2022
Chân lý sẽ giải thoát chúng ta
CHÂN LÝ SẼ GIẢI THOÁT CHÚNG TA
(Bài phát biểu đầu năm học 2022-2003, Đại Chủng Viện Thánh Phanxicô Xaviê)
Năm nay, Ban Đào tạo chọn câu “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Ga 8,32) làm châm ngôn sống trong bối cảnh sự giả dối lên ngôi trên mạng, ngoài xã hội và trong lòng người. Chúng ta sẽ khai triển chủ đề này xuyên suốt năm học dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong khuôn khổ ở đây, xin được gợi ý một vài suy tư về châm ngôn liên quan đến nhận thức luận và việc đào tạo linh mục.
Từ những ngụ ngôn
Trong tác phẩm “Cộng Hoà”, Platon có một ngụ ngôn nổi tiếng nhất trong triết học: “The Allegory of the Cave – Ngụ ngôn về cái hang”. Trong đó, có nhiều người sống với nhau và họ không biết gì về thế giới bên ngoài. Họ bị xiềng chân và cổ, nên chỉ có thể nhìn thấy bóng và nghe tiếng con người bên ngoài dội lại từ bức tường. Họ cho rằng những cái bóng đó là thực tại. Cho đến một ngày, có một người đã ra khỏi hang. Lần đầu tiên, anh nhìn thấy trực tiếp vẻ đẹp của vạn vật trong hình dạng đích thực của chúng. Vì lòng trắc ẩn, anh quay trở lại hang động để giúp các bạn mình ra khỏi sai lầm và ngộ nhận. Nhưng họ lại châm chọc anh, rồi nổi giận và cuối cùng âm mưu giết chết anh.
Theo Platon, dân cư trong hang là loài người trước khi biết đến triết học. Chúng ta ít nhiều đều sống trong bóng tối sai lầm, ngộ nhận về chính mình và thế giới. Cuộc sống có nhiều những thứ phù phiếm như những bóng ma, những giá trị ảo mà con người lại theo đuổi, chứ không phải là chân lý khách quan và giá trị thật.
Ở Đông Phương, chúng ta cũng có một ngụ ngôn không kém phần thâm thuý như thế, đó là chuyện “Thầy bói xem voi.” Truyện kể về 5 ông thầy bói rủ nhau xem con voi có hình thù như thế nào. Mỗi ông xem một bộ phận. Ông xem vòi thì bảo con voi sun sun như con đỉa, ông xem ngà bảo con voi giống như cái đòn càn, ông xem tai thì bảo nó giống như cái quạt thóc, ông xem chân bảo nó sừng sững như cái cột đình, còn ông xem đuôi thì bảo nó tun tủn như cái chổi sề cùn. Năm ông cãi nhau, không ông nào chịu nhường ông nào, cuối cùng đánh nhau toạc đầu, chảy máu. Cả năm ông đều sai nhưng lại cho mình là đúng và bác bỏ ý kiến của người khác. Đó chính là thái độ chủ quan, phiến diện và sai lầm trong nhận thức.
Cả hai câu chuyện giúp ta rút ra bài học là: sự vật, hiện tượng bao gồm nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau. Nếu chỉ mới biết một khía cạnh mà đã cho rằng đó là toàn bộ sự vật thì sẽ là sai lầm lớn. Muốn kết luận về một sự vật, thì phải nhìn tổng thể, toàn diện và cần phải lắng nghe ý kiến của người khác, kết hợp với phân tích, đánh giá, tổng hợp để có cái nhìn chính xác và đầy đủ nhất về chân lý.
Vậy chân lý là gì?
Theo Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, đây là một câu hỏi quan trọng, trong đó xoay quanh số phận của cả nhân loại. Chúng ta có thể nhận ra chân lý hay không? Chân lý có thể trở thành tiêu chuẩn cho suy tư và ý chí của chúng ta hay không, dù đó là cá nhân hay trong đời sống xã hội? Đức Bênêđictô XVI than phiền rằng “ngày nay chỉ có chân lý chức năng (functional truth) về con người là được quan tâm và khám phá (như mã di truyền chẳng hạn). Còn chân lý về chính con người: Con người là ai? Từ đâu tới? Điều gì đúng, điều gì sai, thì con người thường tránh né, không muốn giáp mặt như chân lý chức năng.”
Về phương diện nhận thức luận, Thánh Tôma Aquinô có một định nghĩa trở thành quy chuẩn kinh điển từ xưa tới nay: “Chân lý là sự tương hợp giữa hiểu biết và thực tại – adaequatio intellectus et rei.”[1] Nếu lý trí con người phản ánh một sự vật đúng như nó là, lúc ấy con người tìm được chân lý. Nếu chỉ có một phần điều hiện hữu thật sự – thì không phải là chân lý tròn đầy và trọn vẹn.[2] Bởi thế, người ta thường nói: Nửa cái bánh mỳ vẫn là bánh mỳ, nhưng nửa sự thật thì không phải là sự thật.
Một xác quyết khác của Thánh Tôma có thể giúp chúng ta tiếp cận ý hướng mạc khải của Chúa Giêsu: “Chân lý trong lý trí của Thiên Chúa mang ý nghĩa đích thực và tiên khởi; còn chân lý trong lý trí con người cũng đích thực nhưng thứ yếu. Từ đó giúp chúng ta đi đến công thức cuối cùng: Thiên Chúa là “ipsa summa et prima veritas – là chân lý tối thượng và đầu tiên.”[3]
Nhưng chưa dừng ở đó, Kitô giáo mang đến một sự mới mẻ về phạm trù chân lý. Theo đó, chân lý không chỉ là một ý tưởng, nhưng là một Con Người. Đó là sự mới mẻ đến mức không thể tin nổi, nên dù có đối diện với Chân Lý ấy, Philato vẫn thắc mắc: “Chân lý là gì?” (Ga 18,38). Chân lý ấy là Con Thiên Chúa, nhập thể làm người trong Đức Giêsu Kitô thành Nadarét. Người “là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Người là Chân Lý toàn vẹn về Thiên Chúa và về con người. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn mạc khải: Chúa Cha sẽ ban Thánh Thần, “Người sẽ dẫn anh em tới Chân Lý toàn vẹn” (Ga 16,13). Vì thế, Đức Bênêđictô XVI khẳng định: “Thiên Chúa đã đi vào thế gian và đã thiết lập tiêu chuẩn chân lý giữa dòng lịch sử”, “nếu con người sống mà không có chân lý thì cuộc sống sẽ trôi dạt và cuối cùng chân lý sẽ thuộc về những ai mạnh thế hơn.”[4] Đồng thời, ngài lên án thuyết duy tương đối (relativisme) đang thống trị não trạng con người thời nay như một thứ độc tài mới mà nhiều người hôm nay chủ trương khi cho rằng, mọi chân lý đều là tương đối, và cũng chẳng có chuẩn mực khách quan nào cả về chân lý. Đức Bênêđictô XVI nói rõ hơn: “Ngày nay, có một lực cản đặc biệt đáng ngại trong việc giáo dục, đó là sự hiện diện rộng khắp của chủ nghĩa tương đối trong xã hội và văn hóa. Chủ nghĩa này không nhìn nhận điều gì là vững vàng, cuối cùng tiêu chuẩn tối thượng duy nhất là cái tôi và những ước muốn của nó. Và ẩn dưới dáng vẻ của tự do, nó lại biến thành ngục tù cho mỗi người vì nó ngăn cách con người với nhau, khóa chặt mỗi người trong cái tôi ích kỷ của mình.”[5]
Sự thật sẽ giải thoát anh em!
Dưới ánh sáng ấy, châm ngôn “Sự thật sẽ giải thoát anh em” áp dụng trong việc đào tạo linh mục.
Thật vậy, việc huấn luyện linh mục là một quá trình với hai giai đoạn Triết – Thần nhằm giúp ứng sinh khám phá chân lý toàn diện, khách quan và đầy đủ nhất về Thiên Chúa, con người và thế giới. Theo Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông điệp Veritatis Spendor: “Sự thật soi sáng trí khôn và định hình tự do của con người, dẫn họ đến chỗ nhận biết và yêu mến Chúa.”
Bởi vì Chúa Giêsu Kitô vừa là Chân Lý, vừa là quy chuẩn khách quan của Chân Lý, là mô mẫu lý tưởng của con người, đó là lý do tại sao Ratio của Bộ Giáo Sỹ (2016) trình bày công cuộc đào tạo linh mục trải qua từng giai đoạn tiệm tiến: Giai đoạn triết học là đào tạo ứng sinh trở thành người môn đệ Chúa Kitô qua việc ở với, bước theo Chúa Kitô (Sequela Christi). Giai đoạn thần học đào tạo ứng sinh đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, là Mục Tử và Tôi Tớ, để có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và dâng hiến đời mình cho tha nhân.
