2020
Yêu cho đến cùng: Một cái nhìn mục vụ và giáo hội học về Độc thân Linh mục
YÊU CHO ĐẾN CÙNG
Một cái nhìn mục vụ và giáo hội học về Độc thân Linh mục
“Khi Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Những lời này của tác giả Tin mừng Gioan đã long trọng dẫn nhập lời cầu nguyện hiến tế của Chúa Giêsu sau Bữa ăn tối cuối cùng vào Thứ Năm Tuần Thánh. Những lời này thổ lộ những tâm tình sâu thẳm, thật là thích hợp cho bất kỳ suy tư nào về mầu nhiệm chức linh mục.
Làm sao chúng ta có thể tiếp cận chủ đề này mà không cảm thấy run rẩy? Điều quan trọng là chúng ta cần dành thời giờ và mở cửa tâm hồn để đón nhận hơi thở của Chúa Thánh Thần. Chức linh mục, theo lời của cha xứ Ars, là tình yêu của trái tim Chúa Giêsu. Chúng ta không được biến nó thành một chủ đề chính trị, của trận chiến ý thức hệ, hay sự vận động chính trị. Chúng ta cũng không thể thu giảm nó vào vấn đề về kỷ luật hoặc sắp xếp mục vụ.
Trong những tháng gần đây, chúng ta đã thấy xảy ra rất nhiều sự vội vàng, rất nhiều sự phấn khích xung quanh Thượng hội đồng giám mục vùng Amazon. Trái tim giám mục của tôi hết sức lo lắng. Tôi đã thấy nhiều linh mục bị mất phương hướng, mất tinh thần và bị tổn thương trong sâu thẳm đời sống tinh thần của các ngài bởi những thách thức quá mạnh đối với giáo thuyết của Giáo hội. Hôm nay tôi muốn nói với các ngài một lần nữa rằng: Đừng sợ! Như Đức Bênêđictô XVI đã nhắc lại:
Linh mục là một hồng ân của Trái tim Chúa Kitô: một hồng ân cho Giáo hội và cho thế giới. Từ trái tim của Con Thiên Chúa tràn ngập tình yêu, tuôn chảy tất cả những điều tốt đẹp của Giáo hội. Đặc biệt cũng từ đó xuất phát ơn gọi của những người, được Chúa Giêsu chiếm đoạt, sẵn sàng từ bỏ mọi sự một cách không do dự để phục vụ dân Kitô giáo, theo mẫu gương người Mục tử Nhân Lành.[1]
Anh em linh mục thân mến, tôi muốn nói với anh em một sự thật thẳng thắn. Có đôi khi anh em cảm thấy như bị lạc lối, chán nản, và tràn ngập đau khổ. Một cảm giác tồi tệ của sự bị bỏ rơi và cô đơn ghim chặt lấy tâm hồn anh em. Trong một thế giới đang bị xói mòn bởi tình trạng bất tín và thờ ơ, người tông đồ không thể tránh khỏi đau khổ: một linh mục rực cháy lửa đức tin và nhiệt tình tông đồ nhanh chóng nhận ra rằng thế giới mà các ngài đang sống, có thể nói, đã bị đảo lộn. Tuy nhiên, mầu nhiệm sâu thẳm trong tâm hồn có thể cho anh em sức mạnh để sống giữa thế gian. Và luôn luôn, người phục vụ “chỉ một điều duy nhất cần thiết”, phải luôn cố gắng đặt Chúa vào trọng tâm cuộc đời mình, điều này mang lại một chút ánh sáng soi chiếu vào bóng tối.
Trong chức linh mục, tính liên tục mang ý nghĩa bí tích của tình yêu người Mục tử Tốt lành đang bị đe dọa. Vì vậy, tôi lên tiếng để mọi nơi trong Giáo hội, trong tinh thần đồng trách nhiệm (synodality) thực sự, hãy cùng bình tĩnh suy tư và cầu nguyện về thực tại thiêng liêng của bí tích Truyền Chức Thánh để có thể bắt đầu đổi mới. Và tôi cầu mong những người ở cả hai bên: chúng ta đừng quá nóng vội! Chúng ta không thể thay đổi mọi thứ trong một vài tháng. Trừ khi các quyết định của chúng ta bắt nguồn từ sự suy chiêm lâu dài, còn không, nó sẽ có tương lai giống như các khẩu hiệu và những bài phát biểu chính trị, sẽ mau chóng rơi vào quên lãng.
Đức Giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI đã tặng cho chúng ta một món quà rất đặc biệt, một lectio divina, trong đó ngài quay trở về các nguồn Kinh Thánh để trình bày mầu nhiệm chức linh mục [2]. Đối với tôi, trong tinh thần khiêm tốn, tôi muốn có một cái nhìn mục vụ về bí tích này.
Suy tư mục vụ của chúng ta không được giới hạn vào các sự kiện hiện tại thuần túy hoặc thu giảm thành một phân tích xã hội học. Người ta luôn cần phải nuôi dưỡng các suy tư này trong chiêm niệm và cấu trúc nó thông qua thần học. Nhưng những suy tư này cũng phải thật cụ thể. Thật vậy, tôi cũng đã nhận thấy rằng một số người cảm thấy rất hài lòng trong việc vạch ra các nguyên tắc lý thuyết mà lại không đặt trên cơ sở thực tế. Do đó, trong việc trình bày thần học về chức linh mục, chỉ bàn riêng đến vấn đề độc thân là không đủ. Cũng thật cần thiết phải tìm hiểu tương quan cụ thể với giáo hội học và mục vụ của vấn đề này.
Trong thời gian Thượng hội đồng giám mục vùng Amazon, tôi đã dành thời gian để trực tiếp lắng nghe mọi người cũng như nói chuyện với các nhà truyền giáo dày dặn kinh nghiệm. Những cuộc trao đổi này đã giúp tôi xác tín rằng khả năng phong chức cho những người đàn ông có gia đình sẽ là một thảm họa mục vụ, dẫn đến sự hỗn loạn về giáo hội học và làm lu mờ sự hiểu biết của chúng ta về chức linh mục. Hôm nay tôi muốn trình bày với anh em những suy tư của tôi xoay quanh ba điểm liên quan đến vấn đề này.
