2021
Cách Chúa nhận lời cầu nguyện của con người
Tôi tình cờ biết được bài thơ này rất phù hợp trong những ngày giãn cách xã hội, nên chuyển ngữ để chia sẻ với bạn[1]:
Lạy Chúa, xin cất khỏi tâm hồn con lòng kiêu hãnh, nhưng Chúa trả lời: Không.
Ngài nói rằng không phải Ngài, nhưng chính tôi phải từ bỏ lòng kiêu hãnh đó.
Tôi cầu xin Chúa gìn giữ đứa con ốm đau của tôi được khỏe mạnh, nhưng Ngài đáp: Không.
Ngài nói linh hồn cậu bé khỏe mạnh, thân xác chỉ là chóng qua.
Tôi van xin Chúa ban cho mình tính kiên nhẫn, nhưng Ngài trả lời: Không.
Ngài nói tính kiên nhẫn là kết quả của tập luyện. Cần tìm kiếm chứ không phải ngồi chờ sung rụng.
Tôi xin Chúa cho mình được hạnh phúc, nhưng Ngài đáp lại: Không.
Ngài chỉ ban phúc lành, còn hạnh phúc phụ thuộc vào cách tôi đón nhận.
Tôi xin Chúa cất khỏi mọi đau đớn của tôi, nhưng Ngài đáp: Không.
Đau khổ giúp con tránh xa những mời mọc của thế gian, nhưng lại đưa con đến gần Chúa hơn.
Tôi xin Chúa ban cho mình thăng tiến trong đời sống thiêng liêng, nhưng Ngài trả lời: Không.
Chúa nói thêm: thăng tiến ấy là việc của con, nhưng Ta sẵn lòng cắt tỉa để con thêm khỏe mạnh xinh tươi và sinh nhiều hoa trái.
Tôi cầu xin Chúa giúp tôi yêu người khác như cách Ngài yêu tôi.
Chúa trả lời: Ta thấy con đang bắt đầu hiểu ra….
Tôi cầu xin sức mạnh …
Và Thiên Chúa đã ban nhiều gian nan thử thách để giúp tôi nên vững vàng.
Tôi cầu xin sự khôn ngoan…
Và Ngài trao những vấn đề để tôi tìm ra giải pháp.
Tôi xin lòng can đảm …
Và Thiên Chúa đã gửi đến nhiều hiểm nguy đòi tôi phải vượt qua.
Tôi xin Thiên Chúa ban cho tình yêu …
Và Chúa đã gửi những người khốn cùng để tôi giúp đỡ họ.
Tôi cầu xin ân sủng Chúa …
Và Chúa đã cho nhiều cơ hội vốn liên kết với ân sủng ấy.
Tôi đã không đạt được bất cứ thứ gì tôi muốn, nhưng tôi đã có mọi thứ tôi cần.
Và những lời cầu nguyện của tôi đã được Thiên Chúa lắng nghe.
Trò chuyện thiêng liêng:
Cầu xin với Thiên Chúa là khả năng của con người. Hơn nữa, chính Đức Giêsu cũng dạy chúng ta cầu xin với Thiên Chúa Cha: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho.” (Mt 7,7). Mỗi ngày sống hẳn là chúng ta có bao điều để ước mong. Có người một mình thực thi ước mơ ấy; nhiều người đến xin với Thiên Chúa để được giúp đỡ. Là người Công giáo, chắc chắn Thiên Chúa là món quà vô giá, xin đừng bỏ qua. Chúa chờ chúng ta đến cầu nguyện, nài xin những điều mình muốn. Chắc hẳn Ngài có cách để đáp ứng những nhu cầu tốt lành của chúng ta.
Những lời nguyện trên đây cho ta thấy một điều: Chúa ban cho ta theo cách Chúa muốn. Ví dụ, chúng ta xin giàu sang phú túc, Chúa sẽ không “chuyển tiền” vào tài khoản chúng ta được. Ngài ban cho chúng ta có sức khỏe, cơ hội và thời gian để chúng ta làm việc kiếm tiền. Chúng ta ước mong được sức khỏe. Chúa đòi mỗi người ăn uống điều độ, thể dục thể thao và biết cách chăm sóc thân thể mình. Chúng ta mong thành công trong kỳ thi cử, Chúa mời gọi chúng ta học hành chăm chỉ. Ai ai cũng xin Chúa cho thế giới thoát khỏi cơn đại dịch lần này, Chúa mời chúng ta biết nhẫn nại, lắng nghe ý Thiên Chúa để thực thi. Tóm lại, Thiên Chúa đã, đang và sẽ ban tặng cho chúng ta những điều tốt lành hơn chúng ta mong tưởng.
