi diễn tả chữ hiếu ấy một cách khác nhau. Chẳng hạn, ở Châu Âu hoặc Châu Mỹ, việc gửi cha mẹ hay ông bà lớn tuổi vào nhà dưỡng lão là chuyện bình thường[1]. Đó là nơi người già hạnh phúc sống quảng đời còn lại. Mỗi cuối tuần con cháu đến thăm, hằng ngày đều được nhân viên chăm sóc ân cần. Nói chung cả người già và xã hội đều chấp nhận nhà dưỡng lão.
Ở Châu Á, nhất là nước Việt mình, việc con cháu gửi ông bà, cha mẹ già yếu vào viện dưỡng lão lại là vấn đề. Chính trong nội bộ gia đình, con cháu không biết có nên làm như vậy hay không? Nếu để cha mẹ già ở nhà, ai là người sẽ chăm sóc. Thêm vào đó, người già thường có mặc cảm rằng mình bị hất hủi khi bị đưa vào viện dưỡng lão. Chưa kể đến việc người ngoài nhìn vào lại cũng đàm tiếu đủ điều. Nói chung, chừng ấy lý do cũng đủ để ta thấy dân Việt chưa sẵn sàng chấp nhận hình thức này.
Trong khi trò chuyện với các bạn trẻ, Giáo hội cũng lắng nghe được nỗi băn khoăn này. Do đó, dưới đây là vài chỉ dẫn để con cháu có thể đưa ra quyết định tốt cho gia đình mình.
Hãy liên lạc với người già
Ai cũng một thời trẻ trung, rồi đến tuổi xế chiều – đó là quy luật của phận người. Dù ở tuổi nào, người ấy đều xứng đáng nhận được mọi quyền lợi của mình. Cụ thể, người già không phải là thành phần bị loại bỏ, vì không còn sức lao động! Đó là quan niệm vô đạo đức, dù ở bất cứ đâu. Thay vào đó, Giáo hội mời gọi con cái hãy liên lạc với ông bà cha mẹ mình. Lý do là vì người trẻ có khi ít chú ý đến ký ước của quá khứ. Họ chỉ muốn chạy nhanh về phía trước với biết bao dự án và công việc. Trong mối bộn bề đó, người trẻ có khi không đủ kiên nhẫn ngồi lại với ông bà cha mẹ để chuyện trò.
Trong khi đó, Lời Chúa cũng như Giáo hội nhắc mỗi người rằng người trẻ không nên mất liên lạc với những bậc lão thành, để thu thập kinh nghiệm của họ (Hc 6,34). Hãy nhìn người già với lòng tôn trọng: “Hãy đứng dậy trước những người có tóc bạc” (Lv 19,32). Thánh Kinh yêu cầu chúng ta: “Hãy lắng nghe cha con, đấng sinh thành ra con, đừng khinh dể mẹ con khi người già yếu.” (Cn 2,22). Họ thực sự là kho tàng, là sợi dây nối kết các thế hệ trong gia đình. Khi ông bà còn sống, con cháu càng có nhiều cơ hội để trở về, nhất là những dịp Xuân về Tết đến. Đó thực sự là nét đẹp của văn hóa Việt, khi trong nhà có các thế hệ cùng nhau chung sống.
Thêm nữa, những chỉ dẫn liên quan đến điều răn thứ Tư[2] là: “Tình yêu, lòng biết ơn và tôn kính cha mẹ phải điều chỉnh các quan hệ của ta với những người có trách nhiệm đối với ta. Ta buộc phải tôn trọng những người mà Thiên Chúa đã trao cho họ quyền để làm ích cho ta: cha mẹ, ông bà, những người già trong gia đình.”[3]
Cùng nhau dựng xây gia đình, xã hội và Giáo hội
Giáo hội chỉ ra vai trò quan trọng của người già: “Họ dệt nên những ký ức, những hình ảnh của rất nhiều điều mà họ đã sống, được đánh dấu bằng kinh nghiệm của những tháng năm dài.” Do đó, họ thực sự là chỗ dựa vững chắc cho thế hệ con cháu vững bước vào đời. Người nào phủ nhận quá khứ, thành công và hạnh phúc cũng sẽ lìa xa họ. Do đó, thế hệ con cháu hãy bén rễ trong những giấc mơ của những người già. Từ đó, người trẻ có thể nhìn thấy tương lai, có thể có những cái nhìn mở rộng chân trời và vạch ra cho người trẻ những con đường mới.[4]
Bạn nghĩ sao khi nhiều người cho rằng: “Người già hay lẩm cẩm, nói trước quên sau”? Quan niệm ấy thật hời hợt, bởi họ đâu biết rằng người già cũng có những nét đẹp giúp gia đình và xã hội trở nên xinh đẹp hơn. Đẹp bởi nơi họ có những ký ức, vốn sống và đức tin. Người già có thể nhắc nhở người trẻ về một cuộc sống không có tình yêu là một cuộc sống khô cằn. Với những ai sợ hãi, người già có thể nói rằng sự lo lắng về tương lai có thể vượt qua được. Đối với những người trẻ quá bận tâm đến chính mình, người già dạy rằng một người cảm thấy vui hơn khi cho đi thay vì nhận lại, và tình yêu đó không chỉ được bày tỏ bằng lời nói, mà còn bằng việc làm[5]. Nói chung người già có nhiều bài học quý giá để trao cho người trẻ.
Nếu cùng đi với nhau, người già và người trẻ sẽ bén rễ sâu trong hiện tại, và từ đó, thăm lại quá khứ cùng nhìn đến tương lai. Thử hỏi gia đình không có người già, làm sao người trẻ tìm được nguồn cội của chính mình? Do đó trong mỗi tương quan không chỉ huyết thống, mà còn là hỗ tương, “chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau, sưởi ấm tâm hồn nhau, gây hứng khởi cho tâm trí nhau bằng ánh sáng Tin Mừng và ban cho đôi tay chúng ta sức mạnh mới.”[6]
Bạn nghĩ sao khi Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh rằng: “Một dân tộc có sự phong phú của người già và trẻ em là một dấu hiệu cho thấy một dân tộc biết quan tâm, chăm sóc và coi họ như một báu vật, một kho tàng. Đó chính là dấu chỉ cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa, hứa hẹn một tương lai xán lạn.”[7] Ngài nói thế vì dường như thời nay “văn hóa vứt bỏ”, loại trừ người già đang đáng báo động. Khi đó, gia đình, xã hội và Giáo hội rơi vào bi thảm, vì đánh mất những truyền thống được các thế hệ trước truyền lại.