Một Thảm họa về Mục vụ
Chức linh mục: cửa ngõ mang dấu ấn bản thể học đi vào lời “thưa vâng” của Chúa Kitô Thượng Tế
Chúng ta có thể tóm tắt những suy tư của Đức giáo hoàng danh dự bằng một vài từ ngữ: Chúa Giêsu tỏ lộ cho chúng ta trong con người của Ngài sự toàn vẹn của chức linh mục. Người ban cho nó ý nghĩa đầy đủ đối với những gì đã được loan báo và phác họa một cách thô sơ trong Cựu Ước. Trọng tâm của sự mặc khải này rất đơn giản: một linh mục không hẳn chỉ là một người thực hiện nhiệm vụ dâng lễ. Nhưng ngài phải là một người hiến dâng chính bản thân mình như một của lễ hy sinh bằng tình yêu, theo gương Chúa Kitô. Do đó, Đức Bênêđictô XVI cho thấy rõ ràng và dứt khoát rằng chức linh mục là một trạng thái của đời sống. “Một vị linh mục phải loại bỏ khỏi các ràng buộc trần tục và được dâng hiến cho Thiên Chúa, và chính xác như vậy, để khởi đi từ Thiên Chúa, ngài luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân, cho mọi người.” [3] Độc thân linh mục là sự thể hiện ý muốn đặt mình vào sự tùy thuộc Chúa và con người. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI chứng minh rằng độc thân linh mục không phải là sự “bổ sung thiêng liêng” vào trong cuộc đời linh mục. Đúng hơn, đời sống linh mục đích thực, về mặt bản thể, đòi hỏi sự độc thân.
Đức Bênêđictô XVI trong bản văn ở phần trước, cho thấy rằng sự chuyển vị từ chức tư tế của Cựu Ước sang chức tư tế của Tân Ước, được mặc khải trong quá trình chuyển hóa từ việc tiết chế tình dục mang ý nghĩa chức năng sang một sự tiết chế mang ý nghĩa bản thể. Tôi nghĩ rằng chưa bao giờ có một giáo hoàng nào thể hiện mạnh mẽ sự cần thiết của độc thân linh mục như thế. Chúng ta cần phải nghiền ngẫm những suy tư của một người đang bước gần đến cuối đời. Vào giờ khắc quyết định này, người ta không được xem nhẹ những lời nói đó. Đức Bênêđictô XVI cũng nói với chúng ta rằng chức linh mục, bởi vì có liên quan đến hiến tế Thánh Lễ, nên sự ràng buộc với dây hôn nhân là điều bất khả. Tôi muốn nhấn mạnh điểm cuối cùng này. Đối với một linh mục, việc cử hành Bí tích Thánh Thể không chỉ là thực hiện các nghi thức. Việc cử hành thánh lễ giả định rằng linh mục phải kết hợp toàn vẹn con người mình vào với hi lễ tuyệt vời của Chúa Kitô dâng cho Chúa Cha, vào lời thưa vâng trọn vẹn của Chúa Giêsu dâng lên Cha của Người: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Bây giờ độc thân là “một lời thưa vâng dứt khoát”. Điều này có nghĩa là đặt bản thân mình vào trong bàn tay của Chúa, vào trong tiếng “Con”…Đó là một tiếng thưa vâng dứt khoát.
Nếu chúng ta thu giảm độc thân linh mục vào vấn về kỷ luật hoặc việc thích nghi với phong tục và văn hóa, thì chúng ta đã cô lập chức linh mục khỏi nền tảng của nó. Theo nghĩa này, độc thân linh mục là điều kiện thiết yếu để có thể hiểu biết đúng đắn về chức linh mục. “Hơn nữa, một phần của chức linh mục, đích thực là làm cho chính mình trở nên sẵn sàng cho Chúa, trong sự toàn vẹn của con người mình, và do đó, nhận ra chính mình cũng hoàn toàn sẵn sàng phục vụ mọi người, đàn ông cũng như phụ nữ. Tôi nghĩ rằng tình trạng độc thân là một diễn tả trọn vẹn cho tính toàn vẹn này” [4], Đức Bênêđictô XVI mạnh mẽ tuyên bố với hàng giáo sĩ của Giáo phận Bolzano, Ý.
Tính cách khẩn trương về mục vụ và truyền giáo của đòi hỏi độc thân linh mục
Là một giám mục, tôi sợ rằng kế hoạch phong chức linh mục cho những người đàn ông có gia đình có thể tạo ra một thảm họa mục vụ. Nó sẽ là một thảm họa cho các tín hữu mà họ sẽ được sai đến. Nó cũng sẽ là một thảm họa cho chính các linh mục.
Làm thế nào một cộng đoàn Kitô hữu có thể hiểu được linh mục nếu họ không nhận thấy rõ ràng ngài được tách biệt khỏi môi trường thông thường, và hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa? Làm thế nào các Kitô hữu có thể hiểu rằng linh mục được trao ban cho họ nếu ngài không hoàn toàn được dâng hiến cho Chúa Cha? Nếu ngài không đi vào mầu nhiệm hủy diệt của Chúa Giêsu: Kenosis, hủy mình ra không, hoàn toàn từ bỏ bản thân? “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ” (Pl 2, 6-7). Người tự vét rỗng mình khỏi những gì vốn là, trong một hành động tự do và tình yêu. Sự từ bỏ của Chúa Kitô dù phải chết trên Thánh Giá không chỉ đơn thuần là một thái độ vâng lời, khiêm tốn. Đó là một hành động hoàn toàn từ bỏ mình qua tình yêu, trong đó Chúa Con hoàn toàn hiến thân cho Chúa Cha và cho nhân loại: đây là nền tảng của chức tư tế của Chúa Kitô. Vì thế, làm sao một linh mục có thể giữ, duy trì và đòi hỏi quyền được liên kết với dây hôn nhân? Làm thế nào ngài có thể từ bỏ để biến mình thành tôi tớ cho Chúa Giêsu linh mục? Trọn vẹn dâng hiến cho Chúa Kitô là điều kiện để hoàn toàn phục vụ mọi người. Ai không hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa thì không thể phục vụ anh em mình một cách hoàn hảo.
