2023
Di cư và cái giá phải trả
Di cư và cái giá phải trả
- Mẹ!…Mẹ!
- Mẹ đừng đi… Hãy ở lại với con!
- Sao mẹ không về… Mẹ đi đâu? Mẹ!…Mẹ!…. Hu hu hu…
Đó là tiếng kêu thảng thốt trong mơ của đứa bé mới lên bốn, vẫn thét lên kể từ ngày mẹ nó vĩnh viễn không bao giờ về với nó nữa. Bàn tay nhỏ xinh của nó quờ quạng không khí như đang níu kéo một thứ gì đó đã vụt khỏi tầm tay. Tiếng kêu đó như dằn thêm nỗi đau của người bà đang ôm nó, với hai hàng nước mắt lăn dài đau đớn, cùng tiếng thều thào cố dỗ dành đứa cháu đáng thương, vì bà đã mất đi một người con gái yêu… Hình ảnh khuôn mặt xám xịt vì không còn sự sống của người mẹ trẻ, khi linh hồn đã lìa khỏi xác nơi đất khách quê người, được đưa lên Facebook ít lâu, vẫn cứ lảng vảng và ám ảnh tôi, khiến tôi tự hỏi tương lai của đứa trẻ này rồi sẽ ra sao? Sẽ còn bao nhiêu bạn trẻ phải phải đối diện với nghịch cảnh này nơi đất khách? Tại sao nên nông nỗi này? Phải chăng vì cơm áo gạo tiền? Đó chỉ là một trong không ít những nghịch cảnh mà những người trẻ phải rời bỏ quê hương xứ sở đã và đang phải đối diện.
Dẫu biết con người sinh ra đã là một sinh vật di cư, và di cư đã trở thành một tập quán của con người. Kể từ cuộc di cư đầu tiên của tổ tông loài người, có lẽ lúc đó cũng chỉ là những người trẻ, khi phải rời bỏ vườn Địa Đàng để đi đến một “vùng đất mới”, thì trái đất vẫn quay, thời gian vẫn cứ trôi và các cuộc di cư của loài người, trong đó có rất nhiều người trẻ, vẫn diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử và sẽ còn tiếp tục.
Con người, nhất là người trẻ, những con người tràn đầy sức sống, như một điều tất yếu, sinh ra để ra đi, để khám phá, để tồn tại và phát triển, thậm chí là chạy trốn. Có rất nhiều yếu tố hay nguyên nhân đã và đang làm nên những cuộc di cư của con người trong suốt dòng lịch sử: Có thể là thiên tai, chiến tranh, bạo lực, hay cũng có thể là do việc tìm kiếm, khám phá những vùng đất mới… Tuy nhiên, có một yếu tố đang tác động và góp phần quan trọng khiến con người, nhất là các bạn trẻ phải ra đi, thậm chí là đi trong nước mắt. Đó chính là vấn đề kinh tế, cơm áo gạo tiền.
Nhìn vào bối cảnh xã hội Việt Nam ngày nay, tôi cảm nhận rất rõ vòng xoáy di cư đang tác động trực tiếp và sâu rộng đến mọi mặt của xã hội. Vòng xoáy này đang ngày càng khoét sâu khoảng cách và sự khác biệt giữa nông thôn và thành thị. Một vấn đề còn đau lòng hơn nữa đang diễn ra, đó là tình trạng xuất khẩu lao động. Thật đáng buồn khi có một người nào đó đã nói lên sự thật rằng các nước Đức, Mĩ, Hàn, Nhật xuất khẩu ô tô, điện thoại… trong khi Việt Nam lại “tự hào” là một nước “xuất khẩu người” hàng đầu thế giới. Ở cái tuổi mà lẽ ra các bạn phải dùng sức lực, trí tuệ của mình để xây dựng quê hương, đất nước, thì họ lại phải chấp nhận bị biến thành “một thứ hàng hóa” có thể trao đổi trên thị trường mà tôi xin lỗi phải dùng chữ “rẻ mạt”, chấp nhận rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, người trẻ phải đối diện những vất vả của thân “nô lệ kiểu mới”, những rủi ro, thậm chí là bi kịch, như người con gái trẻ trong câu chuyện trên, để đổi lại những đồng lương nhiều khi không đáng với sức lao động mà họ bỏ ra mà họ lại tự hài lòng và thỏa mãn với nó… Đáng buồn thay!
Cuộc đời dường như có rất nhiều nghịch lý. Một trong những nghịch lý đang xảy ra nơi các miền quê, khi mà cuộc sống trở nên đầy đủ hơn nhờ những cuộc di cư nơi thành thị, nhất là nước ngoài, thì cũng là lúc những ngôi nhà khang trang và đầy đủ tiện nghi mọc lên như nấm, tạo nên một vẻ bên ngoài cho cuộc sống ấm no hạnh phúc. Thế nhưng, ẩn sau những “vỏ bọc vô hồn đó”, là sự lạnh lẽo vì những ngôi nhà thật to, thật đẹp kia lại thiếu đi hơi ấm của người bố, người mẹ, sức trẻ, năng động của người anh, người chị… những thành viên đáng ra phải được hưởng thành quả của mình, lại đang bon chen nơi đất khách quê người.
Nhìn vào các Thánh lễ hay các dịp lễ hội, tôi không khỏi chạnh lòng, vì ngày càng mất đi không khí sôi động, sốt sắng, đông đảo vốn có của các miền quê, nơi mà già, trẻ, lớn, bé, từ lâu đời đã gắn bó tuổi trẻ và sống chung nhịp đập với các sinh hoạt tôn giáo, xã hội. Giờ đây, bầu khí đó ngày càng trở nên một thứ gì đó xa xỉ và hiếm hoi. Những Thánh lễ lác đác bóng người, chỉ toàn các cụ già và trẻ con, những lễ hội đơn điệu và ngày càng nhạt nhẽo và thiếu sức sống, nhất là sức trẻ vì ít người tham dự…
Dẫu biết rằng những khó khăn về kinh tế, nhưng luôn có một niềm khao khát, mong ước đến ngày Tết để gia đình được đoàn viên, được sống lại bầu khí ấm cúng nơi các bữa cơm gia đình mà lẽ ra, những người ông, người bà và các con cháu đáng được hưởng nhiều hơn. Thế nhưng, ước mơ nhỏ nhoi đó nhiều khi cũng không đến với nhiều gia đình, vì không đủ các thành viên sum họp hay không bao giờ về nữa! Hình ảnh những người mẹ dựa cửa ngóng con đan xen hình bóng những người vợ trẻ đon đả ra vào ngong ngóng, ra xem vào ngó chiếc điện thoại mong chồng về… và cảm động hơn là bóng dáng hồn nhiên của những đứa con háo hức mong tan học thật nhanh để về nhà, vì biết đâu bố đã về, mẹ đã về, anh đã về, chị đã về??? Những hình ảnh ấy dường như chỉ có trong “thời chiến” thì nay đã trở nên quen thuộc nơi mỗi làng quê mỗi dịp Tết đến xuân về. Thật đáng suy gẫm…!!!
