2020
Làm thế nào Chúa đã thay đổi cuộc đời của ca sĩ Modjo và Pauline, vợ của ông
Yann Destal, tác giả, nhà soạn nhạc, ca sĩ, cựu trưởng ban nhạc Modjo nổi tiếng thế giới và vợ là ca sĩ Pauline kể cho báo Aleteia về cuộc trở lại chấn động của họ. Một chứng từ của hai tiếng nói sáng chói, lôi cuốn và không sàng lọc.
Pauline mảnh khảnh duyên dáng với dáng dấp thiên thần, Yann, tóc dài, ánh mắt trong sáng, dáng dấp vừa thanh lịch vừa rock. Hai người vừa kết hôn được hơn một năm. Độc đáo và tình cảm, không sàng lọc họ kể chứng từ trở lại với đức tin, vừa đồng điệu, vừa vui vẻ nồng nhiệt lan tỏa qua nét đẹp và sự trẻ trung của họ. Thêm nữa là tài năng âm nhạc của Yann, cựu ca sĩ của nhóm Modjo nổi tiếng thế giới với bài Lady.
Anh Yann lớn lên trong một gia đình không ai nói gì nhiều về đức tin cũng như tôn giáo, đến mức anh còn không nhớ có khi nào nghe cha mình đặt vấn đề có sự hiện diện của Chúa hay không. Nhưng anh nhớ khi anh lên bốn, bà ngoại có dạy cho anh đọc Kinh Lạy Cha trước khi đi ngủ. Bà nói cho anh nghe thiên thần hộ thủ của anh. Anh nhớ khi đó anh sống trong sự hiện diện của người bảo vệ mình. Nhất là anh cảm nhận có một cái nhìn che chở ở trên anh, cái nhìn này không bao giờ rời anh và làm chứng cho cuốn phim đời anh. Lớn lên, sự hiện diện này là ngôi sao tốt lành hướng dẫn cuộc đời mà chúng ta thường hướng về, đặc biệt những lúc vui buồn.
Modjo, với bài “Lady” khi trở lại
Rất sớm, Yann hiểu anh có khiếu âm nhạc. Anh học các lớp nhạc lý và học thổi sáo, rồi các nhạc cụ khác. Ở trường âm nhạc, cùng với các bạn, anh tin chắc vào tài năng âm nhạc của mình. Anh hiểu đây là một ơn mà anh không làm gì để có, chỉ sau này khi khám phá đức tin, anh nhận ra, ơn nghệ thuật anh nhận được khi sinh ra, ơn này phải hướng về Chúa vì nó đến từ Chúa, chính xác là vậy. Khi còn là sinh viên năm 22 tuổi, anh gặp ca sĩ Romain Tranchart. Cùng nhau họ thành lập nhóm Modjo. Năm 2000, bài hát Lady đầu tiên của nhóm ra đời và bài hát nhanh chóng nổi tiếng trên toàn cầu:
Chỉ trong vài tuần, bài hát đứng đầu tất cả các bản sắp hạng, hơn cả các bài hát của Madonna ở Âu châu. Rồi thành công trên khắp thế giới. Mới đầu anh nghĩ chỉ bán vài ngàn đĩa nhưng cuối cùng bán được hai triệu đĩa!
Yann và Pauline
Trong một thời gian dài, Yann để hành trình tìm kiếm Chúa ngủ yên cho đến ngày tình cờ anh mở một quyển sách … của triết gia Pascal ra đọc.
Sự thành công trên toàn thế giới không tưởng tượng này đã làm đảo lộn mọi chuyện. Các bài hát của nhóm Modjo được phát trong các hộp đêm nóng bỏng nhất ở Âu châu và Á châu, từ Ibiza đến Tokyo, từ Maxcơva đến Tel Aviv. Và anh cám ơn ngôi sao may mắn của mình, âm nhạc đã thành nghề “chính thức” của anh. Trong một thời gian dài, ngôi sao trẻ ngủ ngon không đi tìm Chúa. Cho đến một ngày tình cờ anh mở một quyển sách của … triết gia Pascal ra đọc. Các tư tưởng trong quyển “Tư tưởng” của Pascal đã làm thay đổi dòng đời của anh. Nhà tư tưởng gia kitô giáo mà anh vừa khám phá đã quyến rũ anh qua “đức tin, một đức tin mãnh liệt với một sức sống cũng mãnh liệt .” Quá ngưỡng mộ, anh kể: “Ngay lập tức tôi bị mê hoặc bởi người chiến đấu cho Đức Kitô, người bắt đầu quyển sách của mình bằng cách sát xà phòng vào những người vô thần, những người hài lòng một cách quá dễ dàng với cuộc sống trước mắt họ”.
Yann: Như hầu hết những người chung quanh tôi, thật sự tôi không biết Chúa Giêsu là ai, tôi cũng không biết là Chúa đã xuống thế làm người!
Một bài đọc vang lên trong lòng anh như một “thẩm quyền cho phép” anh tin để tiến trên con đường đến với Chúa mà không bị ngăn chặn. Anh đọc lui đọc tới từng đoạn trong quyển sách, anh ghi lại vào điện thoại các đoạn chủ yếu, đến độ mà anh chép lại gần như một nửa quyển sách. “Như hầu hết những người chung quanh tôi, thật sự tôi không biết Chúa Giêsu là ai, tôi cũng không biết là Chúa xuống thế làm người!”.