Đào tạo tri thức là giúp các chủng sinh thoát khỏi lối tư duy sai lạc, chủ quan, giảm thiểu, phiến diện và tiêu cực, nhưng càng ngày càng đạt tới khả năng phán đoán và nhận thức thực tại một cách đúng đắn, khách quan, toàn diện và tích cực hơn. Đặc biệt nhờ việc nghiên cứu triết – thần kết hợp với kinh nghiệm thiêng liêng, các chủng sinh được trưởng thành về mặt nhận thức luận để họ “biết và hiểu cơ cấu nội tại của đức tin trong toàn thể, để đức tin trở thành câu trả lời cho những thắc mắc của con người hôm nay.”[6]
Hoán cải trí tuệ
Trước hết, chúng ta cần nhớ rằng, một đàng, con người có khả năng nhận biết chân lý. Đây là phẩm giá cao quý nhất mà Thiên Chúa phú bẩm cho con người. Lý trí là đặc điểm phân biệt con người với con vật. Nhưng đàng khác, con người có thể sai lầm trong việc nhận thức. Phải thành thật khiêm tốn mà nhận rằng, chúng ta thường chỉ là những người “còn ở trong hang động”, chỉ là “thầy bói xem voi.” Bởi lẽ, thực tại được nhận thức qua khả năng, lăng kính và thái độ của mỗi người. Nên nó được dội lại và phản ánh theo “thế giới nhận thức, cảm xúc và thái độ đón nhận ấy của tôi.” Ta gọi đó là “trí tuệ cảm xúc.” Khi ta thích, ta yêu, mọi sự ta cho là tốt. Khi ta không thích, mọi sự là xấu. Nên sự thật có thể bị bóp méo, bị uốn cong hay giảm thiểu theo ý riêng của từng người. Đó là hiện tượng thiếu “lương thiện” trong nhận thức. Bởi thế, nhà thần học Bernard Lonergan nói đến việc “hoán cải về trí tuệ – the intellectual conversion,” nghĩa là phải luôn đổi mới tận căn tư duy, nếp nghĩ của bản thân, để luôn biết mở ra với chân lý khách quan tự thân (important in se) và giá trị đích thật, hơn là chỉ dựa theo những gì là “quan trọng đối với tôi” (important for me) hay dựa theo tiêu chuẩn “mình thích.” Hoa quả của cuộc hoán cải này là “đạt tới thái độ đúng đắn và lượng giá một cách khách quan, chính xác các sự việc trong cuộc sống.”
Để đổi mới tư duy, ở đây, chúng ta cần phân biệt các loại tư duy:
1) Tư duy không tư duy, nghĩa là người có não mà không suy tư, không chính kiến, chỉ dựa vào tư duy người khác. Người ta nghĩ sao mình nghĩ vậy.
2) Tư duy kinh nghiệm, nghĩa là người tư duy, tìm được nguyên lý nhờ trải qua những kinh nghiệm cuộc sống. Tư duy kinh nghiệm có giá trị của nó nhưng trước những biến mới thì kinh nghiệm không giúp được nhiều, vì chưa trải qua, nên tư duy kinh nghiệm thôi chưa đủ.
3) Tư duy khoa học là tư duy có sự chính xác, khách quan và tính chuyên môn cao nhờ nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi.
4) Tư duy độc đáo là tư duy dựa trên logic khoa học và sự sáng tạo của bản thân. Người nắm nguyên lý khoa học và biết áp dụng vào cuộc sống với sự sáng tạo của mình, tạo nên sự mới mẻ, đột phá, độc lập và khác biệt. Nếu muốn tạo sự khác biệt mà không có tư duy khoa học, không nắm nguyên lý, sẽ trở nên dị biệt. Xu thế thời đại hôm nay đề cao lối tư duy độc đáo này. Người Nhật nói rằng: “Khác biệt hay là chết.” Bởi thế, người ta buộc phải thay đổi liên tục về tư duy, ý tưởng, sản phẩm và lối tiếp cận…
Và nhận ra sự thật bản thân
Thứ đến, châm ngôn “Sự thật sẽ giải thoát anh em” cũng giúp chúng ta khám phá sự thật bản thân để được tự do.
Thật vậy, mỗi ứng sinh là huyền nhiệm đối với chính mình. Hành trình huấn luyện được bắt đầu từ khi ứng sinh biết khám phá sự thật về chính mình. Một đàng, mỗi người được sáng tạo và phú bẩm với rất nhiều khả năng và tiềm năng cần phát triển. Đàng khác, con người là giới hạn, bất nhất và mù loà về chính mình cần khám phá để đổi thay. “Errare humanum est!”
Đào tạo là giúp ứng sinh khám phá, đưa ra ánh sáng sự thật về chính mình, biết mình mỗi ngày một hơn: từ hành vi, thái độ, tình cảm, khuynh hướng, khả năng, tiềm năng, tính tình, nhu cầu, động lực bên trong, những giới hạn, sự bất nhất và những xung đột, những vùng mù tối bên trong. Nhờ ánh sáng của Lời Chúa và tác động của Chúa Thánh Thần cùng với sự trợ giúp của các nhà đào tạo, các chủng sinh đưa ra ánh sáng sự thật về mình, nhận diện sự thật ấy để được uốn nắn và biến đổi bản thân.
Theo Cha Cencini, biết mình một cách chân thành thôi thì chưa đủ, mà còn phải biết mình một cách chính xác, khách quan và toàn diện, không trốn tránh, không giả vờ, không phỏng chiếu, không đeo mặt nạ với mình. Chỉ có khi nào ta ở trong sự thật, ta mới có thể thực hiện cuộc hành trình huấn luyện.
Theo Cha James E. Sullivan trong cuốn “Hành Trình Tự Do”,[7] ta không được tự do bởi vì nhiều chứng ngoại vật bên trong và bên ngoài như cơ chế tự vệ, lăng kính nhận thức và cảm xúc của ta… Chúng giam hãm ta trong sự sai lầm, định kiến và nô lệ. Nếu ta có nhận ra sự thật về chính mình, thì chẳng qua chỉ là những ‘thứ tạp nham về mình,” là những biến dạng được tạo ra do hệ thống nhận thức và những lăng kính lệch lạc ấy của mình. Nên ta thường sợ đối diện với sự thật về chính mình. Vì sự thật thì trần trụi. Sự thật thì mất lòng. Sự thật có thể gây tổn thương. Câu chuyện nguyên tổ loài người sa ngã diễn tả điều đó: Ađam và Evà sau khi khi phạm tội, khám phá ra mình trần trụi và trống rỗng trước nhan Thiên Chúa, nên họ tìm cách chạy trốn chính mình, đổ lỗi cho người khác và lấy lá để che thân (x. St 3,1-14). Đó là thái độ trốn tránh tiêu biểu của con người mọi thời khi đối diện với sự thật.
Nhưng để có sự trưởng thành và tự do đích thực, ta phải tìm cách loại bỏ những lăng kính, định kiến và sự cố thủ riêng, và hãy buông mình cho Chúa Thánh Thần. Bấy giờ, ta có thể nhận biết con người và sự vật đúng theo thực chất của con người và sự vật ấy, và chỉ lúc đó, sự thật dẫn đưa ta tới tự do. Vậy, hãy can đảm đón nhận sự thật về mình. Hãy mở ra với chân lý khách quan, các giá trị thật và nội tâm hoá chúng để được biến đổi, tự do và trở nên con người mới trong Đức Kitô. Ước gì được như vậy trong năm học mới này!
[1] Tôma Aquinô, Summa Theologia, I q. 21 a. 2c.
[2] Joseph Ratzinger – Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Đức Giêsu thành Nadarét, Phần II, Từ lúc vào Giêrusalem cho đến phục sinh, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2011, 233-234. 236.
[3] Ibidem. Cf. Tôma Aquinô, Summa Theologia, Iq 16 a. 5c
[4] Ibidem.
[5] Ibidem.
[6] Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Thư gửi các chủng sinh, 2010.
[7] x. James E. Sullivan, Hành trình tự do. Con đường tự trọng của linh mục và tu sĩ, Nxb. Tôn Giáo, Hà Nội 2013.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
2022
Mỗi chúng ta đều có một “chốn bình yên” để trở về sau bão táp phong ba: Đó chính là Nhà!
Mỗi chúng ta đều có một “chốn bình yên” để trở về sau bão táp phong ba: Đó chính là Nhà!
Nhà là gì? Nhà là nơi trở về của tâm hồn, là khu vui chơi của giấc mơ, là bến đỗ của đời người. Là một đoạn văn chương cảm động mà chúng ta dùng cả đời cũng không viết hết được…
Khi tâm hồn mong manh của bạn bị tổn thương, nhà chính là liều thuốc tốt để chữa lành vết thương; khi bạn đang nằm ở dưới đáy của cuộc đời, nhà chính là cội nguồn để bạn lấy lại sức mạnh; khi bạn cô đơn trải qua phong ba bão táp, nhà chính là bến đỗ ấm áp.
Nhà, là nơi vừa nhắc đến sẽ cảm thấy ấm áp, là từ ngữ mà nghĩ đến nó cũng khiến người khác say mê. Là nơi thân thuộc nhất với chúng ta, nơi đó có những người thân mà chúng ta yêu nhất, những hồi ức đẹp nhất.