Dẫu biết cuộc sống rất giống cuộc đời, khi những mảnh ruộng, miếng vườn không còn là kế sinh nhai, cũng như không còn đáp ứng được nhịp chạy của sự phát triển và những đòi hỏi về nhu cầu vật chất, những người nông dân chân lấm tay bùn, vốn cần cù chịu khó, nay không thể bám víu được nữa, phải chấp nhận ngậm đắng nuốt cay, dắt dìu nhau rời quê hương để đến những vùng đất mới nơi thành phố, vùng kinh tế mới hay nước ngoài, để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của đời sống vật chất. Nơi đây, họ phải chấp nhận từ bỏ vị thế làm chủ để trở nên thân phận công nhân, tôi tớ… tìm mọi cách, mọi nghề để kiếm được đồng tiền lo cho cuộc sống. Họ chấp nhận rời bỏ ngôi nhà khang trang, ấm ấp để “chui rúc” trong những dãy nhà ổ chuột, với điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, để giảm chi phí, tiết kiệm đồng lương ít ỏi kia. Vẫn có những tầng lớp, những bạn trẻ may mắn có một cuộc sống dễ chịu hơn nơi thành thị bon chen, nhưng còn quá nhiều những cảnh đời phải chấp nhận ngậm ngùi sống một cuộc sống thiếu thốn mọi bề, cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, vì mong ước một cuộc sống sẽ đầy đủ hơn.
Cũng chính nơi đây, ảo tưởng về một cuộc sống dễ dàng, những công việc lương cao bổng hậu, hay những điều kiện sống thoải mái khiến những người nông dân vốn không quen với nhịp sống vội vã, không quen với tiếng ồn, những phương tiện hiện đại, phải tìm mọi cách để bắt kịp thời đại. Đó chính là con dao hai lưỡi, có thể tạo ra những cơ hội để vươn lên, nhưng bên cạnh đó, họ phải đối diện với một xã hội có quá nhiều cạm bẫy và vấn đề. Để rồi, không ít người, nhất là các bạn trẻ, những người còn đang thích khám phá và tò mò về mọi sự, bị xoáy vào dòng xoáy của hưởng thụ, của sự dễ dãi, của những công việc nhẹ lương cao nhưng trái pháp luật, lỗi đạo đức hay những tệ nạn xã hội mà không thể thoát khỏi, thậm chí mất tất cả. Điều này gây ra biết bao hậu quả đáng thương, những cảnh gia đình tan nát, các bạn trẻ đánh mất đức tin và chạy theo những phong trào, những triết thuyết nguy hiểm, hay tình trạng sống thử và suy đồi nơi giới trẻ, sinh viên…, những chuyện mà ngày nay nhan nhản và đáng báo động khi các bạn trẻ ngày càng “tôn thờ tự do quá chớn”. Nguy hiểm thay! Đứng trước tình trạng đó, những hội đồng hương, cộng đoàn công giáo xa quê hay các hội sinh viên Công giáo đã được thành lập, như một giải pháp tạm thời để những con người tha hương liên kết với nhau để thông cảm, chia sẻ và sinh hoạt với nhau, giúp cho vơi bớt đi nỗi nhớ nhà, bớt những cám dỗ và nhất là đoàn kết hơn.
Làn sóng di cư ồ ạt không chỉ gay ra những vấn đề nhức nhối nơi thành phố, mà nó còn len lỏi và gặm nhấm nhịp sống hơi thở của các miền quê. Nhất là nó đào hố sâu ngăn cách giữa thành phố và nông thôn, để lại nỗi trống vắng, lạnh lẽo vì thiếu thốn hơi ấm nơi thôn quê, nơi vốn đã thanh tĩnh, nay lại càng già cỗi và cô liêu. Những cánh đồng bát ngát nay đã thấp thoáng những mảnh ruộng bỏ hoang chờ dự án, hay bị rao bán. Những miếng vườn thân thương. đầy cây ăn trái, bóng mát, bị bê tông hóa đến tàn nhẫn. Dường như tất cả đang phải chạy theo tốc độ đáng sợ của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa, để rồi sự thanh bình, yên tĩnh vốn có bị phá hủy.
Quê tôi, những tiếng lạch bạch mệt nhọc nơi “ông bạn già Dream” của bố tôi vẫn phải gồng mình cùng bố hằng ngày làm bạn với con đường làng đã được trải nhựa mới, mà đằng sau là những khuôn mặt rạng rỡ có, ỉu xìu, mệt mỏi của mấy đứa cháu tôi đang trong lứa tuổi thiên thần. Vẫn còn đó sự đơn sơ hồn nhiên, nhưng dường như sâu trong đôi mắt đó là nỗi khao khát, thèm thuồng một gia đình có đầy đủ cả cha lẫn mẹ, các anh các chị, mà ít khi chúng được tận hưởng, vì bố hoặc mẹ, hay anh chị chúng đang phải còng lưng nơi đất khách để kiếm tiền lo cho gia đình, lo cho chúng. Đó chính là một thực tế đáng buồn không chỉ đang diễn ra nơi gia đình tôi, nhưng là một tình trạng chung của biết bao gia đình quê tôi, nơi những người ông người bà đã đến tuổi được an hưởng tuổi già, lại phải “miễn cưỡng hồi xuân” để làm thay vai trò, trách nhiệm mà những người trẻ để lại, dù vẫn biết là không thể thay thế.
Tôi vẫn còn nhớ như in một kỉ niệm khiến tôi xúc động và nhói lòng. Một lần, khi tôi chở thằng cháu lớn ra bến xe, tôi trở về nhà và nhìn thấy thằng Tâm, em thằng Hoàng, vẫn đứng ngoài cổng, ánh mắt xa xăm với hai hàng mi đẫm nước mắt:
- “Anh con đi đâu?” – Nó hỏi.
- “Ơ cái thằng này! Anh đi làm chứ đi đâu!” Tôi đáp.
- “Đi làm làm gì? Đi làm ở đâu?”
- “Thì trên Hà Nội. Đi làm để kiếm tiền nuôi con đấy!”
- “Con không muốn! Con muốn anh con ở nhà!” – Nó nức nở.
- Tôi cũng bối rối: “Ờ thì…. Không đi làm thì lấy gì mà ăn?”
- “Con không cần! Con chỉ cần anh ở nhà chơi với con thôi! Anh ơi….”
Tôi thật sự bế tắc và chỉ biết ôm lấy nó mà cố vỗ về an ủi mà thôi. Một ước mơ thật giản dị mà thực tế. Dù nó chưa ý thức được cơm nó ăn, tiền nó học, là những giọt mồ hôi cùng sự tủi nhục, thậm chỉ là cả máu mà bố và anh nó phải chịu để có được đồng tiền nuôi gia đình… nhưng điều đó phải chăng cũng đáng cho người lớn chúng ta suy ngẫm. Tiền có thể mua được nhiều thứ, nhưng có những thứ không thể mua được bằng tiền, mà những thứ đó lại làm nên hạnh phúc, giá trị của một con người.