Người già – nhà dưỡng lão – người trẻ
Là người sống ở Châu Âu, tôi biết không phải gia đình nào cũng thích gửi ông bà hoặc cha mẹ họ vào nhà dưỡng lão. Phần lớn người già nơi đây cũng không thích vào nhà hưu hoặc dưỡng lão. Tôi biết nhiều gia đình hạnh phúc với hai hoặc ba thế hệ cùng sống với nhau. Họ vẫn giữ liên lạc và quan tâm lẫn nhau. Vì hoàn cảnh nào đó phải gửi người già vào nhà dưỡng lão, là con cháu hiếu thảo, họ cũng thường xuyên lui tới chuyện trò. Vấn đề là làm sao đừng để ông bà, cha mẹ rơi vào cảnh cô đơn, hoặc bị hắt hủi.
Cụ thể, để trả lời câu hỏi của bạn, các gia đình nếu có thể, hãy tự chăm sóc ông bà cha mẹ của mình. Có khi về phương diện y tế không bằng viện dưỡng lão, nhưng quan trọng hơn, bản chất thói quen của người phương Đông là ông bà cha mẹ thích được gần con cháu. Trong trường hợp này, con cháu cũng nhận được nhiều điều từ phía người già. Đó là tình cảm gia đình, những bài học người già truyền lại cho con cháu. Kể cả kho tàng đức tin người già cũng có thể truyền lại cho con cháu một cách sống động. Do đó, rõ ràng gần gũi với người già là cơ hội để thế hệ trẻ vừa tròn chữ hiếu, vừa giữ lòng đạo và tạo nên hạnh phúc gia đình.
Dĩ nhiên mỗi nhà mỗi cảnh, nên tùy trường hợp mà mỗi gia đình đưa ra quyết định tốt nhất cho mình và ông bà cha mẹ. Nguyên tắc chung là làm sao thể hiện được tình yêu, hiếu thảo và hy sinh.
Sau cùng, Giáo hội hẳn nhiên không cấm con cháu đưa cha mẹ ông bà vào nhà dưỡng lão. Giả như vì hoàn cảnh nào đó phải đưa người thân của mình vào viện dưỡng lão, bạn nghĩ sao khi có lời ra tiếng vào: “Đường đường là người Công giáo, Thiên Chúa dạy hiếu thảo, vậy mà nỡ lòng nào đẩy ông bà cha mẹ mình vào nhà dưỡng lão!” Lời đàm tiếu ấy cũng khiến phận con cháu chạnh lòng. Ước gì mỗi gia đình luôn để Thiên Chúa đồng hành; và nhờ đó, chúng ta cư xử với nhau với rất nhiều tình người và tình yêu.
Chào bạn!
Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Tái bút: Khi trả lời câu hỏi này, là những người trẻ, hy vọng chúng ta có nhiều sáng kiến để chăm sóc ông bà, cha mẹ mình trong những ngày tháng đại dịch Covid-19 này.
(dongten.net 01.08.2021)
[1] Một trong những lý chính là dân số già đi sẽ gia tăng nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc cho người già. Con cháu ít nên không thể chăm lo tốt cho người già.
[2] Điều răn thứ tư: thảo kính cha mẹ. “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi.” (Xh 20,12). “Người hằng vâng phục các ngài.” (Lc 2,51). “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo.” (Ep 6,1)
[3] Youcat 367
[4] Tông Huấn Đức Kitô Sống 193
[5] Tông Huấn Đức Kitô Sống 197
[6] Tông Huấn Đức Kitô Sống 199
[7] Đọc thêm: Chăm sóc người già và trẻ em là sống văn hoá hy vọng (Vatican tiếng Việt)
2021
Một đêm không thể ngủ
Hôm nay, tôi trực ca đêm và cảm thấy thấm thía câu nói của tiền nhân: “Thức đêm mới biết đêm dài”.
Trước giờ trực đêm, thấy tôi thao thức, trở mình hoài nên cô điều dưỡng bảo: “Tranh thủ chợp mắt tí cho đỡ mệt”. Vâng, mắt tôi vẫn nhắm nhưng không sao ngủ được, phần vì sắp đến ca trực, phần vì thương các bệnh nhân. Vừa nằm xuống thì cảnh tượng các bệnh nhân thở thoi thóp với bao nhiêu dây nhợ xung quanh lại hiện ra trước mắt. Hơi thở là gì mà khiến cho biết bao người phải khổ sở vì nó? Tiền bạc, địa vị, danh vọng…phải chăng có thể mua được sự sống?
Suy nghĩ đến đây, tôi cảm thấy mình thật hạnh phúc vì được dùng “máy thở tự nhiên” mà Chúa ban tặng; hạnh phúc vì được chứng kiến những hình ảnh cảm động của các bác sĩ thức suốt đêm lo cho bệnh nhân; hạnh phúc vì mình được góp một phần nhỏ bé vào việc phục vụ các bệnh nhân covid. Nơi đây thật sự là gia đình, không phải vì có ba có mẹ, có người thân yêu, nhưng vì nó chứa đựng tình yêu thương nhân loại đong đầy. Đó là nơi các bác sĩ tận tâm vì bệnh nhân, nơi các nhà hảo tâm đổ tràn tình thương bằng cách lo những bữa cơm cho các tình nguyện viên. Đây cũng là nơi các bác tài vui vẻ đưa đón tình nguyện viên đi làm, nơi các bác bảo vệ ngày đêm chờ các đoàn xe đi về, nơi không còn sự phân biệt tôn giáo nhưng tất cả vì bệnh nhân thân yêu, nơi biết bao lời cầu nguyện và lời thăm hỏi từ hậu phương gởi đến để khích lệ tinh thần chúng tôi. Tôi đã lặng người và cảm thấy xót xa khi nhìn thấy túi đồ của bệnh nhân vì bên trong chỉ vỏn vẹn mấy hộp sữa và mấy cái mền có lẽ do quá vội nên chưa kịp xếp gọn gàng. Tôi đã bàng hoàng khi vừa bước vào ca trực thì một bệnh nhân đã ra đi…
Làm sao có thể ngủ khi xung quanh các bệnh nhân còn sống cũng như đã ra đi không có sự chăm sóc hay tiếng khóc than của người thân mà chỉ có tiếng máy “pin…pin..pin”. Tài sản duy nhất của họ chỉ có một chiếc điện thoại bỏ trong túi nilon, không người thân, không địa chỉ. Có những bệnh nhân ra đi mà tìm một lúc mới thấy địa chỉ và số điện thoại, nhưng bác sĩ chỉ kịp báo cho người nhà một câu ngắn gọn: “Bệnh nhân T.. đã ra đi rồi nha”. Khi các bệnh nhân ra đi, họ chỉ được đặt vào một cái túi đựng thi hài rồi chuyển ra xe. Tôi tưởng tượng cảnh người nhà đau khổ thế nào khi đưa bệnh nhân đi là thân hình nguyên vẹn nhưng khi nhận về chỉ là hũ tro. Nghĩ tới đó tôi không dám tưởng tượng tiếp, nước mắt tôi chảy dài trên má mà tôi cứ ngỡ đó là mồ hôi.