Nhà, là xã hội mà mỗi con người đều tiếp xúc sớm nhất, là nơi có “hỉ nộ ái ố” của chúng ta, cũng có cả cay đắng ngọt bùi
Những ai không có nhà, có thể sẽ thiếu đi một cảm giác thuộc về, giống như một đám mây trôi nổi bất định trên bầu trời. Nhà, không chỉ là một gian phòng với bốn góc tường, mà còn là nơi nuôi dưỡng tâm hồn, chứa đựng những tình cảm.
Cuộc đời, là một quá trình chứa đầy sự hoang vu mang theo những đồng cỏ dại. Mà trong quá trình này, thứ chúng ta không thể bỏ qua, chính là nhà.
Nhà có thể là một loại kỳ vọng, là nơi mỗi lần chúng ta tan làm đều buông xuôi tất cả vội vã chạy về, bất luận bạn đi xa bao nhiêu, cũng bất luận sự nghiệp đỉnh cao đến đâu,… Nhà vẫn mãi là nơi bạn luôn nhớ về.
Vì có nhà, là có một sự quan tâm sâu sắc, cuộc sống cũng sẽ không vì mất gốc rễ mà khô héo đi; cũng có lẽ vì có nhà, mới có sự quan tâm sâu sắc đến thế, mới trở nên tỏa sáng như thế.
Nhà, là bến đỗ bình yên, nơi bạn có thể nhìn thấy nụ cười của người thân yêu, chính là một hạnh phúc
Khi còn là đứa trẻ, nhà chính là tiếng gọi của mẹ. Tuổi thơ đã từng vui vẻ, ồn ào náo nhiệt, vô tư vô lo.
Sau giờ học, sẽ cùng với những đứa trong làng xóm tụ tập với nhau, nô đùa bay nhảy, chơi đến hoàng hôn buông xuống, cho đến khi khói bếp bốc lên, nghe thấy tiếng gọi gấp gáp từ bốn phía của mẹ: “Về nhà thôi, ăn cơm nào!”
Trong ký ức, tiếng gọi của mẹ chính là sự ấm áp, là sự chăm sóc của ngôi nhà. Nó đã cùng trưởng thành với những đứa trẻ thời niên thiếu, và vẫn vang vọng bên tai cho đến hiện tại.
Khi đến tuổi trung niên, nhà lại là một trạm nhiên liệu
Mỗi khi màn đêm buông xuống, bạn bôn ba cả một ngày bên ngoài, trên vai gánh vác áp lực của sự nghiệp, kéo lê cơ thể đã mệt mỏi về nhà, nhìn thấy ánh đèn thắp sáng trong nhà, mong chờ được thấy nụ cười vui vẻ của gia đình, ngửi được mùi thơm của thức ăn, ngay lúc đó sẽ cảm thấy tràn đầy năng lượng, sự ấm áp sẽ lan tỏa khắp không gian.
Nhà không chỉ có thể khiến bạn tận hưởng niềm hạnh phúc của cuộc sống mà còn có thể cho bạn sự can đảm và sức mạnh để tiến về phía trước. Khi ánh mặt trời chiếu sáng, bạn vẫn có thể không ngại ngần mà đi Nam rẽ Bắc, vì sự nghiệp mà bôn ba khắp nơi.
Và khi về già, nhà lại là một viện bảo tàng
Rượu là hương thơm của trần thế, tình là sự nồng đậm của bạn đời, người càng lớn tuổi, thì sẽ càng hoài niệm sâu sắc hơn với nhà.
Một chiếc ghế, một ấm trà, một chiếc mũ trong nhà đều khắc lên một dấu vết, một ký ức thật dài; một cuốn sách, một lá thư và một bức ảnh cũng đều gợi lên từng chút từng chút của quá khứ, bất chợt nước mắt rơi như mưa,…
Nhà văn nổi tiếng người Pháp Moroa đã từng viết: “Không có gia đình, thì ở trong thế giới rộng lớn bao la này, con người sẽ trở nên lạnh lẽo cô đơn”.
Trong thế giới của chúng ta, có rất nhiều người cho rằng, nhà chính là một căn phòng, là một cái sân. Tuy nhiên, một căn phòng trống vắng không người, mất đi tình cảm và sự ấm áp, thì không thể nào trở thành một căn nhà đúng nghĩa.
Nhà là một nơi đong đầy tình yêu thương
Đối với đàn ông, nhà chính là nơi khi gặp phải trắc trở, học sẽ cảm thấy nó ấm áp nhất, đối với phụ nữ, nhà lại là một nơi mà cả đời này dùng để bảo vệ và hun đắp tình yêu thương.
Nhà, không phải chỉ là một căn phòng hình vuông, cũng không phải bố trí sang trọng đẹp đẽ. Yếu tố quan trọng để tạo thành một ngôi nhà chính là tình yêu, chúng ta phải dùng tâm hồn để vun đắp, chính bởi tình yêu thương này mà cảm thấy ấm áp, khiến chúng ta thoải mái. Vì tình yêu này mà ta lo lắng, vì tình yêu này mà ta nhớ nhung.
Nhà, là cội nguồn của chúng ta, dù có đi bao xa, đến chân trời góc biển, cũng không thể đi khỏi trái tim của nó; Nhà, là giấc mơ, là câu chuyện cổ tích đẹp nhất của chúng ta, bất kể bên ngoài có bao nhiêu phức tạp, chỉ cần nghĩ đến nó, chúng ta sẽ không còn sợ hãi và cảm thấy lạc lõng!
Lan Hòa biên tập
2022
Tha thứ: Một ơn gọi và một con đường để nên thánh
THA THỨ: MỘT ƠN GỌI VÀ MỘT CON ĐƯỜNG ĐỂ NÊN THÁNH
“Tha thứ, một ơn gọi và một con đường để nên thánh” là chủ đề bài chia sẻ của anh chị Danny và Leila Abdallah tại Đại hội Gia đình Thế Giới lần thứ X được tổ chức tại Roma vào ngày 22-26/ 6/ 2022 vừa qua.
Sau 28 tháng, cùng với 3 đứa con hiện tại- Liana, Alex, Michael và bé sơ sinh Selina, cả gia đình Abdallahs đã chia sẻ câu chuyện của họ để phản ánh về việc đức tin đã dẫn họ đến sự tha thứ như thế nào.
Câu chuyện xảy ra vào ngày 01. 02. 2020 khi một người đàn ông 29 tuổi lái xe trong tình trạng say rượu và phê ma túy lao lên vỉa hè nhanh gấp ba lần tốc độ cho phép đã giết chết 4 đứa trẻ và làm 3 trẻ khác bị thương. Tai nạn này đã biến chuyến đi chơi thú vị của gia đình Abdallahs ở phía tây Sydney trở thành thảm kịch khi bọn trẻ đi mua kem sau bữa tiệc sinh nhật. Vì, chỉ trong nháy mắt, họ đã mất cháu gái 11 tuổi và 3 đứa con – Antony 13 tuổi, Angelina 12 tuổi, và Sienna 9 tuổi, trong khi 3 đứa con còn lại bị thương nặng.
Danny và Leila Abdallah cùng với các con Liana, Alex, Michael và Selina tại Vatican vào ngày 23. 6. 2022
Từ nỗi đau đến sự tha thứ
Hai ngày sau vụ tai nạn kinh hoàng, 03. 02. 2020, Leila quay lại hiện trường ngập trong hoa, nến, những tấm thiệp, bóng bay và thú nhồi bông. Cô đã đứng lặng cầu nguyện ở đó.
Ngay sau đó, khi được giới truyền thông hỏi về cảm xúc của mình, Leila chia sẻ:
“Tôi không giận ghét anh ta. Trong thâm tâm tôi nghĩ mình đã tha thứ cho anh ta rồi, nhưng tôi muốn tòa án thực thi công lý”.
Lời tha thứ công khai và sự kiên vững trong đức tin khi đối mặt với thảm kịch của Leila đã trở thành lời kêu gọi đối với những người đề nghị giúp đỡ, đó là lần hạt Mân Côi cho gia đình cô. Đáp lại lời yêu cầu của Leila, hàng ngàn người đã tập trung tại nơi xảy ra vụ tai nạn mỗi đêm để lần hạt Mân Côi, và họ tiếp tục đến cho đến khi đám tang được cử hành 1 tháng sau đó.
Trước hành vi của Leila, Danny cho biết anh không ngạc nhiên chút nào khi vợ anh lại tha thứ cho người lái xe ấy một cách nhanh chóng như vậy. Vì thực, sau đêm đó,
chúng tôi đã nói với nhau về việc tôn vinh Thiên Chúa. Chúng tôi tự an ủi nhau “Mọi sự sẽ ổn thôi, con của chúng ta đang ở trên thiên đàng. Chẳng phải tất cả những gì chúng ta muốn là đưa bọn trẻ đến đó sao?” Và chúng tôi biết rằng mình phải làm theo ý muốn của Thiên Chúa, và tha thứ để một ngày nào đó chúng tôi có thể đoàn tụ với các con của mình.