Thời gian vẫn trôi, cuộc đời vẫn vần xoay theo nhịp của nó, thế giới vẫn đi lên. Những tiếng xe mệt nhọc rồi cũng phải dựng lại vì “quá tuổi hưu”. Khi tuổi đời đầu hàng thời gian, thì những thế hệ tiếp theo rồi sẽ ra sao? Dẫu biết sống là phải tiến lên, phải nỗ lực để no cái bụng, ấm cái thân, sung sướng cái cuộc đời. Nhưng nếu cái giá phải trả là quá đắt thì tôi thiết nghĩ chúng ta dừng lại để suy gẫm, để chọn lựa và quyết định! Đừng để mọi thứ qua đi trong tiếc nuối và ân hận!
Tác giả: Jos Trịnh
2023
Viết cho người sống thử
Viết cho người sống thử
1. Có thể tìm trên Internet với tựa: Chuyện của mẹ – Tự tay phá thai cho con.
Giuse Phạm Đình Ngọc, S.J
2023
Linh mục đối diện với nỗi buồn khi nghỉ hưu
Linh mục đối diện với nỗi buồn khi nghỉ hưu
Kể từ khi tôi chuyển sang “tình trạng cao niên” [hay còn gọi là “tình trạng nghỉ hưu bán phần”] (senior status) vào mùa hè năm ngoái, như giáo phận của chúng tôi quen gọi như thế với các linh mục đã nghỉ hưu, tôi thường được hỏi rằng mình thích được nghỉ hưu như thế nào. Hầu hết mọi lúc tôi đều trả lời một cách thành thật rằng tôi đang tận hưởng thời gian cho dù phải thích nghi với một chương mới trong cuộc đời mình. Đối với tôi, kinh nghiệm nghỉ hưu đến sau 48 năm tích cực trong sứ vụ.
Điều mà tôi không nói với mọi người và chỉ tự mình nhận ra sau khi suy ngẫm, đó là tôi cũng đã dành – và tiếp tục dành – thời gian để đau buồn, mà chính điều này cũng là một quá trình.
Tìm hiểu về nỗi buồn
Các linh mục trở thành một vấn đề nào đó mà các chuyên gia hay nhắc đến khi đề cập đến sự đau buồn. Qua mọi cái chết của người giáo dân, các mục tử nhận thức được nỗi đau và nỗi buồn mà chính mình cũng có thể dự phần. Họ cũng biết rằng việc chấp nhận một cách sống mới có thể là một thử thách. Các linh mục thường giúp mọi người đối phó với nỗi đau bằng cách đồng hành cùng họ trong cuộc hành trình, lắng nghe và giúp đỡ những người đang đau buồn để tìm ra một cách sống mới.
Ngoài ra, với tư cách là những mục tử tận tình, chúng ta cũng phải đối mặt với nỗi đau của chính mình. Không có gì lạ khi cái chết của giáo dân ở mọi lứa tuổi cũng ảnh hưởng đến chúng ta. Ngay cả khi tôi đã chia sẻ sức mạnh tinh thần và cảm xúc với người khác, tôi cũng phải đối mặt với nỗi đau nơi chính mình. Khi Hope, một thiếu nữ 17 tuổi mắc bệnh thiếu máu Fanconi, chết vì suy thận, tôi đã khóc cùng với gia đình và bạn bè của cô ấy. Và khi Tommy, 90 tuổi, nhân vật danh tiếng trong giáo xứ qua đời, tôi biết rằng mình vừa mất đi một người bạn.
Thêm vào đó, có một loại đau buồn xảy ra khi các vị lãnh đạo trong giáo xứ nói với bạn rằng họ chuyển đi nơi khác vì thay đổi công việc hoặc để gần gia đình hơn. Việc họ cảm thấy hối tiếc khi rời khỏi ngôi nhà thờ của bạn thường cũng chỉ mang lại một niềm an ủi nho nhỏ.
Chắc chắn, các linh mục biết rất nhiều về nỗi buồn. Tuy nhiên, tôi chưa bao giờ đọc bất cứ điều gì về quá trình đau buồn liên quan đến việc nghỉ hưu. Nỗi đau buồn đi kèm với việc nghỉ hưu có thể gây bối rối vì các linh mục không mong đợi điều đó hoặc vì dường như không ai thừa nhận điều đó khi các buổi chuyện trò từ biệt được diễn ra. Hầu hết những người mang đến lời chúc tốt lành khi từ biệt đều nhấn mạnh đến các thành tựu hoặc niềm vui dành cho một cuộc đời vốn nay đây mai đó.
Nhiều sắc thái
Tôi thừa nhận rằng có nhiều điều làm tôi yêu thích về tình trạng cao niên, bao gồm lịch trình nhẹ nhàng hơn, khả năng hỗ trợ các mục tử lân cận bằng cách cử hành Thánh lễ tại giáo xứ của họ, và tìm thấy sự nâng bậc giá trị đã được làm mới lại đối với chức linh mục bên ngoài vai trò của một nhà điều hành. Đồng thời, tôi thừa nhận rằng tôi đã phải chịu một mất mát đáng kể, đôi khi điều đó giáng lên tôi một cú nặng nề.
Khi sinh nhật lần thứ 75 của tôi đến gần, trong thâm tâm tôi biết rằng đã đến lúc phải rời bỏ cương vị mục tử của Giáo xứ Thánh Gioan XXIII, nơi tôi vừa là người sáng lập vừa là mục tử duy nhất trong 17 năm qua. Do đó, mối quan hệ của tôi với giáo xứ và các thành viên của giáo xứ này rất sâu sắc.
Mặc dù tôi đã chọn nghỉ hưu một cách có ý thức và biết rằng điều đó là tốt cho cả tôi và giáo xứ, nhưng cũng có tất cả những biểu hiện liên quan đến nỗi buồn: một niềm khao khát sâu sắc được trở lại với những người mà tôi yêu thương, một chút luyến tiếc vì tôi không thể hiện diện trong những khoảnh khắc đặc biệt và quan trọngở đó, và cả một chút buồn bã bất cứ khi nào tôi nghe tin rằng cuộc sống ở giáo xứ đó đang diễn ra (rất tốt) mà không có tôi lãnh đạo.
Không phải mọi người nghỉ hưu đều có thể trải qua nỗi buồn theo cách mà tôi đã trải qua. Họ có thể nhận thức rõ hơn về sự nhẹ nhàng hoặc niềm hân hoan về những gì đã đạt được. Tuy nhiên, tôi nghi ngờ rằng các linh mục nghỉ hưu hoặc đang phải đối mặt với việc nghỉ hưu cần phải ý thức về quá trình này.
Các thành phần của đau buồn
Tôi chia trải nghiệm đau buồn thành nhiều thành phần, mỗi thành phần cũng đưa ra một thử thách để giúp tôi vượt qua nỗi đau này.