Sau khi trở về từ một chuyến đi và sau khi đọc xong quyển sách, anh tìm thấy Pauline. Cô là người yêu của anh lúc đó, anh chia sẻ khám phá của mình: “Kitô giáo! Đó là tôn giáo thật!” Anh tiếp tục đọc các tác phẩm kitô giáo, anh đọc ngấu nghiến các sách của tư tưởng gia Gustave Thibon, của triết gia Simone Weil …
Yann đề cập chủ đề này với Pauline, nhưng thận trọng để không tạo ra hố chia cách giữa người tin và người không tin.
Nhiệt tình, anh đề cập chủ đề này với Pauline, nhưng thận trọng để không tạo ra hố chia cách giữa người tin và người không tin. Anh cho biết: “Đức tin thật sự là một cuộc cách mạng trong lòng, tôi sợ Pauline nhìn tôi với một hào quang nếu tôi thường xuyên nói đến!”
@Yann và Pauline DestalYann: Có Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta, hôn nhân đã trở nên hiển nhiên với tôi.
Pauline, tình yêu từ cái nhìn đầu tiên với Chúa Giêsu
Còn ca sĩ Pauline lớn lên ở thành phố Troyes trong một gia đình không biết gì về tôn giáo: “Tôi không biết gì về Chúa, về Chúa Giêsu, tôi không bao giờ nghe nói đến Tin Mừng. Thực tế trước mặt tôi là thế giới hoàn toàn vật chất. Thế giới này làm cho tôi rất chán. Vào thời điểm đó, tôi bị mê hoặc bởi vũ trụ, những vật ngoài hành tinh, các con ma và tất cả những gì gọi là huyền bí .” Pauline thích nhìn ngôi sao. Cùng với cô bạn tuổi vị thành niên, cô đi tìm câu trả lời cho các bí ẩn của vũ trụ, họ phát minh ra các lý thuyết huyền ảo của tuổi vị thành niên. Pauline cũng chưa biết có một đời sống nội tâm, đời sống mà sau này cô mới khám phá.
Pauline: Trước khi gặp Chúa, tôi cảm thấy như mình không tồn tại. Trường học, đời sống xã hội, công việc, tôi thấy tất cả thật phi lý. Cả một trống rỗng. Vì thế với thế hệ của tôi, tôi đã làm tất cả những chuyện ngông cuồng mà người ta có thể tưởng tượng …
Khi yêu Yann, Pauline để Yann “thức tỉnh” cô. Cô kể cho báo Aleteia: “Anh kể cho tôi các bài anh đọc, anh thúc đẩy tôi đặt câu hỏi … Cùng với anh, tôi khám phá thế giới nội tâm. Trước khi gặp Chúa, tôi ngắt kết nối với thế giới bên ngoài. Trước khi gặp Chúa, tôi cảm thấy tôi không tồn tại. Trường học, đời sống xã hội, công việc, tôi thấy tất cả thật phi lý. Cả một trống rỗng”. Cô giải thích thêm: “Vì thế với thế hệ của tôi, tôi đã làm tất cả những chuyện ngông cuồng mà người ta có thể tưởng tượng … Tôi ăn cắp, tôi nói dối, tôi làm điều xấu cho người khác … Tôi tìm khắp nơi ai đó nói với tôi phải ngừng đi, ai đó để tôi vâng lời nhưng tôi không thấy ai hết. Đó là điều tôi đã hiểu sau này khi tôi trở lại .”
Pauline: Nó giống như tình yêu từ cái nhìn đầu tiên với nhân vật Giêsu. Ngài trấn an tôi bằng nhân tính của Ngài.
Sự trở lại của Pauline như từ trên trời rơi xuống. “Thật là khủng khiếp. Khi đó tôi 24 tuổi. Tôi như thây ma và Chúa đến với tôi. Ngài gọi tôi nhưng tôi chưa sẵn sàng. Thật là cả một đảo lộn. Nghĩ đến Chúa và ý thức Ngài nhìn tận bên trong tâm hồn mình thì thật là hung bạo và quá sớm”. Cảm nhận tất cả sẽ thay đổi đời sống của mình, Pauline cảm thấy mình chưa sẵn sàng.
Một buổi tối nọ, Yann và cô xem phim “Ben Hur”, cuốn phim của những năm 1960 do tài tử Charlton Heston kiệt xuất đóng. Một trong các cảnh Chúa Kitô xuất hiện làm cô chấn động. Khi đó cô hỏi Yann “nhưng Giêsu là Ai?” Một cách thận trọng Yann đề nghị cả hai cùng tìm một phim có thể trả lời cho câu hỏi này. Họ tìm cuốn “Giêsu thành Nadarét” của nhà đạo diễn Ý Zefirelli. “Nó giống như tình yêu từ cái nhìn đầu tiên với nhân vật Giêsu. Ngài trấn an tôi bằng nhân tính của Ngài. Chúa rất gần và ngay cả rất mong manh! Từ lúc đó tôi nói với Chúa: Ok, được rồi, con nói Vâng với Chúa”. Tất cả đã thay đổi tận căn. Pauline khám phá Tin Mừng và khám phá có một cách khác để nhìn cuộc sống, vô cùng phong phú, tốt đẹp, chân thực, vô cùng khác … Cuộc sống của cô biến hình.