Trở về với công việc của mình, tôi nhớ: Mỗi khi tiễn đưa bệnh nhân xong thì ai vào việc nấy. Tôi lau người cho từng bệnh nhân. Khi lau người cho họ, tôi cảm nhận được nhịp thở của họ thật yếu, có người hoàn toàn bất động. Những người này khi còn khỏe đều tự làm mọi thứ, tự tắm rửa, tự ăn uống. Bây giờ, họ phải phó thác số phận cho các bác sĩ và điều dưỡng ở đây chăm sóc. Trong phòng tôi làm có hai người còn tỉnh táo. Một bác nhắn: Nếu nhắn về được cho gia đình, xin báo cho gia đình bác biết là bác vẫn bình an. Tôi thấy thương bác quá! Bản thân bị bệnh nặng mà còn nghĩ cho người khác. Còn một bác khác là cựu chiến binh, bác nói: “Là cựu chiến binh, bao nhiêu khổ cực bác cũng chịu được nhưng nay lại không thể chịu nổi một con virus bé tí. Nó hành hạ bác đau lắm, nóng lắm, trong phổi và cổ họng như lửa đốt”. Hèn chi tôi thấy bác cứ gồng lên từng cơn mỗi khi nhiệt độ tăng. Tôi đã tưởng mình làm bác đau nên hỏi: “Con làm bác đau hả?” Bác trả lời: “Không đau…con làm nhẹ nhàng mà…cảm ơn con nhiều lắm”.
Tôi cũng nhìn thấy hình ảnh của các anh chị em thiện nguyện khác đang lau người bệnh nhân. Hình ảnh ấy thật đẹp, giống như các chị em của Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta đang chăm sóc bệnh nhân vậy. Tôi tự hỏi, nếu những người đang nằm đây là người thân hay bản thân mình thì sẽ ra sao nhỉ??? Kì lạ, thay vì cảm giác lo lắng tôi lại cảm thấy thật bình an. Bình an vì tin rằng có Chúa luôn đồng hành. Bình an bởi nơi đây có những người chị em mới, tuy không cùng dòng tu, không cùng tôn giáo nhưng chung một chí hướng. Bình an vì tôi tin ở nhà – “hậu phương vững chắc” – vẫn không ngừng cầu nguyện cho tôi.
Đêm nay, một đêm tôi không ngủ với bao suy nghĩ: Nghĩ về bệnh nhân và nghĩ về bản thân mình, nghĩ về phận người và nghĩ về cuộc đời. Hơi thở là chi mà biết bao người phải nỗ lực để giành giật lấy? Thế mới thấy quý “cái máy thở tự nhiên” mà Chúa ban cho và biết trân quý những giây phút được đoàn tụ bên người thân, bên gia đình. Nơi đây, tôi muốn gởi tới mọi người lời nhắn nhủ đơn sơ: “Hãy tranh thủ thời gian ở nhà để cùng gia đình nấu những bữa cơm thật ấm cúng và chia sẻ với nhau những giây phút vui tươi, hạnh phúc nhiều hơn. Và cũng đừng quên dành thêm thời gian chăm sóc sức khỏe tinh thần nữa nhé!”
Thủ Đức, ngày 25.7
Nữ tu Têrêsa Nguyễn Thị Vui,
Dòng Nữ Tỳ Chúa Giêsu Linh Mục
2021
Phác họa vài nét về chân dung vị mục tử thời hiện đại
Để nói về hình ảnh đặc trưng của người mục tử ngày nay, người ta thường nhắc đến con người và nếp sống của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, đương kim Giáo hoàng của Hội thánh Công giáo toàn cầu. Quả thực từ khi còn là Tổng giám mục ở Buenos Aires đến khi lên ngôi giáo hoàng, ngài luôn tỏ ra là một mục từ sống thánh thiện, đơn sơ, bình dân, khó nghèo và giản dị. Đây quả là mẫu gương mục tử thích hợp trong thời đại hiện nay.
Trong bài viết có tựa đề “Đức Thánh Cha Phanxicô, khuôn mặt người linh mục hôm nay”[1] , tác giả đã mở đầu như sau:
“Trong xã hội Việt Nam hôm nay, càng ngày giáo dân càng phản ảnh về những tiêu cực của đời sống linh mục, nhất là lối sống hưởng thụ, quyền hành, ngặt nghèo, xa cách giáo dân…Xin chia sẻ một số nét tiêu biểu trong tính cách rất dễ thương, và là khuôn mặt người linh mục rất dễ mến của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đó là tính cách rất hấp dẫn của con người linh mục, vì nó phác họa lại dung mạo của Đức Kitô, đem lại một sức năng động mới cho các linh mục hôm nay.”
Tiếp theo, nội dung bài viết nêu trên đã đề cập đến một vài lối sống tiêu biểu cụ thể của ĐTC Phan-xi-cô, có thể tóm tắt như sau:
– Sống khó nghèo và sống cho người nghèo: Sau khi được bầu, ĐTC đã chọn danh hiệu là thánh Phanxicô Assisi, và ngài giải thích: “Vì tôi muốn một Giáo hội nghèo cho người nghèo”. Trong một buổi lễ tại nhà nguyện thánh Matta, ĐTC đã công kích việc tôn thờ tiền bạc và tỏ ra rất phiền muộn. Ngài nói rằng, dính bén tiền bạc thì sẽ xa cách Thiên Chúa. “Tiền bạc làm cho tinh thần trở thành bệnh tật, làm đức tin trở thành tàn tật”. Ngài còn nói thêm rằng, tình yêu tiền bạc khiến các linh mục và giám mục phạm tội. Và nếu lòng tham nổi lên, thì “tinh thần hư hỏng, có nguy cơ coi tôn giáo như một nguồn thu lợi”.
– Mục tử nhân lành và chứng nhân lòng thương xót: ĐTC Phan-xi-cô đã từng khẳng định, người chăn chiên phải có “mùi chiên”, thì đoàn chiên mới nhận ra. Ngay từ những tháng đầu tiên, ngài đã diễn tả sứ vụ của mình: “Tôi thấy rõ rằng điều mà Giáo hội cần nhất lúc này là khả năng chữa lành những vết thương và sưởi ấm tâm hồn tín hữu, sự gần gũi, sự thân thiện. Giáo hội giống như một bệnh viện dã chiến sau một cuộc chiến… Chúng ta phải chữa những vết thương đã, sau đó mới trao đổi về những gì còn lại…” ĐTC cũng nhấn mạnh đến lòng Chúa thương xót, không ai được để cho mình thất vọng. Phải biết đón nhận lòng thương xót và trở nên người biết xót thương. Trong một bài giảng, ngài nói: “Điều con người ngày nay cần nhất là những chứng từ của chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, để sưởi ấm con tim, đánh thức niềm hy vọng, và lôi kéo người ta đến với điều thiện.”
– Quyền hành là phục vụ: “Quyền hành đích thực là phục vụ, như Chúa Giêsu đã phục vụ. Người vĩ đại nhất là người phục vụ nhiều nhất”. Trong bài giảng Chúa nhật 18-10-2015, khi suy niệm bài Phúc Âm Mc 10, 33-40, ĐTC Phan-xi-cô đã nói như sau: “Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy thay đổi não trạng và đi từ sự ham hố quyền hành đến niềm vui được ẩn mình và phục vụ; loại trừ bản năng thống trị người khác và thực thi nhân đức khiêm tốn…Chúa Giêsu chủ yếu thi hành một chức linh mục thương xót và cảm thông…Vinh quang của Người không phải là là thứ vinh quang tham vọng hoặc khao khát thống trị, nhưng là vinh quang được yêu mến con người, đảm nhận và chia sẻ yếu đuối của họ và ban cho họ ơn thánh chữa lành, tháp tùng hành trình sầu muộn của họ với lòng dịu dàng vô biên”.
– Chân thành và giản dị: Điều giúp ĐTC Phan-xi-cô gần gũi với đại chúng là sự chân thành, nhất là khi ngài đề cập cả đến những thiếu sót của Giáo hoàng: “Ngay cả giáo hoàng cũng đi xưng tội 2 tuần 1 lần, vì giáo hoàng cũng là một tội nhân…”. Các giáo hoàng khác cũng nói tương tự như thế, nhưng mang kiểu cách thánh thiêng, còn cách nói của Đức Phanxicô làm phá vỡ hết mọi bệ tượng. Mỗi ngày ngài đều rời phòng ở lúc 10g sáng để đến chỗ làm việc. Người ta có thể gặp ngài nơi hành lang, trong thang máy, có khi thấy ngài uống café và đang tìm tiền lẻ để trả tại máy bán café…
ĐTC chân thành nhưng cũng thẳng thắn tố cáo những tham nhũng trong Giáo hội, không ngại nói tới những giáo sĩ sống bất xứng với sứ vụ của mình, và chạy theo những của cải trần gian. Ngài đã than phiền: “Tôi đau buồn khi chứng kiến một linh mục hay tu sĩ đi chiếc xe hơi đời mới… Nếu con yêu thích chiếc xe hơi đẹp đẽ thì hãy nghĩ đến tất cả những đứa trẻ đang chết đói”. Đôi khi ngài gay gắt: “Điều làm tất cả chúng ta ghê tởm là thấy giữa chúng ta có những linh mục không chân chính hay nữ tu không chân chính”.
– Sống gần gũi thân tình và liên đới với mọi người: ĐTC Phan-xi-cô luôn tìm cách gặp gỡ con người, đụng chạm đến người ta và để người ta đụng chạm đến mình. Việc tiếp xúc về thể lý là một phần trong cung cách giao tiếp của ngài. Ngài không muốn trở thành bức tượng. Các tín hữu đều có thể ôm ngài, như trường hợp anh quân nhân người Ý sau trận chiến Afganistan trở về đã ở bên ngài thật lâu. Trong mọi cuộc lễ, Đức Phan-xi-cô không đặt khoảng cách với các tín hữu, không giữ khoảng cách nghi lễ. Ngài đón tiếp họ, lôi kéo họ, đụng chạm tới họ. Ngài nói chuyện, lắng nghe và nhìn vào mắt các tín hữu. Trời mưa, ngài vẫn để đầu trần như đám đông khách hành hương.
Trong chuyến tông du Đại hội Giới trẻ tại Rio de Janeiro, Đức Phan-xi-cô đã đến thăm khu dân nghèo Varginha. Ngài đã xuống khỏi xe để đi bộ dưới trời mưa trên những con đường lầy lội trong khu ổ chuột. Như một cha xứ, ngài vào thăm một gia đình trong căn nhà lụp xụp, cùng cầu nguyện và trao đổi với họ, chúc lành và ôm hôn tất cả những đứa con trong gia đình. Sau đó, từ khán đài nhỏ, ngài nói: “Tôi muốn gõ cửa từng nhà chào thăm anh chị em…”
Tác giả bài viết trên cho hay, có người đã thú nhận: “Tôi đã tách rời khỏi Giáo hội, và bây giờ Đức Phanxicô đã đưa tôi trở lại với Giáo hội”. Hoặc ông Marco Tarquinio, tổng biên tập tờ báo Avvenir trích lời một độc giả: “Đã từ lâu người ấy không cầu nguyện, nhưng bây giờ mỗi ngày đều cầu nguyện cho Đức Phanxicô. Giáo hoàng đã đốt nóng con tim người tín hữu, đụng chạm tới những người dè dặt, và tiếp xúc được với những người ở xa nhất”.