Thứ nhất, có một sự thay đổi cụ thể và rõ ràng diễn ra đối với hầu hết các linh mục nghỉ hưu – nghĩa là họ cần phải rời khỏi nơi ở do giáo xứ cung cấp. Nhiều người trong các ngành nghề khác không có sự buông bỏ thêm vào như thế khi họ rời khỏi vị trí của mình. Đó không chỉ đơn giản là rời khỏi một ngôi nhà, nhưng chính là rời khỏi lối sống vốn đã trở thành một phần trong kinh nghiệm của một linh mục. Cá nhân tôi thấy phấn khích khi tìm kiếm một nơi ở mới. Có một tinh thần phiêu lưu xuất hiện đến mức không thể cưỡng lại được. May mắn thay, một số thành viên của giáo xứ đã ở đó để giúp đỡ tôi.
Không nên bỏ qua khía cạnh buông bỏ này bởi vì, ngay cả đối với những linh mục ít vật chất nhất, đó là một lời nhắc nhở rằng hầu hết mọi người đều phụ thuộc vào việc có được một mái nhà, một nơi trú ẩn và bảo vệ. Cùng với vấn đề nhà ở, còn có vấn đề buông bỏ về sự yên ổn, vì trong hầu hết cuộc đời của chúng ta, chúng ta đã biết rằng các giáo xứ có trách nhiệm chu cấp cho các mục tử của mình.
Đối phó với sự mất mát này, tôi thấy cần phải cởi mở và phó thác trước những điều mới lạ. Mỗi lần trong đời tôi di chuyển – từ rời khỏi nhà đến chủng viện, từ chủng viện đến chức linh mục, và từ nhiệm sở này sang nhiệm sở khác – đều phải có một hành động của đức tin. Giống như Giáo Hội tự gọi mình là Giáo Hội lữ hành, tôi cố gắng coi những cuộc di chuyển này là thời điểm của sự khám phá mới. Nếu đức tin của chúng ta nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta không phải là công dân vĩnh viễn của thế giới này, thì những cuộc di chuyển như thế có thể phù hợp để nhắc nhở chúng ta về điều này.
Ngoài sự buông bỏ cơ bản nhất này, còn có việc đánh mất căn tính của một mục tử. Mặc dù hầu hết các linh mục, trong đó có tôi, vốn không thích lãnh nhận công tác điều hành, nhưng tôi có thể nói rằng công việc mục vụ vốn là một niềm vui. Tôi đã chấp nhận sứ mệnh của giáo xứ và ghi nhớ tầm nhìn của giáo xứ, sẵn sàng chia sẻ nó với những người khác. Tôi muốn nghĩ rằng tôi chưa bao giờ cảm thấy rằng mình phải có tiếng nói cuối cùng trong mọi quyết định, nhưng tôi thích được biết rằng tôi có thể chia sẻ với mọi người một cách tiếp cận cụ thể để trở thành Giáo Hội.
Thay vì trở thành một linh mục – mục tử, tôi bắt đầu tập trung vào việc trở thành một linh mục với tư cách là người của Chúa. Nói cách khác, điểm nhấn mới của tôi phải là tôi là ai chứ không chỉ đơn giản là vai trò mà tôi đã vui vẻ chấp nhận trong suốt những năm qua. Tôi vẫn còn nhiều cơ hội để làm mục tử, nhưng bây giờ chức vụ đó bắt nguồn từ chính chức linh mục chứ không phải từ một vị trí nào đó mà tôi đã được chỉ định.
Cuối cùng, và đây là điều quan trọng, tôi rất đau buồn khi gặp lại những giáo dân vốn đã là một phần quan trọng trong cuộc đời tôi. Trong những năm qua, tôi đã có cơ hội hiện diện với các gia đình tại các buổi cử hành bí tích và những khoảnh khắc vui vẻ khác. Tôi cũng đã từng chia sẻ nỗi đau, nỗi buồn, đôi khi chỉ là ngồi bên cạnh họ lúc nguy kịch. Tuy nhiên, tôi hầu như lúc nào cũng cảm thấy mình là thành viên của nhiều gia đình. Việc không gặp mọi người thường xuyên đã để lại một khoảng trống trong trái tim tôi.
Tôi không muốn phủ nhận sự mất mát hay nỗi đau này. Tôi cũng biết rằng nó sẽ không bao giờ giống như nó đã từng. Xin mượn lời tiêu đề từ tác phẩm của Thomas Wolfe để nói lên tâm trạng này: “Bạn không thể về nhà được nữa!” Đó là một phần của nỗi buồn khi nghỉ hưu.
Trong Giáo Hội, người vừa nghỉ hưu dường như nên bước sang một bên để vị mục tử mới có thể tìm ra con đường cho riêng mình. Khi tôi gặp lại các cựu giáo dân tại các buổi chiêu đãi, buổi hòa nhạc hoặc quán cà phê, đó là những khoảnh khắc rất vui cho cả tôi và họ. Tôi nghi ngờ một số mối quan hệ tình bạn sẽ tiếp tục trong khi những mối quan hệ khác sẽ nhường bước khi nhiều ngày và nhiều tuần trôi qua.
Tôi thường thấy mình tập trung vào những đứa trẻ nhỏ hơn trong giáo xứ, đặc biệt là những đứa trẻ mẫu giáo mà tôi gặp hàng tuần. Một người mẹ nói với tôi rằng cậu con trai 4 tuổi của cô ấy không thể hiểu được rằng tôi sẽ không có mặt ở đó thường xuyên. Tôi muốn nhắc nhở đứa trẻ rằng tôi vẫn yêu nó và gia đình nó. Những người trong giáo xứ vấn tiếp tục quan trọng đối với tôi.
Ba cách đối diện với nỗi buồn
Tình cảm đó cũng cho phép tôi nêu bật ba cách để đối phó với nỗi buồn từ việc nghỉ hưu. Một mặt, tôi nhớ đến những người đã từng là một phần quan trọng trong cuộc đời tôi trong lời cầu nguyện, cầu xin ơn lành tiếp tục xuống trên họ. Đây không chỉ đơn giản là một lời cầu nguyện chiếu lệ, mà đúng hơn là một cách tích cực để dâng lên Chúa những người mà tôi không thể nhìn thấy và ở bên cạnh.
Tôi cũng cảm thấy mình đã nhận được ơn lành khi đã có thể ở cạnh bên những người môn đệ cùng chí hướng tốt lành như thế trong những năm qua. Cách tôi chọn để nhìn vào công việc mục vụ là trở thành một phần của cộng đồng mà tôi phục vụ, không tách rời khỏi họ. Thái độ này có thể gây ra nhiều nỗi đau buồn hơn vào những thời điểm này, nhưng ơn lành thì lại rất dồi dào.