Nhưng không phải cả hai thực hiện được sự tha thứ này một cách dễ dàng. Chính Danny cũng cũng thú nhận rằng, anh vốn là một người hiếu chiến, và nếu không phải vì vợ và những đứa con còn sống, anh có thể đã đuổi theo tên lái xe. Nhưng,
Tôi phải giữ sự bình tĩnh của mình và đưa ra mọi quyết định với tư cách là một người cha. Hơn nữa, Nếu tôi lựa chọn trả thù, cay đắng và tức giận, tôi có thể đảm bảo với bạn, điều đó sẽ nằm trong tâm hồn các con tôi và vợ tôi, cả gia đình tôi sẽ mất trắng.
Trong khi đó, Leila nhìn nhận “Tôi tin rằng sự tha thứ vào thời điểm đó đến từ Chúa Thánh Thần, chính Ngài đã tác động môi tôi để nói lời tha thứ”. Trong thâm tâm, tôi luôn tự nhủ
Tha thứ là sứ điệp cốt lõi của Kitô giáo, vì thế, là một Kitô hữu, tôi muốn tha thứ. Tất cả lời cầu nguyện của chúng ta là về sự tha thứ. Khi cầu nguyện Kinh Lạy Cha của Chúa Giêsu, chúng ta nói, “Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”, đây là những lời cần được thực hành một cách nghiêm túc.
Nhưng không phải chỉ cha mẹ, mà những đứa con của họ cũng mở lòng để tha thứ. Danny cho biết “Như bạn biết đấy, chúng tôi chưa bao giờ yêu cầu bọn trẻ tha thứ cho người lái xe”.
Cậu bé Alex Abdallah 8 tuổi nhận thức được rằng, một số người cần nhiều thời gian hơn những người khác để tha thứ cho ai đó.
Khi nghe tin anh và 2 chị tôi qua đời, bố mẹ tôi đã nói với tôi rằng họ đã tha thứ cho người tài xế, nhưng tôi không vui lắm vì tôi nói: “Như thế là quá nhanh”. Tôi không thể tha thứ cho điều đó cách mau chóng. Tôi cần thời gian.
Và rồi, khoảng 1 năm sau, và khi người lái xe “nói một lời xin lỗi long trọng”, Alex cũng đã sẵn sàng tha thứ, và trải nghiệm một “Cảm giác thật tuyệt!”
Danny và Leila Abdallah và 6 đứa con của họ vào năm 2019.
Thử thách của nỗi đau
Khi được hỏi “Hôn nhân của anh chị ra sao sau những đau buồn?” Danny bộc bạch:
Cuộc sống hôn nhân của chúng tôi khác đi rất nhiều. Tôi cho rằng, nếu bạn ôm nỗi đau và sự đau khổ, và đưa tất cả vào lời cầu nguyện, điều đó giống như bạn đang trải qua một lò lửa của sự thanh luyện.
Còn với Leila:
“Chúng tôi trải qua thời kỳ … Anh Danny có thể tức giận, hoặc tôi có thể giận dữ vào một thời điểm khác nhau. Nhưng chúng tôi đã may mắn, vì sự tha thứ, niềm tin, và tình yêu của chúng tôi đã trở nên sâu sắc hơn”.
Cả hai đều nhấn mạnh sự tha thứ đã có ảnh hưởng rất lớn đối với hôn nhân của họ.
Leila cho biết họ đã học cách kiên nhẫn hơn, ít tranh cãi ngớ ngẩn hơn. Khi một trong hai người thất vọng, họ cố gắng lắng nghe, biết rằng sự thất vọng không ở bên họ. Với cô,
Chính sự tha thứ cho phép cuộc hôn nhân của chúng tôi tồn tại. Vì thực, trong những khoảnh khắc của tang lễ, an táng, và suốt hành trình đau buồn của chúng tôi, nhìn Danny, tôi vẫn cảm thấy mình thật có phúc, vì tôi vẫn còn anh ấy bên cạnh, và như thế, nó cho phép tôi yếu đuối.
Khi chia sẻ về ảnh hưởng của chấn thương tâm lý và cách cả hai tiếp tục cùng nhau vượt qua nỗi buồn và sự tức giận, Danny cho biết thêm,
trong năm đầu tiên sau thảm kịch, tôi rất đau buồn và sống trong quá khứ. Nhưng sau đó, tôi đã trải nghiệm “khoảnh khắc của Chúa”, khi tôi cảm thấy như Chúa đang thúc giục tôi ngừng nhìn lại phía sau để tìm kiếm những đứa con đã mất của mình nhưng nhận ra rằng “bọn trẻ đang ở trước mặt mình”. Chính điều này đã giúp tôi thay đổi thái độ, và thay vì liên tục bị trầm cảm bởi thảm kịch, thì tôi nhận thức rằng, mỗi sáng thức dậy sẽ dẫn tôi tiến thêm một bước tới để đoàn tụ với các con. Cái chết bây giờ đã trở thành một cái gì đó đẹp đẽ chứ không còn là điều xa lạ đối với chúng tôi. Đó là khoảng thời gian khó khăn, nhưng nó không làm nỗi đau âm ỉ mà giúp chúng tôi tập trung vào cuộc sống tiếp theo.
Và, Danny thêm vào. “Chúng tôi nhân ái hơn. Chúng tôi đồng cảm hơn. Chúng tôi nhìn nhau … bằng một đôi mắt khác”.
Cùng suy nghĩ giống chồng, Leila nhìn nhận:
Nếu không tha thứ, tôi sẽ chìm đắm trong tức giận và cay đắng. Tôi sẽ sống trong đau đớn và khổ sở. Tôi sẽ mất cuộc hôn nhân của mình. Tôi sẽ mất những đứa con của mình vì chấn thương tâm lý, tự tử, ma túy và rượu. Nhưng là Kitô hữu, chúng tôi sống trong niềm tin và niềm hy vọng về sự sống lại.
Danny chỉ ra rằng có rất nhiều cuộc hôn nhân tan vỡ sau khi mất 1 đứa con, trong khi đó họ mất đi một nửa số con. Vì vậy, tôi phải tập trung vào sự tha thứ bởi vì, nếu không,
Tôi sẽ mất toàn bộ gia đình của mình chứ không phải một nửa. Nếu không tập trung vào sự tha thứ, thay vào đó tôi sẽ “bị ám ảnh bởi người lái xe và gia đình anh ta, và làm điều gì đó tồi tệ với họ. Chúng ta phải tìm ra điều tốt đẹp hơn, đó là lý do để tha thứ. Trong trường hợp của chúng tôi, “Tôi đã chọn cách tha thứ cho bản thân, cho người sai phạm, và tôi cố gắng làm theo ý Cha trên trời, và 3 đứa con đã mất của chúng tôi. Chắc chắn, nếu các con tôi có mặt ở đây hôm nay, chúng sẽ nói, “Bố ơi, hãy tha thứ cho ông ấy”.
Còn Leila, cô nói với Danny rằng cô không thể rời xa anh vì “anh làm em nhớ đến Antony, anh trông giống Angelina, và bước đi như Sienna“. Do đó,
Nếu chúng ta nhìn người bạn đời của mình dưới góc độ tình yêu mà chúng ta dành cho con cái, thì mọi thứ sẽ thay đổi. Chúng tôi vẫn tranh cãi, và điều này sẽ không bao giờ thay đổi. Vấn đề là có thể tha thứ, và mở lòng cho những vấn đề quan trọng.
Cuộc sống từ sự Tha thứ
Danny và Leila Abdallah và Selina 3 tháng tuổi tại Roma vào ngày 24. 6. 2022
Theo Danny, chiều sâu của sự tha thứ mà họ có được trong đời sống hôn nhân cũng đã dạy họ rất nhiều về nhau, và về cách họ nhìn nhau.
Thực ra, chúng ta đã thực hành sự tha thứ mỗi ngày trong suốt cuộc đời, khi chúng ta tha thứ cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè, vợ / chồng của mình. Đây là những hành động tha thứ nhỏ nhặt, nhưng nhìn chung, chúng ta phải bắt đầu tha thứ cho những điều bé mọn để có thể tha thứ cho những điều lớn lao.
Mặc dù giữa họ vẫn thường xuyên xảy ra những cuộc tranh cãi, nhưng họ đã học được cách quay trở lại nơi có thể tha thứ bởi vì “đôi khi có những điều không đáng để níu kéo”.
Trong khi đó, Leila chia sẻ quan điểm của mình, một số cặp vợ chồng ly hôn vì họ không biết cách tha thứ cho nhau. Đối với tôi,
Điều quan trọng là bạn phải trút bỏ được cơn giận của mình. Hãy tha thứ vô điều kiện, yêu thương vô điều kiện để bạn có được sự đồng cảm và lòng trắc ẩn trong hôn nhân”.
Hơn nữa,
Tha thứ là chìa khóa của một mối tương quan lâu dài, chính sự tha thứ đã giữ cho cuộc hôn nhân của chúng tôi bền chặt, giúp chúng tôi hướng tới tương lai, và mang đến cho chúng tôi cô con gái thần kỳ Selina.