Hướng đến bí tích hôn nhân
Một thời gian ngắn sau hai người trở lại, “kỳ diệu thay cùng một lúc”, Yann cảm nhận tiếng gọi của hôn nhân. Anh nói: “Bằng trực giác, từ lâu tôi hiểu hôn nhân là điều mang lại cho hai người yêu nhau hình thức trọn hảo, triển nở hoàn toàn của họ, nhưng tôi không biết tại sao. Với Chúa hiện diện trong đời sống, điều này trở nên hiển nhiên với tôi .” Về phần mình và trước khi trở lại, Pauline không thấy hôn nhân có một ý nghĩa. Cô tự nhủ: “Kết hôn để làm gì? Mọi người ly dị, rốt cuộc hôn nhân chỉ là bản hợp đồng hành chánh” …
Yann và Pauline: Khiết tịnh chắc chắn là khó, nhưng đồng thời chúng tôi thấy hiệp thông với ý Chúa là niềm vui để chúng tôi dâng hy sinh này cho Ngài.
Chỉ trong lần xưng tội đầu tiên, câu hỏi mới được đặt ra với Pauline. Cô nói: “Tôi quyết định xưng tội lần đầu tiên trong đời. Vì tôi không biết làm sao làm, tôi xin một linh mục giúp tôi, khi đó cha đặt các câu hỏi về đời sống của tôi. Trong số các điều khác, tôi nói với cha tôi có bạn trai và tôi sống với anh ấy. Cha nói với tôi: ‘Con có biết con sống trong tội không? Bây giờ con phải sống như anh em cho đến ngày đám cưới’. Ngạc nhiên Pauline không hiểu, ngay cả cô không có khái niệm về tội. Cô nghĩ, “khi Chúa nói thì mình phải kết hôn .” Chiều hôm đó, xúc động bởi bí tích hôn nhân và lời của linh mục, cô đưa ra ý tưởng kết hôn.
@Yann et Pauline Destal
Đối với hai người, bây giờ là rõ ràng. Họ quyết định chuẩn bị đám cưới. Trong đời sống hàng ngày, họ tiếp tục đào sâu đức tin qua các bài đọc thiêng liêng: Kinh Thánh, Câu chuyện của một tâm hồn, Noi gương Chúa Kitô … Họ xem video trên internet và khám phá thánh lễ và cầu nguyện. Dần dần hai vợ chồng tương lai nếm niềm vui trở thành “người giữ đạo .” Thời gian cầu nguyện của họ tăng dần từ tuần này qua tuần khác. Họ quyết định sống bảy tháng chuẩn bị hôn nhân trong khiết tịnh. Họ cùng tiết lộ với báo Aleteia: “Khiết tịnh chắc chắn là khó, nhưng đồng thời chúng tôi thấy hiệp thông với ý Chúa là niềm vui để chúng tôi dâng hy sinh này cho Ngài. Với thời gian, chúng tôi nhận ra chúng tôi càng ngày càng gần nhau như anh em thật sự .”
“Yann et Pauline: Họ trao đổi các suy nghĩ với nhau, họ giúp nhau tiến bộ, khám phá Chúa qua các sự kiện mỗi ngày. Chúa ở trong tất cả những gì mình làm cho nhau. Sự hài hòa giữa chúng tôi là kết quả tuyệt vời của cố gắng này .”
Đám cưới của họ tổ chức ngày 7 tháng 7 năm 2018, Yann và Pauline có cảm tưởng cả thiên cung hát và bay chung quanh họ. Niềm vui trọn vẹn: lời chúc lành của Chúa cho sự kết hiệp của họ là đá tảng cho tình yêu của hai người. Một năm sau, họ cùng nói hôn nhân của họ là lời kêu gọi trở nên thánh. Một trường học thánh thiện đáng kinh ngạc, trường học của tha thứ, bác ái, khiêm nhường. Cả hai thổ lộ: “Chúng tôi trao đổi suy nghĩ với nhau, giúp nhau tiến bộ, khám phá Chúa qua các sự kiện mỗi ngày .” Từ đâu có sự trau dồi này? “Chúa ở trong tất cả những gì mình làm cho nhau. Sự hài hòa giữa chúng tôi là kết quả tuyệt vời của cố gắng này .” Họ nói thêm: “Đó là những gì thúc đẩy chúng tôi tha thứ cho nhau ngay lập tức, cho nhiều hơn ngay lập tức. Thật ra mỗi hành vi tình yêu làm cho người mình yêu thương là hành vi tình yêu cho Chúa .”
Ân sủng
Dĩ nhiên, như trong tất cả các cặp vợ chồng, Yann và Pauline cũng trải qua những giây phút khó khăn, đôi khi cuộc chiến rất gay go. Bao nhiêu là dịp để họ thấy họ “khốn khổ, yếu đuối, bị tổn thương”, cũng như bao nhiêu dịp họ cảm thấy mình “trần trụi và khốn khổ” trước mặt Chúa. Họ cho biết, Chúa Giêsu đặc biệt quan tâm đến họ trong những giây phút này. Nhưng với một nguyên tắc: phải trong sáng trước mặt Ngài, kiên trì bám trụ chờ cơn bão trôi qua .”
Yann và Pauline làm chứng: “Với Chúa Giêsu, mối quan hệ của chúng tôi sống động”, hai lời chứng xinh đẹp, cảm động, tài năng và hiếm có. Trước khi từ giã hai người, chúng tôi có câu hỏi cuối cùng. Ở nơi nào họ tìm thấy sức mạnh và niềm vui sống lây lan như vậy? Hai người cùng có một câu trả lời: “Chúa Giêsu”.
