2020
Phúc trình của Caritas quốc tế
Phúc trình của Caritas quốc tế
Hôm 16/7/2020 vừa qua, Tổ chức Caritas quốc tế đã công bố phúc trình thường niên 2019, trong cuộc họp báo trực tuyến, trình bày hoạt động nổi bật của 162 tổ chức Caritas quốc gia, thành viên của Caritas quốc tế, trong đó cũng có Caritas Việt Nam, trong việc phục vụ những người nghèo khổ nhất.
Đức Thánh cha Phanxicô và Đức Hồng y Antonio Luis Tagle | Credit: Vatican Media via CNS
Các hoạt động của các cơ quan bác ái Công giáo này nhắm đáp lại các cuộc khủng hoảng nhân đạo tại các nơi trên thế giới, mang lại tiếng nói cho những người nghèo nhất: từ cuồng phong Idai thổi qua miền nam Phi châu cho đến dịch Ebola ở Cộng hòa dân chủ Congo: động viên và gây ý thức cho sáu triệu người về các phương thức phòng ngừa Ebola virus. Phúc trình cũng nói đến cuộc khủng hoảng người tị nạn Rohingya ở Bangladesh, hoặc những cuộc khủng hoảng dài hạn như ở Venezuela và Gaza.
Phúc trình Caritas 2019 đã được ông tổng thư ký Caritas quốc tế, Aloysius John, người Pháp gốc Ấn độ, trình bày. Ông đặc biệt lưu ý về hai cuộc khủng hoảng quan trọng đang đòi được đối phó tức khắc và quyết liệt từ phía tất cả mọi người thiện chí, các vị lãnh đạo cũng như mọi thành phần của gia đình nhân loại: Trước tiên là tình trạng nợ nần của các nước nghèo nhất – những món nợ này nhiều khi phải trả bằng mồ hôi nước mắt của những người nghèo nhất tại các nước ấy. Tiếp kiến là các biện pháp cấm vận kinh tế tại Trung Đông, đặc biệt là Liban, Siria và các nước láng giềng.
Đức Hồng y Antonio Luis Tagle, người Philippines, trong tư cách là Chủ tịch Caritas quốc tế, đặc biệt lưu ý về tình trạng các nước nghèo nhất nợ nần các nước giàu. Ngài nói: “Những người dân thường và người nghèo là nạn nhân của các vụ cấm vận kinh tế”. Cũng vậy, tình trạng chiến tranh và bạo lực trên giới đang cản trở việc thực thi công bằng xã hội.
Trong cuộc họp báo, Đức Hồng y Tagle cũng kêu gọi chuẩn bị đối phó với “Những hậu quả thê thảm của đại dịch Covid-19 với nguy cơ hàng triệu người sẽ chết vì đói”. (Sir 17-7-2020) Trần Đức Anh, O.P.
2020
Tóm tắt Huấn thị của Bộ Giáo sĩ về việc cải cách giáo xứ và tái cơ cấu giáo phận
Tóm tắt Huấn thị của Bộ Giáo sĩ về việc cải cách giáo xứ và tái cơ cấu giáo phận
Huấn thị của Bộ Giáo sĩ đề ra các dự án khác nhau để cải cách giáo xứ giữa tình trạng thiếu ơn gọi và canh tân sự dấn thân của giáo dân trong việc loan báo Tin Mừng.
Ngày 20/07/2020, Bộ Giáo sĩ đã ban hành Huấn thị về việc “hoán cải mục vụ của cộng đồng giáo xứ để phục vụ cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội”. Huấn thị này đã được Đức Thánh Cha Phanxicô phê chuẩn vào ngày 27/06 và được Bộ Giáo sĩ ký ngày 29/06. Huấn thị mở rộng các hướng dẫn trước đây về giáo xứ, bắt đầu bằng tài liệu Ecclesia de mysterio (1997) và Linh mục, mục tử và người hướng dẫn của cộng đoàn (2002).
Huấn thị mới không đưa ra bất kỳ luật mới nào nhưng đưa ra những cách thức để áp dụng các quy tắc giáo luật hiện hành cho có hiệu năng hơn, với mục đích cổ võ sự đồng trách nhiệm của những người đã lãnh nhận Bí tích rửa tội và thúc đẩy việc chăm sóc mục vụ dựa trên sự gần gũi và hợp tác giữa các giáo xứ.
