2023
Toàn văn Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Blaise Pascal
Toàn văn Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Blaise Pascal
Hôm 19.06.2023, Đức Thánh cha Phanxicô đã ban hành Tông thư có tựa đề “Sublimitas et miseria hominis” (Sự cao cả và sự khốn khổ của con người) nhân kỷ niệm 400 năm sinh nhật của triết gia tôn giáo và nhà toán học Blaise Pascal người Pháp.
Đức Hồng y José Tolentino de Mendonça, Tổng trưởng Bộ Giáo dục Công giáo, cùng với Tiến sĩ Francois Xavier Adam, Giám đốc Học viện Pháp, Trung tâm thánh Louis, đã giới thiệu Tông thư trong cuộc họp báo tại Phòng Báo chí Tòa Thánh.
Sau đây là nội dung Tông thư của Đức Thánh Cha:
TÔNG THƯ
SUBLIMITAS ET MISERIA HOMINIS –
SỰ CAO CẢ VÀ SỰ KHỐN KHỔ CỦA CON NGƯỜI
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
NHÂN KỶ NIỆM 400 NĂM NGÀY SINH CỦA BLAISE PASCAL
SỰ CAO CẢ VÀ SỰ KHỐN KHỔ CỦA CON NGƯỜI. Nghịch lý này là tâm điểm của tư tưởng và thông điệp bất hủ của Blaise Pascal, người sinh cách đây 4 thế kỷ, vào ngày 19.06.1623 tại Clermont miền trung nước Pháp. Từ thời thơ ấu, Pascal đã dành cả cuộc đời mình để tìm kiếm sự thật. Bằng cách sử dụng lý trí, ông lần theo dấu vết của sự thật, nhất là trong các lĩnh vực toán học, hình học, vật lý và triết học, thực hiện những khám phá phi thường và đạt được danh tiếng đáng kể ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng Pascal không bằng lòng với những thành tích đó. Trong một thế kỷ với những tiến bộ vượt bậc trong nhiều lĩnh vực khoa học, cùng với tinh thần hoài nghi triết học và tôn giáo ngày càng tăng, Blaise Pascal đã cho thấy mình là một người tìm kiếm chân lý không biết mệt mỏi, một tinh thần “không ngơi nghỉ”, và luôn mở ra những chân trời mới và rộng lớn hơn.
Trí thông minh và ham học hỏi của Pascal không ngừng suy ngẫm về câu hỏi, tuy cổ xưa nhưng luôn mới mẻ, vang vọng trong tâm hồn con người: “Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8, 5). Câu hỏi này khắc sâu trong tâm khảm của mỗi con người, của mọi thời đại, mọi nơi, mọi nền văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo. “Con người trong tự nhiên là gì?” – Pascal tự vấn – “Không là gì đối với cái vô hạn, nhưng là tất cả đối với cái hư vô”[1]. Câu hỏi đã được tác giả Thánh Vịnh đặt ra trong bối cảnh lịch sử tình yêu giữa Thiên Chúa và dân Ngài, một lịch sử mà đỉnh cao là sự nhập thể nơi “Con Người”, Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà Chúa Cha đã bỏ rơi để đội cho Người vinh quang và danh dự vượt lên trên mọi thụ tạo (x. c. 6). Câu hỏi này được đặt ra bằng một ngôn ngữ rất khác với ngôn ngữ toán học và hình học, Pascal chưa bao giờ khép lại với câu hỏi này.
Vì lý do này, tôi tin rằng thật phù hợp khi mô tả Pascal như một người tạo được ấn tượng bằng một thái độ cơ bản là kính sợ và cởi mở với mọi thực tại. Cởi mở với những chiều kích khác của tri thức và cuộc sống, cởi mở với người khác, cởi mở với xã hội. Ví dụ, vào năm 1661, ông là người khởi xướng hệ thống giao thông công cộng đầu tiên trong lịch sử, được thực hiện ở Paris với “Cỗ xe năm xu”. Nếu tôi đề cập đến điều này ở phần đầu của Tông thư, thì không phải là để nhấn mạnh rằng việc Pascal trở lại với Đức Kitô, bắt đầu từ “Đêm lửa” ngày 23.11.1654, cũng như nỗ lực trí tuệ phi thường của ông để bảo vệ đức tin Kitô giáo đã khiến ông trở thành một người bị cô lập trong thời đại của mình, mà là để cho thấy việc ông luôn quan tâm đến những vấn đề cấp bách nhất của thời đại, cũng như nhu cầu vật chất của mọi thành phần trong xã hội mà ông đang sống.
Sự cởi mở với thế giới xung quanh làm cho Pascal luôn quan tâm đến người khác ngay cả trong cơn bạo bệnh cuối cùng khi mới 39 tuổi. Tại thời điểm này, giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình trần thế, ông được cho là đã nói rằng: “Nếu điều các bác sĩ nói là đúng, và Thiên Chúa cho phép tôi thoát khỏi căn bệnh này, thì tôi quyết tâm không làm bất kỳ nghề nghiệp hoặc công việc nào khác trong những ngày còn lại của cuộc đời mình ngoài việc phục vụ người nghèo”[2]. Thật xúc động khi khi thấy rằng, trong những ngày cuối đời, một thiên tài vĩ đại như Blaise Pascal không thấy gì cấp bách hơn là cống hiến sức lực của mình cho những việc của lòng thương xót: “Đối tượng duy nhất của Kinh thánh là đức ái”[3].
Do đó, nhân kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Pascal, tôi rất vui vì Chúa quan phòng đã cho tôi cơ hội để bày tỏ lòng kính trọng đối với ông, và nhớ lại tư tưởng và những khía cạnh trong cuộc đời của ông mà tôi cho là hữu ích để khuyến khích các Kitô hữu trong thời đại chúng ta, và những người thiện chí trong việc theo đuổi hạnh phúc đích thực. Vì “mọi người đều mưu cầu hạnh phúc. Điều này đúng không có ngoại lệ, bất kể họ sử dụng những phương tiện khác nhau ra sao. Tất cả đều hướng tới cùng một mục đích này”[4]. Bốn thế kỷ sau ngày sinh, Pascal vẫn là người bạn đồng hành của chúng ta, trên lộ trình tìm kiếm hạnh phúc đích thực và, nhờ hồng ân đức tin, chúng ta khiêm tốn và vui mừng nhận ra Chúa chịu đóng đinh và phục sinh.
Một người yêu Chúa Kitô, Đấng nói với mọi người
Hoán cải: cuộc thăm viếng của Chúa |
Một người yêu Chúa Kitô, Đấng nói với mọi người
Nếu Blaise Pascal có thể thu hút tất cả mọi người, thì trên hết, đó là vì ông đã nói về thân phận con người một cách rất thuyết phục. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu chỉ coi ông là một chuyên gia sâu sắc về hành vi của con người. Tác phẩm Pensées đồ sộ của ông, một số câu cách ngôn mang tính cá nhân của ông vẫn còn nổi tiếng, thực sự không thể hiểu được trừ khi chúng ta nhận ra rằng Chúa Giêsu Kitô và Kinh thánh vừa là trung tâm vừa là chìa khóa cho cách hiểu về chúng. Vì nếu Pascal đề nghị nói về con người và về Thiên Chúa, đó là bởi vì ông đã đạt đến sự chắc chắn rằng “chúng ta không những chỉ biết Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô, mà chúng ta còn chỉ biết chính mình qua Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không biết sự sống và cái chết ngoại trừ qua Chúa Giêsu Kitô. Ngoài Chúa Giêsu Kitô, chúng ta không hiểu sự sống, sự chết, Thiên Chúa, và bản thân mình là gì. Do đó, nếu không có Kinh thánh, vốn chỉ có Chúa Giêsu Kitô làm đối tượng, thì chúng ta chẳng biết gì và chỉ thấy bóng tối”[5]. Nếu tuyên bố táo bạo này được mọi người hiểu, và không bị coi là lời khẳng định mang tính thuần túy giáo điều và không thể hiểu được bởi những người không cùng chia sẻ đức tin của Giáo hội, hoặc không bị coi là sự hạ thấp các năng lực hợp lý của lý trí tự nhiên, thì tuyên bố này đáng được làm rõ.
Đức tin, tình yêu và sự tự do
Là Kitô hữu, chúng ta cần tránh xa cám dỗ trình bày đức tin của mình như một điều hiển nhiên chắc chắn không thể chối cãi đối với mọi người. Rõ ràng Pascal quan tâm đến việc làm cho mọi người nhận ra rằng “Thiên Chúa và sự thật không thể tách rời nhau”[6], nhưng ông cũng biết rằng đức tin chỉ có được nhờ ân sủng của Thiên Chúa, được lãnh nhận bởi một tâm hồn tự do. Nhờ đức tin, Pascal đã có cuộc gặp gỡ mang tính cá vị với “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacob, chứ không phải Thiên Chúa của các triết gia và học giả”[7], và nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô “là Đường, là Sự thật, và là Sự sống” (Ga 14, 6). Đây là lý do tại sao tôi đề nghị tất cả những ai muốn kiên trì tìm kiếm chân lý – một nhiệm vụ không có hồi kết trong cuộc đời này – hãy lắng nghe Blaise Pascal, một người có trí thông minh phi thường, đã khẳng định rằng chẳng có chân lý nào đáng giá khi tách rời khỏi khát vọng để yêu. “Chúng ta biến chính chân lý thành một thần tượng, bởi vì chân lý mà tách rời khỏi đức ái thì không còn phải là Thiên Chúa, nhưng chỉ là hình ảnh của Ngài; hình ảnh đó là một thần tượng mà không nên được yêu mến hoặc tôn thờ”[8].