Marta An Nguyễn dịch
2020
Chủng sinh Stéphane de Spéville: Tông đồ của sự sống
Chủng sinh Stéphane de Spéville sinh ngày 15 tháng 1 năm 1990 ở Đảo Maurice sẽ được Đức Tổng Giám mục giáo phận Paris Michel Aupetit phong chức vào ngày thứ bảy 27 tháng 6 lúc 9h30 tại nhà thờ St-Sulpice, Paris và sẽ cử hành thánh lễ mở tay ngày 28 tháng 6 tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp quận 11 lúc 10h30.
Câu khẩu hiệu linh mục: “Nhờ máu Đức Giêsu đã đổ ra, chúng ta được mạnh dạn bước vào cung thánh. Người đã mở cho chúng ta một con đường mới và sống động qua chính thân xác của Người” (Dt 10,19).
Sinh tại Đảo Maurice, năm nay Stéphane 30 tuổi là con út của một gia đình có ba người con. Anh đến Pháp năm 2008 để học kiến trúc. Trong những năm này, chương trình đào tạo Even và đời sống giáo xứ Saint-Germain des Prés đã góp phần phát triển đức tin của anh. Dần dần anh cảm thấy mình gắn bó với Giáo hội ở Paris. Năm 2011, trong Ngày Thế Giới Trẻ ở Madrid, anh nghe tiếng gọi chức thánh nhờ một cô bạn hỏi anh: “Có bao giờ bạn nghĩ bạn sẽ vào Chủng viện không?” Sau đó niềm vui khám phá Tin Mừng và đi thăm người lớn tuổi đã khẳng định cho tiếng gọi này; năm 2013 anh vào Học viện Thánh Âugutinô và tiếp theo là Chủng viện Paris. Trước hết anh được các giáo xứ Saint-Denys, quận 3 và giáo xứ Đức Mẹ Batignolles quận 17 đón nhận, năm nay anh làm phó tế ở nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp quận 11.
Ở anh Stéphane de Spéville toát một nét dịu hiền và nhân hậu. Ánh nhìn của anh trong sáng làm người khác tin tưởng. Đôi mắt xanh, nụ cười thẳng thắn, dáng dấp cao nhưng không làm người khác ngại. Người đối diện hiểu ngay cảm nhận này xuất phát từ một nội tâm sâu đậm.
Năm 2007, khi anh 18 tuổi, Stéphane đã mất người chị trong hoàn cảnh bi đát. Sau ba năm bị bệnh tâm thần, chị tự tử. Cái chết này như “đánh động đến tận thân xác anh”, nhưng nó cũng là một kinh nghiệm Sống lại với anh. Anh cho biết: “Như thử cái chết của chị tôi cho tôi thấy được chị tôi như thế nào trước khi bị bệnh .”
Một năm sau anh về Paris để học kiến trúc. Một giấc mơ tuổi thơ được thực hiện. Các bạn người đảo Maurice nhanh chóng đưa anh tới nhà thờ St-Germain des Prés ở quận 6. Cú sét ái tình. Anh giải thích: “Nơi này trở thành căn nhà gia đình của tôi .” Tại đây anh theo chương trình Even (Lời mới và vĩnh cữu) và năm 2011 anh đi dự Ngày Thế Giới Trẻ ở Madrid, Tây Ban Nha. Ở đây một trong các cô bạn hỏi anh: “Có khi nào bạn nghĩ bạn sẽ vào Chủng viện không?” Anh kể: “Tôi chưa bao giờ nghĩ đến, nhưng có vẻ cũng có thể được .” Khi về lại Paris, câu hỏi này lởn vởn trong đầu anh. Nhưng anh đang yêu, tình yêu một chiều. Và tiếng gọi của Chúa nắm lấy anh, anh cười: “Tôi hiểu tình yêu mà tôi yêu cô gái ấy, tôi có thể cho mọi người .” Ba yếu tố đã giúp anh phân định: khám phá, khi năm thứ ba ở chương trình Even, anh khám phá Tin Mừng, lời cực mạnh và sống động của Chúa; khám phá lời của Giáo hội qua các sinh hoạt đa dạng ở giáo xứ St-Germain và những lần đi sứ vụ rao giảng Tin Mừng ở khu phố Pigalle quận 9; và cuối cùng là phục vụ người lớn tuổi ở bệnh viện Ste-Périne quận 16 trong năm thứ tư của chương trình Even.
Năm 2013 anh học xong. Tháng 9 anh vào Học viện Thánh Âugutinô, sau đó là vào Chủng viện. Ở giáo xứ St-Denys anh tháp tùng các em nhỏ và các em tuổi vị thành niên trong chương trình khơi dậy đức tin hoặc giúp lễ. Ở giáo xứ Đức Mẹ Maria Batignolles quận 17 anh vào ban tuyên úy giúp các học sinh và dạy giáo lý.