Trên đây là một thoáng chân dung mục tử nổi bật nơi ĐTC Phan-xi-cô. Chân dung ấy người ta có thể chiêm ngưỡng, khám phá và đụng chạm đến một cách dễ dàng, như lời Đức Hồng y Tauran đã nhận xét: “Người ta đến Rôma để xem Đức Gioan Phaolô II, để nghe Đức Bênêđictô XVI, và để đụng chạm đến Đức Phanxicô”.
Nhân bài viết đã dẫn trên, xin mạn phép thử phác họa đôi nét về chân dung vị mục tử ngày nay dưới góc nhìn của một giáo dân. Nội dung bài suy tư này gồm 5 phần sau:
- Mục tử: người chăn chiên mang nặng mùi chiên
- Mục tử: thân phận người đầy tớ “bị ăn”
- Mục tử: người phục vụ khiêm nhu và khó nghèo
- Mục tử: chứng nhân lòng Chúa thương xót
- Mục tử: mẫu gương nhà truyền giáo nhiệt thành
- MỤC TỬ: NGƯỜI CHĂN CHIÊN MANG MÙI CHIÊN
Ngày thứ Năm Tuần Thánh 28-3-2013, tại Đền thờ Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô đã cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu vào lúc 9giờ30. Trong buổi lễ này, ngài đã nói với các linh mục: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”. Đức Thánh Cha đã gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng, đó là mục tử phải có mùi của chiên. Người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi của chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt mục tử. Linh mục, người chăn chiên về đàng thiêng liêng cũng phải như vậy. [2]
Thực vậy, linh mục là vị mục tử được sai đến với cộng đoàn dân Chúa phải “thấm mùi chiên” thì mới chứng tỏ ngài quan tâm chăm sóc chiên của mình, chấp nhận đồng hành và sống chết với họ. Mục tử càng gần gũi với chiên, thì ngài càng hiểu chiên, càng thông cảm và yêu mến chiên. Ngài không biến chức vụ, quyền hành của mình thành rào cản để xa dân Chúa, trái lại ngài sẽ luôn là điểm hấp dẫn mọi người đến với mình để chia sẻ với họ những gì họ đang thiếu, đang khát khao, đang mong đợi.
Cha Andrew Greeley, một tác giả viết sách và một nhà xã hội học đã định nghĩa: “Linh mục là người để người ta tìm đến”. Điều đó cũng có thể hiểu được là mục tử trở nên điểm hẹn đáng trân trọng của mọi tín hữu. Cộng đoàn tìm đến mục tử của họ là để được nói tiếng nói của chiên với chủ chăn, được giãi bày tâm sự, được khuyên giải, được trấn an vv. Sự thất vọng lớn nhất của người giáo dân đối với vị mục tử của họ là khi tiếng nói của họ không còn được nghe nữa. Lúc đó giữa chiên và chủ chiên như có một bức tường ngăn cách vô hình nào đó, và mối tương quan “ta biết chiên ta và chiên ta biết ta” không còn ý nghĩa gì nữa!
Lời của Ngôn Sứ Ê-dê-ki-en còn đây: “Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.” (Ed 34, 14-16)
- MỤC TỬ: THÂN PHẬN NGƯỜI ĐẦY TỚ “BỊ ĂN”
Linh mục Antoine Chevrier đã nói một câu đầy ý nghĩa như sau: “Linh mục là người bị ăn”. Điều đó có nghĩa là thân phận của người mục tử là thân phận của người đầy tớ “bị ăn”.
Các linh mục của Chúa được sai đi, không phải để được phục vụ mà là để phục vụ con người như lời Đức Ki-tô đã khẳng định (x. Mc 10, 45). Linh mục là người của muôn người, được sai đi để làm “đầy tớ” thiên hạ. Nói linh mục là “đầy tớ” vì các ngài không được tuyển chọn để làm quan trong thiên hạ, mà làm kẻ phục vụ người khác. Càng phục vụ tích cực, càng phải hi sinh hết mình. Càng lo cho người khác, càng chết cho chính mình. Càng yêu mến quan tâm người khác, trái tim càng đau khổ dày vò. Khi con người của linh mục bị vắt cạn sức lực, đó là lúc Đức Ki-tô Mục Tử lớn lên trong các ngài và tỏa lan sức nóng ấm áp trong cộng đoàn. Đó cũng là lúc hạt giống chun vùi trong lòng đất sinh hoa kết trái, “Nếu hạt giống rơi xuống đất mà thối đi, nó sẽ nảy sinh hoa trái” (Ga 12, 24).
Có lẽ không gì hùng hồn và thuyết phục bằng việc đơn cử mẫu gương mục tử sáng ngời của cha thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars. Ngài nổi tiếng là một linh mục rất nhiệt tình trong việc rao giảng và giải tội. Hai thánh vụ này đã làm hao tốn biết bao sức lực của một người tông đồ nhiệt thành và một đầy tớ chuyên chăm của giáo dân.
Về giảng dạy, cha quan tâm soạn bài giảng thật kỹ lưỡng. Cha thường dùng phòng áo để dọn giảng cho yên tĩnh. Cha nghiên cứu các tác giả, có khi xem tới 7 tác giả. Cha đánh dấu những đoạn cần phải chép lại và lắm khi phải phiên dịch tới 40 hay 50 trang sách. Học thuộc lòng trước vào thứ bảy và buổi tối sau khi bổn đạo về nhà, cha đi chung quanh nghĩa địa để lập lại những đoạn khó. Cha lại không quên cầu nguyện trước khi giảng…Cha giảng rất hùng hồn. Có người hỏi: “Tại sao lúc cầu nguyện thì cha nói nhỏ mà khi giảng cha lại nói to thế ?”. Cha trả lời : “Khi giảng phải nói to vì người nghe họ buồn ngủ và nặng tai, nhưng khi cầu nguyện với Chúa thì nói nhỏ vì Người không nặng tai”. Cha giảng rất hùng hồn và dạy dỗ với uy quyền. Bài giảng rất cụ thể với đời sống Dân Chúa và chỉ bảo phải làm gì hay làm như thế nào để giáo dân dễ thực hành.