Thật thế, vào tháng 3/2022, gia đình Abdallahs chào đón một cô con gái mới, Selina, là tên được ghép để tưởng nhớ 2 người chị đã mất trong vụ tai nạn, Sienna và Angelina.
Danny cho biết sự thay đổi lớn nhất kể từ khi mất đi 3 đứa con, là sự hiểu biết và kinh nghiệm sâu sắc hơn về sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô.
Tất cả chúng ta đều được kêu gọi phải chịu đựng. Khi Đức Kitô trở thành người, Ngài đã vác thập giá của mình và chịu đau khổ. Nhưng những gì chúng ta đang chịu đựng ở đây chẳng thể so sánh với niềm vui đang chờ đợi chúng ta trên thiên đàng, nơi không còn đau đớn, thống khổ, đói khát. Tất cả những đau khổ của chúng ta ở đây là tạm thời; hãy dâng nó cho Chúa Giêsu và Thiên Chúa.
Chia sẻ trải nghiệm của mình, và cũng như là sự khuyến khích tất cả các bậc cha mẹ, vì nhiều hoàn cảnh khác nhau, đang thương tiếc sự mất con hãy cố gắng nhìn về phía trước, với nhận thức rằng con của họ đang “chuẩn bị một ngôi nhà cho họ ở trên trời”. Leila nói,
Sự chết là một phần của cuộc sống, và Kinh thánh nói rõ: Tất cả chúng ta sẽ chết. Và chúng ta nên chuẩn bị cho ngày đó. Tôi cũng tin rằng con cái chúng tôi không thuộc về chúng tôi, chúng ở đây để chúng tôi chăm sóc chúng, nhưng chúng là con của Chúa và chúng thuộc về Ngài, và nhiệm vụ của chúng tôi là giúp chúng sẵn sàng đến gặp Chúa.
Lặp lại cùng một lời khuyên cho tất cả, Leila nói:
Tất cả chúng ta đều được kêu gọi trở thành những vị thánh, như một gia đình. Bạn có thể tìm thấy hy vọng trong bi kịch, hãy ôm lấy nỗi đau, hãy tha thứ, và dâng lên cho Thiên Chúa.
Và, Danny kết luận:
Bạn biết đấy, chúng tôi đã chọn cách tha thứ, và đã tha thứ, nhưng nỗi đau vẫn chưa rời bỏ chúng tôi. Chúng tôi vẫn đang trải qua nỗi đau hàng ngày, nhưng sự tha thứ sẽ đưa chúng tôi đến một cảm thức tốt đẹp, ý nghĩa và trọn vẹn hơn.
Gia đình Abdallahs đã lập ra ngày i4give (Tôi tha thứ) vào mồng 1 tháng 2, để tưởng nhớ 4 đứa trẻ đã chết trong vụ tai nạn:
Bốn đứa trẻ, đối với chúng tôi, giờ đây đã là 4 vị thánh, và chúng tôi muốn dành ngày này cho chúng. Tha thứ là món quà lớn nhất mà bạn có thể trao tặng cho chính mình và người khác. Thực ra, tha thứ là cho người tha thứ nhiều hơn là cho người được tha thứ. Khi bạn tha thứ cho người kia, bạn bắt đầu được chữa lành.
Ngày này cũng đã được Chính phủ Liên bang và Tiểu bang tại Úc tán thành và chọn là ngày Quốc gia của sự tha thứ, nhằm khuyến khích mọi người áp dụng sự tha thứ trong mọi chiều kích của cuộc sống, vượt lên trên mọi rào cản và ranh giới về chủng tộc, dân tộc, và tín ngưỡng.
*****
Khi nghe biết câu chuyện của gia đình Abdallahs, chúng ta không khỏi xúc động, đồng cảm, xen lẫn ngưỡng mộ, vì:
Đó là câu chuyện về nỗi đau, sự mất mát, và tang tóc;
Đó là câu chuyện về tình yêu, sự chữa lành, và hy vọng;
Và, đó là câu chuyện về hành trình của sự tha thứ, như một cách thế để sống ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi hôn nhân gia đình, và tiến bước trên con đường nên thánh giữa những thách đố của thù hận, chiến tranh, tàn ác mà thế giới hiện nay của chúng ta đang đối diện.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Theo: catholicnews.com (24. 6); cruxnow.com (25. 6);
vaticannews.va (25. 6) và catholicnewsagency.com
2022
Tính bổ trợ, tình liên đới và lòng bác ái trổ sinh hoa trái giữa mùa dịch Covid
TÍNH BỔ TRỢ, TÌNH LIÊN ĐỚI VÀ LÒNG BÁC ÁI TRỔ SINH HOA TRÁI GIỮA MÙA DỊCH COVID
Sr. M. Theresia Kim Dung
MỤC LỤC
1. NGUYÊN TẮC BỔ TRỢ VÀ NGUYÊN TẮC LIÊN ĐỚI TRONG HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO |
WHĐ (11.7.2022) – Bác ái đóng vai trò quan trọng trong Học thuyết Xã hội của Giáo hội.[1] Mỗi trách nhiệm và cam kết được giải thích trong giáo huấn xã hội, đều bắt nguồn từ tình yêu, từ đức ái. Giáo hội nhìn thấy nơi mỗi người hình ảnh sống động của chính Thiên Chúa (x. St 1,27). Từ đó, tất cả các giá trị được nối kết với phẩm giá con người được xem là giá trị chủ đạo. Khởi đi từ niềm tin Kitô giáo về phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, Giáo hội đã rút ra một số nguyên tắc, chuẩn mực, và nhận định về giá trị nhằm đóng góp vào việc xây dựng một xã hội tốt đẹp. Đó là bước đầu để thúc đẩy nền nhân bản toàn diện và liên đới. Vì thế, bài viết này được chia làm hai phần chính: Phần thứ nhất trình bày hai nguyên tắc cột trụ trong học thuyết xã hội – bổ trợ và liên đới – để chúng ta cùng nhau suy tư; Phần thứ hai đề cập đến lòng bác ái trổ sinh giữa mùa dịch Covid khi áp dụng các định hướng của Giáo hội vào trong thực tế cuộc sống.
1. NGUYÊN TẮC BỔ TRỢ VÀ NGUYÊN TẮC LIÊN ĐỚI TRONG HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO
1.1 Nguyên tắc bổ trợ
Bổ trợ là một trong những định hướng bền vững và đặc thù nhất của Học thuyết Xã hội Công giáo và cũng là nguyên tắc quan trọng
nhất của triết học xã hội. Nguyên tắc bổ trợ hiện diện trong tất cả các văn kiện xã hội quan trọng đầu tiên của Giáo hội. Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo đã đưa ra một định nghĩa về nguyên tắc bổ trợ như sau: Hội thánh đề ra nguyên tắc bổ trợ: một tập thể cấp cao không được can thiệp vào nội bộ tập thể cấp thấp đến độ tước mất các thẩm quyền của nó, nhưng đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết, và giúp nó phối hợp hoạt động với những tập thể khác, để mưu cầu công ích”. [2]
Dưới góc nhìn quản trị điều hành, nguyên tắc bổ trợ đề ra một giới hạn phù hợp trong việc quản lý của tổ chức cấp cao, tạo ra mối tương quan hài hòa giữa cá nhân với xã hội, chống lại mọi hình thức lãnh đạo gia trưởng, tập quyền, quan liêu giấy tờ… Nguyên tắc này cũng đòi hỏi tổ chức cấp cao hơn tôn trọng sự hiện hữu, tính tự lập và thẩm quyền của các tổ chức trung gian (vd: tổ chức địa phương, hiệp hội, nhóm, gia đình, cá nhân). Nói cách khác, nguyên tắc bổ trợ phải được thực hiện thông qua sự tôn trọng quyền tự chủ và năng lực chủ động của tất cả mọi người, trong đó sáng kiến, khả năng và trách nhiệm của những cá nhân và các tổ chức nhỏ được đề cao và khuyến khích. “Nguyên tắc bổ trợ ra đời để gia tăng quyền tự do của cá nhân, nhóm, đoàn thể, và để ngăn chặn sự tập trung quyền lực quá mức. Sáng kiến cá nhân cần phải được khuyến khích vì có khả năng giúp đỡ chính mình là một yếu tố quan trọng của phẩm giá làm người”.[3] Dựa trên nguyên tắc này, các cá nhân có thẩm quyền cao hơn hoặc các tổ chức cấp trên chỉ hỗ trợ (subsidium), giúp đỡ, thúc đẩy, bổ túc và phát triển các cá nhân và tổ chức xã hội (nhỏ hơn), họ chỉ can thiệp khi các cá nhân hoặc tổ chức trung gian không đủ khả năng chu toàn nhiệm vụ. Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp gọi đây là hành động “can thiệp kỹ thuật” của người có thẩm quyền hay tổ chức cấp trên để hỗ trợ các cấp dưới.[4]
Hệ quả đặc trưng của bổ trợ là sự tham gia. Nguyên tắc bổ trợ cho phép mọi người đảm nhận trách nhiệm đối với vận mệnh của xã hội. Đức Thánh Cha (ĐTC) Phanxicô đề cập đến nguyên tắc bổ trợ qua việc trao quyền (empowerment) cho các tổ chức trung gian. Ngài nhắc đi nhắc lại từ khóa “khả năng” (capacity) nhiều lần trong Thông điệp Laudato Si’ nhằm thúc đẩy người Kitô hữu phát huy khả năng của mình trong sự hoán cải vừa sinh thái vừa xã hội. Theo đó, trao quyền hoặc ủy quyền được hiểu là giao một phần công việc cho cá nhân hoặc tổ chức trung gian chịu trách nhiệm thi hành và đồng thời giao cho họ quyền hành tương xứng với trách nhiệm được giao. Việc trao quyền cần có một số điều kiện kèm theo như sự hiểu biết, sự trưởng thành và tinh thần trách nhiệm mà các thuộc cấp cần phải có. Để được như thế, người lãnh đạo cần hỗ trợ những người cấp dưới thông qua việc đào tạo nhằm nâng cao năng lực.
Con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa và được Chúa Giêsu cứu chuộc. Từ niềm tin Kitô giáo này, các Học thuyết xã hội của Giáo hội đều nhìn nhận phẩm giá và ngôi vị của con người, điều mà xã hội phải tôn trọng, bảo vệ và phát huy. “Tôn trọng nhân vị gồm cả việc tôn trọng các quyền phát sinh từ phẩm giá của thụ tạo con người. Các quyền này không do xã hội ban cho và xã hội phải công nhận chúng”.[5] Chỉ khi phẩm giá con người được phát huy và tôn trọng, thì cơ cấu xã hội mới vững chắc. ĐTC Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong Thông điệp Caritas in Veritate: “Sự bổ trợ tôn trọng phẩm giá con người, khi nhìn họ như một chủ thể có khả năng trao ban một cái gì đó cho người khác. Khi công nhận tính hỗ tương như tâm điểm của đời sống con người, sự bổ trợ thực sự là phương tiện đối kháng hữu hiệu với bất cứ hình thức nào của hệ thống xã hội nặng tính gia trưởng”.[6]
Giáo hội đặt nguyên tắc bổ trợ trên nền tảng thần học về tạo dựng. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa ban cho con người tự do. Ngài luôn đồng hành hỗ trợ con người chứ không làm hoặc quyết định thay họ. “Thiên Chúa không muốn dành cho riêng mình việc thi hành mọi quyền hành. Người trao lại cho mỗi thụ tạo những phận vụ có thể thi hành theo khả năng của bản tính riêng. Cách lãnh đạo này phải được noi theo trong đời sống xã hội. Đường lối hành động lãnh đạo của Thiên Chúa khi cai trị thế giới cho thấy Ngài rất tôn trọng quyền tự do của con người. Đó phải là đường hướng chỉ đạo cho những ai cầm quyền trong các cộng đồng nhân loại. Họ phải xử sự như những thừa tác viên của Chúa quan phòng”.[7]
Lược lại dòng lịch sử về các giáo huấn xã hội của Giáo hội, chúng ta nhận thấy các ĐTC đã suy tư và áp dụng nguyên tắc bổ trợ này trong hoàn cảnh lịch sử và bối cảnh xã hội toàn cầu của các ngài. Những phần liên quan này sẽ không được đề cập chi tiết trong khuôn khổ bài viết.
1.2 Nguyên tắc liên đới
Tình liên đới xuất phát từ tình yêu, là sự thể hiện của bác ái và là mối dây liên kết tất cả mọi người thành một gia đình nhân loại. Tình liên đới nhân loại đem lại lợi ích cho chúng ta, đồng thời cũng là một bổn phận, một trách nhiệm phổ quát. Tình liên đới thúc bách chúng ta chia sẻ không những của cải vật chất mà cả của cải tinh thần.[8] “Nguyên tắc liên đới diễn tả chiều kích xã hội của con người. Không ai có thể sống cho riêng mình, mà luôn dựa vào người khác, không chỉ để nhận sự giúp đỡ thực tế, mà còn để trò chuyện, để thăng tiến nhờ hiểu biết các ý tưởng, lý lẽ, nhu cầu, mong ước của người khác, và có thể phát triển nhân cách của mình trọn vẹn hơn”.[9]
Cũng như nguyên tắc bổ trợ, tình liên đới được nhắc tới một cách xuyên suốt và hệ thống trong giáo huấn xã hội của Giáo hội. Học thuyết Xã hội Công giáo kể tình liên đới vào số những nguyên tắc căn bản, nhưng không đưa ra một định nghĩa chính xác về thuật ngữ này. Điều chúng ta ngày nay gọi là nguyên tắc liên đới, thì ĐTC Lêô XIII thường sử dụng cụm từ “tình thân hữu”, ĐTC Piô XI đề cập đến thuật ngữ “tình bác ái xã hội”, và ĐTC Phaolô VI nói về “nền văn minh tình yêu”, khi ngài mở rộng khái niệm này để bao hàm nhiều khía cạnh hiện đại của vấn đề xã hội.[10]
Tình liên đới là một nguyên tắc xã hội và là một đức tính luân lý.[11] Trước tiên, là một nguyên tắc xã hội, liên đới giúp khắc phục “các cơ cấu tội lỗi” từng chi phối các quan hệ giữa các cá nhân và các dân tộc, giúp xây dựng một “nền văn minh tình yêu”. Thứ đến, liên đới cũng là một đức tính luân lý đích thực, bởi vì tình liên đới nhấn mạnh đến sự cam kết muốn dấn thân lo cho công ích. Một cá nhân không thể mang lại lợi ích chung cho cộng đồng xã hội, công ích chỉ đạt được bằng những nỗ lực của nhiều người hợp lại. “Nhân đức liên đới được định nghĩa là ‘ý định bền bỉ và kiên quyết cam kết cho điều thiện chung; nghĩa là cho điều thiện của tất cả và mỗi người, ngõ hầu tất cả mọi người thực sự mang trách nhiệm với hết mọi người’”.[12]
Ngoài ra, liên đới còn là một thái độ xã hội. Nói về mối tương quan mật thiết giữa liên đới và công ích, ĐTC Phanxicô diễn giải trong Thông điệp Fratelli Tutti: “Liên đới có nghĩa là suy nghĩ và hành động vì cộng đồng, ưu tiên cho cuộc sống của tất cả mọi người hơn là cho việc sở hữu thiện ích của một ít người”.[13] Điều này mời gọi người Kitô hữu quan tâm đến thiện ích chung của tất cả mọi người, bao gồm cả những người nghèo khổ, những người yếu thế và bị gạt ra bên lề xã hội vì họ không có tiếng nói cũng không có quyền lực. Trong tinh thần đó, tình liên đới cổ võ sự hiệp nhất trong đời sống xã hội và sự bình đẳng của các phần tử, cũng như chống lại mọi hình thức cá nhân chủ nghĩa, lối sống ích kỷ, vô cảm, bàng quan trước những mất mát, khó khăn của anh chị em đồng loại.