Anh phục vụ ở giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp trong năm phó tế, giúp chuẩn bị rửa tội. Lần đầu tiên anh cử hành các tang lễ. Giây phút rất sâu đậm với anh, “tôi thật sự cảm nhận và hiểu Chúa hiện diện, Ngài cùng đi với người quá cố tận bên kia cái chết .” Cảm nhận anh nhớ khi phục vụ ở Nhà chăm sóc người lớn tuổi Jeanne-Garnier. Anh giải thích: “Tháp tùng những người ở cuối đời mang đến cho tôi một niềm vui sâu đậm và đơn sơ. Vai trò của người tín hữu kitô chúng ta là đưa họ vào hy vọng kitô khi đứng trước cái chết .” Còn vai trò người linh mục? Anh cười: “Tôi để Chúa hướng dẫn tôi. Và để dân của Ngài hướng dẫn tôi. Chính qua các mối tương quan với tín hữu mà tôi trở thành linh mục. Đây không phải là một địa vị mà mình tạo ra .”
Giáo phận Paris làm tuần cửu nhật cầu nguyện cho các chủng sinh từ ngày 19 đến ngày 27 tháng 6. Ngày thứ tư 24 tháng 6 là ngày cầu nguyện cho chủng sinh Stéphane de Spéville, cùng hiệp thông với giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp quận 11.
Marta An Nguyễn dịch
2020
Con gái của Martin Luther King, bà Bernice Albertine bày tỏ rằng: Ðức Thánh Cha và cha tôi hợp nhất trong cùng một giấc mơ.
Con gái của Martin Luther King, bà Bernice Albertine bày tỏ rằng: Ðức Thánh Cha và cha tôi hợp nhất trong cùng một giấc mơ.
Ngay sau Freedom Day – Ngày Tự Do – được những người Mỹ gốc Phi cử hành với một cảm xúc đặc biệt sau vụ giết George Floyd, bà Bernice Albertine, con gái của Martin Luther King đã bày tỏ với truyền thông Vatican về cuộc chiến bất bạo động đòi quyền bình đẳng và nhấn mạnh sự hòa hợp đặc biệt giữa Ðức Thánh Cha và cha bà.
Hôm thứ Sáu 19 tháng 6 năm 2020 cộng đồng người Mỹ gốc Phi đã cử hành Juneteenth, ngày gợi lại kết thúc chế độ nô lệ 19 tháng 6 năm 1865, khi những người lính của Liên minh đến Galveston ở Texas và tuyên bố chấm dứt Nội chiến. Ðối với hàng triệu người Mỹ da đen, lễ kỷ niệm này được nhìn nhận như là Freedom Day-Ngày Tự do. Năm nay, lễ kỷ niệm diễn ra trong một bầu khí đặc biệt do các cuộc biểu tình ngày càng tăng, nguyên nhân do vụ sát hại dã man George Floyd, người Mỹ gốc Phi của một sĩ quan cảnh sát.
Nhân dịp này, Báo Quan sát viên Roma và Vatican News đã phỏng vấn bà Bernice Albertine King, con gái của Martin Luther King, liên quan đến những cống hiến của bà cho bình đẳng, văn hóa hòa bình và giá trị của bất bạo động. Bà Bernice Albertine là một Nhà hoạt động nhân quyền đam mê như cha bà và là chủ tịch của King Cente ở Atlanta. Bà nói: “Tôi nhận thấy sự hòa hợp tuyệt vời giữa Martin Luther King và Ðức Thánh Cha Phanxicô”.
Sau đây là nội dung của cuộc phỏng vấn:
– Không chỉ Hoa Kỳ, cả thế giới đều đều bị sốc trước cái chết của George Floyd. Bà có nghĩ rằng, sau nhiều cái chết của những người Mỹ gốc Phi, cuối cùng, lần này sẽ có một thay đổi?
+ Tôi nghĩ rằng thế giới đã quá căng thẳng vì đại dịch Covid-19 và vì vậy đoạn video George Floyd bị sát hại một cách tàn nhẫn đã trở thành một lời buộc tội thực sự đối với Mỹ và thế giới. Như cha tôi đã nói, dường như hàng triệu người trên khắp thế giới đã nhận ra rằng “chúng ta đang phải đối phó với sự cấp bách dữ dội của bây giờ”. Các cơ quan thực thi pháp luật, các tổ chức và hiệp hội có nguồn gốc tôn giáo hướng đến các nhà lãnh đạo da đen yêu cầu trả lời cho câu hỏi “Tôi phải làm gì để được cứu ?”. Một số hiệp hội cung cấp nguồn lực to lớn cho các tổ chức có hoạt động đang tập trung vào công bằng xã hội và bình đẳng chủng tộc. Các tổ chức khác đang tự hỏi làm thế nào để tạo ra một bầu khí văn hóa đưa đến sự bình đẳng chủng tộc thực sự, từ cấp quản lý đến các công ty ủng hộ việc làm của người thiểu số. Nhiều cơ quan thực thi pháp luật đang xem xét chính sách của họ; một số đã bắt đầu suy nghĩ lại về cách thức tham gia vào cộng đồng. Tôi tin rằng lần này các phản ứng và các câu trả lời sẽ lan rộng và say mê hơn. Thực vậy, lần này có nhiều người da trắng tham gia các cuộc biểu tình, điều này chưa bao giờ có. Nếu chúng ta đoàn kết hơn và tập trung chú ý vào các mục tiêu chiến lược, chắc chắn chúng ta sẽ có nhiều hiệu quả hơn cho sự nghiệp công lý.