Là người trẻ, có khi chúng ta mệt mỏi hoặc thất vọng vì những lời cầu nguyện của mình không được Chúa nhậm lời. Thật tốt để lúc này, trong những ngày giãn cách xã hội, nhận ra những lần cầu xin ấy dường như Thiên Chúa đã trả lời rồi. Lý do là Thiên Chúa giàu lòng thương xót và hết mực yêu thương con người. Ngài luôn đáp ứng những nhu cầu chính đáng của chúng ta. Cẩn lưu ý là Thiên Chúa không phải một “nhà phân phối” tự động, nhưng ta phải tin cậy vào Chúa ngay cả trong cách thế Chúa nhận lời ta nữa.
Tại sao chúng ta tin tưởng rằng lời cầu nguyện của chúng ta được Thiên Chúa lắng nghe? Thưa: “Nhiều người đã kêu cầu cùng Chúa Giêsu, khi Người còn sống ở đời này để xin ơn chữa lành, và lời cầu nguyện của họ đã được nhận lời. Chúa Giêsu đã từ cõi chết sống lại, và nay Người đang sống, Người lắng nghe lời cầu nguyện của chúng ta và mang lên tới Chúa Cha.”[2]
Tôi không biết bạn có trải nghiệm như thế nào mỗi lần cầu xin với Thiên Chúa, nhưng thật tốt để biết:
– Lời nguyện xin ơn cần điều kiện: tin chắc được nhận lời (Karl Rahner).
– Nếu bạn thực lòng cầu nguyện với Chúa để xin ơn trở về cùng Chúa, chắc chắn Chúa sẽ ban cho bạn (Thánh Gioan Vianney).
– Đừng sợ Thiên Chúa, hãy can đảm liều mình trong cuộc phiêu lưu đức tin! Hãy can đảm trao phó mình cho lòng nhân lành của Người. Hãy để cho Người xâm chiếm bạn, và bạn sẽ thấy đời bạn chiếu sáng, và không còn chán ngán. Trái lại, đời bạn sẽ đầy những ngạc nhiên vô tận vì lòng nhân lành vô tận của Thiên Chúa không bao giờ cạn. (Đức Bênêđictô XVI)
Qua những chia sẻ trên đây, tôi hy vọng lúc này bạn hãy dành chút thời gian để thì thầm với Chúa. Hoặc trong thinh lặng, bạn lắng nghe tiếng Chúa và sau đó, nói cho Chúa những mong muốn của mình. Sau đó, kết thúc bằng Kinh Lạy Cha.
Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ
[1] http://www.csendespercek.hu/versek/1498-es-isten-azt-mondta-nem-2673218
[2] Youcat số 478 và 479
2021
Cách chiến thắng đam mê tật xấu
Cuốn sách: Maestro di San Bartolo, Abbi a cuore il Signore, Introduzione di Daniele Libanori, San Paolo, 2020. (*)
Chuyển ngữ từ tiếng Ý: Tứ Quyết SJ
Nếu muốn chiến thắng đam mê tật xấu, không đơn giản chỉ là việc bạn coi thường chúng, cũng không phải chỉ là việc bạn có ước muốn chân thành hướng về các nhân đức. Thay vào đó, việc cần thiết để đánh bại các đam mê tật xấu, là đánh bại tất cả những gì nuôi dưỡng đam mê tật xấu ấy. Bởi vì, những đam mê tật xấu đã ăn sâu và tồn tại trong chúng ta, ngay cả khi chúng ta đã tập luyện rất nhiều, ngay cả khi chúng ta đã có thể hạn chế những tác dụng xấu của chúng. Vì thực tế, chẳng bao lâu, chỉ cần một chút này chút kia, những tật xấu ấy đã sớm trở lại, chiếm ưu thế, và chiến thắng, mặc cho những thành quả mà chúng ta đã từng đạt được. Cũng giống như trên cánh đồng mùa hè, khi một cơn bão bất ngờ ập đến, làm mất trắng hoa màu.
Khi một người đang tiến tới trên đường thiêng liêng, với các nhân đức, với việc gìn giữ cẩn thận các giác quan ngay lành, thì các đam mê tật xấu rất khó có thể mãnh liệt đến độ khuất phục được người ấy. Ngược lại, giả sử, nếu vị ấy trở lại thăm vùng đầm lầy mà chính mình đã bỏ đi. Khi trở lại như thế, vị ấy rất dễ bị chìm vào vũng bùn lầy của quá khứ. Thực tế, lần này bị lún sâu vào đầm lầy, không hề thua kém gì lần trong quá khứ, bởi lẽ sức nặng của người ấy vẫn thế, và bùn lầy vẫn là bùn lầy chứ không phải mặt đất vững chắc.