Vì thế, Pascal bảo vệ chúng ta khỏi những học thuyết sai lầm, mê tín dị đoan và chủ nghĩa tự do khiến nhiều người trong chúng ta xa rời niềm vui và bình an lâu bền của Đấng muốn chúng ta chọn “sự sống và hạnh phúc”, chứ không phải “cái chết và bất hạnh” (Đnl 30, 15.19 ). Tuy nhiên, bi kịch của cuộc đời là đôi khi chúng ta không nhìn thấy rõ ràng, và vì thế, chúng ta lựa chọn sai lầm. Thực vậy, chúng ta chỉ có thể cảm nếm được niềm vui của Tin Mừng nếu “Chúa Thánh Thần đổ đầy trong chúng ta sức mạnh của Ngài và giải thoát chúng ta khỏi sự yếu hèn, ích kỷ, tự mãn và kiêu ngạo của mình”[9]. Hơn nữa, “không có sự khôn ngoan phân định, chúng ta dễ dàng trở thành mồi ngon cho mọi trào lưu rẻ tiền”[10]. Đây là lý do tại sao trí thông minh và đức tin sống động của Blaise Pascal, người muốn chứng tỏ rằng: Kitô giáo “đáng kính vì nó thực sự biết con người” và “đáng yêu vì nó hứa hẹn hạnh phúc đích thật”[11], có thể giúp chúng ta vượt qua bóng tối và những bất hạnh của thế giới này.
Một bộ óc khoa học xuất chúng
Khi mẹ mất năm 1626, Blaise Pascal mới 3 tuổi. Étienne, cha của cậu bé, một luật gia nổi tiếng, cũng được biết đến với những tài năng khoa học vượt trội, nhất là trong lĩnh vực toán học và hình học. Quyết định tự mình nuôi dạy ba người con: Jacqueline, Blaise và Gilber, ông chuyển đến Paris vào năm 1632. Ngay từ rất sớm, Blaise đã bộc lộ một trí thông minh phi thường và sự kiên trì trong việc tìm kiếm chân lý. Theo lời kể của em gái Gilberte: “Từ thời thơ ấu, anh ấy chỉ có thể chấp nhận những gì mà anh ấy thấy rõ ràng là đúng; kết quả là, khi không được cung cấp lý do chính đáng, chính anh đã tự mình tìm kiếm sự thật”[12]. Một ngày nọ, người cha bắt gặp cậu con trai đang học hình học và chợt nhận ra rằng: dù không hề biết là những định lý tương tự có thể được tìm thấy trong những cuốn sách dưới những cái tên khác, thì Blaise, ở tuổi 12, vẫn hoàn toàn tự mình vẽ các hình trên mặt đất, và đã chứng minh 32 định đề đầu tiên của Euclid[13]. Gilberte sau đó nhớ lại rằng cha của họ đã “thực sự kinh ngạc trước chiều sâu và sức mạnh trí tuệ của Blaise“[14].
Trong những năm sau đó, Pascal đã làm việc cật lực để phát huy tối đa tài năng vĩ đại của mình. Năm 17 tuổi, cậu đã kết giao với những người uyên bác nhất trong thời đại của mình. Ngay sau đó là những khám phá và ấn phẩm nối tiếp nhau. Năm 1642, ở tuổi 19, cậu đã phát minh ra máy tính số học, tiền thân của máy tính hiện đại của chúng ta. Về điểm này, Pascal nói với chính thời đại của chúng ta, vì ông nhắc nhở chúng ta về sự vĩ đại của lý trí con người và khuyến khích chúng ta sử dụng lý trí để giải mã những bí ẩn của thế giới xung quanh. Khả năng nắm bắt toán học, khả năng hiểu chi tiết cách mọi thứ vận hành như thế nào, sẽ giúp ích cho Pascal trong suốt cuộc đời. Theo lời của nhà thần học lỗi lạc Hans Urs von Balthasar: “Pascal đã rèn luyện bản thân về độ chính xác phù hợp với toán học và khoa học tự nhiên, để đạt được độ chính xác hoàn toàn khác phù hợp với lĩnh vực hiện hữu nói chung và lĩnh vực Kitô giáo nói riêng”[15]. Sự tự tin của Pascal vào việc sử dụng lý trí tự nhiên, vốn liên kết ông với tất cả những người tìm kiếm chân lý, giúp ông vừa nhận ra những giới hạn của lý trí vừa mở lòng đón nhận những lý do siêu nhiên của Mạc khải thần linh, theo cảm thức của sự nghịch lý vốn là đặc thù trong chiều sâu triết học và là sức hấp dẫn văn chương trong Pensées của ông. “Giáo hội đã nỗ lực hết sức trong việc chứng minh rằng Chúa Giêsu Kitô là con người để chống lại những người phủ nhận điều này, và Giáo hội cũng đã nỗ lực như vậy khi chứng minh Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa; và cả hai đều hiển nhiên như nhau”[16].
Các triết gia
Nhiều bài viết của Pascal thấm đẫm ngôn ngữ triết học. Điều này đặc biệt đúng với tác phẩm Pensées, tuyển tập các đoạn được xuất bản sau khi ông qua đời, là những ghi chú và bản thảo của ông đối với một triết lý được gợi hứng từ mối quan tâm thần học. Các học giả đã cố gắng, với nhiều thành quả khác nhau, để khôi phục lại thứ tự và sự mạch lạc nguyên thuỷ của bộ sưu tập. Tình yêu say đắm của Pascal dành cho Đức Kitô và việc phục vụ người nghèo, như tôi đã đề cập lúc đầu, không có dấu hiệu mất kết nối trong tâm trí của người môn đệ dũng cảm này. Tình yêu và việc phục vụ của Pascal như là một sự phát triển sâu xa hơn cho chủ nghĩa cấp tiến mang tính Phúc âm, một sự tiến bộ, và được ân sủng trợ giúp, nó hướng tới chân lý sống động của Chúa. Là người sở hữu sự chắc chắn siêu nhiên về đức tin và coi đức tin hoàn toàn tương thích với lý trí mặc dù đức tin vượt trội vô cùng so với lý trí, Pascal cố gắng tham gia đối thoại bao nhiêu có thể với những người không cùng đức tin với mình. Vì “đối với những người không có đức tin, chúng ta chỉ có thể trao đức tin cho họ bằng cách lý luận, trong khi chờ đợi Thiên Chúa ban cho họ bằng cách đánh động trái tim họ”[17]. Tại đây, chúng ta thấy một hình thức loan báo Tin Mừng hết sức tôn trọng và kiên nhẫn mà thế hệ chúng ta cần noi theo.
Do đó, để hiểu đúng tư tưởng của Pascal về Kitô giáo, cần phải chú ý đến triết lý của ông. Ông ngưỡng mộ sự khôn ngoan của các triết gia Hy Lạp cổ đại, vốn là những người đã tìm kiếm sự đơn giản và thanh thản để sống tốt đẹp với tư cách là công dân của một thành phố: “Chúng ta nghĩ về Plato và Aristotle chỉ như những người khoác lên mình chiếc áo choàng thướt tha của các học giả. Họ là những người bình thường, giống như bao người khác, vui vẻ cười đùa với bạn bè. Khi soạn thảo Luật pháp và Chính trị, họ đã làm điều đó vì niềm vui. Đó là phần ít triết lý nhất và ít nghiêm túc nhất trong cuộc sống của họ; phần triết lý nhất là sống đơn giản và yên bình”[18]. Tuy nhiên, bất chấp sự vĩ đại và hữu ích, Pascal vẫn nhận ra những giới hạn của những triết lý đó: Chủ nghĩa khắc kỷ dẫn đến kiêu ngạo[19]; chủ nghĩa hoài nghi dẫn đến tuyệt vọng[20]. Lý trí của con người là một kỳ công của tạo hóa, phân biệt con người với mọi sinh vật khác, vì “con người chỉ là một cây sậy, yếu ớt nhất trong tự nhiên, nhưng lại là một cây sậy biết tư duy”[21]. Do đó, chúng ta hiểu rằng giới hạn của các triết gia, đơn giản là giới hạn của lý trí được tạo dựng. Democritus có thể đúng khi nói: “Tôi sẽ nói về mọi thứ”[22], nhưng lý trí, tự nó, không thể giải quyết những vấn đề sâu sắc nhất và cấp bách nhất. Cuối cùng, đối với thời của Pascal cũng như thời nay, câu hỏi lớn nhất và cấp bách nhất vẫn là gì? Đó là ý nghĩa tổng thể của số phận, cuộc đời, và niềm hy vọng của chúng ta, hướng đến một hạnh phúc mà chúng ta không còn bị hạn chế để tưởng tượng như là vĩnh cửu, nhưng là hạnh phúc mà chính Thiên Chúa ban tặng: “Chẳng có gì quan trọng đối với một người cho bằng trạng thái của chính anh ta; chẳng gì đáng sợ đối với anh ta cho bằng sự vĩnh cửu”[23].
Khi suy ngẫm về tác phẩm Pensées của Pascal, chúng ta tìm thấy, theo một cách nào đó, nguyên tắc cơ bản này: “Thực tại lớn hơn ý tưởng”. Pascal dạy chúng ta tránh xa “những phương tiện khác nhau nhằm che giấu thực tại”, từ “các dạng tinh tuyền siêu phàm” đến “nghị luận trí thức không có minh triết”[24]. Không gì nguy hiểm hơn một lý luận quái gở: “Anh ta đã ước muốn hành động như một thiên thần, nhưng thực tế thì lại hành động như một ác thú”[25]. Những hệ tư tưởng tai hại mà chúng ta tiếp tục gánh chịu trong các lĩnh vực kinh tế, đời sống xã hội, nhân chủng học và đạo đức giam cầm những người theo chúng trong một thế giới ảo tưởng, nơi ý tưởng thay thế cho thực tế.
Tình trạng con người
Triết lý của Pascal, luôn luôn nghịch lý, được đặt nền tảng trên một cách tiếp cận vừa khiêm tốn vừa trong sáng: tìm cách đạt tới “thực tại được lý trí soi sáng”[26]. Ông bắt đầu nhận xét rằng, theo một cách nào đó, con người là một kẻ lạ lẫm với chính mình, vừa cao cả vừa khốn khổ. Cao cả nhờ lý trí và khả năng làm chủ đam mê, nhưng cũng cao cả ở chỗ “biết thừa nhận mình khốn khổ”[27]. Thật vậy, con người khao khát một điều gì đó khác hơn là thỏa mãn hoặc chống lại bản năng của mình, “bởi vì những gì là bản chất ở động vật, thì chúng ta gọi là sự khốn khổ ở con người”[28]. Có một sự bất cân xứng không thể chấp nhận được tồn tại giữa một bên là khát vọng hạnh phúc và hiểu biết chân lý vô hạn và bên kia là sự hữu hạn của lý trí và sự yếu đuối về thể chất, sẽ kết thúc bằng cái chết. Sức mạnh của Pascal còn nằm ở óc thực tế không ngừng nghỉ của ông: “Không cần phải có trí thông minh tuyệt vời để nhận ra rằng không có sự thỏa mãn thực sự và bền vững, rằng tất cả những thú vui của chúng ta chỉ là phù phiếm, rằng những điều xấu xa của chúng ta là vô tận, và cái chết luôn đe dọa chúng ta, nó chắc chắn sẽ đặt ra trước mắt chúng ta, trong một vài năm nữa, sự thay thế đáng sợ là bị hủy diệt hoặc bất hạnh mãi mãi. Chẳng có gì thật hơn thế, cũng chẳng có gì đáng sợ hơn thế. Chúng ta có thể hành động dũng cảm như chúng ta muốn: đó là sự kết thúc đang chờ đợi cuộc sống tốt đẹp nhất trên thế gian”[29]. Dĩ nhiên, trong tình trạng bi đát này, người ta không thể co cụm vào chính mình, vì sự khốn khổ và số phận bấp bênh của họ là không thể chịu đựng được. Do đó, họ cần phải đánh lạc hướng bản thân, điều mà Pascal dễ dàng thừa nhận: “Đó là lý do tại sao con người lại yêu thích sự ồn ào và huyên náo đến vậy”[30]. Bởi vì nếu một người không đánh lạc hướng khỏi tình trạng của mình – và tất cả chúng ta đều biết rất rõ cách đánh lạc hướng bản thân bằng công việc, các hình thức giải trí, các mối tương quan gia đình hoặc bạn bè, và thật không may, bằng cả những tật xấu mà các đam mê chắc chắn đưa đến – thì nhân tính của họ trải nghiệm “sự hư vô, sự bỏ rơi, sự thiếu sót, sự phụ thuộc, sự bất lực, và sự trống rỗng của mình. Và xuất hiện từ sâu thẳm tâm hồn họ sự chán nản, u ám, buồn bã, thất vọng, cay đắng, tuyệt vọng”[31]. Sự tiêu khiển không xoa dịu được, càng không thỏa mãn được ước muốn lớn lao của chúng ta về cuộc sống và hạnh phúc. Đây là điều mà tất cả chúng ta đều biết khá rõ.
Tại điểm này, Pascal đưa ra lập luận tuyệt vời của mình: “Vậy thì nỗi khao khát và cảm giác bất lực này là gì đối với chúng ta, nếu không phải là con người đã từng được hưởng một hạnh phúc thực sự, mà giờ đây chỉ còn lại một dấu vết trống rỗng mà họ cố gắng một cách vô ích để lấp đầy bằng mọi thứ xung quanh, tìm kiếm những thứ họ thiếu, những thứ họ không thể đạt được từ những thứ họ có. Tuy nhiên, không thứ gì trong số này có thể thỏa mãn được, vì vực thẳm vô tận này chỉ có thể được lấp đầy bởi một đối tượng vô tận và bất biến, đó là chính Thiên Chúa”[32].
Nếu con người giống như “một vị vua bị phế truất”[33], chỉ tìm cách khôi phục lại sự vĩ đại đã mất trong khi biết rằng mình không thể làm được điều đó, thì con người là gì? “Con người thật là một sinh vật kỳ diệu, một điều mới lạ, một điều quái dị, hỗn loạn, mâu thuẫn, phi thường, phán xét vạn vật, con giun đất yếu ớt, người mang sự thật, vũng lầy của sự không chắc chắn và sai lầm, vinh quang và rác rưởi của vũ trụ! Ai có thể tháo gỡ mớ rối rắm này?”[34]. Là một triết gia, Pascal thấy rõ rằng “càng thông tuệ, chúng ta càng khám phá ra sự cao cả và thấp hèn của con người”[35], và rằng những mâu thuẫn này là không thể dung hòa. Lý trí của con người không thể dung hòa chúng, cũng không thể giải quyết được điều bí ẩn.
Pascal tiếp tục lập luận rằng nếu Thiên Chúa hiện hữu, và nếu con người đã nhận được sự mặc khải thần linh – như nhiều tôn giáo tuyên bố – và nếu sự mặc khải này là đúng, thì nó phải chứa đựng câu trả lời mà chúng ta đang chờ đợi để giải quyết những mâu thuẫn đang dày vò chúng ta. “Sự cao cả và khốn khổ của con người rõ ràng đến nỗi tôn giáo chân chính nhất thiết phải dạy chúng ta rằng trong con người có một nguyên tắc vĩ đại về sự cao cả và một nguyên tắc vĩ đại về sự khốn khổ. Tôn giáo cũng cần phải giải thích cho chúng ta những mâu thuẫn đáng kinh ngạc này”[36]. Sau khi nghiên cứu các tôn giáo lớn, Pascal đi đến kết luận rằng, “không một hình thức tư duy hoặc thực hành khổ hạnh – thần bí nào có thể đưa ra một con đường cứu độ”, trừ khi bằng “tiêu chuẩn cao siêu của chân lý được tìm thấy nơi sự soi sáng của ân sủng”[37]. Khi tưởng tượng điều mà Thiên Chúa chân thật có thể nói với chúng ta, Pascal viết: “Hỡi con người, thật vô ích, bạn tự tìm kiếm phương thuốc cho những đau khổ của mình. Tất cả sự thông tuệ của bạn chỉ có thể đạt được sự hiểu biết rằng bạn sẽ không tìm thấy chân lý và sự tốt lành nơi chính bản thân mình. Các triết gia đã hứa với bạn điều đó nhưng họ đã không thể thực hiện được. Họ không biết đâu là hạnh phúc thực sự của bạn, cũng không biết tình trạng thực sự của bạn là gì?”[38].
Với trí thông minh phi thường, và sau đã nghiên cứu kỹ lưỡng thân phận con người, Thánh kinh và thánh truyền của Giáo hội, Pascal tự thể hiện mình với sự đơn sơ trẻ thơ như một chứng nhân khiêm tốn của Tin Mừng. Là một Kitô hữu, Pascal muốn nói về Chúa Giêsu Kitô cho những người vội vã kết luận rằng không có lý do vững chắc nào để tin vào những chân lý của Kitô giáo. Do kinh nghiệm bản thân, Pascal biết rằng nội dung của Mạc khải thần linh không những không đối lập với những đòi hỏi của lý trí, mà còn cống hiến câu trả lời tuyệt vời mà không triết lý nào có thể tự mình đạt được.
Hoán cải: cuộc thăm viếng của Chúa
Vào ngày 23.11.1654, Pascal đã có một trải nghiệm rất mạnh mẽ mà cho đến nay người ta vẫn gọi đó là “Đêm lửa” của ông. Trải nghiệm thần bí này, khiến ông rơi nước mắt vì sung sướng, mãnh liệt và dứt khoát đến nỗi ông đã viết về nó trên một mảnh giấy có ghi ngày tháng chính xác, tựa đề là “Tưởng niệm“, rồi nhét vào trong lớp lót áo khoác của mình, và chỉ được phát hiện sau khi ông qua đời. Mặc dù không thể biết chính xác bản chất của những gì đã diễn ra trong tâm hồn Pascal đêm hôm đó, nhưng dường như đó là một cuộc gặp gỡ mà chính ông thừa nhận như có sự tương đồng với cuộc gặp gỡ, nền tảng cho toàn bộ lịch sử mặc khải và cứu độ, mà Môsê đã trải nghiệm trước bụi gai rực cháy (x. Xh 3). Thuật ngữ “LỬA”[39], mà Pascal đặt làm tiêu đề cho “Tưởng niệm”, theo một cách nào đó, mời chúng ta thực hiện sự so sánh này. Sự tương đồng dường như đã được chính Pascal chỉ ra: sau sự bùng cháy của lửa, chính ông đã lặp lại danh hiệu mà Chúa đã tự đặt cho mình trước mặt Môsê – “Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Jacob” (Xh 3, 6.15) – rồi ông nói thêm: “không phải của các triết gia và các nhà hiền triết. Sự chắc chắn. Sự chắc chắn. Cảm giác. Niềm vui. Bình an. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô”.
Thiên Chúa của chúng ta thực sự là niềm vui, và Blaise Pascal làm chứng điều này với toàn thể Giáo hội và với tất cả những ai tìm kiếm Thiên Chúa. “Ngài không phải là vị Thiên Chúa trừu tượng hay vị Thần của vũ trụ, không! Ngài là Thiên Chúa của một con người, của một tiếng gọi, Thiên Chúa của Abraham, của Isaac và của Jacob, Thiên Chúa của sự chắc chắn, của cảm xúc, của niềm vui”[40]. Cuộc gặp gỡ đêm đó, đã khẳng định với Pascal về “sự cao cả của tâm hồn con người”, khiến ông tràn ngập niềm vui sống động và khôn lường: “Niềm vui, niềm vui, niềm vui, những giọt nước mắt của niềm vui”. Và niềm vui thiêng liêng này đã trở thành một cơ hội để Pascal xưng thú và cầu nguyện: “Chúa Giêsu Kitô. Tôi đã tách ra khỏi Người. Tôi đã chạy trốn Người, từ chối Người, đóng đinh Người. Xin cho tôi đừng bao giờ xa cách Người”[41]. Chính trải nghiệm về tình yêu của Thiên Chúa, Đấng trong Chúa Giêsu Kitô đã đích thân trở thành một phần lịch sử của chúng ta và không ngừng can dự vào cuộc sống của chúng ta, đã đặt Pascal đi trên con đường hoán cải sâu xa, một đời sống bác ái và do đó là một “sự từ bỏ hoàn toàn và thanh thản”[42] “con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối” (Ep 4, 22).
Như Thánh Gioan Phaolô II đã lưu ý trong Thông điệp của ngài về mối tương quan giữa đức tin và lý trí, “các triết gia như Pascal” nổi bật vì họ bác bỏ mọi giả định, cũng như vì lập trường khiêm nhường và can đảm của họ. Họ đã nhận ra rằng “đức tin giải thoát lý trí khỏi sự tự phụ”[43]. Chắc chắn, trước đêm 23.11.1654, Pascal “không bao giờ nghi ngờ gì về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Ông cũng biết rằng Thiên Chúa là Đấng tối cao… Điều ông thiếu và khao khát không phải là kiến thức mà là sức mạnh; không phải sự thật, mà là sức mạnh”[44]. Sức mạnh đó giờ đây đã được ban cho ông nhờ ân sủng, và ông cảm thấy mình được Chúa Giêsu Kitô thu hút một cách chắc chắn và hân hoan: “Chúng tôi chỉ biết Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô. Nếu không có Vị Trung Gian này thì mọi sự thông truyền với Thiên Chúa đều bị cắt đứt”[45]. Khám phá Chúa Giêsu Kitô là khám phá ra Đấng Cứu độ và Đấng giải thoát mà tôi cần: “Vị Thiên Chúa này không ai khác hơn là Đấng cứu chuộc những nỗi khốn khổ của chúng ta. Vì vậy, chúng ta không thể biết rõ Thiên Chúa nếu không biết sự gian ác của mình”[46]. Giống như mọi cuộc hoán cải đích thực, cuộc hoán cải của Blaise Pascal diễn ra trong sự khiêm tốn, điều giải thoát chúng ta “khỏi sự hẹp hòi và khép kín của mình”[47].
Trí thông minh bao la và không ngừng nghỉ của Blaise Pascal, tràn đầy bình an và niềm vui trước sự mặc khải của Chúa Giêsu Kitô, mời gọi chúng ta, theo “trật tự của trái tim”[48], bước đi trong ánh sáng rực rỡ của “những ánh sáng thiên đàng này”[49]. Vì nếu Thiên Chúa của chúng ta là một “vị Thiên Chúa ẩn mình” (x. Is 45, 15), thì đó là bởi vì Ngài “muốn ẩn mình”[50] để cho lý trí của chúng ta, được ân sủng soi sáng, sẽ không bao giờ ngừng tìm Ngài. Vì thế, cũng chính bởi sự soi sáng của ân sủng mà chúng ta biết được Ngài. Nhưng tự do của con người phải được mở ra, và thực sự Chúa Giêsu đã an ủi chúng ta: “Các ngươi sẽ không tìm kiếm Ta, nếu các ngươi đã không tìm thấy Ta”[51].
Trật tự của trái tim và lý do để tin tưởng
Theo lời của Đức Bênêđictô XVI, “truyền thống Công giáo ngay từ đầu đã bác bỏ điều gọi là chủ nghĩa duy tín, tức là ước muốn tin thì chống lại lý trí”[52]. Pascal cũng gắn bó sâu sắc với “tính hợp lý của đức tin vào Thiên Chúa”[53], không chỉ bởi vì “tâm trí không thể bị buộc phải tin vào những gì nó biết là sai”[54], mà còn bởi vì “nếu chúng ta phủ nhận các nguyên tắc của lý trí, thì tôn giáo của chúng ta sẽ trở nên phi lý và nực cười”[55]. Tuy nhiên, nếu đức tin là hợp lý, thì đức tin vẫn là một món quà của Thiên Chúa và không thể bị áp đặt. “Chúng ta không chứng minh rằng chúng ta phải được yêu thương bằng cách nêu ra những lý do tại sao; điều đó thật lố bịch”[56], Pascal nói với chúng ta bằng sự hài hước tinh tế, so sánh sự tương đồng giữa tình yêu của con người với cách mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. Giống như tình yêu con người, “đề xuất nhưng không bao giờ áp đặt – tình yêu của Thiên Chúa không bao giờ áp đặt chính mình”[57]. Chúa Giêsu làm chứng cho chân lý (x. Ga 18, 37), nhưng Người “không muốn dùng sức mạnh để ép buộc những kẻ chống đối Người”[58]. Đó là lý do tại sao “có đủ ánh sáng cho những ai chỉ muốn nhìn thấy, và đủ bóng tối cho những ai có ý định ngược lại”[59].
Pascal tiếp tục khẳng định rằng “đức tin khác với bằng chứng. Một đàng là con người, còn đàng kia là quà tặng của Thiên Chúa”[60]. Vì thế, không thể tin “trừ khi Thiên Chúa hướng lòng chúng ta”[61]. Mặc dù đức tin cao hơn lý trí, nhưng không có nghĩa là đức tin đối nghịch với lý trí; đúng hơn, đức tin vượt trên lý trí một cách vô hạn. Khi đọc tác phẩm của Pascal, trước hết chúng ta không bắt gặp một lý trí soi sáng đức tin, mà là bắt gặp một Kitô hữu có tính logic chặt chẽ tuyệt vời đang giải thích cho một trật tự, được Thiên Chúa thiết lập một cách nhân từ, vượt lên trên lý trí: “Khoảng cách vô tận giữa thể xác và tâm trí tượng trưng cho khoảng cách vô cùng vô tận giữa tâm trí và đức ái, vì đức ái là siêu nhiên”[62]. Là một nhà khoa học chuyên gia về hình học, tức là khoa học về các vật thể định vị trong không gian, và một nhà toán học chuyên gia về triết học, tức là khoa học về tâm trí được định vị trong lịch sử, Blaise Pascal, được soi sáng bởi ân sủng của đức tin, nên đã có thể tóm tắt toàn bộ trải nghiệm của mình trong những lời này: “Từ tất cả các thân xác gộp lại, người ta không thể tạo ra một ý nghĩ nhỏ bé. Điều đó là không thể và điều đó thuộc một trật tự khác. Từ tất cả thể xác và tâm trí, người ta không thể rút ra một xung lực của bác ái đích thực. Điều đó là không thể và điều đó thuộc về một trật tự siêu nhiên khác”[63].
Bản thân các hoạt động hình học lẫn lý luận triết học đều không cho phép chúng ta đạt được một “tầm nhìn rõ ràng” về thế giới hoặc về chính mình. Những người bị mắc kẹt trong các tính toán chi tiết của mình thì không thu được ích lợi từ tầm nhìn tổng quan cho phép họ “nhìn thấy tất cả các nguyên tắc”. Đây là nhiệm vụ của “tinh thần khéo léo”, mà Pascal đề cao, bởi vì khi muốn nắm bắt thực tại “người ta phải ngay lập tức nắm bắt mọi thứ chỉ bằng một cái liếc mắt”[64]. Tầm nhìn trực giác này được kết nối với điều mà Pascal gọi là “trái tim”. “Chúng ta nhận biết chân lý không chỉ nhờ lý trí mà hơn thế nữa, còn nhờ trái tim; chính nhờ trái tim mà chúng ta biết được những nguyên tắc đầu tiên, và thật vô ích khi lý luận, vốn không có vai trò gì trong đó, cố gắng bác bỏ những nguyên tắc đó”[65]. Những chân lý được Thiên Chúa mạc khải – chẳng hạn như chân lý về Thiên Chúa, Đấng dựng nên chúng ta là tình yêu, rằng Ngài là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và Ngài đã nhập thể nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại để cứu độ chúng ta – không thể chứng minh bằng lý trí. Những chân lý này chỉ có thể được nhận biết nhờ sự chắc chắn của đức tin, và sau đó chuyển từ trái tim tâm linh sang lý trí, trí tuệ nhận ra chân lý này, và đến lượt mình, lý trí có thể giải thích về chân lý. “Đây là lý do tại sao những người được Thiên Chúa ban cho đức tin tôn giáo bằng cách đánh động con tim của họ thì thực sự được chúc phúc và được thuyết phục một cách đúng đắn”[66].
Pascal không bao giờ cam chịu thực tế là một số người nam, nữ không những không biết Chúa Giêsu Kitô, mà còn coi thường việc đón nhận Tin Mừng một cách nghiêm túc, do bởi sự lười biếng hoặc vì đam mê của họ. Vì trong Chúa Giêsu Kitô, chính mạng sống của họ còn tùy thuộc vào những gì sẽ xảy ra. “Sự bất tử của linh hồn rất quan trọng đối với chúng ta, đó là điều đánh động chúng ta sâu sắc, nên chúng ta cần loại bỏ mọi cảm giác thờ ơ trong việc hiểu biết những điều sẽ xảy ra… Và đó là lý do tại sao, trong số những người không tin vào điều này, tôi sẽ phân biệt rõ ràng giữa những người nỗ lực hết sức để biết điều đó và những người sống cuộc đời mình mà không quan tâm hay suy nghĩ đến nó”[67]. Chúng ta ý thức được rằng chính mình thường tìm cách chạy trốn cái chết, hoặc chế ngự nó, nghĩ rằng chúng ta có thể “trút bỏ ý nghĩ về sự hữu hạn của mình” hoặc “loại bỏ sức mạnh của cái chết và xua đuổi nỗi sợ hãi. Nhưng đức tin Kitô giáo không phải là một cách để xua đuổi nỗi sợ chết; đúng hơn, đức tin giúp chúng ta đối diện với cái chết. Sớm muộn gì tất cả chúng ta cũng sẽ bước qua cánh cửa này… Ánh sáng đích thực chiếu soi mầu nhiệm sự chết đến từ sự phục sinh của Đức Kitô”[68]. Chỉ có ân sủng của Thiên Chúa mới giúp trái tim con người nhận biết Thiên Chúa và sống đức ái. Điều này khiến một nhà bình luận quan trọng về Pascal trong thời đại của chúng ta đã viết rằng “sự tư duy không trở thành Kitô hữu, trừ khi nó đạt đến điều mà Chúa Giêsu Kitô đã mang lại, đó là đức ái”[69].
Pascal, tranh luận và đức ái
Trước khi kết thúc, tôi phải đề cập đến mối tương quan của Pascal với thuyết Jansen. Một trong những người chị của ông, Jacqueline, đã gia nhập đời sống tu trì ở Port-Royal, trong một dòng tu có nền thần học chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Cornelius Jansen, người đã viết một chuyên luận về Augustinus, xuất bản năm 1640. Sau “Đêm lửa”, Pascal đã đến tĩnh tâm tại tu viện Port-Royal vào tháng Giêng năm 1655. Trong những tháng tiếp theo, một cuộc tranh luận quan trọng và kéo dài về Augustinus đã nảy sinh tại Sorbonne, Đại học Paris, giữa các tu sĩ Dòng Tên với “những người theo thuyết Jansen”. Cuộc tranh luận chủ yếu xoay quanh vấn đề về ân sủng của Thiên Chúa và mối tương quan giữa ân sủng và bản tính con người, đặc biệt là ý chí tự do. Pascal, dù không phải là thành viên của dòng tu Port-Royal, và cũng không nghiêng về phía nào – như ông đã viết, “Tôi chỉ có một mình …. Tôi hoàn toàn không phải là thành phần của Port-Royal”[70] – với kỹ năng hùng biện xuất sắc, ông bị những người theo thuyết Jansen buộc phải bảo vệ họ. Pascal đã làm điều này vào năm 1656 và 1657, xuất bản một loạt 18 bức thư, được gọi là Những lá thư Tỉnh dòng (The Provincial Letters).
Pascal nhận ra rằng nhiều mệnh đề khác nhau, được gọi là “theo thuyết Jansen“, thực sự trái ngược với đức tin[71], nhưng ông phủ nhận rằng những mệnh đề đó có trong Augustinus, hoặc được những người có liên quan đến Port-Royal theo đuổi. Tuy nhiên, một số tuyên bố của chính Pascal, chẳng hạn như về sự tiền định, được rút ra từ thần học của Thánh Augustinô và được trình bày cách nghiêm ngặt bởi Jansen, dường như không đúng. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu rằng, giống như Thánh Augustinô đã cố gắng chống lại những người Pelagia vào thế kỷ thứ V, vốn là những người khẳng định rằng, bằng sức mạnh của chính mình và không cần ân sủng của Thiên Chúa, con người có thể làm điều tốt và được cứu độ, Pascal cũng vậy, ông chân thành tin rằng ông đang tấn công chủ thuyết Pêlagiô hoặc chủ thuyết bán-Pêlagiô ngầm ẩn trong các học thuyết được các tu sĩ Dòng Tên theo đuổi là thuyết Molina, được đặt theo tên của nhà thần học Luis de Molina, qua đời vào năm 1600 nhưng vẫn còn ảnh hưởng rất lớn vào giữa thế kỷ XVII. Về điều này, chúng ta hãy ghi nhận sự thẳng thắn và chân thành trong các ý định của Pascal.
Tông thư này chắc chắn không phải là nơi để mở lại vấn đề. Dù vậy, điều mà Pascal đã cảnh báo một cách đúng đắn vẫn còn giá trị đối với thời đại chúng ta: “Thuyết tân Pelagiô”[72] muốn mọi thứ phụ thuộc vào “nỗ lực của con người được hướng dẫn bởi những luật lệ và cấu trúc Giáo hội”[73] và có thể nhận ra bởi thực tế là nó “đầu độc chúng ta khi cho rằng ơn cứu rỗi là do chúng ta giành được bằng nỗ lực của chính mình”[74]. Cũng cần phải khẳng định rằng lập trường cuối cùng của Pascal về ân sủng, và nhất là về việc Thiên Chúa “muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1Tm 2, 4), đã được phát biểu bằng những thuật ngữ Công giáo hoàn hảo vào cuối đời của ông[75].
Như tôi đã đề cập trên đây, Blaise Pascal, khi kết thúc một cuộc đời ngắn ngủi nhưng vô cùng phong phú và hiệu quả, đã đặt tình yêu thương dành cho anh chị em mình lên hàng đầu. Ông cảm thấy và biết rằng mình là thành viên của một thân thể duy nhất, bởi vì “Thiên Chúa, sau khi đã tạo dựng trời và đất là những thụ tạo không ý thức được hạnh phúc của sự hiện hữu của chúng, đã muốn dựng nên những thụ tạo nhận biết được hạnh phúc đó và đã dựng nên một thân thể gồm các thành viên biết tư duy”[76]. Với tư cách là một Kitô hữu giáo dân, Pascal đã cảm nghiệm được niềm vui của Tin Mừng, một Tin Mừng mà Thần Khí muốn chữa lành và kiện cường “mọi khía cạnh của nhân loại” và đưa “mọi người nam cũng như nữ vào đoàn tụ tại bàn tiệc của Nước Thiên Chúa”[77]. Vào năm 1659, khi viết Lời cầu nguyện tuyệt vời để cầu xin Chúa sử dụng tốt bệnh tật, Pascal là một người bình an, không còn tham gia vào các cuộc luận chiến cũng như biện hộ nữa. Bị bệnh nặng và sắp chết, ông xin được rước lễ, nhưng điều đó không thể thực hiện ngay được. Vì thế, Pascal đã năn nỉ em gái mình: “Vì không thể hiệp thông với đầu [Chúa Giêsu Kitô], anh muốn hiệp thông với các chi thể”[78]. Và ông “rất mong muốn được chết cùng với những người nghèo”[79]. Người ta nói về Pascal, ngay sau khi ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 19.08.1662, rằng “ông đã qua đời với sự đơn sơ của một đứa trẻ”[80]. Sau khi lãnh nhận các bí tích, lời cuối cùng của Pascal là: “Xin Chúa đừng bao giờ bỏ rơi con”[81].
Chớ gì công việc sáng chói của Blaise Pascal và mẫu gương cuộc đời của ông, vốn đắm chìm sâu xa trong Chúa Giêsu Kitô, giúp chúng ta kiên trì trên lộ trình chân lý, hoán cải, và bác ái cho đến cùng. Vì đời người thật ngắn ngủi: “Niềm vui vĩnh cửu đền đáp cho nỗ lực của một ngày trên trần gian”[82].
Rôma, Đền Thánh Gioan Latêranô, ngày 19 tháng 6 năm 2023
PHANXICÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vatican.va (19.06.2023)
[1] Pensées, B 72, L 199. Trong các trích dẫn của cuốn Pensées, các mẫu tự B và L được dùng để đánh thứ tự bởi Brunschvicg và Lafuma
[2] G. PERIER, Vie de M. Pascal, in Œuvres complètes, par M. Le Guern, I, Paris, 1998, 91.
[3] Pensées, B 670, L 270.
[4] B 425, L 148.
[5] B 546, L 417.
[6] Entretien avec M. de Sacy, in Œuvres complètes, par M. Le Guern, II, Paris, 2000, 90.
[7] Pensées (Mémorial), L 913.
[8] Pensées (Le Mystère de Jésus), B 582, L 926.
[9] Tông Huấn Gaudete et Exsultate, 65.
[10] Sđd., 167.
[11] Pensées, B 187, L 12.
[12] G. PERIER, op. cit., 64.
[13] X. ibid., 65.
[14] Ibid.
[15] “Pascal”, in: The Glory of the Lord, A Theological Aesthetics III: Lay Styles. San Francisco; New York: Ignatius Press, Crossroads Publications, 1986, p. 182.
[16] Pensées, B 764, L 307.
[17] B 282, L 110.
[18] B 331, L 533.
[19] PASCAL, Entretien avec M. de Sacy, op. cit., 98.
[20] X. Pensées, B 435, L 208.
[21] B 347, L 200.
[22] B 72, L 199.
[23] B 194, L 427.
[24] Tông huấn Evangelii Gaudium, 231.
[25] Pensées, B 358, L 678.
[26] Tông huấn Evangelii Gaudium, 232.
[27] Pensées, B 397, L 114.
[28] B 409, L 117.
[29] B 194, L 427.
[30] B 139, L 136.
[31] B 131, L 622.
[32] B 425, L 148.
[33] B 398, L 116.
[34] B 434, L 131.
[35] B 443, L 613.
[36] B 430, L 149.
[37] H.U. VON BALTHASAR, op. cit., p. 186.
[38] Pensées, B 430, L 149.
[39] Pensées (Mémorial), L 913.
[40] Bài Giáo Lý, ngày mồng 3. 06. 2020.
[41] Pensées (Mémorial), L 913.
[42] L 913.
[43] Thông điệp Fides et Ratio (14. 09. 1998), 76: AAS 91 (1999), 64.
[44] H. GOUHIER, Blaise Pascal. Commentaires, Paris, 1971, 44-45.
[45] Pensées, B 547, L 189.
[46] Ibid.
[47] Tông huấn Evangelii Gaudium, 8.
[48] Cf. Pensées, B 283, L 298.
[49] B 435, L 208.
[50] B 585, L 242.
[51] Pensées (Le Mystère de Jésus), B 553, L 919.
[52] Bài Giáo Lý, ngày 21. 11. 2012.
[53] Sđd.
[54] PASCAL, Entretien avec M. de Sacy, op. cit., p. 87.
[55] Pensées, B 273, L 173.
[56] B 283, L 298.
[57] Bài giảng Lễ Trọng Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ, ngày 20. 11. 2022.
[58] Công đồng Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis Humanae, 11.
[59] Pensées, B 430, L 149.
[60] B 248, L 7.
[61] B 284, L 380.
[62] B 793, L 308.
[63] B 793, L 308.
[64] B 1, L 512.
[65] B 282, L 110.
[66] Ibid.
[67] B 194, L 427.
[68] Bài Giáo lý, ngày 09. 02. 2022
[69] J.-L. MARION, La Métaphysique et après, Paris, 2023, 356.
[70] Dix-septième lettre provinciale, in Œuvres complètes, par M. Le Guern, II, Paris, 2000, 781.
[71] Cf. B. NEVEU, L’erreur et son juge: remarques sur les censures doctrinales à l’époque moderne, Naples, 1993.
[72] Cf. CONGREGATION FOR THE DOCTRINE OF THE FAITH, Letter Placuit Deo (22 February 2018); Apostolic Exhortation Gaudete et Exsultate, 57-59.
[73] Tông Huấn Gaudete et Exsultate, 59.
[74] Tông Thư Desiderio Desideravi, 20.
[75] Cf. Pensées (Le Mystère de Jésus), B 550, L 931. The initial words – “I love all men as my brothers, because all are redeemed” – are crossed out in the Lafuma edition.
[76] B 482, L 360.
[77] Tông huấn Evangelii Gaudium, 237.
[78] G. PERIER, op. cit., pp. 92-93.
[79] ID., op. cit., p. 93.
[80] ID. op. cit., p. 90.
[81] ID., op. cit., p. 94.
[82] Pensées (Mémorial), L 913.
2023
ĐTC cầu nguyện cho các học sinh bị thảm sát
ĐTC cầu nguyện cho các học sinh bị thảm sát
Trưa Chúa Nhật 18/6/2023, sau khi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã cầu nguyện cho các học sinh đã bị thảm sát trong vụ tấn công vào một trường học ở miền đông Uganda vào đêm ngày 16/6/2023.
Bốn mươi hai người, hầu hết là học sinh, được xác nhận đã thiệt mạng trong một cuộc tấn công của phiến quân vào một trường cấp hai ở Lhubiriha, một trường công lập nằm ở quận Kasese của Uganda, ở phía tây của đất nước và cách biên giới với Cộng hòa Dân chủ Congo hai cây số.
Theo chính quyền, những kẻ tấn công thuộc Lực lượng Dân chủ Đồng minh, bị cáo buộc đã phát động nhiều cuộc tấn công chống lại dân thường trong những năm gần đây, đặc biệt là chống lại các cộng đồng ở các vùng xa xôi ở miền đông Congo.
Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các học sinh
Các phiến quân vào ký túc xá, phóng hỏa và dùng dao rựa để giết và gây thương tật cho các học sinh. Một số học sinh cũng đã bị bắt cóc và ít nhất 8 nạn nhân bị thương nặng đang được điều trị trong bệnh viện do bị bỏng sau khi phiến quân phóng hỏa trường học. Một số thi thể được cho là đã bị đốt cháy và hiện không thể nhận dạng được.
Khuyến khích mọi người “cầu nguyện cho hòa bình”, Đức Thánh Cha nhớ đến các học sinh nhỏ tuổi trong vụ tấn công này. Ngài kêu gọi mọi người cầu nguyện cho hòa bình ở bất cứ nơi nào có căng thẳng và chiến tranh.
Thảm sát
Cha Sunday Augustine Masereka phụ trách văn phòng truyền thông của Giáo phận Kasese ở miền tây Uganda, rất gần nơi xảy ra vụ tấn công, cho biết trường Lhubirira đã bị tấn công vào khoảng 11 giờ đêm. Trường có khoảng 62 học sinh, cả nam và nữ, và quân nổi dậy đã giết 42 em. Cha cho biết cuộc tấn công của phiến quân thật khủng khiếp, bao gồm cả việc cho nổ bom, đốt cháy tòa nhà và những người cư ngụ trong đó, tấn công trẻ em và nhân viên bằng vũ khí và dao.
Cha Masereka giải thích rằng lý do của một cuộc tấn công như thế này hoàn toàn là để trả đũa khi quân đội Uganda ở Cộng hoà Dân chủ Congo chống lại nhóm phiến quân Lực lượng Dân chủ Đồng minh, còn nhóm này đang được huấn luyện ở Congo để chống lại Uganda. “Họ đang chiến đấu với nhau.”
Cần đàm phán
Theo cha, điều cần thiết là một giải pháp thương lượng, bởi vì mọi người vẫn tiếp tục chết và cuộc chiến không giải quyết được gì. Cha nhấn mạnh rằng “Các cuộc đàm phán hòa bình kêu gọi các nhóm khác nhau cùng đến, nói chuyện, chia sẻ và đồng ý, nếu không mọi người sẽ tiếp tục chết. Nếu họ đến với nhau và đồng ý, và đàm phán hòa bình, có lẽ họ có thể đạt được điều gì đó.” Cha nói thêm rằng Giáo hội cũng phải tham gia.
Cha Masereka cho biết, có một thời gian, cuộc chiến ở Congo được gọi là cuộc chiến bị lãng quên. Cha kêu gọi nêu vấn đề này trên báo chí quốc tế vì người dân đang tiếp tục chết ở Congo, và lần duy nhất điều này được đưa tin là khi một cuộc tấn công xảy ra.
Hồng Thủy – Vatican News
2023
Tâm tình của Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt
Tâm tình của Đức cha Cosma Hoàng Văn Đạt
TÂM TÌNH CỦA ĐỨC CHA COSMA HOÀNG VĂN ĐẠT
Kính gửi: cộng đoàn dân Chúa trong đại gia đình giáo phận Bắc Ninh!
Hôm nay là ngày tôi đủ 75 tuổi, và được Đức Thánh Cha Phanxicô chấp thuận đơn từ nhiệm thi hành sứ vụ giám mục chính tòa giáo phận Bắc Ninh, qua đó tôi chính thức được nghỉ hưu theo Giáo Luật.
Với việc Đức giáo hoàng chấp thuận đơn từ nhiệm của tôi, Đức cha Giuse Đỗ Quang Khang chính thức trở thành giám mục chính tòa giáo phận Bắc Ninh. Xin chúc mừng Đức cha Giuse, kể từ hôm nay, Đức cha Giuse trở thành giám mục chính tòa thứ tư; và là vị mục tử thứ mười hai của giáo phận Bắc Ninh. Cùng với cộng đoàn dân Chúa, tôi xin hiệp thông với anh chị em cầu nguyện cho Đức cha Giuse để làm cho cả giáo phận ngày một thăng tiến.
Trong bầu khí linh thiêng của ngày dâng giáo phận cho Thánh Tâm Chúa Giêsu, tôi xin tạ ơn Chúa vì đã được sinh ra trên mảnh đất Kinh Bắc giầu tình Chúa và thắm đậm tình người. Giữa bối cảnh lịch sử năm 1954, tôi cùng gia đình rời xa quê hương khi mới 6 tuổi. Tôi đã lớn lên nơi mảnh đất phương Nam, đã được Chúa thương chọn gọi và đưa đi khắp đó đây. Để rồi đến lúc tuổi tròn 60, Chúa lại đưa tôi về miền Quan họ yêu thương trong cương vị giám mục để chăm sóc đoàn chiên của Chúa. Xin cộng đoàn chung lời tạ ơn Thiên Chúa với tôi sau hành trình mười lăm năm thi hành sứ vụ Giám mục chính tòa giáo phận Bắc Ninh: “Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình.”
Cách riêng, tôi xin nói lên lời cảm ơn toàn thể dân Chúa, cảm ơn quý cha, quý nam nữ tu sĩ, quý chủng sinh, quý hội đồng giáo xứ và quý ban hành giáo, cảm ơn các đoàn hội và anh chị em giáo dân, từ các con thiếu nhi đến các vị bô lão, cảm ơn tất cả những người còn sống và cả những người đã qua đời, cảm ơn anh chị em giáo dân gốc Bắc Ninh ở trong nước cũng như hải ngoại, cám ơn từng cá nhân cũng như các tổ chức, những người thành tâm thiện chí. Nhờ lời cầu nguyện và cộng tác của anh chị em đã giúp tôi thực thi sứ vụ giám mục và trung thành với Chúa qua việc ủy thác của Đức Thánh Cha.
Tôi hết lòng cám ơn quý vị trong các cấp chính quyền từ trung ương tới địa phương. Cách đặc biệt, cám ơn chính quyền tỉnh Bắc Ninh, thành phố Bắc Ninh, phường Tiền An và Ninh Xá. Tôi cũng chân thành cảm ơn anh chị em lương dân, những người đã cùng sống, cùng chia vui sẻ buồn với tôi trên mảnh đất Bắc Ninh địa linh nhân kiệt.
Là con người sức yếu mỏng giòn, tôi biết mình còn nhiều thiếu sót trong quá trình thi hành sứ vụ giám mục chính tòa. Tôi xin lỗi anh chị em vì những dự định còn dở dang. Tôi thật lòng xin lỗi tất cả những ai vì vô tình hay hữu ý mà tôi đã lỗi phạm đến anh chị em.
Giờ đây tôi đã được nghỉ ngơi, vơi bớt đi những gánh nặng, lo toan nhưng hơn bao giờ hết vẫn rất cần đến lời cầu nguyện của anh chị em, nhất là cầu nguyện cho tôi được trung tín với Chúa cho đến hơi thở cuối cùng. Về phần tôi, tôi hứa vẫn luôn đồng hành với anh chị em và giáo phận qua lời cầu nguyện, đặc biệt là các thánh lễ, kể cả khi về với Chúa tôi vẫn luôn cầu nguyện cho giáo phận. Với tâm tình tạ ơn, chúng ta phó thác và dâng giáo phận cho Thánh Tâm Chúa Giêsu trong giai đoạn mới, và tiếp tục khiêm tốn nài xin: “Lạy Trái Tim nhân lành Chúa Giêsu, xin thương xót và che chở chúng con”.
Một lần nữa, tôi xin hết lòng cảm ơn và chào tạm biệt anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Bắc Ninh, ngày 17 tháng 06 năm 2023
+ Giám mục Cosma Hoàng Văn Đạt S.J.
2023
Bài giảng của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong lễ tuyên phong 117 vị Thánh Tử Đạo Việt Nam ngày 19-6-1988
Bài giảng của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong lễ tuyên phong 117 vị Thánh Tử Đạo Việt Nam ngày 19-6-1988
BÀI GIẢNG CỦA THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II
LỄ TUYÊN PHONG HIỂN THÁNH 117 CHÂN PHÚC TỬ ĐẠO VIỆT NAM
NGÀY 19.06.1988
- 1. “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá” (1 Cr 1,23).
Bằng những lời này của Thánh Phaolô Tông đồ, hôm nay Hội Thánh Rôma xin chào Hội Thánh tại Việt Nam, dù xa xôi về địa lý, vẫn rất gần gũi với trái tim chúng tôi; đồng thời, xin chào toàn thể dân tộc Việt Nam, và với tất cả lòng quý mến, xin cầu chúc quý quốc được mọi sự tốt lành.
Tâm tưởng đầu tiên, thân tình và quý mến của tôi, xin dành cho người anh em thân yêu, Đức hồng y Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Tổng giám mục Hà Nội, cùng tất cả Giám mục đoàn của Hội Thánh Việt Nam mà trong lúc này, tôi cảm nhận các ngài đang quy tụ cách thiêng liêng chung quanh tôi. Cùng với các ngài, tôi chào các linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân đang dấn thân trong hoạt động truyền giáo, tất cả các tín hữu Kitô tại Việt Nam, trong lúc này tôi cảm thấy gần gũi họ cách đặc biệt và sâu xa.
Tôi cũng muốn chào các anh em thân yêu trong hàng Giám mục đến cùng các nhóm tín hữu thuộc Tây Ban Nha, Pháp, Philippines, những xứ sở mà trong ba thế kỷ đã liên kết với việc truyền bá Tin Mừng tại Việt Nam. Họ đang ở đây để tưởng nhớ biết bao người anh em là những thừa sai xuất xứ từ quê hương mình.
Ngoài ra, tôi gửi lời chào đến các cha Đaminh thuộc tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi, được thành lập cách đây 400 năm, và đến Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris; trong số các giám mục và linh mục mà hôm nay chúng ta tôn kính như các vị tử đạo vì đức tin và rao giảng Tin Mừng, có nhiều người thuộc về hai gia đình tu trì trên.
- 2.Trong cộng đoàn lớn lao của Hội Thánh, cách đặc biệt tôi xin chào các anh chị em Việt Nam thân yêu đến từ khắp nơi trên thế giới, từ châu Mỹ và châu Á, từ châu Úc và tất cả các quốc gia thuộc châu Âu. Tôi biết anh chị em vui mừng phấn khởi vì ước mong tôn vinh các vị tử đạo đồng hương, nhưng còn vì khi quây quần để tưởng nhớ các vị tử đạo, anh chị em cảm nhận nhu cầu xây dựng lại tình huynh đệ, tình bằng hữu, tình thân ái đang tràn ngập trong tâm hồn do bởi tất cả anh chị em đều có chung một quê hương. Trong khi sống lại ký ức về các ngài, anh chị em hướng về quê hương mình bằng tình yêu, sự nhung nhớ, và ước mong được sống một khoảnh khắc hiệp thông chứa chan hi vọng, trong lúc còn sống trong cảnh xa quê. Cùng với anh chị em, chúng tôi loan báo Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá, hôm nay chúng tôi muốn tạ ơn Thiên Chúa vì chứng từ đặc biệt mà các vị tử đạo trong Hội Thánh của anh chị em đã cống hiến, dù phần đông các ngài là con dân Việt Nam, hay là các vị thừa sai đến từ các quốc gia nơi đó niềm tin vào Đức Kitô đã được cắm rễ sâu.
Truyền thống của anh chị em nhắc chúng ta nhớ rằng lịch sử tử đạo của Hội Thánh Việt Nam từ khởi đầu đã rất phong phú và phức tạp. Từ năm 1533, nghĩa là từ lúc khởi đầu việc rao giảng Kitô giáo tại Đông Nam Á, trong suốt ba thế kỷ, Hội Thánh tại Việt Nam đã phải chịu những cuộc bách hại khác nhau, nối tiếp nhau, có đôi lúc ngưng nghỉ, như những gì đã xảy ra cho Hội Thánh phương Tây trong ba thế kỷ đầu tiên. Hàng ngàn Kitô hữu phải chịu chết vì Đạo, và rất đông là những người phải chết trên núi, trong rừng, nơi những miền đất độc hại họ bị lưu đày.
Làm sao kể lại cho hết? Cho dẫu chúng ta chỉ tự giới hạn trong số các vị được tuyên thánh hôm nay thôi, cũng không thể kể ra từng vị. Tất cả là 117 vị, trong đó có 8 giám mục, 50 linh mục, 59 giáo dân và trong số giáo dân, có một phụ nữ là Anê Lê Thị Thành, mẹ của sáu người con.
Chỉ cần nhắc đến một hoặc hai khuôn mặt là đủ, chẳng hạn cha Vinh Sơn Liêm, dòng Đaminh, chịu tử đạo năm 1773; ngài là vị tử đạo đầu tiên trong số 96 vị tử đạo người Việt Nam. Rồi tới một linh mục khác, cha Anrê Dũng Lạc, có cha mẹ là người ngoại đạo, rất nghèo; từ nhỏ đã được gửi cho một thầy giảng, trở thành linh mục năm 1823, là cha xứ và nhà truyền giáo ở nhiều nơi trong đất nước. Hơn một lần, ngài đã được thoát cảnh tù tội nhờ các tín hữu quảng đại đem tiền chuộc về, nhưng ngài ao ước được chết vì Đạo cách mãnh liệt. Ngài nói: “Ai chết vì đức tin sẽ được lên trời; ngược lại, chúng ta cứ phải trốn tránh liên tục, tiêu tốn tiền bạc để đút lót những kẻ bách hại! Sẽ tốt hơn nhiều nếu cứ để chúng tôi bị bắt và chết”. Được nâng đỡ nhờ lòng nhiệt thành lớn lao và nhờ ơn Chúa, ngài đã chịu trảm quyết tại Hà Nội ngày 21 tháng 12 năm 1839.
- 3.Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta những lời Đức Kitô Giêsu đã loan báo cho các môn đệ Người về những cuộc bách hại họ sẽ phải chịu: “Hãy coi chừng người đời vì họ sẽ đưa anh em ra công đường và đánh đập anh em trong các hội đường của họ; anh em sẽ bị điệu ra trước vua chúa quan quyền vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết” (Mt 10,17-18). Chúa Giêsu đã nói với các Tông đồ và môn đệ của Người ở mọi thời; Người đã nói rất thẳng thắn! Người không thu hút các ông bằng những lời hứa hẹn giả dối nhưng bằng chân lý trọn vẹn, vốn luôn là đặc trưng trong các lời của Người, Người đã chuẩn bị cho các ông trước những nguy hiểm: “Anh sẽ nộp em cho người ta giết, cha sẽ nộp con, con cái đứng lên tố cáo cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, chúng con sẽ bị mọi người ghét bỏ, nhưng ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ” (Mt 10,21-22).
- 4.Tuy nhiên, Thầy chí thánh đã không bỏ rơi các môn đệ và các tín hữu của Người trong những cơn bách hại nặng nề: “Khi người ta nộp anh em, đừng lo phải nói gì; vì không phải anh em nói nhưng Thần Khí của Cha anh em sẽ nói cho anh em” (Mt 10,19-20).
Thánh Thần, Thần chân lý, Ngài sẽ là sức mạnh thay cho sự yếu đuối của anh em. Anh em sẽ làm chứng bằng sức mạnh của Ngài. Chính sự kiện anh em phải làm chứng cho Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá, lại chẳng cần đến sự khôn ngoan và sức mạnh vượt trên sức mạnh loài người sao? Khi Thánh Tông đồ viết rằng thập giá “là sự ô nhục đối với người Do Thái và điên rồ đối với người Hi Lạp” (1Cr 1,23), lại chẳng phải là nói về Đức Kitô sao? Đã xảy ra như thế vào thời các Tông đồ. Cũng lặp lại như thế trong những thời kỳ khác nhau của lịch sử, ở những nơi chốn và thời điểm khác nhau. Cũng xảy ra như thế vào thời bách hại tôn giáo chống lại các Kitô hữu Việt Nam.
Do đó, cần phải có sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa để loan báo mầu nhiệm tình yêu này của Thiên Chúa, nghĩa là ơn cứu chuộc trần gian nhờ thập giá: mầu nhiệm vĩ đại nhất, đồng thời là điều không thể hiểu được về mặt nhân loại. “Bởi vì cái điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn sự khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn sức mạnh loài người” (1Cr 1,25). Chính vì thế Thánh Tông đồ viết: “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá”: Đức Kitô mà cụ thể trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người, chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,23-24).
- Như thế, trước mặt chúng ta hôm nay là các vị tử đạo Việt Nam, những thợ gặt của Thiên Chúa mà Thánh vịnh nói tới: “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan. Họ ra đi trong than khóc, mang theo mình hạt giống; trở về trong hân hoan, mang theo gánh lúa vàng” (Tv 126,5-6).
Trong ánh sáng của những lời huyền nhiệm này, chúng ta hiểu được ý nghĩa đích thực của những chứng tá lịch sử nơi các vị tử đạo của Hội Thánh Việt Nam. Với nước mắt của các ngài, bao hạt giống Tin Mừng và ân sủng đã được gieo, từ đó trổ sinh thật phong phú ân huệ đức tin: “Hạt giống gieo vào lòng đất mà không chết đi thì chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, sẽ sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,24).
Các vị tử đạo Việt Nam “đã gieo trong nước mắt”, trong thực tế các ngài đã khởi xướng một cuộc đối thoại sâu sắc và mang tính giải thoát với người dân và nền văn hóa của dân tộc họ, trước hết bằng cách loan báo chân lý và tính phổ quát của niềm tin vào Thiên Chúa, ngoài ra còn đề nghị một phẩm trật các giá trị và bổn phận phù hợp cách đặc biệt với nền văn hóa tôn giáo của tất cả thế giới Đông phương. Theo sự hướng dẫn của Sách Giáo lý đầu tiên bằng tiếng Việt, các ngài đã làm chứng cho sự kiện là phải tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, là Đấng Thiên Chúa duy nhất đã dựng nên trời đất. Đối diện với những thái độ áp bức của nhà cầm quyền về việc thực hành đức tin, các ngài khẳng định sự tự do riêng của đức tin, (đồng thời) bằng sự can đảm khiêm nhu, các ngài bảo vệ lập trường rằng Đạo Kitô là chính nghĩa duy nhất mà các ngài không thể bỏ, bởi lẽ không thể không vâng lời Chúa là Đấng Tối cao. Ngoài ra, các ngài mạnh mẽ nói lên ý chí tôn trọng quyền bính trong nước, không đi ngược lại những gì là công chính và lương thiện; các ngài dạy phải tôn trọng và thờ kính Tổ tiên, theo cách thế của mỗi vùng miền, trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục sinh. Cùng với các vị tử đạo của mình và qua chứng tá riêng, Hội Thánh Việt Nam có thể loan báo sự dấn thân và ý muốn của mình là không chối từ truyền thống văn hóa và những định chế hợp pháp trong xứ sở; trái lại, Hội Thánh đã tuyên bố và chứng tỏ rằng Hội Thánh muốn nhập thể trong truyền thống này, trung thành góp phần vào sự phát triển đích thực của đất nước.
Thế rồi, những xung đột và căng thẳng chính trị đã xuất hiện trong mối tương quan giữa các kitô hữu với nhà cầm quyền, với những quyền lợi của các tôn giáo khác, những lý do kinh tế và xã hội, sự hiểu lầm về tính siêu việt và phổ quát của đức tin, tất cả đã tạo nên thứ hỏa ngục trần gian, ở đó sự thanh khiết và sức mạnh của những chứng tá phi thường này được hiến dâng.
- 6. Nhưng chính từ đoàn rước đông đảo các vị tử đạo, từ những đau khổ của các ngài, từ nước mắt của các ngài, mà chúng ta có được “mùa lúa vàng của Chúa”. Là những bậc thầy của chúng ta, các ngài cho tôi cơ hội lớn lao để giới thiệu với toàn thể Hội Thánh sinh lực và sự vĩ đại của Hội Thánh Việt Nam: sức mạnh, sự kiên nhẫn, khả năng đối diện với mọi thứ khó khăn và loan báo Đức Kitô. Chúng ta tạ ơn Chúa vì những điều mà Thánh Thần làm phát sinh cách dồi dào giữa chúng ta!
Một lần nữa, chúng ta có thể nói rằng: với anh chị em, các kitô hữu Việt Nam, máu các vị tử đạo là suối nguồn ân sủng để thăng tiến trong đức tin. Nơi anh chị em, đức tin của cha ông chúng ta vẫn tiếp tục thông truyền đến các thế hệ mới. Đức tin này vẫn là nền tảng của sự kiên trì nơi tất cả những ai coi mình thực sự là người Việt Nam, trung thành với quê hương, đồng thời mong muốn tiếp tục là những môn đệ đích thực của Đức Kitô. Tất cả các kitô hữu đều biết rằng Tin Mừng kêu gọi phải tuân phục các thể chế loài người vì tình yêu đối với Thiên Chúa, làm điều thiện, cư xử như những người tự do, tôn trọng mọi người, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa, tôn trọng nhà cầm quyền và các tổ chức công cộng (x. 1Pr 2,13-17). Do đó, việc tìm kiếm công ích của đất nước là một bổn phận chân thành đối với người công dân là kitô hữu, trong sự tự do loan báo chân lý của Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với các mục tử và anh chị em trong đức tin, trong ước mong được sống hòa bình với những người khác để thành tâm xây dựng phúc lợi cho mọi người.
- “Máu các Thánh Tử đạo là hạt giống sinh các Kitô hữu”. “Hạt giống sinh các Kitô hữu”. Ngoài hằng ngàn các tín hữu trong những thế kỷ qua đã bước theo cuộc khổ nạn của Đức Kitô, ngày nay còn có những người đang làm việc, nhiều khi là trong khắc khoải và hi sinh từ bỏ, với tham vọng duy nhất là có thể kiên trì làm việc trong vườn nho của Chúa, như những tôi tớ trung thành hiểu được phúc lành của Nước Thiên Chúa.
“Hạt giống sinh các Kitô hữu” còn là tất cả những ai ngày nay đang sống giữa dân của mình và vì chính nghĩa của Thiên Chúa, cố gắng hiểu ý nghĩa của Tin Mừng Đức Kitô và thập giá của Người, cùng với bổn phận làm việc và cầu nguyện cho Nước Cha trị đến trong mọi tâm hồn, nhất là trong xứ sở mà Chúa đã kêu gọi họ sống ở đó. Bổn phận này, hoạt động nội tâm liên lỉ và mạnh mẽ này đòi hỏi sự kiên nhẫn và lòng hi vọng tín thác nơi những người biết rằng sự quan phòng của Thiên Chúa hoạt động cùng với họ, để làm cho những nỗ lực cũng như những đau khổ của họ sinh hoa kết quả.
- “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa” (Kn 3,1).
Sách Khôn Ngoan công bố chân lý huy hoàng này, tuôn đổ ngập tràn ánh sáng trên biến cố chúng ta cử hành hôm nay. Vâng, “Linh hồn người công chính ở trong tay Chúa và không hình khổ nào chạm tới được”. Xem ra những lời này không tương ứng với thực tế lịch sử: thật vậy, các vị tử đạo đã phải chịu cực hình, quá sức là đàng khác! Nhưng tác giả được linh ứng khai triển tư tưởng của mình rộng lớn hơn: “Những kẻ ngu muội nghĩ rằng các ngài đã chết rồi, coi sự ra đi của các ngài là điều vô phúc, việc các ngài rời bỏ chúng ta là sự tiêu diệt; thế nhưng các ngài ở trong bình an. Người đời cho rằng các ngài bị trừng phạt, nhưng niềm hi vọng nơi các ngài hướng đến sự bất tử” (Kn 3,2-4).
Các Thánh Tử đạo! Các Thánh Tử đạo Việt Nam! Các chứng nhân cho chiến thắng của Đức Kitô trên sự chết! Các chứng nhân cho ơn gọi con người hướng đến sự bất tử!
Sách Khôn Ngoan tiếp tục: “Hãy chịu khổ đôi chút; hãy đón nhận ân huệ lớn lao, vì Thiên Chúa đã thử thách các ngươi và thấy các ngươi xứng đáng với Ngài. Ngài thử thách các ngươi như thử vàng trong lò lửa, và đón nhận các ngươi như của lễ toàn thiêu” (x. Kn 3,5-6).
Vâng. Như của lễ toàn thiêu, kết hợp với hy tế thập giá của Đức Kitô. Thật vậy, cách riêng với các ngài, thưa Các Vị Tử đạo Việt Nam, các ngài đã loan báo đến cùng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá, là sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa. Chúng ta hướng về Đức Kitô, nhờ Người, chúng ta đạt đến ơn cứu độ của Thiên Chúa.
- “Những ai trông cậy vào Người – vào Đức Kitô chịu đóng đinh Thập giá và Phục sinh – sẽ hiểu biết chân lý; những ai trung thành sẽ ở gần Người trong tình yêu, vì ân sủng và lòng thương xót được dành cho những ai Người tuyển chọn” (x. Kn 3,9).
Thưa Các Ngài là những vị được tử đạo! Thưa Các Ngài là những người được tuyển chọn!
Xin hãy nghe đến cùng điều mà Sách Khôn Ngoan nói về các ngài: “Trong ngày phán xét, họ sẽ rực sáng như những tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy” (Kn 3,7).
Như những tia lửa, như những ánh chớp của nguồn sáng chiếu soi rực rỡ… Xin hãy nghe đến cùng điều mà Sách Khôn Ngoan nói về các ngài: “Họ sẽ cai trị các dân tộc, hành quyền trên các dân và Chúa sẽ ngự trị trên họ đến muôn đời” (Kn 3,8).
Chúa Kitô chịu đóng đinh thập giá và phục sinh. Đấng đã đến trong thế gian, không phải để “xét xử thế gian, nhưng để nhờ Người mà thế gian được cứu độ” (Ga 3,17).
Đức Kitô ấy! Cũng như các ngài đã dự phần đau khổ và thập giá của Chúa, thì các ngài cũng dự phần vào ơn cứu độ thế giới mà Người đã thực hiện.
Nguyện cho mùa gặt của các ngài sẽ kéo dài trong hân hoan!
Quảng trường Thánh Phêrô, ngày 19-06-1988
Dịch từ nguyên bản tiếng Ý: Đức ông Vinhsơn Trần Ngọc Thụ
Hiệu đính: Văn phòng thư ký HĐGMVN