Sau đó, tôi nhận ra rằng tôi có thể tìm ra những cách thức thích hợp để tiếp cận, những cách nhắc nhở mọi người rằng sứ vụ mục tử của họ không chỉ là một công việc. Ví dụ, trong nhiều năm, khi tôi thấy trên báo chí rằng một số học sinh trung học mà tôi biết đến trong nhiều năm qua được vinh danh, tôi đã quyết định gửi cho họ một số ghi chú. Tôi biết những lời nói của mình sẽ được đón nhận nồng nhiệt và hữu ích cho những thanh thiếu niên này; tôi cũng biết điều quan trọng đối với tôi là cho họ biết rằng tôi mừng cho họ.
Trong một cuộc trò chuyện gần đây với một doanh nhân đang chuẩn bị nghỉ hưu, tôi đã cố gắng giải thích những niềm vui và thách thức mà tôi đã gặp phải. Khi tôi đề cập đến việc không tiếp tục ở với những người trong giáo xứ, anh ấy ngay lập tức nói rằng điều đó nghe có vẻ đáng buồn. Sau đó, anh ấy đưa ra những hiểu biết sâu sắc mà chúng ta, những người có đức tin thường rao giảng về sự cần thiết khi đừng để cuộc sống đời này này và những gì nó mang lại chiếm hữu. Điều đó đã giúp tôi tìm thấy mục tiêu để buông bỏ theo cách mà tôi chưa bao giờ lường trước được khi tôi tiếp tục suy ngẫm xem chức tư tế là gì và chúng ta có thể gặp phải điều gì khi nghỉ hưu.
(Theo The Priest (15/7/2023))
2023
Người giáo dân vẫn bị bỏ quên ?
Người giáo dân vẫn bị bỏ quên ?
Công đồng Vatican II kết thúc đã gần 60 năm. Những khẳng định về linh đạo giáo dân, ơn gọi và sứ mạng của người giáo dân trong Công đồng Vatican II, rồi Tông huấn Kitô hữu Giáo dân của Đức Gioan Phaolô II và trong nhiều văn kiện hậu Công đồng; cùng với không ít những khóa học hỏi, những nỗ lực của một số tín hữu giáo dân tích cực để tìm được cách thể hiện ơn gọi và sứ mạng của mình… những điều ấy xây dựng được những nền tảng rất quan trọng và có lẽ cũng khá phong phú…, Câu hỏi đặt ra bây giờ là tại sao tất cả những nỗ lực ấy dường như vẫn chưa đánh thức được một phần chi thể lớn nhất của Giáo hội? Tại sao vai trò của người giáo dân trong Giáo hội vẫn còn rất mờ nhạt? Do cơ chế? Do não trạng? Do cấu trúc đời sống đức Tin? Do dáng dấp đời sống đức Tin? Do tình hình kinh tế chính trị của thế giới?
Những giáo huấn của Giáo hội tựa như những hạt giống, nhưng hạt giống còn cần phải có môi sinh tốt để có thể phát triển. Tạm nhận xét tình trạng còi cọc của “sinh lực đức tin” nơi thành phần giáo dân bằng cách phân tích “môi sinh” trong đời sống Giáo hội dưới hai khía cạnh: cấu trúc và dáng dấp của đời sống đức Tin Kitô giáo.
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu diễn tả chiều ngang trong mối quan hệ giữa Thiên Chúa với con người qua việc bẻ bánh, cùng thông chia một chén rượu với nhau |
1. Cấu trúc đời sống đức Tin
1.1 Tính toàn thể của sứ mạng Kitô giáo
Truyền thống Do Thái Kitô giáo có một đường nét đặc biệt, khác hẳn những tôn giáo khác, đó là mang lấy sứ mạng đưa dẫn lịch sử của cả thế giới tới sự thành toàn trọn vẹn.
Vận mạng của dân Do Thái gồm tóm trong hai yếu tố nền tảng có tính cách quyết định:
– Đây là một Dân tộc được xây dựng xung quanh một Cuốn Sách. Sách ấy được chấp nhận như Lời mạc khải của Thiên Chúa.
– Mạc khải của Thiên Chúa cho thấy một quan niệm về thời gian và tính lịch sử của cả vũ trụ; qua đó dân Do Thái sống hành trình lịch sử được đan bện từ quá khứ, hướng đến tương lai và cả hai được gồm gói trong hiện tại.
Hai điều ấy, lời Mạc khải và vận hành lịch sử được nối kết chặt chẽ với nhau; và hiệu quả là người Do Thái, trong khi trung tín đọc Lời Thiên Chúa, có khả năng dấn bước trong dòng lịch sử với một sự xác tín mang cường độ tôn giáo. Lời Chúa soi sáng cho lịch sử và lịch sử chính là sự thành toàn của Lời Chúa. Lịch sử được đan bện do Ý Chúa và thái độ trung tín của Dân.
Ý nghĩa của cuộc sống nơi người Do Thái không bị hạn hẹp trong một khung giá trị luân lý, nhưng được thành toàn bằng cách thực hiện ý Thiên Chúa trong dòng lịch sử; và lịch sử ấy diễn tiến để đi đến một chung cục hoàn hảo như một chứng thực cho hiệu năng của Lời Chúa. Do đó, người Do Thái không chỉ nuối tiếc một quá khứ vàng son, nhưng quan trọng hơn là coi thời vàng son ấy là những dấu chỉ giúp họ xác tín vào quyền năng của Thiên Chúa trong nỗ lực xây dựng một tương lai trọn vẹn. Lời Chúa không phải nhằm tạo nên những bài học “luân lý siêu hình”, nhưng như một giải đáp cho “biện chứng lịch sử”. Dĩ nhiên, đó không phải là một thứ biện chứng lịch sử theo quy luật vô ngã như quan điểm Mác-xít. Ở đây tính thống nhất của tôn giáo và lịch sử được hình thành trong sự đồng hành của một Đấng, một “Logos hữu ngã”, với khả năng quyền biến để tình yêu và ơn cứu độ được bộc lộ trong muôn ngàn nét phong phú bất tận.
“Với quan niệm thả neo vào lịch sử như vậy đã mặc cho truyền thống Do Thái một năng động tính mà đức tin Kitô giáo đã thừa kế và không một thế giới cổ đại nào có thể cung cấp được. Phụng vụ những ngày đại lễ và những buổi cầu nguyện tại hội đường luôn thấm nhuần niềm hy vọng ấy”[1]
Tiếp nối truyền thống ấy, Kitô giáo cũng mang vác một sứ mạng lịch sử toàn diện. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ liên quan đến một thế giới bên trên và song song với cuộc sống, nhưng giải pháp Kitô giáo bao trùm toàn bộ thực tại và là một giải pháp nhằm tới sự thành toàn của cái toàn thể.
Thực sự sứ điệp của Tin Mừng Nhất Lãm là Vương Quốc Thiên Chúa, còn sứ điệp của Tin Mừng thứ Tư là chính bản thân Đức Giêsu. Hai khía cạnh đó gồm gói trong nhau. Một Đức Giêsu như “Trung tâm” luôn gắn liền với Nước Thiên Chúa như “Chu vi”. Có thể nói hơi lộng ngôn một chút: một Đức Giêsu mà không tha thiết loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa là một “Đức Giêsu què”; một Nước Thiên Chúa mà không có Đức Giêsu ở Trung Tâm lại là một “Nước Trời mù”.