Nguyên tắc chính yếu của Huấn thị là Giáo hội có chỗ cho mọi người, trong khi tôn trọng ơn gọi của mỗi người.
Điều nổi bật nhất trong Huấn thị là sự khẩn thiết canh tân truyền giáo, một sự hoán cải mục vụ để có thể tái khám phá ra sự năng động và sáng tạo giúp giáo xứ luôn luôn “đi ra”, với sự hỗ trợ và đóng góp của tất cả mọi người đã được rửa tội.
Giáo hội: Ngôi nhà giữa các ngôi nhà
Trong phần thứ nhất, từ chương 1-6, Huấn thị suy tư về việc đổi mới mục vụ, tiếp cận truyền giáo và các giá trị của giáo xứ trong bối cảnh đương đại. Huấn thị mô tả giáo xứ là “một ngôi nhà giữa nhiều ngôi nhà” khi là dấu chỉ trường tồn của Đấng Phục Sinh ở giữa Dân Người và bản chất truyền giáo của nó là nền tảng cho việc truyền giáo. Toàn cầu hóa và thế giới kỹ thuật số đã làm thay đổi sự liên kết cụ thể của nó về lãnh thổ mà nó bao trùm. Do đó, giáo xứ không còn là một không gian địa lý, mà là một không gian hiện hữu. Chính trong bối cảnh này, “tính linh hoạt” của giáo xứ xuất hiện, cho phép nó đáp ứng những yêu sách của thời đại và thích nghi việc mục vụ với các tín hữu và với lịch sử.
Canh tân truyền giáo
Do đó, Huấn thị nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc canh tân sứ mệnh truyền giáo trong các cấu trúc của giáo xứ: tránh xa sự tự quy chiếu và loại bỏ sự giáo sĩ hóa, phải nhắm đến sự linh động thiêng liêng và cuộc hoán cải mục vụ dựa trên việc loan báo Lời Chúa, đời sống bí tích và chứng tá bác ái.
“Văn hóa gặp gỡ” phải là bối cảnh thiết yếu cho việc đối thoại, đoàn kết và cởi mở đón nhận mọi người. Theo cách này, các cộng đồng giáo xứ có thể phát triển một “nghệ thuật đồng hành” thực sự. Đặc biệt, Huấn thị khuyến khích trở nên chứng nhân về đức tin trong đức ái và nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc chăm sóc người nghèo mà giáo xứ loan báo Tin Mừng và được rao giảng Tin Mừng bởi họ.
Mỗi tín hữu được rửa tội phải là một nhân tố tích cực trong việc truyền giáo và do đó thay đổi tâm thức và đổi mới nội tâm là điều thiết yếu để thực hiện một cuộc cải cách truyền giáo về mục vụ. Đương nhiên, các quá trình thay đổi này cần phải linh hoạt và tiệm tiến, để mọi dự án được đặt trong bối cảnh thực tế của đời sống cộng đoàn, không nên được áp đặt và không nên “giáo sĩ trị” việc chăm sóc mục vụ.
Những phân chia trong giáo phận
Phần thứ hai của Huấn thị, từ chương 7-11, bắt đầu với việc phân tích vấn đề phân chia giáo xứ. Trước hết, Huấn thị giải thích rằng các giáo xứ cần tuân thủ theo một nguyên tắc chính là sự gần gũi, trong khi xét tới những điểm tương đồng về dân số và những đặc điểm của địa hạt. Tiếp đến, Huấn thị tập trung vào các tiến trình cụ thể liên quan đến việc thành lập, sáp nhập hoặc phân chia các giáo xứ, và về các điều khoản liên quan đến Vicariati Foranei (còn được gọi là hạt), liên kết một số giáo xứ, và các đơn vị mục vụ, qui tụ một số hạt (Vicariati Foranei).
Cha sở: “mục tử” của cộng đoàn
Sau đó, Huấn thị nói đến chủ đề chăm sóc mục vụ của các cộng đoàn giáo xứ, theo cách thông thường và cách ngoại thường. Trước hết, Huấn thị nhấn mạnh vai trò của cha sở là một “mục tử ” của chính cộng đồng. Ngài phục vụ giáo xứ, chứ không phải giáo xứ phục vụ ngài, và ngài chăm sóc toàn bộ các linh hồn. Do đó, cha sở phải là người đã được lãnh nhận chức linh mục; mọi khả năng khác đều bị loại trừ.
Là người quản lý tài sản của giáo xứ và là đại diện pháp lý của giáo xứ, cha sở được bổ nhiệm vô hạn định, vì lợi ích của linh hồn đòi có sự ổn định cũng như những hiểu biết về cộng đoàn và sự gần gũi. Tuy nhiên, Huấn thị cũng nhắc nhở rằng, những nơi Hội đồng giám mục đã ấn định bằng văn bản, một Giám mục có thể bổ nhiệm một linh mục chính xứ cho một thời gian cố định, với điều kiện là không ít hơn 5 năm.
Khi đến tuổi 75, cha sở có “nghĩa vụ luân lý” làm đơn từ chức; nhưng việc từ chức chỉ bắt đầu khi được Đức Giám Mục chấp thuận và thông báo chấp thuận bằng văn bản. Trong mọi trường hợp, sự chấp nhận luôn có “nguyên nhân chính đáng và tương xứng” để tránh ý niệm “duy chức năng” của thừa tác vụ.
Các phó tế: các thừa tác viên được phong chức, không phải là người ‘nửa linh mục nửa giáo dân’
Một phần lớn của chương thứ tám dành riêng nói về các phó tế. Họ là cộng sự viên của Giám mục và của các linh mục trong sứ mạng truyền giảng Tin Mừng. Họ được thụ phong chức phó tế và tham dự vào Bí tích Truyền chức, đặc biệt trong lĩnh vực truyền giáo và bác ái, bao gồm việc quản trị tài sản, loan báo Tin Mừng và phục vụ tại bàn tiệc Thánh Thể. Trích dẫn lời của Đức Thánh Cha Phanxicô nói rằng ơn gọi của các phó tế không được nhìn dưới lăng kính duy giáo sĩ hay duy chức năng, Huấn thị khẳng định rằng các phó tế không được xem là “nửa linh mục nửa giáo dân”.
Chứng tá của những người thánh hiến và sự dấn thân quảng đại của giáo dân
Bộ Giáo sĩ cũng suy tư về các tu sĩ nam nữ, cũng như giáo dân, trong các cộng đồng giáo xứ. Trước hết, về các tu sĩ nam nữ, Huấn thị nhắc rằng họ đóng góp trên hết nhờ bản chất của họ, là “chứng tá của việc theo Chúa Kitô cách triệt để”. Về các giáo dân, Huấn thị nhắc rằng họ tham gia vào hoạt động loan báo Tin Mừng của Giáo hội. Họ được mời gọi “dấn thân cách quảng đại” qua cuộc sống hàng ngày theo Tin Mừng, trong khi phục vụ cộng đồng giáo xứ.
Các giáo dân có thể là các thừa tác “Đọc sách và Giúp lễ” trong việc phục vụ Bàn thánh và các công tác được trao phó. Họ hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội công Giáo, được huấn luyện đầy đủ và có một đời sống cá nhân mẫu mực. Ngoài ra, trong những hoàn cảnh đặc biệt, họ có thể nhận được các nhiệm vụ khác từ Đức Giám Mục, “theo phán quyết thận trọng của ngài”, như việc cử hành Phụng vụ Lời Chúa và các nghi thức an táng, cử hành Bí tích Thanh tẩy, hướng dẫn chuẩn bị hôn nhân – và với phép của Tòa Thánh – họ có thể giảng trong Nhà thờ hoặc nhà nguyện trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, giáo dân không được giảng trong các Thánh lễ.
Các cơ quan đồng trách nhiệm trong Giáo hội
Hội đồng Tài chính
Huấn thị cũng suy tư về các cơ quan của giáo xứ có đồng trách nhiệm trong Giáo hội, trong đó có Hội đồng Tài chính Giáo xứ, với chức năng tư vấn, do cha sở chủ trì, và có ít nhất là ba thành viên. Cơ quan này cần thiết vì điều hành tài sản của giáo xứ là một lãnh vực quan trọng của việc loan báo Tin Mừng và chứng tá Tin Mừng, cả trong Giáo hội và xã hội dân sự.
Bộ Giáo sĩ xác quyết: Tất cả tài sản thuộc về giáo xứ, chứ không thuộc về cha sở. Do đó, nhiệm vụ của Hội đồng Tài chính Giáo xứ sẽ thúc đẩy một “văn hóa đồng trách nhiệm, minh bạch hành chính và phục vụ cho các nhu cầu của Giáo hội.”
Hội đồng Mục vụ
Hội đồng Mục vụ Giáo xứ cũng đóng vai trò cố vấn, và rất được khuyến khích. Hội đồng Mục vụ không phải là một cơ quan công quyền quan liêu; ngược lại nó phải kiến tạo tinh thần hiệp thông, đề cao tính trung tâm của Dân Chúa như chủ thể tích cực của việc loan báo Tin Mừng. Chức năng trung tâm của Hội đồng này là tìm kiếm và nghiên cứu các đề nghị thực hành cho các sáng kiến mục vụ và bác ái của giáo xứ, hài hòa với chương trình của giáo phận. Tất cả các đề xuất phải được sự chấp thuận của cha xứ trước khi được mang ra thi hành.
Các Bí tích được ban nhưng không; dâng cúng là việc tự nguyện
Chương cuối tập trung vào việc dâng cúng cho các cử hành bí tích. Việc dâng cúng này là một hành động tự do và không được xem như một thứ tiền công hay thuế má. Huấn thị khuyến nghị: Đời sống bí tích không nên “mặc cả” và việc cử hành Thánh lễ, giống như các việc mục vụ khác, không thể bị áp giá cả, thương lượng hoặc buôn bán. Thay vào đó, các linh mục được khuyến khích là gương mẫu đạo đức trong việc sử dụng tiền, thông qua lối sống điều độ và quản lý minh bạch tài sản của giáo xứ. Bằng cách này, các ngài sẽ có thể giúp các tín hữu ý thức để họ sẵn sàng đóng góp cho nhu cầu của giáo xứ cũng là “chuyện của họ”.
Các tài liệu trước đây
Huấn thị mới này ra đời sau Huấn thị được liên Thánh bộ ban hành năm 1997, “Ecclesia de mysterio, về các vấn đề liên quan đến sự cộng tác của tín hữu với cha xứ” và Huấn thị của Bộ Giáo sĩ ban hành năm 2002, đề cập đến “Linh mục chính xứ và cộng đoàn giáo xứ.” Hồng Thủy
Nguồn: vaticannews.va/vi
2020
Tản mạn về Thư Chung 1980 của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam
Tản mạn về Thư Chung 1980 của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam
Kỷ niệm 40 năm Thư Chung 1980, những nghiên cứu về “thần học bối cảnh” phía sau bức thư đã được tiến sĩ Peter Hải bên Úc trình bày rất tường tận. Các nghiên cứu khác thì nhiều người có khả năng hơn để tham gia.
Tòa soạn báo Công giáo và Dân tộc nhờ tôi viết vài cảm nghĩ “tản mạn” về Thư Chung 1980. Ở nơi quê hương của Chúa, vào cái tuổi mà bạn bè cũ đã về hưu, tôi vẫn chưa đạt mức “bảy nghiệp”, nên vẫn bận rộn. Viết gì sâu xa thì không dám, nhưng viết tản mạn thì một ông lão đã chạm mức trần cao của Thánh vịnh: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi” chịu lắm, chỉ sợ người thời nay không có thời giờ đọc chuyện thời xưa thôi !
Lm Giuse Nguyễn Công Đoan gặp ĐGH Phanxicô trong dịp kỷ niệm 50 năm sống trong dòng Tên, năm 2016 |
Ăn cơm mới nói chuyện cũ
Tôi nói ăn cơm mới, vì đã được biết và đã ăn vài bữa cơm của Ðức TGM Leopoldo Girelli, hiện là Sứ Thần Tòa Thánh bên cạnh Nhà nước Israel, kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và Palestin, do tính phức tạp của vùng đất này. Trước khi nhận nhiệm sở tại đây, ngài là “Ðại diện không thường trú” của Tòa Thánh Vatican tại Việt Nam từ năm 2011-2017.