– Ngoài phân biệt chủng tộc “rõ ràng” được nhận thấy trong những tình huống bi thảm như thế này, còn có một hình thức “phân biệt chủng tộc khác không tạo ra tin tức: phân biệt chủng tộc trong việc làm, trong giáo dục, trong điều kiện sống. Tại Hoa Kỳ, Covid-19 đã ảnh hưởng đến cộng đồng người Mỹ gốc Phi nhiều hơn so với cộng đồng da trắng. Làm thế nào chúng ta có thể đánh bại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc “vô hình” này?
+ Trước hết, tôi muốn nói rằng việc từ chối nhìn của mọi người làm cho phân biệt chủng tộc, một sự phận biệt có hệ thống và thể chế dường như là vô hình, không thấy được. Trái lại, chúng ta càng muốn nhìn thấy và càng muốn thay đổi, thì bản chất hủy diệt và phi nhân hóa của phân biệt chủng tộc sẽ thấy rõ ràng. Tôi tin rằng bước đầu tiên để đánh bại được điều này là phải từ chối nhắm mắt làm nhơ, và phải thu thập tin tức về chủ đề này và biết rõ nguồn gốc của nó, nguyên nhân và biểu hiện của phân biệt chủng tộc. Thông tin và đào tạo là bước đầu tiên và thứ hai của Thay đổi xã hội bất bạo động. Sau đó, tôi nghĩ chúng ta phải dấn thân cam kết thực hiện những gì cha tôi mô tả như là nhiệm vụ nặng nề của chúng ta trong cuốn sách của ông “Where Do We Go From Here: Chaos or Community?- Từ đây chúng ta sẽ đi về đâu: Sự hỗn loạn hay Cộng đồng”. Ông nói rằng chúng ta phải khám phá cách tổ chức sức mạnh của chúng ta thành sức mạnh thuyết phục, để chính phủ và các tổ chức và hệ thống quyền lực khác không thể lẩn tránh yêu cầu của chúng ta.
– Năm mươi bảy năm trước, cha của bà đã có bài phát biểu lịch sử “I have a dream -Tôi có một giấc mơ”. Giấc mơ này dường như vẫn chưa được thực hiện, nhưng mọi người đều nói rằng giấc mơ này không thể từ bỏ. Theo bà, cha của bà sẽ làm gì hôm nay trong tình huống như chúng ta đang trải qua?
+ Tôi tin rằng cha tôi được hướng dẫn bởi triết lý bất bạo động của ông, phù hợp với việc theo Chúa Kitô của ông. Tôi nghĩ ông sẽ nhắc nhở chúng ta về cách chúng ta đã đến vào thời điểm này và về lịch sử bạo lực, phân biệt chủng tộc và sự bất công tràn ngập khắp đất nước và như những gì ông gọi là “Ngôi nhà Thế giới”. Ðiều thứ hai ông sẽ làm là đến bên cạnh những người trẻ để hỗ trợ họ trong các cuộc biểu tình. Sự hỗ trợ được thực hiện với chiến lược tổ chức và huy động để thúc đẩy thay đổi xã hội bền vững và bất bạo động. Sau đó, ông sẽ yêu cầu “những người có ảnh hưởng” trong các lĩnh vực chính trị, nghệ thuật, truyền thông, giải trí, hệ thống tư pháp hình sự, chăm sóc sức khỏe và giáo dục để đảm bảo sự bình đẳng và công bằng giữa các chủng tộc. Ông cũng sẽ yêu cầu các Giáo hội tuân thủ việc tuyên xưng đức tin với các hoạt động tạo ra hoàn cảnh công bằng và hợp lý cho người da màu, cho các cộng đồng bị thiệt thòi về kinh tế, không chỉ ở Hoa Kỳ, mà trên toàn thế giới. Và ông sẽ làm như đã thực hiện nhiều lần trong cuộc đời ông, sẽ lặp đi lặp lại rằng bạo lực không thể chữa lành bằng bạo lực. Tất nhiên tôi tin rằng, ông sẽ thúc giục chúng ta phải ôm lấy bất bạo động, bởi vì đó là chiến lược, can đảm, tập trung vào tình thương và có tổ chức, để xây dựng “Cộng đồng Tình yêu”, bao gồm việc xóa bỏ cái mà ông gọi là “Ba điều ác”: phân biệt chủng tộc, nghèo đói và chủ nghĩa quân phiệt.
– Sau cái chết của George Floyd, Ðức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra một lời kêu gọi mạnh mẽ, nhấn mạnh rằng chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ trước nạn phân biệt chủng tộc. Ðồng thời Ðức Thánh Cha nhắc lại rằng bạo lực chỉ đưa đến tự hủy diệt. Làm thế nào bà đã nhận ra rằng những lời của Ðức Thánh Cha rất đồng điệu với cha của bà?