Nơi nào có nước, nơi ấy cây cối bén rễ. Tôi còn nhớ, một người nông dân nọ muốn diệt trừ một loại cây xấu mọc trên bờ ruộng của mình. Anh ta đưa rìu lên và chặt cây tận gốc, nhưng khi mùa tới, cây ấy lại nảy mầm và mọc lên mạnh mẽ, và lớn thành bụi trong thời gian ngắn. Sau đó, người ấy lại chất rơm để đốt, nhưng vẫn không đạt được mục đích của mình. Bởi vì, từ đống tro tàn, mầm lại mọc lên, và cây tiếp tục phát triển. Người nông dân cố gắng hết sức, và tìm tất cả gốc rễ của cây, để có thể diệt trừ tất cả; nhưng anh nhận ra rằng, điều ấy là không thể. Bởi lẽ, anh nhìn thấy rễ cây đã ăn sâu vào lòng đất, đến độ anh không thể loại bỏ tất cả các rễ cây; do đó không thể loại bỏ cây bằng cách diệt rễ. Cuối cùng, anh quan sát mặt đất và nhận thấy rằng, cái cây xấu ấy có thể sống được là do có dòng nước dẫn đến. Anh quyết định đào một con mương, để dẫn dòng nước ra ngoài. Khi hết nước, khô hạn hoàn toàn, cây xấu ấy tự chết và bị loại bỏ. Sau đó, chính chỗ ấy, người nông dân trồng một cây tốt cho hoa trái, và anh điều chỉnh lại con mương để dẫn dòng nước nuôi dưỡng.
Cũng vậy, để loại bỏ các đam mê tật xấu, chúng ta cần loại bỏ những gì nuôi dưỡng chúng. Những tật xấu đam mê hèn hạ, thường gắn liền với giác quan và miệng lưỡi. Do đó, cần tập luyện làm chủ và gìn giữ các giác quan cũng như miệng lưỡi…
_______
(*): Trong tuần tĩnh tâm mùa chay (từ chiều chúa nhật 21/2/2021 đến trưa thứ sáu 26/2/2021), Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi Giáo triều Roma và các tín hữu tìm về cùng Thiên Chúa, kín múc nghị lực để đương đầu với những thách đố mới. Vì đại dịch Covid, các vị không tĩnh tâm chung như mọi năm, nhưng mỗi vị tĩnh tâm riêng tại nơi thích hợp. Đức Thánh Cha gửi tặng mỗi vị cuốn sách thiêng liêng giúp suy niệm với tựa đề “Abbi a cuore il Signore” (Hãy có Chúa trong lòng). Sách dày 320 trang gồm các thủ bản cũ do một đan sĩ thuộc Đan viện thánh Bartolo biên soạn hồi thế kỷ 17, trên từng tờ rời, dường như để hướng dẫn các môn đệ.
2021
ĐTC Phanxicô: Lề Luật là người giám hộ đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu
ĐTC Phanxicô: Lề Luật là người giám hộ đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu
Trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ Tư 18/8/2021 Đức Thánh Cha tiếp tục loạt bài giáo lý về thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Galát, với đề tài “Vai trò giám hộ của Lề Luật”. Đức Thánh Cha nói rằng Lề Luật là người giám hộ đưa chúng ta đến với Chúa Giêsu. Chúng ta nên tự hỏi xem chúng ta có còn đang sống “dưới sự giam cầm của Lề Luật” hay chúng ta đã hiểu rằng, khi trở thành con cái của Thiên Chúa, chúng ta được kêu gọi để sống trong tình yêu thương.
Đức Thánh Cha nhắc lại giáo huấn của thánh Phao-lô, đó là đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô mang lại sự tự do thiêng liêng giúp giải phóng các tín hữu khỏi những ràng buộc của Luật Mô-sê. Đối với thánh nhân, Lề Luật có chức năng “giám hộ”. Như một món quà nhân từ của Thiên Chúa, Lề Luật đòi hỏi tuân giữ các điều răn của Người, đồng thời chỉ ra thực trạng tội lỗi và nhu cầu cần được cứu độ của chúng ta. Khi Chúa Ki-tô đến và cùng với ơn cứu độ của Người, Lề Luật được kiện toàn trong sứ điệp Tin Mừng về sự sống mới và sự tự do trong Chúa Thánh Thần.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng giáo huấn của Thánh Phao-lô về giá trị của Lề Luật “đáng được xem xét cẩn thận”. Ngài nói rằng chúng ta nên tự hỏi xem chúng ta có còn đang sống “dưới sự giam cầm của Lề Luật” hay chúng ta đã hiểu rằng, khi trở thành con cái của Thiên Chúa, chúng ta được kêu gọi để sống trong tình yêu thương. Ngài mời gọi tuân giữ Lề Luật như là một sự trợ giúp cho cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su Ki-tô.
Buổi tiếp kiến bắt đầu với đoạn thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Galát (3,23-25): Trước khi đức tin đến, chúng ta bị Lề Luật giam giữ, cho tới khi đức tin được mặc khải. Như thế, Lề Luật đã thành người quản giáo dẫn chúng ta tới Đức Ki-tô, để chúng ta được nên công chính nhờ đức tin. Nhưng khi đức tin đến, thì chúng ta không còn ở dưới quyền giám hộ nữa.
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha
Vai trò giám hộ của Lề Luật
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Thánh Phao-lô, người đã say mê Chúa Giê-su Ki-tô và đã hiểu rõ ơn cứu độ là gì, đã dạy chúng ta rằng “những người sinh ra do lời Thiên Chúa hứa” (Gl 4, 28), nghĩa là tất cả chúng ta, đã được nên công chính nhờ Chúa Giê-su Ki-tô, không còn bị ràng buộc bởi Lề Luật, nhưng được mời gọi theo lối sống dấn thân trong sự tự do của Tin Mừng. Tuy nhiên, Lề Luật vẫn tồn tại. Nhưng nó tồn tại theo một cách khác: cùng Lề Luật đó, Mười Điều răn, nhưng theo cách khác, bởi vì chính nó không thể làm cho nên công chính khi Chúa Giê-su đã đến. Vì vậy, trong bài giáo lý hôm nay, tôi muốn giải thích điều này. Và chúng ta tự hỏi: theo Thư gửi tín hữu Galát, vai trò của Lề Luật là gì? Trong đoạn thư chúng ta đã nghe, thánh Phao-lô nói rằng Lề Luật giống như một người giám hộ. Đó là một hình ảnh đẹp, đáng được hiểu theo đúng nghĩa của nó.
Thời kỳ của Lề Luật và thời kỳ của đức tin vào Chúa Ki-tô
Thánh Tông đồ dường như đề nghị các Kitô hữu phân chia lịch sử cứu độ, và cả lịch sử cá nhân của ngài, thành hai giai đoạn. Đó là hai thời kỳ: trước khi trở thành người tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và sau khi tiếp nhận đức tin. Ở trung tâm của lịch sử là sự chết và sống lại của Chúa Giê-su, điều mà thánh Phao-lô đã rao giảng nhằm khơi dậy niềm tin vào Con Thiên Chúa, nguồn ơn cứu độ, và trong Chúa Giê-su Ki-tô chúng ta được nên công chính. Chúng ta được nên công chính nhờ ơn huệ nhưng không của đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô. Vì vậy, bắt đầu từ đức tin vào Chúa Kitô, có một thời điểm “trước” và “sau” so với chính Lề Luật, bởi vì có Lề Luật, có Mười Điều răn, nhưng có một thái độ sống trước và sau khi Chúa Giê-su đến. Lịch sử trước đó được xác định bởi việc “bị Lề Luật giam giữ”. Và ai đi theo con đường của Lề Luật thì được cứu độ, được công chính; lịch sử sau đó – sau khi Chúa Giê-su đến – sẽ được sống bằng cách bước theo Chúa Thánh Thần (x. Gl 5, 25). Đây là lần đầu tiên thánh Phao-lô sử dụng cách diễn đạt này: “bị Lề Luật giam giữ”. Nó ám chỉ một sự nô dịch tiêu cực, điển hình của các nô lệ: “bị giam cầm”. Thánh Tông đồ nêu rõ điều đó bằng cách nói rằng khi một người “bị Lề Luật giam giữ” thì giống như bị “theo dõi” và “bị nhốt”, một kiểu giam giữ nhắm ngăn chặn. Thánh Phao-lô nói rằng thời kỳ này đã kéo dài một thời gian dài – từ Mô-sê cho đến khi Chúa Giê-su đến – và còn kéo dài bao lâu người ta còn sống trong tội lỗi.
Lề Luật là người giám hộ
Tương quan giữa Lề Luật và tội lỗi sẽ được thánh Tông đồ giải thích một cách có hệ thống hơn trong Thư gửi tín hữu Roma, được viết vài năm sau thư gửi tín hữu Galát. Tóm lại, Lề Luật giúp hiểu vi phạm Lề Luật là gì và giúp chúng ta nhận thức được tội lỗi của mình: “Bạn đã làm điều này, do đó Lề Luật – Mười Điều Răn – nói điều này: bạn phạm tội”. Hay đúng hơn, như kinh nghiệm chung đã dạy, luật lệ nhắm đẩy đến sự vi phạm. Thánh Phao-lô viết trong Thư gửi tín hữu Roma, ngài viết: “Vì trước đây, khi chúng ta còn bị tính xác thịt chi phối, thì các đam mê tội lỗi dùng Lề Luật mà hoạt động nơi các chi thể chúng ta, để chúng ta sinh hoa kết quả đưa tới cái chết. Nhưng nay, chúng ta không còn bị Lề Luật ràng buộc nữa, vì chúng ta đã chết đối với cái vẫn giam hãm chúng ta” (Rm 7, 5-6). Tại sao? Bởi vì ơn công chính hoá của Chúa Giê-su đã đến. Thánh Phao-lô diễn tả nhãn quan của ngài về Lề Luật: “Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật” (1Cr 15, 56).
Trong bối cảnh này, việc tham chiếu đến vai trò giám hộ của luật lệ đạt được ý nghĩa đầy đủ. Lề Luật là người giám hộ đưa bạn đến với Chúa Giê-su. Trong hệ thống học thuật thời cổ đại, nhà sư phạm không có chức năng như ngày nay, nghĩa là vai trò hỗ trợ việc giáo dục của một bé trai hay một bé gái. Trái lại, vào thời đó, họ là một nô lệ có nhiệm vụ đi cùng con của chủ nhân đến học với thầy giáo và sau đó đưa con của chủ về lại nhà. Bằng cách này, họ bảo vệ người được mình giám hộ khỏi nguy hiểm và trông chừng để đảm bảo đứa trẻ không cư xử xấu. Chức năng của người giám hộ thiên về kỷ luật. Khi cậu bé trở thành người lớn, người giám hộ ngừng nhiệm vụ của mình.
Lề Luật là một sự trợ giúp cho cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su Ki-tô.
Nói đến Lề Luật bằng những thuật ngữ này giúp thánh Phao-lô làm sáng tỏ vai trò của Lề Luật trong lịch sử của Israel. Torah, nghĩa là Lề Luật, là một hành động cao cả của Thiên Chúa đối với dân của Người. Sau việc chọn ông Áp-ra-ham, hành động vĩ đại khác của Thiên Chúa chính là ban Lề Luật: đưa ra con đường để tiến bước. Chắc chắn nó có những chức năng để giới hạn, nhưng đồng thời nó cũng đã bảo vệ dân Chúa, đã giáo dục họ, kỷ luật họ và hỗ trợ họ khi họ còn yếu đuối, trên hết là bảo vệ họ khỏi theo các thần của dân ngoại; có nhiều thái độ ngoại giáo trong thời đó. Kinh Torah nói: “Chỉ có một Thiên Chúa và Người đã dẫn đường cho chúng ta”. Một hành động nhân từ của Thiên Chúa. Và đây là lý do tại sao thánh Tông đồ tiếp tục mô tả giai đoạn của tuổi vị thành niên: “Bao lâu người thừa kế còn là thiếu niên thì không khác gì một nô lệ, mặc dù là chủ mọi tài sản. Nó phải ở dưới quyền những người giám hộ và quản lý, cho đến khi mãn hạn người cha đã định. Chúng ta cũng vậy, khi còn là thiếu niên, chúng ta phải làm nô lệ những yếu tố của vũ trụ” (Gl 4, 1-3).
Tóm lại, thánh Tông đồ xác tín rằng chức năng của Lề Luật chắc chắn là tích cực – như người giám hộ để tiến bước – nhưng là chức năng giới hạn về thời gian. Nó không thể kéo dài thời hạn của nó vượt mức, bởi vì nó liên quan đến sự trưởng thành của các cá nhân và sự lựa chọn tự do của họ. Một khi chúng ta đã có đức tin, Lề Luật sẽ hết giá trị giám hộ của nó và phải nhường chỗ cho một thẩm quyền khác. Điều đó có nghĩa là gì? Có phải khi Lề Luật kết thúc, chúng ta có thể nói: “Chúng ta tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và chúng ta làm điều mình muốn? Không! Các Điều Răn có đó, nhưng chúng không làm cho chúng ta trở nên công chính. Đấng làm cho chúng ta trở nên công chính là Chúa Giê-su Ki-tô. Các Điều Răn phải được tuân giữ, nhưng chúng không ban cho chúng ta sự công chính; cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su Ki-tô cho chúng ta được ơn công chính cách nhưng không. Ơn ích của đức tin là đón nhận Chúa Giê-su. Chúng ta phải tuân giữ các Điều Răn nhưng như là một sự trợ giúp cho cuộc gặp gỡ với Chúa Giê-su Ki-tô.