Có nhiều lý do làm tách rời hai yếu tố “Trung tâm” và “Chu vi” ấy, chẳng hạn sự hiểu lầm từ ngữ “thế gian” trong Tin Mừng thứ Tư, nền thần học tu đức quá nghiêng về một thứ duy linh, tạo nên thái độ siêu thoát, xa lánh ma quỷ, thế gian và xác thịt… Mặt khác, khi mà uy tín của Giáo hội đã lên đến cao điểm; khi mà những người lãnh đạo trong Giáo hội có đủ quyền bính và biện pháp để giải quyết mọi vấn đề theo ý của mình, thì người ta không còn nhận ra tính cách bất toàn căn cội của cuộc sống, và không còn mong chờ một giải pháp dứt khoát của Thiên Chúa trên dòng lịch sử…
Hệ quả là niềm mong chờ cánh chung không còn là mong chờ Chúa dẫn dắt lịch sử đến ngày thành toàn, nhưng là nỗ lực thanh luyện, lập công để chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Khi ấy, đức Cậy, chỉ được hiểu như một nhân đức đối thần thuần túy, nhằm hy vọng hạnh phúc mai sau, chẳng những không đón nhận được những ưu tư làm đẹp trần gian, nhưng còn tỏ ra thù địch với những nỗ lực ấy.
Chính lối nhìn ấy đã vẽ nên một khuôn mặt Kitô giáo bi quan, ảm đạm. Khi bắt đầu thời Phục Hưng, thế kỷ XV-XVI, thế giới bắt đầu tìm thấy niềm vui cuộc sống nhiều hơn, lạc quan hơn về khả năng con người và những tiến bộ khoa học, thì người ta cũng bắt đầu viết nên nhiều “Bản cáo trạng” đối với Kitô giáo. Ta có thể chọn một đoạn văn tiêu biểu như sau:
“Do những sai lầm bi thảm, con người ngày nay coi người Kitô hữu như kẻ thù của cái có thời gian, và mỗi người chúng ta đều đã loáng thoáng nghe thấy những lời người ta tố cáo chúng ta…”[2]
Tuy nhiên, từ Công đồng Vatican II, khía cạnh cánh chung trở thành nét cơ bản. Đường nét này chẳng những liên quan đến mọi vấn đề thần học nhưng còn hình thành chiều kích mới của thần học, ảnh hưởng trên toàn bộ đời sống đức Tin của người Kitô hữu. Quả thật, nền thần học Cánh chung có thể giúp người Kitô hữu tìm thấy căn tính của đời sống đức Tin trong thời đại hôm nay.
Thực sự sứ điệp Kitô giáo không phải chỉ là thiết lập một dòng chảy bên trên dòng chảy của cuộc sống này, nhưng chính là một giải pháp cho chính cuộc sống, cho toàn thể vận mạng của vũ trụ và nhân loại. Sứ điệp ấy, một cách chính yếu, không nhằm lôi kéo con người bước vào một thế giới hoàn toàn mới, hoặc là chỉ như một thứ “đóng hụi chết” cho đời sống tôn giáo để mong sẽ được có phần lời sau khi chết…, nhưng sứ điệp Kitô giáo nhằm hội nhập và dẫn đưa toàn bộ cuộc sống tới sự thành toàn.
Sách Kinh Bổn thường đọc sau kinh Mười Điều Răn rằng: “Mười điều răn ấy tóm về hai điều mà chớ…”. Nói như thế không sai, nhưng mới chỉ là một thứ phân chia theo “chất thể” của Mười Điều Răn, trong khi thực sự chính Điều răn Thứ Nhất mới là “mô thể” cho tất cả Mười Điều Răn; bởi vì đối với người Do Thái, điều khoản thứ nhất bao giờ cũng mang ý nghĩa toát lược toàn bộ các điều khoản khác, do đó, một khi người tín hữu thảo kính cha mẹ, không gian tham, không dối trá…, thì đó là đang thờ phượng và kính mến Chúa vậy.
Dĩ nhiên không thể chối rằng, trong tâm thức xã hội tại một số nơi, sự sống đức Tin Kitô giáo cũng có góp một phần “uy tín” để bảo đảm cho một số giá trị nhân bản; nhưng hình như tâm thức của người giáo dân, hoặc ngay cả nơi nhiều linh mục, tu sĩ, vẫn chưa thấm được cấu trúc này, cả trong nội dung giảng dạy, trong cử hành phụng vụ, trong sinh hoạt giáo xứ… Hầu hết những sinh hoạt đạo đều “quy về” chuyện đạo đức, chứ ít có chiều hướng “mở ra” với xã hội và thế giới. Những phong trào tông đồ giáo dân mang bản chất “Công giáo Tiến hành”, mang đạo vào đời… thì khi du nhập vào Việt Nam luôn có khuynh hướng biến tướng trở thành “hội đạo đức”…
Người Kitô hữu cần phải xác tín rằng: Mười Điều Răn ấy tóm về “một điều mà chớ…”; đó là cách khẳng định lại cấu trúc đức Tin Kitô giáo… và chỉ khi đó, cả một lãnh vực rộng lớn của đời sống giáo dân mới tìm lại được “lý do hiện hữu” với những ý nghĩa đúng đắn.
Mục tử đích thực phải có “mùi chiên”, phải là những người lắng nghe được “tiếng nói” của đoàn chiên |
2. Dáng dấp đức Tin Kitô giáo
Giáo hội đang nỗ lực đi vào nẻo đường “hiệp hành”, và hiệp hành, nói chung, là một cách thức để mọi thành phần trong Giáo hội cùng nhau, hợp tác với nhau, liên đới với nhau trong sứ vụ chung… Nhưng ta cũng có thể thấy rằng, thành quả thu được là nhiều hay ít thì còn tùy vào phẩm tính của truyền thống và thực trạng của hoàn cảnh cụ thể.
2.1 Chiều dọc và chiều ngang (chiều kích chính trị)
Chiều kích chính trị, hiểu như là cách thức tổ chức sinh hoạt của cộng đồng, chắc chắn ảnh hưởng rất nhiều tới phẩm tính của Giáo hội xét như một cộng đồng xã hội.
Ta có thể tạm giản lược các thể chế chính trị vào hai hình thức chính, quân chủ và dân chủ. Mặc dù có nhiều khác biệt giữa những loại thể chế quân chủ khác nhau, nhưng nói chung thể chế quân chủ là lối tổ chức xã hội được điều hành với quyền lực tuyệt đối của một vị vua. Quyền bính được thừa hành có cội nguồn từ trên xuống, thường là theo đường lối cha truyền con nối. Ta tạm gọi đây là thể chế chiều dọc.
Trong khi đó thể chế dân chủ lại mang ý nghĩa quyền bính từ dân mà ra. Việc đặt quyền lực trong tay người dân, trực tiếp hoặc gián tiếp, được thể hiện bên ngoài theo quy luật đa số thắng thiểu số; nhưng sâu xa hơn, đó là một cách thức tin tưởng vào khả năng tìm chân lý một cách phong phú và dễ đạt được sự quân bình hơn, so với những quyết định của riêng một người, hoặc một số ít người.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chọn một hình thức dân chủ nào đó. Ngay cả nhiều quốc gia gọi là quân chủ lập hiến thì trong thực chất của việc thực thi quyền lực vẫn là dân chủ. Người ta ghi nhận chỉ còn 7 quốc gia theo thể chế quân chủ chuyên chế mà chủ yếu là các nước Hồi giáo, vương quốc Esquatini ở châu Phi… và quốc gia Vatican.
Dĩ nhiên, mỗi hình thức chính trị sẽ có thể thích hợp hơn cho một hoàn cảnh riêng biệt, để mang lại những lợi ích phong phú hơn. Tuy vậy, ta vẫn có thể thấy một chiều hướng chung là dần dần người ta hiểu rằng hình thức dân chủ tránh được nhiều sai lầm nghiêm trọng của các nhà cai trị độc tài, khơi dậy được một nguồn sinh lực vô cùng phong phú từ rất nhiều nguồn và nhất là chính hình thức dân chủ mới mang lại sự bình đẳng thực sự cho phẩm giá của mỗi người dân.
Tất cả những điều đó chắc chắn không thể hoàn toàn đúng với trường hợp Giáo hội. Có phải chăng, vì thế, ngay những bước đầu của tiến trình Hiệp hành, đã thấy có đấng bậc lo lắng về một khuynh hướng dân chủ trong Giáo hội…(?).
Thực sự Giáo hội không phải là một tổ chức chính trị xã hội, nhưng là một huyền nhiệm[3], vừa hữu hình vừa vô hình. Giáo hội luôn xác tín quyền bính đến từ Chúa mà các người lãnh đạo trong Giáo hội không bao giờ là người kế vị Chúa, nhưng chỉ là người đại diện của Chúa; bởi vì Chúa không bao giờ thoái vị, nhường ngôi hoặc đã về hưu, không còn dính dáng gì tới đời sống Giáo hội. Xét về mặt thuần túy tự nhiên, người ta xếp quốc gia Vatican vào loại thể chế quân chủ. Đó là một cách nhìn, theo lý thuyết, không hoàn toàn đúng; nhưng với một chút thành thật của lương tâm, có lẽ chúng ta có thể nói rằng, trong thực tế, việc xếp loại ấy cũng không hoàn toàn là sai…
Tuy nhiên, Vatican II cũng đã đưa ra một mô hình Giáo hội đa dạng và hiệp nhất: Giáo hội là phản ảnh của Chúa Ba Ngôi, là Dân của Chúa Cha, là Thân Mình Chúa Kitô và là Đền thờ của Chúa Thánh Thần[4]. Trong Dân của Cha, các phẩm trật có vai trò quan trọng trong Thân Mình Chúa Kitô và Thánh Thần làm cho mọi thành phần được sống phong phú và trọn vẹn. Trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần, “Ngài thông đạt cho Giáo hội toàn thể Chân lý (Ga 16,13). Ngài thống nhất Giáo hội nơi việc kết hiệp và phục vụ. Ngày xây dựng và dẫn dắt Giáo hội bằng nhiều ân huệ khác nhau theo phẩm trật và đoàn sủng, trang bị Giáo hội bằng hoa quả của Ngài…” (GH 4)
Mặc dù khó nói rằng có một tiến trình mang tên dân chủ trong lịch sử văn hóa đức Tin Kitô giáo, nhưng chúng ta cũng thấy khá rõ một chiều hướng tương tự. Nếu Cựu Ước diễn tả mối tương quan chiều dọc như nền tảng, thì nơi Tân Ước ta lại thấy mối tương quan của Thiên Chúa với con người có một quá trình rộng mở chiều ngang phong phú hơn nhiều.
Đức Hồng y Albert Vanhoye cho thấy, trong hai chiều hướng ấy, có một sự “cân đối” mới. Trong giao ước Sinai, chiều kích bên ngoài tỏ rõ là chiều dọc; trong bữa Tiệc Ly lại trình bày chiều kích bên ngoài rõ nét là chiều ngang. Chiều dọc luôn luôn là nguồn mạch và là điều chính yếu; tuy nhiên, trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu diễn tả chiều dọc chỉ trong một từ duy nhất “khi đã tạ ơn” (eukharistêsas), một lần trên bánh và một lần trên rượu; rồi sau đó là một sự phong phú thân tình được triển nở qua việc bẻ bánh, trao ban; và qua việc cùng thông chia một chén rượu với nhau[5].
Như thế, dù không người Kitô hữu nào chối từ quyền bình đến từ Chúa và cũng không thể phủ định quyền bính quản trị trong Giáo hội qua hàng giáo phẩm, chúng ta vẫn khám phá quyền bính “từ trên” ấy càng có thể và cần thể hiện trong một cách thức mang “tính dân chủ” một cách nào đó. Nếu không thì người giáo dân vẫn khó lòng có được một không gian để góp phần một cách tích cực hơn vào đời sống Giáo hội.
2.2. Mặt bằng và ngôi sao (chiều kích văn hóa xã hội)
Căn bệnh trầm kha, nặng nề nhất của mọi người, ở mọi thời và mọi nơi vẫn thật sự là căn bệnh ưu tuyển. Ở đâu người ta cũng chỉ đề cao những “ngôi sao” và quên mất tầm quan trọng chính yếu của “mặt bằng”. Dĩ nhiên, đóng góp của ngôi sao vẫn luôn có ý nghĩa không nhỏ, nhưng không phải vì thế mà người ta quên rằng một cộng đoàn, một tổ chức hay một dân tộc… chỉ dễ dàng phát triển và phát triển một cách quân bình khi được sự đồng thuận của “mặt bằng” và khi sự phát triển phổ cập đến “mặt bằng”. Phát triển chỉ thực sự là phát triển khi “mặt bằng” được phát triển.
Đời sống Giáo hội cũng không tránh khỏi cám dỗ ngôi sao và não trạng chung vẫn chỉ thấy, chỉ kể, chỉ tán dương các ngôi sao mà thôi. Điều đó khiến cho người ta ít quan tâm đến cảm nhận của giáo dân và cũng làm thui chột nhiều nguồn mạch phong phú ẩn tàng trong “mặt bằng”.