+ Tôi đồng ý với Ðức Thánh Cha: bạo lực chỉ dẫn đến tự hủy diệt. Các phương tiện chúng ta sử dụng phải phù hợp với mục đích chúng ta muốn đạt được, và nếu mục đích đó là hòa bình, chắc chắn chúng ta không thể đạt được hòa bình bằng các phương pháp bạo lực. Và điều này chắc chắn phù hợp với tư tưởng của cha tôi. Ông tuyên bố và tin tưởng, cũng như tôi tin điều đó rằng “Bất bạo động là câu trả lời cho các vấn đề chính trị và đạo đức luân lý quan trọng của thời đại chúng ta”. Trong bài phát biểu sau cùng “Tôi đã đến Ðỉnh núi”, vào buổi tối trước khi bị ám sát, ông nói: “Không còn là vấn đề lựa chọn giữa bạo động và bất bạo động trong thế giới này; bây giờ đó là sự lựa chọn giữa bất bạo động và không hiện hữu. Hôm nay, chúng ta đã đến điểm này”. Và đây là cùng một điểm chúng ta vẫn còn ở ngày hôm nay. Chúng ta phải đối diện với sự lựa chọn giữa hỗn loạn và cộng đồng. Nếu chúng ta ôm lấy bạo lực, chúng ta sẽ chọn sự hỗn loạn, điều này cuối cùng sẽ dẫn đến việc tự hủy hoại “Ngôi nhà của Thế giới”. Nếu chúng ta ôm lấy bất bạo động, chúng ta sẽ có thể tiến lên trong việc xây dựng một thế giới công bằng, bình đẳng, nhân văn và hòa bình hơn.
– Martin Luther King đã nói: “Hình thức công lý tốt nhất đó là tình yêu sửa chữa bất cứ điều gì chống lại tình yêu”. Ðây là trung tâm của thông điệp về bất bạo động mà cha bà đã thể hiện. Làm thế nào chúng ta có thể xây dựng “cuộc cách mạng dịu dàng”, như Ðức Thánh Cha đã gọi nó?
+ Tôi nghĩ rằng việc xây dựng một “cuộc cách mạng dịu dàng”, như Ðức Thánh Cha Phanxicô đã gọi, hay một “cuộc cách mạng về các giá trị”, như cha tôi nói, tùy thuộc vào mức độ chúng ta nhận ra một cuộc cách mạng như vậy bao hàm một quá trình nhận thức. Chúng ta phải học cách hiểu nhau nhiều hơn, học hỏi lẫn nhau, tìm hiểu thêm về tình trạng của nhân loại, học cách như cha tôi đã nói, “sống với nhau như anh chị em”, và đừng chết cùng nhau như những người mất trí; và học cách dấn thân để tiêu diệt sự bất công và vô nhân đạo, không hủy diệt lẫn nhau. Tôi tin rằng đây là bất bạo động. “Kingian Nonviolence”, cái mà “The King Center” gọi là “Nonviolence365”, là một triết lý về suy nghĩ và hành động, bao gồm sáu nguyên tắc và sáu bước, có thể hướng dẫn chúng ta trong cuộc cách mạng này.
– Phong trào “Black Lives Mattee” có sự tham gia của cả thế giới. Nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, đang phản đối phân biệt chủng tộc ở nhiều thủ đô của Châu Âu, và ở các quốc gia khác. Trong tương lai, bà mong muốn điều gì? Bà có nghĩ rằng tất cả chúng ta sẽ có thể tiến một bước trong thách đố của tình huynh đệ nhân loại không?
+ Tôi tin tưởng rằng chúng ta sẽ có thể khai thác năng lượng của chúng ta để tập trung vào mục tiêu cuối cùng, là xây dựng Cộng đồng Tình thương, đó không phải là một điều không tưởng. Như mẹ tôi, Coretta Scott King, đã nói, Cộng đồng Tình thương là một tầm nhìn thực tế về một xã hội có thể được xây dựng, một xã hội vẫn còn tồn tại những vấn đề và xung đột, nhưng có thể giải quyết một cách hòa bình và không hiềm thù. Trong Cộng đồng Tình thương, sự quan tâm và lòng trắc ẩn hướng dẫn các sáng kiến chính trị hỗ trợ xóa đói nghèo trên toàn thế giới và tất cả các hình thức cố chấp và bạo lực. Nếu đây là mục tiêu chung của chúng ta, một mục tiêu kiên quyết và dứt khoát, thì tôi tin rằng chúng ta có thể đi trên con đường bất bạo động để đạt đến đó. Chúng ta có năng lực và niềm đam mê để làm điều đó. Bây giờ, chúng ta phải đặt tất cả sức mạnh ý chí của chúng ta để xây dựng Cộng đồng Tình thương. Ngọc Yến
2020
Cảm nhận của Đức Giám mục Rudolf Voderholzer, giáo phận Regensburg về chuyến đi của Đức Bênêđictô XVI
Đức Giám mục Rudolf
Sau khi đi thăm anh của ngài, Đức ông Georg Ratzinger bị bệnh ở Regensburg, ngày thứ hai 22 tháng 6 Đức Bênêđictô XVI đã về lại Vatican. Từ khi ngài từ nhiệm năm 2013, đây là lần đầu tiên ngài ra khỏi nước Ý.
Sáng thứ hai 22 tháng 6, Đức Bênêđictô XVI đã rời Munich vào khoảng một giờ chiều, máy bay của không quân Ý đã hạ cánh xuống phi trường Ciampino, Rôma.
Ngày thứ năm 18 tháng 6 vừa qua, ông Matteo Bruni giám đốc Văn phòng báo chí Tòa Thánh cho biết, Đức Bênêđictô XVI sẽ ở lại Đức “chừng nào ngài thấy cần thiết”, ngài nghỉ ở chủng viện Regensburg.