Giáo huấn này về giá trị của Lề Luật rất quan trọng, và đáng được xem xét cẩn thận, để chúng ta không hiểu lầm và thực hiện các bước sai lầm. Thật là tốt cho chúng ta nếu tự hỏi mình xem chúng ta có còn sống trong thời kỳ mà chúng ta cần đến Lề Luật hay không, hay ngược lại chúng ta hoàn toàn ý thức được mình đã nhận được ân sủng trở thành con cái của Thiên Chúa để được sống trong tình yêu thương. Tôi đang sống như thế nào? Có phải trong nỗi sợ hãi rằng nếu tôi không làm điều này, tôi sẽ xuống hoả ngục? Hay tôi cũng đang sống với niềm hy vọng, với niềm vui sướng về ơn cứu độ được ban cách nhưng không trong Chúa Giê-su Ki-tô? Và điều thứ hai nữa: tôi có coi thường các Điều Răn không? Không. Tôi tuân giữ chúng, nhưng không phải như những điều tuyệt đối, bởi vì tôi biết rằng chính Chúa Giê-su Ki-tô làm cho tôi được công chính.
Hồng Thủy
2021
Khủng hoảng mở ra những con đường
Các cộng đoàn Kitô giáo đầu tiên đã gặp phải nhiều cơn khủng hoảng. Có khủng hoảng gắn liền với tình trạng nội bộ. Có khủng hoảng do các yếu tố ngoại tại, chẳng hạn như mối liên hệ với Do Thái giáo – đưa đến sự tách rời – và những xung đột với quyền lực chính trị. Trong bài này, cha Daniel Cadrin, O.P., tập trung vào những khủng hoảng nội bộ để thấy được điều gì đã giúp tháo gỡ được những nút thắt – hay ít ra cho phép hạ nhiệt vấn đề trong một thời gian – để soi sáng cho chúng ta về lối đi ra của cơn khủng hoảng đại dịch. (Người dịch)
***
Chia sẻ
Khủng hoảng đầu tiên (Cv 6, 1-6) gắn liền với cơ cấu cộng đoàn Giêrusalem, tập hợp những người Do Thái ở Giuđê, miền Galilê và những người khác của cộng đoàn tha hương (diaspora). Khi phân chia lợi ích, các bà góa đến từ thế giới Hy Lạp đã bị bỏ rơi, nghĩa là có sự phân biệt về văn hóa. Phải làm gì đây? Trước hết phải triệu tập hội đồng để thảo luận vấn đề. Rồi người ta tìm thấy một giải pháp thực tiễn: việc chăm sóc các bà góa được giao cho các môn đệ có cùng nguồn gốc văn hóa. Trước một nhu cầu mới, người ta sáng tạo ra một cơ cấu sứ vụ mới: nhóm Bảy người.
Nhóm này, cũng như nhóm Mười Hai, không tồn tại lâu dài. Những hình thức thừa tác vụ khác xuất hiện, biến đổi tùy theo các cộng đoàn và môi trường: các trưởng lão, tông đồ, ngôn sứ, thầy dạy, chủ chăn, phó tế, giám quản, (Rm 12, 6-8; 1 Cr 12, 28-30; Ep 4, 11-12; Phl 1, 1). Sự đa dạng này dần hợp nhất lại quanh ba thừa tác vụ, nhưng trước hết phải trải nghiệm qua nhiều hình thức. Trở về với nhóm Bảy người, vài người trong số họ sau đó đã là những nhà truyền giáo đầu tiên trong thế giới ngoại giáo, một điều không hề được lường trước! Khi ta xoay trở cách sáng tạo trước sự khó khăn thì Chúa Thánh Thần sẽ mở ra những con đường.