Có một khái niệm lâu đời trong truyền thống Giáo hội và cũng đã được nhiều nhà thần học nhắc tới. Tuy nhiên, cùng với tinh thần của Đức Giáo Hoàng Phanxixô, Ủy Ban Thần học Quốc tế đã công bố, ngày 5.5.2014, văn kiện Cảm Thức Đức Tin trong đời sống Giáo hội, nhằm suy tư một cách hệ thống về vai trò tích cực của người tín hữu như là những chủ thể của chân lý đức Tin. Văn kiện có gắng xóa bỏ lối phân biệt truyền thống trong Giáo hội, theo đó có một “Giáo hội dạy dỗ” (Ecclesia docens / phẩm trật) và “Giáo hội học tập” (Ecclesia discens / giáo dân). Bởi vì mọi người tín hữu, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, rồi Bí tích Thêm sức, đều được lãnh nhận Thánh Thần, được tham dự vào vai trò ngôn sứ của Đức Giêsu. Do đó, người tín hữu cũng được hưởng một thứ ân huệ “vô ngộ khi tin” (in credendo), và một sự đồng thuận của mọi tín hữu có thể tạo nên được một chứng từ cho đức tin tông truyền. Văn kiện nhắc lại nhiều bằng chứng lịch sử cho thấy cảm thức của người tín hữu đã góp quan trọng cho việc xác định nền tảng tín lý trong đời sống Giáo hội.
Dĩ nhiên, văn kiện cũng nêu lên một số tiêu chuẩn cần thiết để xác nhận cảm thức đức Tin của người tín hữu, nhưng trong đường nét chung, ta có thể thấy một sự chân nhận hợp pháp về tầm quan trọng của “mặt bằng”.
Một cách nền tảng hơn, cùng với Đức Gioan Phaolô II, chúng ta có thể phân biệt hai chiều kích căn bản trong chiều sâu bản chất của Giáo hội, “chiều kích tông đồ và Phêrô” và “chiều kích đức Maria”.
“… Chúng ta có thể nói Hội Thánh vừa mang đặc tính “Thánh mẫu” vừa có đặc tính “tông đồ” và đặc tính “thuộc về Phêrô”[6].
Trong lời chú thích của đoạn văn trên đây, Đức Gioan Phaolô II ghi lại lời của nhà thần học Von Balthasar, trong diễn văn đọc trước các hồng y và các giám chức tại giáo triều Roma ngày 22.12.1997 như sau:
“Khía cạnh Thánh mẫu, nếu không hơn thì cũng là nét nền tảng và đặc trưng của Giáo hội như khía cạnh mang tính cách “tông đồ” và tính cách “Phêrô”. Khía cạnh Thánh mẫu cũng liên kết mật thiết với hai khía cạnh đó (…). Chiều kích Thánh mẫu của Giáo hội trổi vượt hơn chiều kích Phêrô, đồng thời liên kết và bổ sung cho chiều kích đó. Đức Maria, Đấng Vô nhiễm Nguyên tội, trổi vượt hơn mọi người khác và dĩ nhiên, hơn cả Phêrô và các tông đồ; không chỉ vì Phêrô và các tông đồ thuộc về nhân loại, sinh ra trong tội lỗi, là thành phần của Giáo hội ‘thánh thiện và bao gồm các tội nhân’, nhưng còn vì ba nhiệm vụ của các ngài không nhằm điều gì khác hơn là thành lập Giáo hội trong lý tưởng đạt đến sự thánh thiện này, lý tưởng đó đã được hình thành trước và biểu hiện trước nơi đức Maria. Như một nhà thần học hiện này đã nói: ‘Đức Maria là Nữ vương các Tông đồ’, mà không cần đến quyền bính tông đồ. Đức Maria có vai trò khác lớn hơn nhiều”[7].
Chiều kích Phêrô vẫn luôn được nói đến nhiều, ngay trong Kinh Thánh, trong suốt lịch sử Giáo hội, và trong bầu khí Giáo hội hiện nay. Giáo hội cần những người lãnh đạo, cần những người tiếp nối vai trò của Đức Kitô như “Hôn phu”. “Bộ mặt” hữu hình của Giáo hội trần thế vẫn luôn là giáo triều, là các đấng bậc trong Giáo hội. Tuy nhiên, Giáo hội không phải chỉ là những đấng bậc. Giáo hội là Dân Thiên Chúa mà mọi người Kitô hữu đều là những thành phần trọn vẹn và tích cực. Trong mầu nhiệm Giáo hội hiệp thông, chúng ta hiểu rằng, đằng sau những hào quang luôn có những giọt mồ hôi và nước mắt; đằng sau những thành công lớn lao và những công trình vĩ đại luôn có những hy sinh âm thầm, những sự chết đi để có được một mùa gặt tốt đẹp. Đó là đóng góp của vai trò “nữ tính”[8].
Nếu vận hành của sự sống trong Giáo hội chỉ diễn tiến một chiều, các mục tử sẽ trở thành những người công chức. Nhưng mục tử đích thực phải có “mùi chiên”, phải là những người lắng nghe được “tiếng nói” của đoàn chiên, phản ảnh lên các nhà thần học và huấn quyền để mỗi thành phần đều thực sự góp phần một cách tích cực vào sự sống Kitô giáo…
Tạm kết
Chắc chắn còn nhiều yếu tố khác đã tạo nên tình trạng người giáo dân vẫn ở bên lề Giáo hội, chẳng hạn thái độ bỏ quên phẩm giá căn bản và bình đẳng của mọi người Kitô hữu trong Bí tích Rửa Tội, hoặc một ý thức về sứ mạng Giáo hội của người nghèo… chính những yếu tố ấy làm nên dung môi của sự sống đức Tin và phải được cứu xét một cách rốt ráo hơn để đi vào hiệp hành và tránh tình trạng “giáo dân vẫn ở bên lề…”.
Lm Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP.
1. Xc. Hugues Cousin, Jean Pierre Lémonon, Jean Massonnet, Le Monde où vivait Jesus, Les Éditions du Cerf, Paris 1998, Bản dịch của Học Viện Đa Minh, Trên Quê Hương Đức Giêsu, 2003, trang 134.
2. Jean Mouroux, Sens chrétien de l’homme, Tủ sách Luân lý, bản dịch của Trần Thái Đỉnh và Nguyễn Bình Tĩnh, Đại Chủng Viện Huế, 1997, trang 15-17.
3. Chương I của Hiến chế Tín lý về Giáo hội có tiêu đề là “Mầu nhiệm Giáo hội”.
4. X. GH 2.
5. X. Hồng y Albert Vanhoye S.J, “Chúng ta hãy Tin tưởng đón nhận đức Kitô, Vị Thượng Tế của chúng ta”, Các bài giảng mùa Chay tại Giáo triều Rôma từ 10 -16, tháng 2 năm 2008. Bài 10 “Đức Kitô, Đấng Trung gian của Giao ước mới trong bữa Tiệc ly”.
6. X. Tông thư Phẩm Giá Phụ Nữ, s.27.
7. Von Balthasar, Obs. Rom. 23-12-1987.
8. X. Nguyễn Trọng Viễn O.P, Thách đố của phẩm tính đức Tin, Thách đố của “nữ tính”.