Một số người phải sống tách biệt trong vùng sâu vùng xa, trong vùng truyền giáo nghèo khổ sẽ có một hình ảnh nào về linh mục? Có phải chúng ta có ý định ngăn cản họ khám phá sự trọn vẹn của chức tư tế Kitô giáo không? Đầu năm 1976, khi còn là một linh mục trẻ, tôi đi thăm viếng mục vụ đến một số ngôi làng xa xôi ở nước Guinea. Một số người trong họ đã không được một linh mục nào đến thăm trong gần mười năm, bởi vì các nhà truyền giáo châu Âu đã bị Sékou Touré trục xuất vào năm 1967. Tuy nhiên, các Kitô hữu vẫn tiếp tục dạy giáo lý cho trẻ em, đọc kinh cầu nguyện hàng ngày và lần chuỗi Mân côi. Họ đã thể hiện lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria một cách tuyệt vời, và cùng họp nhau mỗi Chúa nhật để lắng nghe Lời Chúa.
Tôi đã có duyên may được gặp gỡ những người đàn ông và phụ nữ này, những người đã sống đức tin mà không được bất kỳ sự trợ giúp bí tích nào, vì thiếu linh mục. Họ được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và giữ vững đức tin của họ qua việc cầu nguyện hàng ngày. Tôi sẽ không bao giờ có thể quên được niềm vui không thể tưởng tượng được của họ, khi tôi cử hành Thánh lễ, điều mà họ đã không được đón nhận trong suốt một thời gian dài. Cho phép tôi tuyên bố một cách mạnh mẽ và chắc chắn rằng: Tôi nghĩ nếu người ta đã phong chức cho những người đàn ông đã lập gia đình ở mỗi làng, thì cơn đói Thánh Thể của tín hữu đã bị dập tắt từ lâu rồi. Mọi người sẽ bị cắt đứt khỏi niềm vui to lớn khi đón nhận một Chúa Kitô khác trong linh mục. Vì, với bản năng đức tin, những người nghèo khó đó biết rằng, một linh mục đã từ bỏ hôn nhân sẽ ban cho họ món quà trọn vẹn của tình yêu dâng hiến của ngài.
Đã bao lần, trong khi đi bộ nhiều giờ giữa các ngôi làng nhỏ bé, với một chiếc cặp có bàn thờ-bỏ túi trên đầu, dưới ánh mặt trời rực rỡ tỏa lan, bản thân tôi đã trải nghiệm niềm vui miên man của việc dâng hiến cho Giáo hội là Hiền Thê. Khi đi qua những vùng đầm lầy trong một chiếc ca nô tạm bợ, giữa những truông cỏ rậm rạp, hoặc trong khi phải vượt qua những dòng chảy nguy hiểm nơi có thể bị nhấn chìm, tôi cảm thấy phập phồng một niềm vui được dành trọn cho Chúa và được sẵn sàng trao ban cho anh chị em của mình.
Tôi sẽ yêu mến chức linh mục như thế nào nữa, nếu tất cả những anh em linh mục của tôi một ngày nào đó có thể trải nghiệm sự chào đón một linh mục ở tại một ngôi làng châu Phi, khi dân chúng nhận ra Chúa Kitô là Chàng Rể đang hiện diện trong ngài: thật là một niềm vui bùng vỡ! Nhiều lễ hội được tổ chức! Những bài hát, những điệu vũ, những sinh hoạt sôi động và cả những bữa ăn liên tiếp diễn ra để thể hiện lòng biết ơn của mọi người đối với món quà chính Chúa Kitô ban tặng cho họ.
Việc phong chức cho những người đàn ông đã có gia đình sẽ tước đi nơi những cộng đoàn Giáo hội non trẻ đang được truyền giáo, cái cảm nghiệm được Chúa Kitô hiện diện và viếng thăm, qua một linh mục sống độc thân. Bi kịch mục vụ sẽ rất lớn. Nó sẽ dẫn đến một sự bần cùng hóa công cuộc truyền giáo.
Tôi tin chắc rằng nếu đã có một số các linh mục hoặc giám mục phương Tây sẵn sàng tương đối hóa sự cao cả và tầm quan trọng của đời sống độc thân linh mục, thì đó là vì họ chưa bao giờ có kinh nghiệm cụ thể về lòng biết ơn của một cộng đồng Kitô giáo. Tôi không nói đơn giản về mặt con người. Tôi nghĩ rằng trong lòng biết ơn này có một trải nghiệm về đức tin. Những người nghèo khó đó sống cuộc sống giản dị có thể nhận ra bằng con mắt đức tin, sự hiện diện của Chúa Kitô là Phu Quân của Giáo hội nơi một linh mục sống độc thân. Kinh nghiệm thiêng liêng này là nền tảng trong cuộc sống của một linh mục. Nó dẫn đưa ngài khỏi rơi vào những hình thức giáo sĩ trị. Đã từng trải nghiệm điều này trong bản thân tôi, tôi biết rằng các Kitô hữu nhìn thấy qua tôi, một Chúa Kitô được trao ban cho họ, chứ không phải con người giới hạn của tôi với những cá tính riêng và nhiều yếu kém của nó.
Không có kinh nghiệm cụ thể này, đời sống độc thân trở thành một gánh nặng không thể mang nổi. Tôi có cảm tưởng rằng đối với một số giám mục phương Tây hoặc thậm chí cả Nam Mỹ, đời sống độc thân đã trở thành một gánh nặng lớn. Họ vẫn trung thành với nó nhưng không còn cảm thấy có can đảm áp đặt lên các linh mục tương lai và các cộng đồng Kitô hữu bởi vì chính họ đang phải chịu đựng gánh nặng đó. Tôi cảm thông với họ. Ai có thể áp đặt gánh nặng lên người khác khi không còn yêu mến ý nghĩa sâu xa của nó nữa? Đó không phải là hành động của Pharisêu sao?
Tuy nhiên, tôi chắc chắn rằng người ta đã mắc một quan điểm sai lầm ở đây. Mặc dù đôi khi là một thách đố, bậc độc thân linh mục, hiểu một cách đúng đắn, là giải thoát. Nó cho phép linh mục được thiết lập để trở nên nhất quán trong căn tính là người phối ngẫu của Hội Thánh.
Một kế hoạch nhằm tước đoạt niềm vui này khỏi các cộng đồng Kitô hữu và các linh mục chắc chắn không phải là một công việc của tình thương. Là một người con của châu Phi, trong lương tâm tôi, tôi không thể ủng hộ ý tưởng rằng, những nhóm người đang được rao giảng Tin mừng lại phải bị tước mất được một lần gặp gỡ một linh mục sống trọn vẹn thiên chức của mình. Các dân tộc Amazon có quyền được trải nghiệm đầy đủ về một Chúa Kitô là Phu Quân. Chúng ta không thể cung cấp cho họ các “linh mục hạng hai”.