Về việc giải tội, cha sở họ Ars là một LM nổi tiếng trong việc siêng năng giải tội. Có thể nói tội nhân đã chiếm đoạt tất cả tâm tư, lời cầu nguyện, hãm mình và mọi hành động của ngài. Cha thường ngồi tòa 15 giờ mỗi ngày, bắt đầu từ 1 hay 2 giờ sáng và kết thúc vào lúc đêm khuya…Người ta nối nhau để chờ xưng tội. Có thể nói là cha ngồi tòa liên tục, bởi vì giáo dân xứ Ars xưng tội thường xuyên, lại có các khách hành hương từ các nơi xa kéo đến, có khi lên tới 80.000 người hằng năm. Cha giải tội cả lúc đêm về, bất cứ lúc nào cha cũng sốt sắng với việc giải tội khi có người xin vào những lúc bất thường. Trước ngày qua đời 5 hôm, người ta còn thấy các tội nhân chen chúc bên giường bệnh của cha để lãnh nhận ơn tha thứ. Cha còn được ơn thấu suốt tâm tư và tâm hồn của người khác và ngài biết khôn ngoan đưa dẫn họ vào việc xưng tội, cả khi họ không có ý đi xưng tội khi gặp ngài. Đặc biệt cha còn làm việc đền tội với tội nhân. Cha nói: “Tôi ra cho họ việc đền tội nhẹ nhàng và tôi làm thay cho họ việc đền tội còn lại”….
Một linh mục sống và làm việc như thế thì hiển nhiên là người-bị-ăn đích thực rồi. Chính giáo dân vừa yêu mến ngài lại vừa “hành hạ” ngài. Nhưng nét đẹp diệu vợi và thánh thiêng của vị mục tử là ở chỗ đó. Mọi giáo dân đều có chung một ý nghĩ này là chỉ nguyên sự hiện diện thường xuyên tích cực và sống động của linh mục giữa họ thôi cũng đủ đem lại bình an và niềm vui cho cộng đoàn rồi. Tuy nhiên, trên thực tế, đôi khi trái ngược, có nhiều nơi được gặp linh mục đã là khó, được ngồi nói chuyện giãi bày tâm sự với các ngài còn khó hơn, và được ngài lắng nghe, chỉ bảo, tâm sự còn khó hơn gấp nhiều lần…
- MỤC TỬ: NGƯỜI PHỤC VỤ KHIÊM NHU VÀ KHÓ NGHÈO
Có thể nói, một trong những hình ảnh ấn tượng nhất về vị mục tử ngày nay đó là một con người phục vụ với đức tính khiêm khu và tinh thần khó nghèo. Chúng ta đều biết rằng, linh mục không phải là một nghề và linh mục được sai đến để sống và làm việc giữa dân Chúa như một người cha, người mẹ, người anh, người chị trong tư cách là một đầy tớ phục vụ, chứ không phải là một người cai trị. Trong khi phục vụ, ngài luôn nêu gương khiêm nhường và khó nghèo.
Công đồng Vat II đã nêu rõ: “Linh mục phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Ki-tô, vì đã sinh họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn (x.1Cor 4,15 và 1P 1,23). Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), linh mục phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của mình, để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo hội Thiên Chúa (x.1Cor 1,2; 2Cor 1,1) là danh hiệu riêng riêng biệt của toàn thể Dân Thiên Chúa là Dân duy nhất. Linh mục hãy nhớ rằng mình phải tỏ ra cho tín hữu và lương dân, cho người Công giáo và ngoài Công giáo thấy gương mặt của một thừa tác vụ thực sự tư tế và mục vụ, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống…” (x. Vat II, LG 28).
Và Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục (Presbyterorum Ordinis) cũng nói về những đòi hỏi của thừa tác vụ linh mục, “Thực hành việc khổ chế riêng biệt của vị chăn dắt các linh hồn, từ bỏ những tiện nghi riêng, không tìm kiếm tư lợi nhưng tìm lợi ích cho nhiều người để họ được cứu rỗi”.
Như vậy, linh mục được chọn từ những người bình thường để làm những công việc phi thường. Để thực hiện những việc phi thường, linh mục luôn là người bận rộn và vất vả. Bản thân con người của linh mục qua bí tích Truyền chức thánh đã trở nên một hiến lễ vì cộng đoàn và cho cộng đoàn. Như Đức Ki-tô Mục Tử, linh mục có thể nói, “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Gio 10,10); “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).
Có thể nói con người và đời sống của linh mục như là tấm bánh bẻ ra cho nhiều người đang khao khát sự sống đích thực của Đức Ki-tô.
Cộng đoàn tín hữu là một gia đình trong đó linh mục được sai đến để chăm sóc, lo lắng và làm gương. Ngài xác tín tuyệt đối việc ngài đến là “để phục vụ”. Người phục vụ luôn luôn là người chịu thiệt thòi, lo trước cái lo của dân Chúa và vui sau cái vui của họ. Nỗi lo lắng của ngài không phải là an hưởng bản thân mà là gánh vác công việc cộng đoàn, ở đó bao con người đang mong đợi và cần sự hiện diện của ngài.
Linh mục sẽ luôn luôn phải thao thức về nhu cầu thiêng liêng của cộng đoàn, qua đó ngài biết nên làm gì và làm như thế nào để họ “được sống và sống dồi dào”. Nỗi băn khoăn thao thức thường xuyên của linh mục, đó là làm sao mình phải bé nhỏ, tiêu hao đi để cho Đức Ki-tô lớn lên trong cộng đoàn. Làm sao để Tin Mừng thực sự lan tỏa trong mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội-đoàn-nhóm tín hữu. Làm sao hạn chế được những chia rẽ, bất hòa, hành xử cục bộ, bè phái… để mọi người sống hiệp nhất yêu thương như Chúa đã dạy. Nguyên chỉ với những thao thức đó thôi, linh mục cũng đã phải “tự tiêu hao” biết bao dự phóng, bao sáng kiến, bao lo toan, bao kế hoạch riêng tư…Nói cách khác, khi lo cho người khác được lớn lên, linh mục sẽ hy sinh chính bản thân ngài.