Tại mộ của cha mẹ
Ngày chúa nhật 21 tháng 6 ở Bavaria, ngài đã đến nghĩa trang Ziegetsdorf viếng mộ song thân và chị cả Maria của ngài. Sau đó ngài đến căn nhà ở Penling, vùng ngoại ô Regensburg. Ngài ở lại đây thăm 45 phút, đây là căn nhà chào đón ngài với cương vị là giáo sư thần học ở Đại học thành phố từ năm 1969 đến 1977 trước khi ngài được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục giáo phận Munich và Freising. Căn nhà bây giờ là Viện Bênêđictô nơi lưu giữ di sản thần học của ngài.
Đức Bênêđictô XVI và anh ngài giữ mối quan hệ rất bền chặt
Ngày thứ bảy, Sứ thần Tòa thánh Nikola Eterovic ở Đức đã đến thăm Đức Bênêđictô XVI.
Hai anh em Đức ông Georg Ratzinger và Đức Bênêđictô XVI cách nhau ba tuổi đã chịu chức cùng một ngày, 29 tháng 6 năm 1951 ở nhà thờ chính tòa Freising. Hai ngài giữ mối quan hệ rất mạnh, cụ thể là từ năm 2005, Đức ông Georg Ratzinger đã thăm Đức Bênêđictô XVI rất nhiều lần trong triều giáo hoàng của ngài và cả sau khi ngài từ nhiệm.
Ngày cuối cùng ở Đức, 21 tháng 6, Đức Bênêđictô XVI đã đến thăm nhà thờ chính tòa Regensburg, ngài cầu nguyện trước thánh tích của Thánh Wolfgang, một trong các vị thánh vĩ đại của nước Đức. Nhà thờ chính tòa Regensburg hiện nay vẫn còn đóng cửa.
“Các con chim sẻ của nhà thờ chính tòa Regensburg”
Trong dịp này Sứ thần Nikola Eterovićđã vinh danh Đức Bênêđictô XVI trong bài phát biểu ở nhà thờ chính tòa Regensburg: “Là một vinh dự cho chúng tôi được chào đón Đức Bênêđictô XVI trở lại nước Đức trong hoàn cảnh khó khăn của gia đình .” Ngài cũng cám ơn Giám mục, các cộng tác viên, các giáo dân của thành phố vì “lòng tôn trọng và tình bằng hữu” họ đã dành cho Giáo hoàng danh dự những giây phút làm cho ngài cảm thấy như “ở nhà mình .”
Từ năm 1964 đến 1994, Đức ông Georg Ratzinger là nhạc trưởng của dàn hợp xướng các người giúp lễ của nhà thờ này, các “Các con chim sẻ của nhà thờ chính tòa Regensburg”.
Về phần mình, ông Christian Schaller, giám đốc Viện Bênêđictô, căn nhà mà Đức Bênêđictô XVI đã ở từ năm 1970 đến năm 1977 cho biết: “Tôi cảm nhận chuyến thăm này là nguồn năng lực cho hai anh em các ngài”.
Cảm nhận của Đức Giám mục Rudolf Voderholzer, giáo phận Regensburg về chuyến đi của Đức Bênêđictô XVI
Đức Giám mục Rudolf Voderholzer, giáo phận Regensburg, người tổ chức tiếp đón Đức Bênêđictô XVI khi ngài về thăm anh ngài ở Đức đã có một cuộc họp báo ngắn trong sân giáo phận để tường trình các ngày vừa qua của Đức Bênêđictô XVI.
Ngài nói: “Trong bài giảng ngày chúa nhật, tôi đã nói, Đức Bênêđictô XVI là thần học gia của thế kỷ, là nhà rao giảng vĩ đại nhất của thánh đường Thánh Phêrô từ thời Thánh Lêô Cả và Gregoria Cả .”
Ngài nói tiếp: “Trước sự vĩ đại của thần học gia, năm ngày thăm viếng vừa qua của Đức Bênêđictô XVI cho thấy sự mong manh, già yếu và hữu hạn của ngài. Giọng của ngài yếu, gần như thì thầm và phát âm từng chữ là cả một sự mệt mỏi đối với ngài. Tuy nhiên tư tưởng của ngài hoàn toàn rõ ràng, trí nhớ và khả năng kết hợp của ngài là phi thường. Trong công việc hàng ngày, ngài phải nhờ đến người khác. Cần phải can đảm và khiêm tốn để nhận sự giúp đỡ của người khác và để ra trước công chúng”.
Sự đón tiếp nồng nhiệt của thành phố và của người dân rõ ràng đã thêm sinh lực cho ngài. Giám mục Voderholzer nói thêm: “Chuyến đi này có thể là chuyến đi từ giã quê hương Bavaria của ngài. Các bạn có thể thấy ngài đã vui như thế nào khi nhìn thấy phong cảnh thân thuộc, các con hẻm và nhất là người dân từ trên cửa sổ nhìn xe ngài đi qua. Nếu có thể, ngài sẽ có thể đi xe đạp về quê Pentling của ngài, về thành phố cổ Tegensburg, sẽ ngồi với các bạn trẻ ở quảng trường Bismark, cười với họ và nói chuyện với họ”.
Ngoài khía cạnh lịch sử và thiêng liêng của chuyến đi, Đức Giám mục Voderholzer muốn nhấn mạnh đến khía cạnh nhân bản: “Dưới mắt tôi, chuyến đi của ngài là hành trình nhân bản. Một người với những điều cao cả đã thực hiện, bây giờ là người mong manh, không đề kháng mà sức sống chỉ quy đủ cho điều thiết yếu trên thế gian này. Tôi thật sự rất xúc động với trải nghiệm này”.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch