2020
ĐTC Phanxicô: Lòng biết ơn là đặc điểm của người kitô hữu
“Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”. Điều này có nghĩa là đi theo Chúa thì phải đi theo con đường mà chính Ngài đã đi, không có con đường tắt. Không có tình yêu đích thực nếu không có thập giá, nghĩa là người theo Chúa phải trả giá bằng chính con người mình. Khi thập giá được vác với Chúa Giêsu, thập giá không đáng sợ vì Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta để hỗ trợ chúng ta trong giờ thử thách khó khăn nhất, để cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm.
Hôm Chúa nhật 28/6/2020, vào lúc 12 giờ, từ cửa sổ của Dinh Tông Tòa, Đức Thánh Cha chủ sự buổi đọc Kinh Truyền tin với các tín hữu. Hiện nay, chính phủ Ý đã cho phép mở đường bay với một số nước, vì thế từ Chúa nhật tuần trước tại quảng trường Thánh Phêrô, đã có một số tín hữu hành hương đến từ các nước khác tham dự buổi cầu nguyện và nhận phép lành của Đức Thánh Cha. Chính Đức Thánh Cha cũng đã nhận xét điều này khi ngài thấy có một số cờ của các nước khác hiện diện tại buổi đọc Kinh Truyền Tin.
Trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha có bài giáo lý ngắn dựa theo Tin Mừng của phụng vụ Chúa nhật XIII-Mùa Thường niên (Mt 10, 37-42). Đức Thánh Cha bắt đầu như sau:
“Tin Mừng Chúa nhật hôm nay vang lên lời mời gọi thật mạnh mẽ sống kết hiệp với Chúa cách trọn vẹn và không do dự. Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài thực thi các đòi hỏi của Tin Mừng một cách nghiêm túc ngay cả khi những điều đó đòi phải cố gắng và hy sinh”.
Chúa phải ở vị trí đầu tiên
Đức Thánh Cha giải thích các yêu cầu của Chúa: Đòi hỏi đầu tiên, Chúa Giêsu hướng đến những ai đang theo Ngài. Họ phải đặt tình yêu đối với Ngài lên trên tình cảm gia đình. Chúa nói: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (c. 37). Đương nhiên Chúa Giêsu không có ý đánh giá thấp tình yêu dành cho cha mẹ và con cái, nhưng Ngài biết nếu đặt những mối quan hệ họ hàng ở vị trí đầu tiên, những người theo Chúa có thể sẽ đi chệch khỏi điều tốt lành thực sự. Đức Thánh Cha đưa ra ví dụ về điều này trong trường hợp tham nhũng của các quan chức chính phủ. Họ đặt tình yêu gia đình họ hàng lớn hơn tình yêu quê hương đất nước.
Tình yêu gia đình được tình yêu Chúa thanh tẩy sẽ sinh hoa trái
Ngoài ví dụ trên, theo Đức Thánh Cha, mọi người đều có thể đưa ra nhiều ví dụ khác liên quan đến vấn đề này. Không kể đến những tình huống trong đó tình cảm gia đình xen lẫn với những lựa chọn trái ngược với Tin Mừng. Thay vào đó, khi tình yêu dành cho cha mẹ và con cái được sống động và được thanh tẩy bởi tình yêu Thiên Chúa, thì nó sẽ sinh hoa trái tốt đẹp trong chính gia đình và vượt lên trên cả gia đình.
Theo Chúa không có con đường tắt
Tiếp đến, Đức Thánh Cha giải thích Lời Chúa nói với các môn đệ ở câu 38 của Tin Mừng: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”. “Điều này có nghĩa là đi theo Chúa thì phải đi theo con đường mà chính Ngài đã đi, không có con đường tắt. Không có tình yêu đích thực nếu không có thập giá, nghĩa là người theo Chúa phải trả giá bằng chính con người mình. Khi thập giá được vác với Chúa Giêsu, thập giá không đáng sợ vì Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta để hỗ trợ chúng ta trong giờ thử thách khó khăn nhất, để cho chúng ta sức mạnh và lòng can đảm”.
Nghịch lý của Tin Mừng
Chúa Giêsu cảnh báo: “Ai tìm giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (c. 39). Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Đây là nghịch lý của Tin Mừng. Nhưng dẫu là nghịch lý, tạ ơn Chúa, chúng ta có rất nhiều mẫu gương sống về điều này. Trong những ngày nay, có biết bao người đang vác thập giá để giúp giúp đỡ người khác, họ quên mình để giúp người khác đang thiếu thốn trong đại dịch. Họ làm điều này luôn với Chúa Giêsu. Sự viên mãn của cuộc sống và niềm vui có được bằng cách hiến thân cho Tin Mừng và cho tha nhân với sự cởi mở, tiếp đón và lòng nhân hậu”.
Phần thưởng của một cuộc sống trao ban
Đức Thánh Cha nói đến hoa trái của một cuộc sống vác thập giá theo Chúa: “Khi chúng ta thực hành như thế, chúng ta có thể trải nghiệm được lòng biết ơn và quảng đại của Chúa. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về điều này: ‘Ai tiếp đón anh em là tiếp đón Thầy…Ai cho một trong những kẻ bé mọn này uống, dù chỉ là một chén nước lã thôi…người đó sẽ không mất phần thưởng đâu’ (cc 40-42). Lòng biết ơn và sự quảng của Thiên Chúa tính đến cả những cử chỉ yêu thương và phục vụ nhỏ nhất dành cho tha nhân”.
“Trong những ngày này, tôi đã nghe kể về một em bé đã làm cho một linh mục cảm động. Em đến nhà xứ và nói: ‘Thưa cha, đây là số tiền dành dụm được của con; chỉ một chút. Xin cha dành nó cho người nghèo, cho những ai đang thiếu thốn trong đại dịch này”. Đức Thánh Cha nhận xét: “Một điều nhỏ, nhưng có giá trị rất lớn”.
Lòng biết ơn là đặc điểm của người Kitô hữu
“Đây là thái độ, là một lòng biết ơn lan tỏa, giúp mỗi người chúng ta biết ơn những người quan tâm đến nhu cầu của chúng ta. Khi ai đó ban tặng cho chúng ta điều gì, chúng ta không được nghĩ rằng chúng ta xứng đáng với điều này. Lòng biết ơn, trước hết đó là dấu hiệu của một nền giáo dục tốt, nhưng đó cũng là đặc điểm của người Kitô hữu. Nó đơn giản nhưng là dấu hiệu chân thực của Nước Thiên Chúa – vương quốc của lòng biết ơn và tình yêu nhưng không”.
Đức Thánh Cha kết thúc bài giáo lý với lời nguyện: “Xin Mẹ Maria, Đấng đã yêu mến Chúa Giêsu hơn chính cuộc sống mình và đã theo Ngài đến bên Thánh giá, giúp chúng ta luôn biết đặt mình trước Thiên Chúa với trái tim sẵn sàng, để Lời của Ngài phán xét hành vi và lựa chọn của chúng ta”.
Ngọc Yến – Vatican News
2020
Có 24 cộng tác viên của đền thánh Đức Mẹ Fatima bị dương tính với Covid-19
2020
Đền thánh Đức Mẹ Mễ Du vắng khách hành hương vì đại dịch Covid-19
2020
Người theo đạo Công Giáo ở Việt Nam được gọi là Giáo dân từ khi nào và ai đặt ra cách gọi ấy?
Người theo đạo Công Giáo ở Việt Nam được gọi là Giáo dân từ khi nào và ai đặt ra cách gọi ấy?
Theo sách Khâm định Việt sử, thì từ năm Nguyên Hòa nguyên niên đời vua trang Tông nhà Lê (1533) có người Tây tên là I-nê-khu đi đường bể vào giảng đạo Thiên Chúa ở làng Ninh Cường, làng Quần Anh, thuộc huyện Nam Chân (tức Nam Trực) và
Năm Nhâm Thìn (1712) đời vua Lê Dụ Tông, chúa Trịnh Cương bắt những người theo đạo Công giáo phải cạo trán và khắc vào mặt bốn chữ “học Hoa Lan đạo”. Tại sao gọi đạo Công giáo là đạo Hoa Lan? Hoa Lan tức là Hòa Lan (Hollande/ Netherlands). Người Hòa Lan sang buôn bán ở Đàng Ngoài trước hết cả cho nên mới gọi là đạo Hòa Lan. Vả lúc bấy giờ người dân nước ta không phân biệt được những nước nào, hễ thấy người phương Tây đều gọi là người Hòa Lan.
Sau đó không gọi đạo Hoa Lan mà gọi là đạo Da tô (Chữ “Da” trong Da tô, viết chữ Hán thuộc bộ “Nhĩ” đọc là “Da” chứ không phải “Gia”). Da tô là phiên âm tên Jésus- Đấng sáng lập ra đạo Thiên Chúa- sang tiếng Trung Quốc, cho nên gọi đạo Da tô là vậy. Nước ta trước khi có các giáo sĩ sang truyền đạo Da tô thì “tự xưa đến nay vẫn theo Nho giáo, lấy sự thờ cúng ông cha làm trọng, lấy sự tế tự thần thánh làm phải, mà lệ nước thì lấy sự cúng tế làm một việc rất quan trọng. Đột nhiên thấy nhiều người mình theo đạo Thiên Chúa, bỏ cả các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo đạo mới, bởi vậy cho nên trong Nam ngoài Bắc, vua chúa đều cho đạo ấy là một tà đạo, làm hủy hoại cả cái phong hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm không cho người trong nước theo đạo mới nữa, và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những kẻ không tuân theo chỉ dụ ấy”( Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa Thông tin, tr. 367)
Dân theo đạo Da tô được gọi là ‘tả đạo” hoặc “dửu dân”.
Triều đình nhà Nguyễn gọi những tín đồ đạo Da tô là “tả đạo” hoặc “dửu dân”. Sách Hán văn tân giáo khoa thư lớp đồng ấu do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi soạn, Nha Học chính Đông Pháp xuất bản năm 1930 , cuối trang 12 giải thích “Tả đạo”: “nghĩa là đạo trái. Ta quen gọi đạo Da tô là “tả đạo”. Hán văn tân giáo khoa thư lớp sơ đẳng, trang 33, tác giả giải thích “tả đạo”: “nghĩa là đạo trái, người ta quen gọi đạo Thiên Chúa”.
Dửu dân có nghĩa là dân xấu. Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu giải thích nghĩa chữ “dửu”: cỏ vực, hay mọc trong ruộng lúa làm hại lúa, cho nên cái gì ác hại gọi là dửu. Tục dân tốt gọi là lương, tục dân xấu gọi là dửu. Người xưa có câu: “ Lương dửu bất tề” (Người tốt và người xấu không như nhau).
Dân theo đạo Da tô được gọi là dửu dân, dân không theo đạo Da tô được gọi là lương dân.
Tháng 6 năm Tân Dậu (1861) triều đình nhắc nhở việc phân sáp người theo đạo Da tô: “ …phàm những dân đạo trai gái già trẻ, không cứ đã bỏ đạo hay chưa, đều thích chữ vào mặt, chia ghép đến ở vào xã thôn không có đạo, mà phải quản thúc cho nghiêm. Những tên đầu mục hung ác vẫn nghiêm giam như cũ. Nếu người Tây dương đến nơi, thì đem bọn dân đạo ấy giết cho hết” (Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục, tr.725).
Linh mục Gioakim Đặng Đức Tuấn kể lại việc thích chữ vào mặt : “ Giáo dân lớn nhỏ bắt bừa/ Bắt ra thích tự chẳng chừa gái trai/ Tội chi nào biết hỏi ai/ Xẻ mày, xẻ mặt chịu chai, chịu lỳ”( Lam Giang& Võ Ngọc Nhã, Đặng Đức Tuấn tinh hoa Công giáo ái quốc Việt Nam, Tác giả tự xuất bản, tr.99)
Thích chữ gì vào mặt người theo đạo Da tô: Tả đạo hay Tà đạo? Trong một tấm ảnh xưa, hai chữ được thích trên má trái những người theo đạo Da tô là hai chữ “Tà Đạo”.
Tháng 6 năm Nhâm Tuất (1862): “ lại tha tội cho những dân xấu chưa bỏ đạo ở các hạt, lấy cớ là hòa nghị đã xong nên bỏ lệ cấm đó” (Đại Nam thực lục tập 7, Nxb Giáo dục, tr.780). Linh mục Đặng Đức Tuấn nhắc đến sự kiện bãi bỏ lệnh bắt đạo: “ Mười bảy tháng sáu chỉ ra/ Nam tráng đầu mục thảy tha phản hồi”( Lam Giang& Võ Ngọc Nhã, sđd, tr. 162).
Tuy đã bãi bỏ lệnh bắt đạo, nhưng người theo đạo Da tô vẫn còn bị gọi là tả đạo hoặc dửu dân. Tháng 12 năm Mậu Thìn (dương lịch đã sang năm 1869): “ Giám mục Đông (nguyên ở Hà Nội giảng đạo), Giám mục Hậu, Giám mục Bình[**] đệ đơn đến bộ Lễ đổi 4 chữ “tả đạo”, “dửu dân”. Bộ Lễ cho là triều đình thương dân như một, vốn không có phân biệt phàm kính làm sổ sách, hoặc khi có giấy tờ, cho đổi viết là dân đạo, dùng để cho nhớ mà thôi. Vua y cho” (Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, tr.1149).
Dân đạo gọi là “Giáo dân”, dân lương gọi là “Bình dân”
Tháng 10 năm Giáp Tuất (1874) “ Chuẩn cho dân đi đạo đổi gọi là giáo dân, dân đi lương đổi gọi là bình dân. (Từ trước đến nay dân theo đạo, hoặc gọi là dửu dân, hoặc gọi là tả đạo, từ khi bỏ cấm, bỏ các chữ dửu, chữ tả chỉ gọi đơn giản bằng chữ đạo. Gần đây cứ lời Khâm sứ đóng ở Kinh nói rằng: lương, đạo đều gọi, chưa khỏi sỉ nhục giáo ấy. Đã chuẩn cho quan ở nha Thương bạc đem nghĩa hai chữ ấy trả lời, nói: Lương là an thường thủ phận, không làm gian ác; Đạo là khuyên người làm lành, không làm bất chính. Hai chữ đối nhau, văn nghĩa giống nhau, lại tốt xấu gì, đạo gọi là đạo mà lương không gọi là lương thì gọi là gì? Rồi sứ ấy đã biết chữ lương không để bỏ được, lại yêu cầu phàm những người theo giáo ấy gọi là nghĩa dân, đức dân, quan ở nha Thương bạc cho là sứ ấy đã nói nhiều như thế, xin gọi là giáo dân. Vua y cho, nhân chuẩn cho dân lương cũng đổi gọi là bình dân)” (Đại Nam thực lục tập 8, Nxb Giáo dục, tr.75)
Năm 1885 phong trào Sát Tả bình Tây nổi lên cả dân đạo lẫn dân lương đều bị tàn phá: “ Đạo dân đã hết cửa nhà/ Bình dân nay đã cháy ra tro tàn”( Lam Giang& Võ Ngọc Nhã, sđd, tr.537).
Tuy đã được quy định dân đạo gọi là “Giáo dân”, dân lương gọi là “Bình dân” nhưng người dân vẫn quen miệng gọi người theo đạo Da tô là “Tả đạo”. Trong bài hát giặm sáng tác sau năm 1885, nói về cuộc khởi nghĩa của Lê Ninh được phổ biến, lưu truyền rộng rãi trong dân chúng Nghệ Tĩnh: “Lương dân và tả đạo/Đường buôn bán thông hành/ Vô hà sự tương tranh…”; “ Bên giáo với lương dân/ Giai quốc gia xích tử/ Giai triều đình xích tử”( Lam Giang& Võ Ngọc Nhã, sđd, tr. 450)
Thuật ngữ “ Đạo dân/ Giáo dân” để chỉ người Công giáo; “ Lương dân/ Bình dân” để chỉ người không Công giáo đều không chuẩn. Bởi vì ở Việt Nam không chỉ có đạo Công giáo mà còn có đạo Phật, Cao Đài, Hòa Hảo…Do đó khi nói “đạo dân”, “giáo dân” thì phải nói đạo nào, giáo nào. Hơn nữa “ lương dân” là dân tốt, “ bình dân” là dân thường thì ở đâu cũng có. Tuy nhiên thuật ngữ chỉ là một quy ước về ngôn ngữ. Theo một quy ước bất thành văn nào đó, người ta vẫn gọi người theo đạo Công giáo và không Công giáo bằng hai từ “ Giáo- Lương”: “Đoàn kết Lương- Giáo”.
Nguyễn Văn Nghệ
Giáo xứ Cây Vông- Nha Trang
Chú thích:
[*] Làng Ninh Cường nay thuộc xã Trực Phú, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định; Làng Quần Anh nay thuộc xã Hải Minh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; Làng Trà Lũ nay thuộc xã Giao An, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định
[**] Giám mục Đông tên là Pierre Jean Marie Gendreau. Vào thời điểm năm 1869, Giám mục Đông mới là Linh mục mà thôi. Linh mục Gendreau Đông được tấn phong Giám mục vào ngày 16.10.1887, coi sóc Giáo phận Tây Đàng Ngoài (Giáo phận Hà Nội); Giám mục Hậu tên là Jean Denis Gautier coi sóc Giáo phận Nam Đàng Ngoài ( Giáo phận Vinh); Giám mục Bình tên là Joseph Hyacinthe Sohier coi sóc Giáo phận Bắc Đàng Trong (Giáo phận Huế).