Đức Giám mục GB Bùi Tuần, giáo phận Long Xuyên đã chia sẻ với các linh mục như sau: “Tôi nhận ra ơn gọi của người môn đệ Đức Ki-tô. Ơn gọi này không chỉ là truyền bá Tin Mừng, quy tụ dân Chúa, thông báo ý Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể, mà còn là hiến tế chính mình trong cuộc đời. Hiến tế bằng tình yêu và hi sinh. Cho dù một cách nào đó, người môn đệ Chúa sẽ phải chịu đóng đinh vào thánh giá, phải chịu cho trái tim mình bị đâm, để những giọt máu và nước sau cùng trong đó cũng đành đổ ra hết…” (Tĩnh tâm LM Gp Long Xuyên tháng 6-2002).
Nhìn vào một giáo xứ, có thể nhận ra ảnh hưởng của vị mục tử lớn lao như thế nào. Linh mục xây nhà thờ kiên cố thì giáo dân được yên lòng. Linh mục quan tâm đến người nghèo, bất hạnh thì cộng đoàn bớt đi nhiều cảnh khổ. Linh mục để mắt tới những người khô khan, nguội lạnh, những đôi vợ chồng rối, thì giáo xứ giảm bớt được gương xấu. Linh mục sống nghèo khó, khiêm tốn thì giáo dân có gương sáng sống động để dõi theo vv. Bao lâu linh mục chưa là tấm-bánh-được-bẻ-ra cho người tín hữu “ăn” thì bấy lâu cộng đoàn vẫn còn phải chịu đựng sự đói, sự khát, sự nghèo về tâm linh, về sự sống, về gương sáng chứng tá Tin Mừng Đức Ki-tô Phục Sinh.
- MỤC TỬ: CHỨNG NHÂN LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Trong bài giảng lễ cầu nguyện cho linh mục nhân dịp ngày năm thánh Lòng Thương Xót dành cho các linh mục ngày thứ sáu 3-6-2016, ĐTC Phan-xi-cô đã giúp các linh mục chiêm ngắm trái tim đầy thương xót của Mục Tử Nhân Lành và mời gọi các ngài để cho con tim mục tử của mình được nung nấu bởi tình yêu mục tử của Chúa Kitô. [3]
ĐTC đã chia sẻ như sau: “Khi chiêm ngắm Trái Tim Chúa Giêsu, chúng ta đối diện với một câu hỏi căn bản về đời sống linh mục của chúng ta: Con tim của tôi hướng về đâu? Sứ vụ của chúng ta thường đầy những hoạch định và những công việc khác nhau: từ việc giảng dạy cho đến việc phụng vụ, các công việc bác ái, những dấn thân mục vụ và cả những công việc hành chánh nữa. Giữa vô số những hoạt động ấy, chúng ta vẫn luôn phải chất vấn bản thân mình: con tim của tôi gắn chặt vào đâu, con tim của tôi đang hướng về đâu, và đâu là kho tàng mà tôi đang tìm kiếm? Vì Chúa Giêsu đã nói: ‘Kho tàng của anh ở đâu, thì tâm hồn anh ở đó’ (Mt 5,21)”.
Ngài nhấn mạnh: “Con tim của các mục tử là con tim bị xuyên thấu bởi tình yêu Thiên Chúa. Chính vì thế, các mục tử không còn đăm đăm vào bản thân mình nữa, nhưng hướng về Thiên Chúa và đoàn chiên của mình. Đó không còn là một ‘con tim bị dao động’ hay bị cuốn hút bởi những ý tưởng nhất thời hoặc bỏ qua những bất đồng để tìm kiếm những thỏa mãn nhỏ nhen. Trái lại, đó là một con tim được bám rễ sâu vào Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần đốt nóng, để luôn sẵn sàng rộng mở giúp đỡ tha nhân.”
Ngài cũng lưu ý các linh mục điểm quan trọng này: “Chúa Kitô yêu thương và biết các con chiên của Ngài, Ngài hiến mạng sống vì chúng và không ai là người xa lạ với Ngài (Ga 10,11-14). Đàn chiên chính là gia đình và cuộc sống của Ngài. Ngài không phải là những ông chủ để rồi đàn chiên phải khiếp sợ, nhưng Ngài là Mục Tử đồng hành với đàn chiên và gọi đích danh từng con (Ga 10,3-4). Ngài muốn tập họp những chiên còn chưa trở về chuồng của Ngài (Ga 10,16). Đối với các linh mục của Chúa Kitô cũng vậy. Linh mục được xức dầu để phục vụ dân Thiên Chúa, chứ không phải được chọn để làm theo ý riêng của mình, nhưng là gần gũi với đàn chiên mà Thiên Chúa đã trao phó. Không ai bị loại trừ ra khỏi trái tim của các mục tử, cũng không ai bị loại trừ ra khỏi lời cầu nguyện và nụ cười của các linh mục. Với cái nhìn đầy yêu thương và với trái tim của người cha, các linh mục đón nhận, hòa nhập và những khi cần phải sửa dạy ai đó, các linh mục phải gần gũi với con chiên của mình hơn. Họ không bao giờ được phép khinh thường một ai, nhưng phải sẵn sàng để bị ‘vấy bẩn’ đôi bàn tay của mình.”
Thực vậy, mang trái tim hiến tế như Chúa Ki-tô, linh mục đến với tha nhân nhất là những người đau khổ, tội lỗi, khô khan, để biểu tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với thân phận, hoàn cảnh, con người của họ. Sự cảm thông đôi khi không nhiều lời, không ồn ào, mà chỉ cần là một sự hiện diện đồng cảm, một sự im lặng cầu nguyện, một thái độ chan hòa yêu thương. Các tín hữu có cảm giác gần gũi với linh mục chính nhờ cung cách phục vụ khiêm hạ và dễ thương như thế của ngài.
- MỤC TỬ: MẪU GƯƠNG NHÀ TRUYỀN GIÁO NHIỆT THÀNH
Nếu truyền giáo là bản chất của Hội thánh thì truyền giáo cũng là nhiệm vụ trọng tâm của các linh mục và các ngài chính là những nhà truyền giáo chuyên trách. Do vậy, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù đang thi hành chức vụ gì thì linh mục cũng luôn sống và làm việc trong bầu khí truyền giáo. Truyền giáo như hơi thở, như nhịp đập trái tim của các ngài. Có thể khẳng định một điều là truyền giáo luôn là mối ưu tư hàng đầu của các chủ chăn.