Trái lại, một Giáo hội càng trẻ trung, thì lại càng cần phải gặp được những giá trị triệt để của Tin Mừng. Khi thánh Phaolô khuyên dạy các cộng đồng Kitô hữu non trẻ ở Ephêsô, Philipphê và Côlôssê, ngài không đưa ra cho họ một lý tưởng bất khả thấu đạt, nhưng chỉ dạy cho họ tất cả những đòi hỏi của Tin Mừng: “Vậy như anh em đã nhận Đức Kitô Giêsu làm Chúa, thì hãy tiếp tục sống kết hợp với Người. Anh em hãy bén rễ sâu và xây dựng đời mình trên nền tảng là Đức Kitô Giêsu, hãy dựa vào đức tin mà anh em đã được thụ huấn, và để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ. Hãy coi chừng chớ để ai gài bẫy anh em bằng mồi triết lý và những tư tưởng giả dối rỗng tuếch theo truyền thống người phàm và theo những yếu tố của vũ trụ chứ không theo Đức Kitô.” (Cl 2, 6-8). Trong giáo huấn này chúng ta thấy không có sự cứng nhắc cũng không có sự bất khoan dung. Tuy nhiên, Lời Chúa thì luôn đòi hỏi hoán cải triệt để. Lời Chúa không tương thích với sự thỏa hiệp và mơ hồ. Đó là: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi” (Hr 4,12). Theo gương thánh Phaolô, chúng ta phải rao giảng với sự rõ ràng và dịu dàng, không tạo sự hà khắc gây khiêu khích cũng như sự rụt rè nửa vời.
Cho phép tôi một lần nữa trình bày kinh nghiệm cá nhân của tôi. Thời thơ ấu, tôi sống trong một thế giới hầu như xuất phát từ ngoại giáo. Cha mẹ tôi không biết đến Kitô giáo cho đến khi họ trưởng thành. Cha tôi đã được rửa tội hai năm sau khi tôi sinh ra. Bà tôi đã đón nhận Bí tích Rửa tội vào lúc bà qua đời. Do đó, tôi đã quen với đạo vật linh và tôn giáo truyền thống. Tôi thấu biết những khó khăn của công cuộc rao giảng Tin mừng: sự nhổ bỏ gây đau đớn cùng những thay đổi đến mức anh hùng mà người mới nhập đạo phải chấp nhận liên quan đến những phong tục ngoại giáo, lối sống và truyền thống cố hữu. Tôi tưởng tượng việc truyền giáo của làng tôi sẽ như thế nào, nếu một người đàn ông đã có vợ được thụ phong linh mục ở đó. Nghĩ về điều đó thôi đã làm tôi đau đớn cõi lòng. Thật là một nỗi buồn khôn xiết! Tôi chắc chắn sẽ không trở thành một linh mục như ngày hôm nay, bởi vì giá trị triệt để của đời sống các vị thừa sai đã cuốn hút tôi.
Làm sao chúng ta dám tước đoạt niềm vui của mọi người về một cuộc gặp gỡ như vậy với Chúa Kitô? Tôi coi đó là một thái độ khinh miệt. Một số người đã khai thác và nhấn mạnh sự đối lập giữa “việc chăm sóc mục vụ bằng thăm viếng” với “việc chăm sóc mục vụ bằng sự hiện diện”. Việc một linh mục thừa sai từ một đất nước xa xôi đến phục vụ tại một cộng đoàn thể hiện sự quan tâm của Giáo hội hoàn vũ. Đó là hình ảnh của Ngôi Lời viếng thăm nhân loại. Việc phong chức cho một người đàn ông đã có gia đình ở giữa cộng đồng, cho thấy một chuyển động ngược lại: như thể mỗi cộng đồng bị ràng buộc phải tìm một phương thế cứu rỗi trong chính nó.
Khi nhà truyền giáo kiệt xuất Phaolô kể cho chúng ta về những chuyến viếng thăm của ngài đến các cộng đồng ở Tiểu Á mà chính ngài thiết lập, ngài cho chúng ta mẫu gương về một người tông đồ đến thăm các cộng đồng Kitô giáo để củng cố họ như thế nào.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đã trở nên hiện thực trong việc viếng thăm của Chúa Kitô. Chúng ta đón nhận với lòng biết ơn. Đối với chúng ta, đó là một lối mở để đi vào với cả gia đình giáo hội. Tôi sợ rằng việc phong chức cho những người đàn ông đã có vợ, mà họ phải nhận trách nhiệm cho một cộng đồng, có thể đóng cửa chính cộng đồng đó và cắt đứt nó khỏi tính phổ quát của Giáo hội. Làm sao một ai có thể bắt một người đàn ông đã có vợ biến đổi cộng đồng của mình, trong khi còn đa mang cùng vợ và con cái? Làm thế nào ông ta có thể trải nghiệm sự tự do của một người phục vụ sẵn sàng hi sinh cho mọi người?
Chức linh mục là một món quà được trao ban khi Ngôi Lời Nhập Thể được đón nhận. Đối với Chúa đó không phải là nghĩa vụ, còn đối với con người đó không phải là quyền. Một cộng đồng được truyền đạt theo cái ý tưởng cho mình có quyền được nhận Thánh Thể sẽ không còn là môn đệ của Chúa Kitô nữa. Như tên gọi của nó, Bí tích Thánh Thể là lời tạ ơn, là một hồng ân nhưng không, một món quà của lòng thương xót. Sự hiện diện Thánh Thể được đón nhận với cảm xúc ngỡ ngàng và vui mừng như một món quà vô giá. Bất kỳ người tín hữu nào nghĩ rằng họ có quyền được hưởng các ơn ấy cho thấy họ không hiểu biết một chút nào cả.
Tôi trộm nghĩ rằng các cộng đồng Kitô hữu ở Amazon không cho rằng mình phải được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về Bí tích Thánh Thể đâu. Tôi nghĩ, đúng hơn, rằng những chủ đề này là nỗi ám ảnh bắt nguồn từ các môi trường thần học tại các trường đại học. Chúng ta đang phải đối phó với các dòng ý thức hệ được khai triển bởi một vài nhà thần học, hay đúng hơn là những phù thủy học nghề, những người muốn sử dụng đau khổ của những người nghèo làm phòng thí nghiệm cho kế hoạch thông minh của họ. Tôi không thể cứ im lặng và để họ hành xử như vậy mãi. Tôi muốn bảo vệ những người nghèo đó, những người nhỏ bé, những người này “không có tiếng nói”. Chúng ta không được tước đoạt của họ sự toàn vẹn của chức linh mục. Chúng ta đừng lấy mất ý nghĩa thực sự của Bí tích Thánh Thể mà họ hằng ấp ủ. “Chúng ta không thể sửa lại giáo lý Công giáo về chức linh mục và luật độc thân để gọi là điều chỉnh, hầu đáp ứng nhu cầu được cho là cảm thấy cần thiết trong một số tình huống mục vụ khó khăn”, Đức hồng y Marc Ouellet gần đây đã nhận xét như vậy. “Trên tất cả, tôi nghĩ rằng Giáo hội Latinh không tự đặt định truyền thống độc thân linh mục cho riêng mình đâu, mà đặc sủng này vốn tồn tại từ thời các tông đồ và là bí quyết, là động lực cho sứ vụ truyền giáo mạnh mẽ của Giáo hội. [5]” Điều chúng ta đang nói đến là cực kì quan trọng. Độc thân linh mục là một động lực mạnh mẽ của công cuộc truyền giáo. Đặc sủng đó làm cho các nhà truyền giáo đáng được tin cậy. Triệt để hơn, nó giúp các ngài được tự do, để sẵn sàng đi bất cứ đâu và dám mạo hiểm mọi sự vì các ngài không còn bị giam hãm bởi bất cứ nơi chốn nào cả.
Trong ánh sáng của truyền thống Giáo hội
Một số người sẽ nghĩ rằng những suy tư của tôi là sai lầm. Họ nói với tôi rằng độc thân linh mục chỉ là một kỷ luật được áp đặt các cho các giáo sĩ của Giáo hội Latinh vào một thời xa xưa thôi.
Tôi đã đọc những lời tuyên bố như vậy, đã được lặp đi lặp lại trên các báo chí. Sự trung thực trong lịch sử bắt buộc tôi phải tuyên bố rằng họ đã sai lầm. Các nhà sử học nghiêm túc cho biết rằng từ thế kỷ thứ bốn trở đi, các công đồng đã nhắc đến sự bắt buộc tiết chế tình dục đối với các linh mục. Chúng ta phải luôn chính xác. Nhiều người đàn ông đã có vợ được thụ phong linh mục trong thiên niên kỷ đầu tiên. Nhưng kể từ ngày thụ phong, họ buộc phải kiêng quan hệ tình dục với vợ. Điều này thường xuyên được nhắc lại qua các công đồng chung, dựa trên một truyền thống đã có từ thời các tông đồ. Có thể nào không hình dung được rằng nếu Giáo hội tự ý cố chấp đưa ra kỷ luật tiết chế tình dục cho giáo sĩ mà lại không gây ra sự phản đối chung nơi những người mà luật này tác động sao? Ngày hôm nay các nhà sử học nhấn mạnh một điều là, đã không hề có các cuộc phản đối khi Công đồng Elvira, vào đầu thế kỷ thứ bốn, quyết định loại trừ khỏi hàng giáo sĩ các giám mục, linh mục và phó tế bị nghi ngờ có quan hệ tình dục với vợ của họ. Việc một quyết định gay gắt như vậy không làm dấy lên một sự phản đối nào chứng tỏ rằng luật độc thân giáo sĩ không phải là điều gì mới. Giáo hội vừa mới bước ra khỏi thời kỳ bách hại. Một trong những mối quan tâm đầu tiên của Giáo hội là cần phải thiết định lại một quy luật vốn đôi khi đã bị buông lỏng trong hoàn cảnh xáo trộn của thời kì tử đạo, và luật đó đã được phục hồi hết sức tốt đẹp.
Chức linh mục là lời đáp trả cho một tiếng gọi cá nhân. Đó là kết quả của một tình yêu thân thiết đến từ Thiên Chúa, mà chúng ta có thể tìm thấy nguyên mẫu trong ơn gọi của Samuel (1 Sm 3). Một người không trở thành linh mục bởi vì anh cần phải đáp ứng nhu cầu của cộng đồng, và rồi bất cứ ai cũng có thể chiếm giữ vị trí đó. Chức linh mục là một tình trạng sống. Đó là kết quả của một cuộc đối thoại mật thiết giữa Thiên Chúa Đấng kêu gọi và tâm hồn đáp trả: “Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Hr 10, 7). Không gì có thể can thiệp vào cuộc trò chuyện từ-trái-tim-đến-trái-tim này. Giáo hội chỉ xác thực hóa lời đáp trả ấy. Tôi vẫn tự hỏi: Điều gì sẽ xảy ra với vợ của một người đàn ông được phong chức linh mục? Cô ấy sẽ ở vị thế nào? Có một ơn gọi để làm vợ của một linh mục không? Chức linh mục, như chúng ta đã thấy, giả định một sự trao hiến trọn cuộc đời mình, giải thoát chính mình như Chúa Kitô đã sống. Nó giả định người ta phải trở nên một món quà tuyệt đối của bản thân dành cho Thiên Chúa và một quà tặng trọn vẹn của bản thân cho anh chị em mình. Vậy thì còn nơi nào nữa để dành cho các liên hệ vợ chồng? Công đồng Vatican II đã trình bày phẩm giá của bí tích Hôn phối là con đường đúng đắn để nên thánh qua đời sống vợ chồng. Tuy nhiên, tình trạng đời sống như vậy giả định rằng vợ chồng đặt mối quan hệ gắn kết của họ lên trên tất cả. Để phong chức một người đàn ông đã có vợ, một linh mục sẽ làm suy giảm phẩm giá của hôn nhân, đồng thời thu giảm chức linh mục thành một công việc [một viên chức].
Phải nói gì về sự tự do mà con cái của hai vợ chồng được quyền ao ước một cách chính đáng? Chúng cũng phải theo đuổi ơn gọi của cha chúng hay sao? Làm thế nào bất cứ ai có thể áp đặt cho những đứa con này một lối sống mà chúng không muốn chọn? Chúng có quyền tận hưởng tất cả những nguồn lực cần thiết cho sự phát triển của chúng. Liệu các linh mục đã kết hôn có đáp ứng được tất cả những đòi hỏi này không?
Người ta có thể lập luận rằng Kitô hữu Đông phương vẫn luôn quen với những tình huống này rồi và nó không xảy ra vấn đề gì. Điều đó là sai. Vào một thời gian xa xưa, Kitô giáo Đông phương cho phép những người đàn ông đã kết hôn trở thành linh mục được quan hệ tình dục với vợ của họ. Kỷ luật này đã được đưa vào trong Công đồng Trullô năm 691. Sự kiện lạ thường này xuất hiện là do hậu quả của một nhầm lẫn trong việc sao chép các điều khoản giáo luật của Công đồng Carthage trước đó, nhóm họp vào năm 390. Hơn nữa, những thay đổi quan trọng hơn của Công đồng cuối thế kỷ thứ bảy này không phải là xóa bỏ sự tiết dục đối với các linh mục mà là giới hạn việc sinh hoạt tình dục trong những thời kỳ trước khi cử hành các Mầu Nhiệm Thánh. Như vậy, mối liên hệ thuộc bản thể giữa việc thi hành tác vụ linh mục và sự tiết chế vẫn được nhìn nhận và duy trì. Có ai muốn quay trở lại việc thực hành đó không? Chúng ta phải lắng nghe những lời chứng từ các Giáo hội Công giáo Đông phương. Nhiều người trong các Giáo hội này đã phát biểu rõ ràng rằng đời sống linh mục gặp rất nhiều căng thẳng với công việc gia đình. Trong nhiều thế kỷ qua, tình trạng này vẫn có thể tồn tại được nhờ vào sự hiện hữu các mối dây giữa “các gia đình linh mục”, trong đó những đứa trẻ nam được giáo dục để tham gia vào ơn gọi của người cha trong gia đình, còn các cô con gái thường kết hôn với một linh mục tương lai. Nếu cần phải lượng giá thì có thể nói kiểu cách sinh hoạt như thế này (modus operandi) không thể đem lại phẩm giá và tự do cho mỗi người được. Các giáo sĩ kết hôn phương Đông luôn gặp khủng hoảng. Việc ly hôn của các linh mục đã trở thành nguyên do gây ra căng thẳng trong sinh hoạt đại kết giữa các Tòa Thượng phụ Chính thống.
Trong các cộng đồng Giáo hội Đông phương tách biệt, chỉ có sự hiện diện của các tu sĩ trổi vượt về đức hạnh mới có thể làm cầu nối, giúp cho một giáo sĩ đã kết hôn được cộng đoàn dân Chúa đón nhận. Có nhiều Kitô hữu Chính thống không bao giờ đi xưng tội với một linh mục đã kết hôn. Cảm thức đức tin (sensus fidei) mách bảo cho người tín hữu nhận ra có một điều gì đó khiếm khuyết trong các giáo sĩ không sống bậc độc thân tận hiến.
Tại sao Giáo hội Công giáo cho phép sự hiện diện của một số giáo sĩ đã kết hôn trong Giáo hội Đông phương được hội nhập với Rôma? Dưới ánh sáng của các tuyên bố mới đây trong Huấn Quyền về mối tương quan bản thể giữa chức linh mục và tình trạng độc thân, tôi nghĩ rằng mục đích của sự chấp nhận này là để thúc đẩy sự tiến triển dần dần đối với việc thực hành đời sống độc thân, sẽ diễn ra, không phải bằng con đường kỷ luật, mà đúng hơn bằng những lý do thiêng liêng và mục vụ phù hợp.
__________________
[1] Bênêđictô XVI, Sứ điệp Kinh Truyền Tin ngày 13, tháng Sáu 2010
[2] Nội dung này được đặt ở phần đầu sách
[3] Bênêđictô XVI, Bài giảng lễ Truyền Dầu tại Đền thờ thánh Phêrô, thứ Năm Tuần Thánh, 4 tháng 9, năm 2009.
[4] Bênêđictô XVI, huấn từ với hàng giáo sĩ Giáo phận Bolzano-Bressanone, ngày 6 tháng 8, năm 2008.
[5] Marc Cardinal Ouellet, trong cuộc phỏng vấn với Jean-Marie Guénois, Le Figaro, 28 tháng Mười, 2019
Lm. Ngô Quang Trung dịch theo bản tiếng Anh
2020
Thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh về Đức Hồng Y George Pell
Thông cáo của Phòng báo chí Tòa Thánh về Đức Hồng Y George Pell
WHĐ – Trưa thứ Ba (07-04-2020), Phòng báo chí Tòa thánh đã ra thông cáo về Đức Hồng Y George Pell nhân dịp Tòa Án Tối Cao Úc đại lợi tuyên bố Ngài vô tội. Sau đây là nguyên văn thông cáo:
“Tòa Thánh, luôn tin tưởng vào nền Tư pháp Úc đại lợi, hoan nghênh quyết định nhất trí của Tòa Án Tối Cao Úc đại lợi đã tuyên bố Đức Hồng y George Pell vô tội đối với những cáo buộc về tội ấu dâm và đã hủy bỏ án phạt cho ngài.
Đức HY G. Pell hằng tin tưởng vào sự công minh của Tòa Án và luôn bảo vệ sự vô tội của mình và chờ đợi sự thật được sáng tỏ.
Đồng thời, Tòa Thánh khẳng định sự quyết tâm của mình trong việc ngăn ngừa và chống lại mọi hành vi xâm hại xúc phạm trẻ vị thành niên.”
Uông Đại Bằng chuyển ngữ từ press.vatican.va
2020
Kiêng Lễ – một truyền thống của Mùa Chay?
Kiêng Lễ – một truyền thống của Mùa Chay?
07/04/2020
KIÊNG LỄ – MỘT TRUYỀN THỐNG CỦA MÙA CHAY ?
Khi người Công giáo trên khắp thế giới đối mặt với việc đóng cửa Nhà Thờ, thì Mùa Chay của chúng ta đã thay đổi. Chúng ta nghĩ về Mùa Chay như một thời gian từ bỏ những điều xấu và đi sâu hơn vào đời sống cầu nguyện. Do đó, việc không tham dự Thánh Lễ [kiêng Lễ] dường như không phù hợp với ý hướng này, nhưng thực sự nó đã có một lịch sử lâu đời trong Giáo Hội.
Cho đến ngày nay, Mùa Phụng Vụ theo nghi lễ Phương Tây (Rôma) có hai ngày không cần cử hành Thánh Lễ: Thứ Sáu Tuần Thánh và Thứ Bảy Tuần Thánh (ít nhất là không có bản văn Thánh Lễ riêng biệt cho hai ngày này trước Lễ Đêm Vọng Phục Sinh). Điều này cũng phản ánh một truyền thống lâu đời hơn của việc không cử hành Thánh Lễ các ngày trong tuần của Mùa Chay (hoặc giới hạn Thánh Lễ vào một số ngày nhất định trong tuần), đây là một tập tục được gìn giữ trong một số nghi thức của Giáo hội Phương Đông.
Điều đó dường như là phi lý khi kiêng khem những điều tuyệt hảo mà chúng ta có trong thế gian; nhưng đôi khi chúng ta phải hy sinh một điều gì đó, để tái ý thức về nó một cách sâu sắc hơn. Đức Hồng Y Josef Ratzinger (Đức Nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI hiện nay) suy niệm về quyết định tự mình “không Rước Lễ” của Thánh Augustinô vào cuối đời để thực hiện một sự sám hối sâu sắc hơn. Ngài suy niệm việc kiêng Thánh Thể có thể dẫn đến sự đổi mới như thế nào:
“Há chúng ta không thường xuyên đón rước Thánh Thể một cách hững hờ quá hay sao? Há loại chay tịnh thiêng liêng này không phải là để giúp chúng ta, thậm chí là cần thiết, để làm sâu sắc và đổi mới mối tương quan của chúng ta với Mình Thánh Chúa Kitô hay sao?
Giáo Hội thời xưa đã biểu lộ một cách sâu sắc việc thực hành này. Thật vậy, kể từ thời các Tông Đồ, việc kiêng đón rước Thánh Thể vào Thứ Sáu Tuần Thánh là một phần trong sự hiệp thông thiêng liêng của Giáo Hội. Sự từ bỏ Hiệp Lễ vào một trong những ngày cực thánh trong năm của Giáo Hội, là một cách thức rất đặc biệt, để thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa; đó là nỗi buồn sầu của cô dâu khi mất chàng rể (x. Mc 2,20).
Ngày hôm nay cũng vậy, tôi thiết nghĩ, việc kiêng đón rước Thánh Thể, thực sự cần được đón nhận và đưa vào cách nghiêm túc, có thể rất ý nghĩa trong những dịp được xem xét cẩn thận, chẳng hạn như những ngày sám hối – và tại sao không giới thiệu lại việc thực hành này vào Thứ Sáu Tuần Thánh?
Điều đó đặc biệt thích hợp trong các Thánh Lễ, nơi có rất đông dân chúng tham dự, khiến không thể phân phát Thánh Thể cách xứng hợp; quả thật, trong những trường hợp như vậy, việc từ bỏ Bí tích Thánh Thể diễn tả sự tôn kính và yêu thương hơn là một sự đón rước mà không tương xứng với ý nghĩa to lớn của những gì đang diễn ra.
Việc kiêng nhịn kiểu này – tất nhiên nó sẽ phải được mở ra theo sự hướng dẫn của Giáo Hội và không được tùy tiện – có thể mang lại mối tương quan cá vị sâu sắc với Chúa trong Bí tích… Đương nhiên, tôi không đề nghị quay trở lại một kiểu của chủ nghĩa Jansen: việc ăn chay giả định trước việc ăn uống bình thường, cả trong đời sống thiêng liêng và đời sống sinh học. Nhưng theo thời gian, chúng ta cần một phương dược để ngăn ngừa chúng ta khỏi rơi vào thói quen đơn thuần, làm nghèo nàn tất cả các chiều kích tâm linh.
Đôi khi chúng ta cần đói khát, đói khát về thể xác và tinh thần, để chúng ta có thể làm mới những ân ban của Chúa và thấu hiểu được nỗi khổ của những người anh em đói khát của chúng ta. Cả cơn đói tinh thần và thể xác đều có thể là một phương tiện của tình yêu [1].
Tất nhiên, có một sự khác biệt rõ ràng giữa một ngày không có Thánh Lễ (không có Thánh Lễ riêng của chính ngày đó) và một ngày Phụng vụ Rước Lễ – không có truyền phép nhưng vẫn Hiệp Lễ, dùng những Bánh Lễ từ một Thánh Lễ trước, nổi bật nhất là vào Thứ Sáu Tuần Thánh.
Một ví dụ về những Ngày không có Thánh Lễ được tìm thấy trong nghi lễ Ambrôsiô của Milan, theo truyền thống không cử hành Thánh Lễ vào các ngày Thứ Sáu trong suốt Mùa Chay [2].
Còn truyền thống thứ hai tôi bắt gặp lần đầu tiên ở trường trung học, đó là việc cử hành Phụng vụ Rước Lễ trong nghi lễ Byzantine suốt cả Mùa Chay. Các việc Phụng vụ này, chủ yếu xuất hiện vào các tối Thứ Tư và Thứ Sáu, có nhiều điểm tương đồng với các nghi lễ của những Buổi Canh Thức, và được cử hành với ánh sáng lờ mờ, mang tính cách mờ ảo và huyền bí: việc hát các Thánh Vịnh, hương khói quyện bay trên ánh sáng ngọn nến, và những lần thờ lạy trang nghiêm, kèm theo lời cầu nguyện của thánh Ephrem người Syria:
(Lần sụp lạy thứ nhất) – Lạy Chúa, Đấng là Chủ cuộc đời con, xin đừng để con bị tiêm nhiễm tinh thần lười biếng và tò mò xét đoán, tinh thần tham vọng và buôn chuyện hão huyền.
(Lần sụp lạy thứ hai) – Thay vào đó, xin hãy ban cho con – người tôi tớ của Ngài, tinh thần trong sạch và khiêm nhường, tinh thần kiên nhẫn và tình yêu người lân cận.
(Lần sụp lạy thứ ba) – Lạy Chúa là Vua, xin ban cho con ân sủng để ý thức về tội lỗi của mình và không nghĩ xấu về những người anh em con. Chúc tụng Ngài từ bây giờ và cho đến muôn muôn đời.