Tiếp nhận dân ngoại giáo
Khủng hoảng lớn vào thời Giáo Hội sơ khai là tiếp nhận những Kitô hữu mới đến từ thế giới ngoại giáo, nghĩa là những người không phải là Do Thái. Ở đây cũng vậy, một tiến trình đã được sắp xếp để đối phó với vấn đề (Cv 15, 1-35): công nghị, với những người giữ những vị trí khác nhau, những cuộc tranh luận, những lựa chọn đã được chọn lựa, và rồi thông báo vấn đề. Cách xử lý này như là cách tiếp cận đầy cảm hứng và đã cho phép một bước ngoặt trọng đại: mở rộng đức tin Kitô giáo cho tất cả mọi nền văn hóa. Nhưng trong thực tế thì có vài yếu tố đã làm cho việc hòa nhập của dân ngoại được trở nên dễ dàng.
Sự chuyển giao Tin Mừng không được thực hiện trực tiếp từ thế giới Do Thái sang thế giới dân ngoại. Để việc chuyển giao này được thực hiện, phải có những tiếp nối, những trung gian đặt bước chân vào trong hơn một nền văn hóa. Một vai trò quan trọng như thế được những người kính sợ Chúa hay các tân tòng nắm giữ, họ là những người ngoại giáo đã cải đạo sang Do Thái giáo hay những người thân cận với họ (Cv 10, 1-2). Họ biết Sách Thánh, Thiên Chúa độc nhất, luật luân lý, cầu nguyện bằng Thánh Vịnh, etc. Họ có khả năng đón nhận Tin Mừng và rồi đến lượt mình họ có thể loan truyền cho những người hoàn toàn ngoại giáo.
Đào tạo và đồng hành
Quá tốt khi tiếp nhận những lương dân, song phải bảo đảm sự liên tục để họ ở lại. Một yếu tố khác rất gần với yếu tố trước, đó là chọn lựa các thừa tác viên để đào tạo. Khi một cộng đoàn có nguồn gốc lương dân được thành lập tại Antiokia (Cv 11, 19-26), các môn đệ ở Giêrusalem đã tỏ ra bối rối. Phải làm gì với những người này, những người không như họ nhưng tin vào Đức Kitô? Barnaba được chọn lựa để đồng hành với nhóm này: ông không phải là người Do Thái địa phương nhưng từ đảo Chypre, có nghĩa là ông quen tiếp xúc với các lương dân và biết về thế giới của họ. Nhưng Barnaba cũng đã có một phán đoán tốt: ông đi tìm Phaolô thành Tarsê, một người Do Thái được đào tạo về Sách Thánh, một Kitô hữu đầy thuyết phục, người quen thuộc với văn hóa Hy Lạp và quen sống trong một thành phố lớn. Ông nhờ Phaolô phụ giúp để dạy giáo lý.
Để đào tạo và đồng hành ai đó, phải biết ngôn ngữ, hệ thống giá trị và cách sống của người ấy. Tin Mừng Matthêô cũng vậy, được viết cho các Kitô hữu gốc Do Thái, chứng minh mối liên hệ giữa giao ước thứ nhất và thứ hai, sự hoàn tất Sách Thánh nơi Đức Kitô là Môsê mới. Tin Mừng Luca, được viết cho các Kitô hữu thuộc nền văn hóa Hy Lạp, nhấn mạnh về thanh danh, chú trọng đến những phạm trù về vinh nhục, những điển hình của luân lý đang thịnh hành. Trong các thư của mình, Thánh Phaolô sử dụng ngôn ngữ thể thao (1 Cr 9, 24-27; 2 Tm 4, 7-8): bởi vì người Hy Lạp đã sáng tạo ra thế vận hội và rất say mê thể thao. Ngài cũng sử dụng từ vựng của các trào lưu triết học đương thời, với sự chính xác (Plm 4, 8).
Chia rẽ và xung đột
Sau khi được thành lập, một cộng đoàn gồm các tín hữu xuất thân từ ngoại giáo, đã đón nhận Tin Mừng và tìm cách sống Tin Mừng theo từng ngày, những khủng hoảng khác bắt đầu xuất hiện, gắn liền với cơ cấu của các giáo hội trẻ. Các thành viên nam nữ từ những chân trời khác nhau đã làm việc ở đấy. Cũng như ngày nay vậy, những trung tâm đô thị tụ họp những con người có nguồn gốc văn hóa khác nhau; các cộng đoàn của Thánh Phaolô đã phản ánh điều đó, ngoại trừ cộng đoàn Galát. Họ là những người có địa vị xã hội khác nhau: người tự do, người được giải phóng, người nô lệ. Họ chia sẻ cùng một nền văn hóa đô thị, nhưng vẫn có những xung đột và khoảng cách. Những nhóm nhỏ này rất mong manh. Cơn khủng hoảng ở đây không theo nghĩa một biến cố nhưng là một tình trạng có nguy cơ phá vỡ cộng đoàn, phân rẽ cộng đoàn theo năm tháng.