Hai năm trước, có một đoàn hành hương từ Sapa tới Giêrusalem, xin thăm ngài. Tôi được gọi giúp dịch thư từ bằng tiếng Việt giữa hai bên, rồi trong buổi gặp gỡ thân mật diễn ra ngay tại nhà chúng tôi – vì lúc ấy Tòa Khâm sứ đang sửa chữa, không đủ chỗ tiếp tám chục người. Ðáp lời chào mừng của đoàn, ngài mở đầu : “Khi tôi rời Việt Nam, tôi chỉ xỏ đôi giày mang theo, còn trái tim tôi để lại ở đó”. Ngài nói rất chân thành và chứng tỏ ngay sau đó : đoàn chỉ xin thăm, đến khi thăm rồi thì xin ngài chủ sự thánh lễ. Ngài hỏi tôi : “Sáng nay tôi dâng lễ rồi thì sao?”. Tôi trình với ngài : “Ðây là ngoại lệ, không có lần thứ hai cho người hành hương và cho ngài đâu!”. Ngài vui vẻ đi mặc áo lễ. Tôi đồng tế bên cạnh. Cảnh “mẹ gà con vịt”. Ngài mở đầu bằng tiếng Việt : “Nhân danh Cha…, Bình an của Chúa ở cùng anh chị em…”. Sau đó thì tôi đọc tiếp bằng tiếng Việt. Ngài giảng bằng tiếng Ý, tôi dịch. Ðến kinh Tiền Tụng và Kinh Nguyện Thánh Thể cũng vậy… Trái tim ngài vẫn còn ở Việt Nam.
Ăn cơm mới nhớ chuyện cũ, tôi nhớ chứ không có gì để nói, vì lúc đó tôi đi ra miền Trung gõ cửa từng Ðức Giám mục để xin ý kiến về tương lai của Giáo Hoàng Học viện Thánh Piô X, Ðà Lạt do Dòng Tên phụ trách, khi về thì nghe kể lại. Nghe tâm tình của Ðức Khâm sứ ở đây, tôi bỗng cúi mặt bùi ngùi, nhớ lại Vị Khâm sứ cuối cùng tại Việt Nam, Ðức cha Henri Lemaitre, rời đi năm 1975, ôm theo một trái tim đầy khắc khoải và chiếc áo dòng bị kéo đứt nút làm kỷ niệm.
Bốn mươi lăm năm qua đi giữa Ðức Khâm sứ cuối cùng và vị Ðại diện không thường trú đầu tiên, đánh dấu hai giai đoạn lịch sử thật trái ngược. Giữa những biến chuyển toàn cầu, đường lối Tin Mừng của Hội đồng Giám mục Việt Nam được phát biểu trong Thư Chung năm 1980 và được toàn thể Hội Thánh kiên trì thực thi, đã chuyển nối giữa hai câu chuyện trong tương quan giữa Hội Thánh và chính quyền, giữa Tòa Thánh Vatican với Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Từ Thư Chung 1951 đến Thư Chung 1980
Chuyện tản mạn về Thư Chung 1980 đưa tôi ngược về năm 1951, lúc tôi lên mười. Tôi còn là cậu giúp lễ ở một xứ đạo xa xôi, chuẩn bị vào Tiểu Chủng viện năm 1952, chưa biết gì ngoài chuyện sợ bom đạn, vì chiến tranh đang lên tới đỉnh cao.
Năm 1954, tôi theo chủng viện di cư vào Nam rồi tiếp tục học hành. Ngày 29.4.1975, giữa tuổi “băm…”, tôi mới bắt đầu làm việc. Sau năm 1954, do hoàn cảnh, các giám mục ở miền Bắc gần như hoàn toàn cắt đứt với bên ngoài, nên vẫn sống với Thư Chung 1951.