Mặc dù bây giờ chủ yếu được tổ chức ở Phương Đông, các nghi lễ này khẳng định nguồn gốc của chúng từ một nhân vật phụng vụ vĩ đại là thánh Grêgôriô Cả giáo hoàng. Tuy nhiên, sự kết nối này có thể chỉ đơn giản bắt nguồn từ sự diễn tả mà ngài đã viết về Phụng vụ Rước Lễ trong khi làm đại sứ cho Constantinople. Bằng cách nào, cả Đông Phương và Tây Phương đều chia sẻ truyền thống này, cho dù là chỉ vào Thứ Sáu Tuần Thánh hay trong suốt Mùa Chay.
Một số tín hữu cũng đã thực hiện truyền thống Missa sicca [Lễ khô – lễ vắn: nghi thức ngắn không có Lễ quy], được bảo tồn chủ yếu bởi những người Carthusian, đòi hỏi phải đọc những lời nguyện của Thánh Lễ (trừ những kinh nguyện Thánh Thể) khi Thánh Lễ không được cử hành (hoặc ngoài Thánh Lễ).
Bây giờ tất cả chúng ta đều thấy mình đang thực hiện việc đền tội ngoài ý muốn đối với Thánh Thể. Chúa Kitô ở trong mộ đá, không chỉ ba ngày, mà bây giờ trong thời gian dài, xa cách khỏi sự thân mật thể lý với các môn đệ của Ngài. Bị tước mất sự gần gũi bí tích với Chúa Giêsu, chúng ta phải đối mặt với một đêm tối thiêng liêng, một điều mà thực sự có thể truyền cảm hứng sâu sắc hơn cho tình yêu và lòng mộ đạo. Việc kiêng rước lễ này có thể trở thành sự hy sinh cao cả nhất của tất cả mọi người. Nếu chúng ta hiến dâng nó như một sự hy sinh tự nguyện, sự thiếu vắng này, biến thành một hành động của tình yêu, cũng có thể mang lại một hoa quả tốt nhất cho tất cả mọi người.
Tác giả: R. Jared Staudt
Hướng Dương chuyển ngữ từ buildingcatholicculture.com
[1] Joseph Ratzinger, Behold the Pierced One, pp. 97-98
2020
Tuyên bố Đức Hồng y George Pell vô tội
Tuyên bố Đức Hồng y George Pell vô tội
07/04/2020
TUYÊN BỐ ĐỨC HỒNG Y GEORGE PELL VÔ TỘI
Linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ
Sáng nay, ngày 07 tháng 04 năm 2020, Hội đồng Giám mục Australia ra thông cáo về việc Tòa án Tối cao Liên bang Úc đã tuyên bố hủy bỏ các cáo buộc lạm dụng tình dục đối với Đức Hồng y George Pell, đồng thời trả tự do ngay lập tức cho vị Hồng y 78 tuổi.
Đức Hồng y George Pell đã đảm đương nhiều sứ vụ mục tử và trọng trách: Tổng Giám mục Melbourne (1987-1996) và Sydney (1996-2001) tại Liên bang Úc, thành viên Hội đồng Hồng y tư vấn của Đức Giáo hoàng Phanxicô từ năm 2013 đến 2018, Chủ tịch Quốc vụ viện Kinh tế của Tòa Thánh từ năm 2014 đến năm 2019.
Đức Tổng Giám mục Mark Coleridge, Tổng Giám mục Brisbane, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Australia đã tuyên bố:
“Hôm nay Tòa án Tối cao Liên bang Úc đã tuyên bố huỷ bỏ các bản án của Đức Hồng y George Pell về các cáo buộc lạm dụng tình dục trước đây. Tòa án đã ra lệnh thả ngài khỏi nhà tù.
Kết quả hôm nay sẽ được nhiều người hoan nghênh, gồm cả những người đã tin vào sự vô tội của Đức hồng y trong suốt vụ án kéo dài này.
Chúng tôi cũng nhìn nhận rằng quyết định của Tòa án Tối cao sẽ gây cay đắng cho những người khác. Nhiều người đã phải đau khổ rất nhiều trong suốt vụ án mà nay đã kết thúc.
Kết quả ngày hôm nay không làm thay đổi việc Giáo Hội không ngừng dấn thân bảo vệ an toàn cho trẻ em và đáp ứng cách công bằng và thương xót đối với những nạn nhân của nạn lạm dụng tình dục trẻ em còn sống. Sự an toàn của trẻ em vẫn là cực kỳ quan trọng không chỉ đối với các giám mục, mà còn đối với toàn thể cộng đồng Công giáo. Bất kỳ ai cho rằng mình bị người của Giáo Hội lạm dụng tình dục cần đến trình báo cảnh sát.” (Minh Đức chuyển ngữ)
Trang điện tử của Tuần báo Công giáo Sydney đã đăng phát biểu của Đức Hồng y George Pell, trong đó có đoạn viết: Ngay từ đầu, tôi đã kiên định rằng tôi vô tội và chịu đựng đau khổ với sự bất công nghiêm trọng và hôm nay đã được giải tỏa bằng phán quyết tuyệt đối Tòa án Tối cao. ĐHY Pell cũng cho biết ngài không suy nghĩ tiêu cực về người tố cáo vì “tôi không muốn tuyên bố vô tội đối với tôi gây thêm tổn thương và cay đắng” cho người khác vì chắc hẳn đã nhiều thương đau rồi. ĐHY Pell khẳng định rằng mục đích tố cáo cố tìm cách buộc tội nhưng “tôi đã không phạm tội” như cáo buộc. “Nền tảng cho quá trình chữa lành chính là sự thật và nền tảng duy nhất cho công lý là sự thật, vì công lý nghĩa là sự thật cho tất cả”. ĐHY Pell đã kết luận như thế trước khi gửi lời cảm ơn tất cả mọi người và không quên nhắn gửi rằng ngài cũng được biết về tình trạng đại dịch hiện nay nên “tôi cầu nguyện cho các bệnh nhân và nhân viên y tế đang phục vụ ở tuyến đầu”.
Trước biến cố này, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gửi thư hiệp thông chia vui với Đức Hồng y George Pell “được trắng án”, một biến cố có thể được xem là “vô tiền khoáng hậu”, và hiệp ý tạ ơn Chúa đã “nhận lời trong cơn thử thách” để gìn giữ Đức Hồng y; nhất là trong cử hành Tuần Thánh giữa cơn đại dịch này, tin vui của Đức Hồng y đã mang lại niềm vui đầy sức sống Phục Sinh trước khi bước vào Tam nhật Vượt qua.