Đối mặt với cơn khủng hoảng này, Thánh Phaolô đã triển khai một cách tiếp cận không theo hướng tìm kiếm sự đồng nhất hay những quy định dành cho mọi người, nhưng là trên điều đã quy tụ họ lại, thuộc trật tự đối thần: đức tin vào Đức Kitô, đức cậy vào Nước Trời của Ngài và đức ái giữa các thành viên. Không có những điều ấy, cộng đoàn sẽ dần tan rã. Do đó mà có tầm quan trọng của rửa tội, bí tích làm sáp nhập vào Đức Kitô (1 Cr 12, 13; Cl 3, 9-11), và sự đa dạng thống nhất (unitédiversité) của thân thể và các chi thể (1 Cr 12, 12-27; Rm 12, 4-5). Đối với Thánh Phaolô, không có thân thể mà không có sự khác biệt của các chi thể. Sự đa dạng này không phải là một thực tại phải chịu đựng mà là cấu thành của một thân thể. Nhưng thân thể này chỉ hoạt động và làm nhiệm vụ nếu có sự hợp nhất, được phép rửa ban cho và được bữa ăn của Chúa nuôi dưỡng (1 Cr 11, 17-34), và có những thực hành huynh đệ như chia sẻ của cải (2 Cr 8-9), cái hôn bình an (1 Cr 6, 20) bẻ gãy mọi rào cản.
Không phải là dễ dàng, những cơn khủng hoảng này dần phát sinh một điều mới mẻ trong Đế quốc Rôma: ý nghĩa của tình huynh đệ đại đồng được sống gần sát nhau, một hình thức xã hội tính mới mẻ của sự hỗ tương. Những mối tương quan tùy thuộc và ưu thế (văn hóa, địa vị xã hội, giới tính: Gl 3, 26-29) đều là thứ cấp so với phẩm giá của mỗi người và những mối tương quan huynh đệ. Tiếp cận của Thánh Phaolô vẫn có tính thời sự rõ ràng. Đức Phanxicô đã nhắc lại điều đó trong Thông điệp FratelliTutti.
Đối với các con, thầy là ai?
Những khủng hoảng khác gắn liền với những vấn đề thần học nền tảng, nhất là vấn đề căn tính của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Hiểu thế nào các tước hiệu này? Mối tương quan giữa Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế, và Thiên Chúa, đấng tạo dựng, là như thế nào? Tầm quan trọng nào dành cho nhân tính, sự nhập thể của Ngài? Các bản văn của Thánh Gioan, Tin Mừng và các thư, qua lại giữa nhân tính và thần tính Đức Giêsu. Thánh Marcô đối mặt với mầu nhiệm thập giá, Thánh Phaolô cũng vậy: làm thế nào mà kẻ bị đóng đinh lại có thể là sứ giả của Thiên Chúa, người mặc khải của Ngài?
Những vấn đề này gây căng thẳng trong các cộng đoàn và làm rạn nứt sự hiệp thông, có những nhóm tách ra khỏi Giáo Hội. Có nhiều giải pháp cho các khủng hoảng này. Một trong số những giải pháp đó là đưa ra những bản văn dùng làm cột mốc chung, điều này làm nảy sinh ra Tân Ước. Những bản văn này không phải là cách duy nhất để hiểu Đức Giêsu Kitô là ai nhưng còn nhiều con đường khác. Chúng ta có bốn Tin Mừng, sách Tông đồ công vụ, 21 thư và sách Khải Huyền, mỗi bản văn đưa ra một cái nhìn độc đáo về Đức Kitô, tuy không tương đương với những bản văn khác nhưng đi trong cùng một không gian ý nghĩa và giá trị. Điều này cho phép bảo đảm cả sự thống nhất lẫn đa dạng. Một cách đối mặt khác sẽ xảy ra sau này: các công đồng (Nicê, Constantinople, etc.)
Dù khủng hoảng thế nào đi chăng nữa, vai trò của những cuộc hội họp để nhìn ra vấn đề, tranh luận, biện phân, thật là quan trọng. Có như thế, giải pháp đưa ra không phải chỉ do các người chức trách mà do toàn bộ cộng đồng và nó có tính toán đến những hiện trạng ngay tại chỗ. Nói ngắn gọn, sự hiệp hành (synodalité) là chiếc chìa khóa, đây chính là chủ đề của Thượng hội đồng giám mục sắp tới mà Đức Phanxicô triệu tập. Tác giả: Daniel Cadrin, O.P.
Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính
Từ: Parabole, 6/2021, Vol. XXXVII, No 2, tr. 15-17