ĐTC Phan-xi-cô rất quan tâm đến công cuộc truyền giáo, đặc biệt là đến sứ vụ loan báo Tin Mừng của các mục tử. Ngài đã từng nói:
“Cha muốn mọi người ra đi. Cha muốn Giáo hội ra ngoài đường phố…Cha muốn chúng ta tự bảo vệ chống lại những gì là thế gian, là định lập, là thoải mái, là giáo sĩ trị, là khép kín vào chính mình…”
“Cha muốn một Hội thánh ra đi truyền giáo nhiều hơn, một Hội thánh không quá tĩnh lặng. Một Hội thánh xinh đẹp khi biết ra đi.”
“Hãy sống tích cực, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và đồng thời, hãy ra đi, sẵn sàng gặp gỡ mọi người, đặc biệt những ai bị khinh rẻ và bất hạnh. Đừng sợ phải đi ngược dòng.”
Trong thư Mục vụ năm 2014 chủ đề “Tân Phúc Âm hoá đời sống các giáo xứ và đời sống thánh hiến”, HĐGMVN đã khẳng định: “Chúng tôi xác tín rằng việc Phúc-Âm-hóa giáo xứ phải được bắt đầu từ chính hàng linh mục. Chúng tôi cảm ơn anh em đã tận tụy và trung kiên với công việc phục vụ cộng đoàn được trao phó cho anh em. Tuy nhiên chúng ta không được quyền tự mãn với những gì đã làm, nhưng phải không ngừng canh tân đời sống bản thân cũng như cung cách thi hành tác vụ linh mục. Vì thế, xin anh em nghe lại lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Phanxicô, và hãy xem đó như kim chỉ nam cho tác vụ linh mục tại giáo xứ: Cùng với hàng giám mục, các linh mục ‘phải luôn luôn nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo trong giáo xứ của mình, theo lý tưởng của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Để thực hiện điều này, có khi ngài sẽ đứng trước dân, chỉ đường cho họ và giữ cho niềm hy vọng của họ luôn sống động. Khi khác, ngài chỉ cần ở giữa họ bằng một sự hiện diện khiêm tốn và nhân từ. Khi khác nữa, ngài sẽ phải đi theo họ, giúp đỡ những ai bị bỏ lại ở đằng sau, và trên hết, để cho đoàn chiên tự mình mở ra những lối đi mới’ (Niềm Vui Tin Mừng, số 31).”[4]
Giáo xứ luôn là yếu tố thúc đẩy việc truyền giáo quan trọng nhất: Giáo xứ phải là môi trường thuận lợi nhất giúp giáo dân học hỏi và thực thi mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Ki-tô. Nếu giáo xứ quá thiên về “quản trị hành chánh” thì giáo dân sẽ rơi vào tình trạng thụ động.
Chúng ta thử tham khảo vài chỉ dẫn của ĐGM Phao-lô Nguyễn Thái Hợp, giám mục giáo phận Hà Tĩnh theo Thông báo ngày 28-6-2019, như sau:[5]
“Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm và là sứ vụ của các linh mục đã được Thiên Chúa mời gọi: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16, 15). Linh mục quản xứ không chỉ được mời gọi ‘giữ chiên’ mà còn có bổn phận phát triển đoàn chiên tại nơi mình được sai đến.
“Loan báo Tin Mừng là trách nhiệm của mọi thành phần dân Chúa, mọi ban ngành, đoàn thể, HĐMV giáo xứ, các giáo họ, các hội đoàn trong giáo xứ và của mỗi người giáo dân. Loan báo Tin Mừng là mục tiêu của mọi hoạt động của giáo xứ và của từng người Kitô hữu.
“Quan tâm đến việc tìm kiếm ‘chiên lạc’ và đến với những người chưa biết Chúa, đang có thiện chí muốn vào đạo.
“Quan tâm đến việc đối thoại và hướng dẫn họ trong việc truy tầm chân lý; phải đến với mọi thành phần trong xã hội.
“Quan tâm chương trình dạy Giáo lý tân tòng và củng cố giáo lý đức tin hậu tân tòng.
“Quan tâm đào tạo nền tảng giáo lý vững chắc cho thế hệ trẻ trong giáo xứ.
Vậy người chịu trách nhiệm chính về công cuộc truyền giáo của giáo xứ chính là cha xứ và các tu sĩ nam nữ giúp xứ. Nếu cha xứ lơ là, không quan tâm đến công việc quan trọng này thì chẳng ai có thể thay thế ngài được. Nếu trong một năm, cha xứ chỉ “nói” đến công cuộc truyền giáo một hai lần nhân dịp lễ nào đó, còn ngoài ra không có những hoạt động xuyên suốt nào gọi là “Truyền giáo” thì chắc chắn giáo dân sẽ ít có cơ hội làm việc tông đồ truyền giáo!
Thực vậy, “Các giáo xứ cần quan tâm đến việc loan báo Tin Mừng trong mọi hoạt động của giáo xứ. Xin các cha xứ quan tâm, đồng hành và khích lệ để hoạt động loan báo Tin Mừng được kết quả. Xin các cha quản xứ làm nhân tố nối kết mọi hoạt động để việc loan báo Tin Mừng có hiệu quả thực sự. Cần trao trọng trách loan báo Tin Mừng cho một số hội đoàn như Legio, Thiếu nhi Thánh Thể vv… để có kết quả tốt hơn.”[6]
[1] http://www.simonhoadalat.com/giaoducgd/tuduc/179DTCPhanxico.htm
[2] https://www.tonggiaophanhanoi.org/qmuc-tu-phai-mang-lay-mui-chienq/
[3] https://dcctvn.org/trai-tim-muc-tu/
[4] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/-thu-muc-vu-2014-tan-phuc-am-hoa-doi-song-cac-giao-xu-va-doi-song-thanh-hien-17874
[5] https://giaophanhatinh.org/thong-bao-cua-ban-loan-bao-tin-mung-2-11716
[6] https://giaophanhatinh.org/thong-bao-cua-ban-loan-bao-tin-mung-2-11716 Aug. Trần Cao Khải