Đề cập đến liên đới và sự phát triển chung của nhân loại, sách Tóm lược Học thuyết Xã hội, số 195 ghi rõ: “Nguyên tắc liên đới đòi hỏi con người hôm nay phải ngày càng nhận thức rõ hơn rằng họ chính là người mắc nợ xã hội mà trong đó họ là thành viên”.[14] Tự bản chất sâu xa, con người là một hữu thể xã hội, một thành phần của nhân loại, vận mệnh của người này nối kết và gắn chặt với vận mệnh của người khác, vì thế, khi mời gọi các tín hữu chung tay chăm sóc Ngôi nhà chung, xây dựng một nền sinh thái toàn diện, ĐTC Phanxicô nhắc đến tầm quan trọng của tình liên đới giữa các thế hệ hướng tới sự phát triển bền vững. Ngài lên tiếng cách mạnh mẽ: “Nếu không có sự liên đới giữa các thế hệ, thì không thể nào nói đến việc phát triển lâu dài được”.[15]
Tình liên đới của Đức Giêsu với nhân loại giải thích lý do tại sao người Kitô hữu cần phải thực hành tình liên đới. Nơi Người chúng ta luôn nhận ra dấu chỉ sống động của một tình yêu khôn lường và siêu việt của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu “không chỉ công bố tình liên đới của mình với toàn thể loài người mà còn từ bỏ mạng sống vì chúng ta nữa. Sự tự hiến đến cùng này vì người khác thể hiện mức độ cao nhất của tình yêu và tình liên đới, và phải trở thành chuẩn mực cho hành động của các tín hữu Kitô giáo”.[16] Noi gương Chúa Giêsu, Giáo hội mời gọi chúng ta thực hiện tình liên đới với con người và thế giới hôm nay: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà họ lại không cảm nhận trong đáy lòng họ”.[17]
1.3. Mối tương quan giữa hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới
Liên đới là đức tính Kitô giáo, là nhân đức thúc đẩy mọi thành viên trong gia đình nhân loại chia sẻ của cải vật chất và tinh thần. Nguyên tắc bổ trợ được nhắc đến ở đây là cách điều phối các hoạt động của xã hội, tránh sự lạm quyền của cấp cao hơn, khi họ lấy đi những gì các cá nhân và các đoàn thể trung gian có thể tự làm được. Hai nguyên tắc liên đới và bổ trợ đều xây dựng trên việc tôn trọng phẩm giá siêu việt của con người và đều hướng đến lợi ích chung, hướng về công ích. Mối tương quan giữa hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới không bao giờ có thể được xem là điều đương nhiên, điều “tất nhiên phải có”, trong thực tế mối tương quan này thường không đối xứng (not symmetrical), đặc biệt khi liên quan đến kinh tế xã hội. Tình liên đới có thể rất cao và sự bổ trợ, phụ đới thấp là điều có thể xảy ra. Tương tự, sự bổ trợ không thể thực hiện được nếu không có tình liên đới.[18] Ngày nay, tình liên đới dựa vào cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong những hoạt động bác ái. Trong Thông điệp Caritas in Veritate, ĐTC Bênêđictô XVI nhấn mạnh đến sự liên kết chặt chẽ của hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới trong việc cứu trợ như sau: “Nguyên tắc bổ trợ phải liên kết chặt chẽ với nguyên tắc liên đới và ngược lại. Vì bổ trợ nếu không có tình liên đới sẽ rơi vào chủ nghĩa địa phương xã hội; cũng thế, liên đới mà không có bổ trợ cũng rơi vào một hệ thống gia trưởng, hạ thấp giá trị của những người được giúp đỡ”.[19]
1.4 Áp dụng hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới qua việc thúc đẩy sự tham gia của các thành phần trong cơ cấu tổ chức Caritas
Giới thiệu về UB. BAXH – Caritas Việt Nam
- BAXH – Caritas Việt Nam là tổ chức hoạt động bác ái xã hội trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Caritas Việt Nam (CVN) bao gồm Văn phòng CVN và 27 Caritas Giáo phận (CGP). Trong mỗi CGP, mạng lưới Caritas được triển khai đến giáo hạt, giáo xứ. Dưới ánh sáng của Lời Chúa và Học thuyết Xã hội của Giáo hội, mọi thành viên trong gia đình Caritas thực thi hoạt động bác ái mang đặc tính Kitô giáo, hướng đến việc loan báo Tin Mừng. Việc phục vụ bác ái này không những bao gồm các công việc cứu trợ khẩn cấp, đặc biệt khi có lũ lụt thiên tai, dịch bệnh, mà còn hướng đến việc thăng tiến và phát triển con người toàn diện. CVN là một tổ chức thành viên của Caritas Quốc tế.
Áp dụng hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới
Nói về việc áp dụng nguyên tắc bổ trợ và liên đới, Caritas Quốc tế và các tổ chức thành viên buộc phải tuân theo những quy định đã được ghi rõ trong bộ quy tắc đạo đức và quy tắc ứng xử của Caritas Quốc tế.
Bổ trợ: “Chúng tôi bảo đảm rằng quyền lực, các quyết định và trách nhiệm được chuyển giao cho cấp thấp nhất mà tại đó những điều này có thể được thực thi một cách hợp lý. Khi làm như vậy, chúng tôi cố gắng tối đa hóa và xây dựng dựa trên khả năng và nguồn lực của địa phương. Bản sắc trung tâm của Caritas bao gồm các thành viên Caritas quốc gia, giáo phận và giáo xứ, và tất cả chúng tôi sẽ cố gắng thúc đẩy và củng cố những điều này để giúp họ có thể tự chủ và chịu trách nhiệm nhiều hơn”.[20]
Liên đới: “Chúng tôi làm việc liên đới với những người nghèo khổ và người bị thiệt thòi, qua đó mà đạt được những thành quả của hòa bình, công lý và phát triển con người. Tình liên đới gắn kết chúng tôi với nhau trong tầm nhìn chung về việc thiết lập một thế giới nơi tất cả mọi người nhận được những gì thuộc về mình một cách chính đáng với tư cách là con cái của Thiên Chúa”.[21]
Là một tổ chức thành viên của Caritas Quốc tế, CVN cam kết tuân thủ các quy tắc trên. Nói cách khác, mọi hoạt động bác ái xã hội của CVN đều được chi phối bởi hai nguyên tắc liên đới và bổ trợ. Thật vậy, tình liên đới gắn kết mọi thành viên trong đại gia đình CVN với nhau, có chung một tầm nhìn, một sứ mạng, một đối tượng phục vụ là anh chị em nghèo khó và đau khổ. Ở mỗi cấp Caritas (quốc gia, giáo phận hay giáo xứ) nguyên tắc bổ trợ nhắc nhở các cá nhân hoặc tập thể cấp cao hơn không can thiệp vào nội bộ của cấp thấp hơn, nếu như họ có thể tự mình giải quyết được vấn đề. Nguyên tắc này mời gọi các nhà lãnh đạo cấp trên đặt niềm tin vào người cấp dưới, trao cho họ trách nhiệm và quyền tương ứng đi theo để họ chu toàn công việc. Lãnh đạo là một nghệ thuật, người lãnh đạo không phải là người làm hết mọi việc nhưng là người truyền cảm hứng và thúc đẩy người khác cùng nhau thực hiện để đạt mục đích đã đề ra. Vì thế, nguyên tắc bổ trợ nói lên bổn phận hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ, thúc đẩy trách nhiệm và sáng kiến cá nhân, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự bổ túc cho nhau. UB. BAXH – CVN là thực thể / tổ chức mà chính các thành viên (CGP, Caritas Giáo xứ, hội viên, tình nguyện viên…) làm nên. Vì thế, việc khích lệ từng thành viên sẵn sàng đóng góp sức lực, khả năng và sáng tạo của mình vào việc chung là điều cần thiết. Qua đó, nguyên tắc bổ trợ giúp Caritas các cấp (giáo phận, giáo hạt, giáo xứ), các nhóm (người khuyết tật, người có HIV, người di dân…) hoặc cá nhân (nhân viên, cộng tác viên, tình nguyện viên), tự tin và phát triển năng lực của mình để đóng góp xây dựng cộng đồng xã hội.[22] Việc trao quyền (empowerment) ở đây không đồng nghĩa với chia quyền, vì chia quyền thường dẫn đến việc tạo ra “địa phương chủ nghĩa” và cạnh tranh.
Áp dụng nguyên tắc bổ trợ và liên đới vào trong thực tế, Văn phòng CVN đã nỗ lực thực hiện các hoạt động sau: tổ chức các khóa tập huấn đào tạo nhằm nâng cao năng lực nhân viên CGP, đồng hành hỗ trợ CGP thiết lập văn phòng, xây dựng và kết nối mạng lưới CGP với các tổ chức khác, hợp tác và thực hiện các chương trình dự án… Trong tinh thần đó, mỗi CGP có thể chủ động và phát huy sáng kiến khi triển khai các hoạt động bác ái phù hợp với hoàn cảnh địa phương, vùng miền. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam việc áp dụng hai nguyên tắc trên vào thực tế vẫn còn là thách đố lớn cho những cá nhân và tập thể cấp cao hơn. Điều này cần đến sự đổi mới tư duy và phong cách lãnh đạo sao cho phù hợp với những chỉ dẫn nguyên tắc của Giáo hội và với con người ngày nay. Thiết nghĩ, để có thể từng bước vận dụng các nguyên tắc liên đới và bổ trợ vào thực tế, việc học hỏi các nguyên tắc này cần được đẩy mạnh trước tiên. Hướng tới phát triển tổ chức cách bền vững, CVN cần có những quy chế hướng dẫn rõ ràng, bao gồm cả quy tắc đạo đức và quy tắc ứng xử cho mọi thành viên để họ thi hành.
2. ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO TRONG ĐẠI DỊCH COVID
Xuất phát từ tình yêu Đức Kitô, người Kitô hữu cảm thấy được thôi thúc phải yêu thương anh em đồng loại. “Mọi thứ đều bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, mọi thứ đều được định hình bởi tình yêu, mọi thứ đều quy hướng về tình yêu. Tình yêu là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa trao ban cho loài người; tình yêu là lời hứa của Ngài, và là niềm hy vọng của chúng ta”.[23] Trong sự hiệp thông của Giáo hội, tình yêu Thiên Chúa được con người tiếp nối, và tỏa lan đến anh chị em đồng loại. Nói cách khác, mọi hoạt động của Giáo hội đều là lời diễn tả tình yêu – một tình yêu tìm kiếm điều thiện ích cho con người. Thật vậy, “Giáo hội sống trong thế giới, và dù không thuộc về thế giới (x. Ga 17,14-16), Giáo hội cũng được mời gọi phục vụ thế giới theo ơn gọi sâu xa của mình”.[24] Vì thế “tình yêu chính là công việc phục vụ mà Giáo hội tiến hành để luôn đáp ứng với đau khổ và những nhu cầu của con người, kể cả những nhu cầu vật chất”.[25]
Đại dịch Covid-19 xảy ra như một thảm họa đau thương cho toàn nhân loại. Chúng ta đã chứng kiến biết bao tang thương, mất mát, đổi thay, xáo trộn, khủng hoảng trong mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo, v.v… nhưng đồng thời đại dịch cũng là cơ hội để chia sẻ và trao ban yêu thương, là cơ hội để phản tỉnh giúp con người tìm về những giá trị cốt lõi của cuộc sống. ĐTC Phanxicô từng chia sẻ rằng đại dịch Covid-19 đã nhắc nhở nhân loại nói chung và người Kitô hữu nói riêng về sự mong manh của thân phận con người. Và chính trong những giây phút đau thương tàn khốc, tình liên đới là mối dây liên kết chúng ta lại với nhau. Tất cả chúng ta phụ thuộc lẫn nhau về mọi mặt, cả tốt lẫn xấu, mọi hành động của chúng ta đều ảnh hưởng đến người khác, chúng ta cùng trên một con thuyền. “Đại dịch Covid-19, có lúc đã khơi lại rõ ràng cái cảm thức chúng ta là một cộng đồng thế giới đang chèo chống trên cùng một con thuyền, ở đó điều gây tổn hại cho người này cũng gây tổn hại cho những người khác”.[26] Để có thể vượt qua cơn khủng hoảng Covid, chúng ta cần phải chung lòng chung sức với nhau. Đại dịch này cần phải được điều trị bằng kháng thể của tình liên đới. Tình yêu thúc đẩy con người liên đới với nhau thành cái “Chúng ta”. “Sự liên đới, được biểu lộ cụ thể trong việc phục vụ, có thể có những hình thức rất khác nhau trong trách nhiệm chăm lo cho người khác. Mà phục vụ ‘phần lớn là quan tâm đến những hoàn cảnh bấp bênh. Phục vụ có nghĩa là chăm sóc những thành viên yếu kém của gia đình chúng ta, xã hội chúng ta, dân tộc chúng ta’”.[27]
Tình liên đới, nghĩa đồng bào, tinh thần “Lá lành đùm lá rách” đã làm cho đức ái được trổ sinh trong thời gian dịch bệnh Covid. Giữa những khó khăn bủa vây chồng chất, người ta lại càng thấy tình người trở nên ấm áp. Sài Gòn trước đây luôn sẵn sàng chia sẻ quảng đại với các nạn nhân thiên tai trên cả nước. Giờ đây, khi Sài Gòn gặp thử thách, hàng triệu con tim ở mọi miền đất nước đều hướng về Sài Gòn với tất cả sự yêu thương, đùm bọc. Mọi người đều cảm thấy có trách nhiệm với nhau, cảm nhận nỗi đau của người khác là nỗi đau của chính mình. Ở đây, tình liên đới được hiểu là cho đi nhưng không, một cách vô vị lợi và không tính toán. Điều này mời gọi chúng ta nhìn nhận mỗi người, dù thân quen hay xa lạ, nhất là những người nghèo và đau khổ, là anh chị em của mình, những người “mà Đức Kitô đã chết cho họ” (Rm 14,15). Dụ ngôn người Samari nhân hậu vẫn là một chuẩn mực đòi buộc chúng ta tỏ bày tình yêu phổ quát đối với người gặp nạn trong những tình huống khẩn thiết (x. Lc 10,31). Thật vậy, đáp lời kêu gọi của Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh – Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam – trong thư “Thương quá Sài Gòn ơi!”, hàng ngàn chuyến xe chở đầy yêu thương đã hướng về Sài Gòn và miền Nam thân yêu. Các Caritas giáo phận, nhiều dòng tu nam nữ, các tổ chức… phát huy sáng kiến để có thể hỗ trợ sẻ chia nỗi đau với người cùng khổ. Mọi nhà, mọi xứ, già trẻ ngày đêm vẫn thống thiết vang lên lời kinh cầu mong cho đại dịch mau qua. Nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân đã tham gia vào đội ngũ tình nguyện viên chăm sóc người nhiễm Covid trong các bệnh viện dã chiến. Phối hợp với y bác sĩ Công giáo và tình nguyện viên, CVN có chương trình đồng hành và chăm sóc F0 tại nhà. Thật là cảm kích, khi biết rằng nhiều người quanh ta, dẫu có sợ hãi, vẫn sẵn sàng dấn thân chấp nhận rủi ro nguy hiểm. Mỗi người đều cảm nghiệm rằng cuộc sống của chúng ta được đan dệt và đỡ nâng bởi những con người bình thường nhưng dũng cảm, họ là những bác sĩ, y tá, điều dưỡng, tài xế lái xe cấp cứu… và đã có người hy sinh khi tham gia điều trị, cứu chữa bệnh nhân Covid. Tại nhiều giáo xứ, cha xứ cùng với Caritas giáo xứ thực hiện những bữa cơm 0 đồng, chia sẻ những bó rau, củ hành, bao gạo… cho những gia đình đang gặp khó khăn, không phân biệt tôn giáo. Cũng vậy. một bức tranh Đức ái muôn màu muôn sắc được các dòng tu dệt nên, nhằm xoa dịu nỗi đau của anh chị em mình. Người tu sĩ đã trở thành những cánh tay nối dài giữa những mạnh thường quân và những người nghèo khổ qua việc cung cấp lương thực cho anh chị em di dân trong những khu nhà trọ chật hẹp, cho những người dân trong khu cách ly hoặc thăm viếng ủi an những mảnh đời bất hạnh. Các hội viên, tình nguyện viên Caritas Phan Thiết, Nha Trang, Qui Nhơn, Mỹ Tho, Vĩnh Long chia sẻ gói lương thực đi đường, xăng dầu cho đoàn người trốn dịch, bỏ phố về quê… Kể sao cho hết những tấm lòng quảng đại, những nghĩa cử yêu thương. Đức ái Kitô giáo trở nên nhịp cầu đến với anh chị em, và cũng là con đường ngắn nhất để đến với tha nhân và đến với Thiên Chúa. Việc phục vụ bác ái là hoa trái của đức tin. Nói cách khác, hành động của đức tin chính là đức ái. Mỗi việc bác ái chúng ta làm cho anh chị em là làm cho chính Chúa (x. Mt 25, 34-36). Nơi những gương mặt của người nghèo, chúng ta nhận ra những đường nét đau khổ của Đức Kitô. “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Hoạt động bác ái là trách nhiệm của Hội thánh, nó thuộc về bản chất của Hội thánh.[28] Những gì mà Giáo hội Công giáo Việt Nam làm là quan tâm đến người nghèo, bảo vệ và chia sẻ với họ. Vâng, người nghèo phải là ưu tiên hàng đầu trong sứ vụ của Giáo hội, nếu không, Giáo hội đi ngược lại sứ mệnh của mình. “Một Giáo hội không thể hiện tình liên đới sẽ hóa ra mâu thuẫn với chính danh nghĩa của mình. Giáo hội là nơi diễn ra tình liên đới vĩnh viễn của Thiên Chúa với con người”.[29] Giáo hội Công giáo Việt Nam nói chung, UB. BAXH – CVN nói riêng, không phải là một tổ chức phi chính phủ chuyên lo việc từ thiện, nhưng Giáo hội thực thi sứ vụ bác ái theo lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu. Trong cơn đại dịch, Giáo hội Việt Nam với những nỗ lực của mình cùng với ơn Chúa đang đưa ra một lời chứng đức tin sống động về tình bác ái huynh đệ.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 128 (Tháng 3 & 4 năm 2022)
[1] x. Caritas in Veritate (2009), số 2
[2] Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1883
[3] Docat, số 95
[4] x. Nguyên tắc bổ trợ http://www.conggiaovietnam.net/index.php?=module2&v=detailarticle&id=98&ia=8992
[5] Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1930
[6] Thông điệp Caritas in Veritate (2009), số 57
[7] Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1884
[8] x. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1948
[9] Docat, số 100
[10] x. Thông điệp Centesimus Annus (1991), số 10: Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1939
[11] x. Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 193
[12] Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis – Quan tâm đến vấn đề xã hội (1987), số 38
[13] Thông điệp Fratelli Tutti (2021), số 116
[14] Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 195
[15] Thông điệp Laudato Si’ (2015), số 159
[16] Docat, số 103
[17] Gaudium et Spes, số 1
[18] x. Solidarity, Subsidiarity, and Preference for the Poor: Extending Catholic Social Teaching In Response to the Climate Crisis; How Solidarity and Subsidiarity can work together
[19] Thông điệp Caritas in Veritate (2009), số 58
[20] Caritas Internationalis Code of Ethics & Code of Conduct for Staff
[21] Caritas Internationalis Code of Ethics & Code of Conduct for Staff
[22] x. Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 187
[23] Thông điệp Caritas in Veritate (2009), số 2
[24] Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 18
[25] Thông điệp Deus Caritas Est (2005), số 19
[26] Thông điệp Fratelli Tutti (2021), số 35
[27] Thông điệp Fratelli Tutti (2021), số 115
[28] x. Thông điệp Deus Caritas Est (2005), số 20
[29] Docat số 27