Từ Ðức Thánh Cha Piô XI đến Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII và Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI
Tư tưởng của loài người tiến triển không ngừng. Thời đại của những khám phá khoa học về mọi lãnh vực từ thế kỷ XVI thúc đẩy sự phát triển tư tưởng ngày càng nhanh. Trong khi đó thì Hội Thánh trước thời Công đồng Vatican II, có thể nói là tự bằng lòng với một khung giáo lý vững vàng, bất di bất dịch, một nền thần học chủ yếu là giải thích các tín điều, một nền triết học chủ yếu kế thừa của Hy Lạp. Triết học này được coi là “nữ tỳ phục vụ thần học”. Những người giảng dạy thần học, triết học chủ yếu là người phương Tây, một số người vốn tự coi là trung tâm của thế giới, coi các dân khác là man-di mọi rợ. Sau thánh Tôma Aquinô thì thần học và triết học được giảng dạy trong Hội Thánh trở thành khung tư tưởng, dường như không có chỗ cho sáng tạo nữa. Kinh Thánh là Lời Chúa, nguồn ánh sáng và sức sống của tín hữu và cả Hội Thánh, đôi khi cũng bị giáng cấp làm một “nữ tỳ phục vụ thần học”. Cuộc cải cách của Luther và nhiều người khác làm cho Sách Thánh trở thành một kho báu phải bảo vệ nhờ hàng rào của tiếng Latinh, thứ ngôn ngữ đã ra khỏi đời sống hằng ngày của người Âu châu.
Nhắc lại những yếu tố này để hiểu sự thay đổi tư tưởng, thái độ của Hội Thánh là kỳ công của Chúa Thánh Thần, để giải phóng Lời Chúa và mở mạch nước ban sự sống của Thiên Chúa cho loài người. Chuyện này đã xảy ra ngay từ thời ban đầu, như sách Công Vụ Tông Ðồ kể cho chúng ta. Chúa Thánh Thần vẫn là Ðấng dẫn dắt Hội Thánh từ bên trong, con người thì luôn có khuynh hướng gây cản trở bằng cách nhốt Thánh Thần lại, hoặc bỏ Thánh Thần để theo “thần lạ”. Nhìn lại những thách đố từ bên trong này, để thấy rõ hơn Công đồng Vatican II quả là một cuộc hiển linh mới của Chúa Thánh Thần, để đưa Hội Thánh vào thiên niên kỷ mới.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, Hội Thánh bắt đầu chuyển mình với Ðức Lêô XIII, rồi Thánh Giáo Hoàng Piô X. Nhưng thái độ lập hàng rào tự vệ trỗi dậy mạnh mẽ với các trào lưu duy lý và thực nghiệm ứng dụng vào suy tư thần học và giải thích Sách Thánh.
Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, vị “Giáo Hoàng chuyển tiếp”
Sau thời lãnh đạo đầy gian truân nhưng sáng chói của vị Giáo Hoàng thông minh tài giỏi Piô XII, các Hồng y họp nhau và thấy cần một vị Giáo Hoàng chuyển tiếp, giải pháp một “Ông Già Chuyển Tiếp” được chọn và Hồng y Roncalli ở tuổi “sắp chạm trần nhà” được bầu lên. Thiên Chúa vẫn giàu óc khôi hài hơn con người, như chúng ta vẫn thấy trong lịch sử mà Sách Thánh kể lại. Thiên Chúa hay dùng những người mà người ta coi thường để làm những việc to lớn. Các ngươi muốn chuyển tiếp hả, Ta sẽ chuyển tiếp theo cách của Ta chứ không phải theo cách của các ngươi.
Ðức Gioan XXIII kể lại rằng ngài chưa bao giờ nghĩ tới triệu tập một Công Ðồng chung, nhưng cứ nghe một tiếng nói bên trong thôi thúc và ngài quyết định theo tiếng nói bên trong ấy, mọi người chung quanh kinh hồn bạt vía khi nghe ngài công bố, vì nghĩ tới công việc chuẩn bị và thời hạn ngài đã đưa ra (năm ấy tôi lên tuổi hai mươi, bắt đầu học tại Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X Ðà Lạt). Lần này quả là Hội Thánh toàn cầu, mọi màu da tiếng nói, hai ngàn giám mục từ 141 nước có mặt. Các Hội Thánh Kitô giáo không hợp nhất với Rôma cũng được mời tham dự trong tư cách quan sát viên.
Các Công Ðồng, từ Giêrusalem đến Vatican I đều lo đối phó với những vấn đề nhất định. Công đồng Vatican II đã dứt khoát chọn hướng đi mới : trở về nguồn để canh tân. Ðối nội thì trình bày giáo lý cách tích cực và đối ngoại thì cởi mở, đối thoại, hợp tác. Hai hiến chế mở ra cái nhìn mới về bản chất và sứ mạng của Hội Thánh, truyền sức sống và năng động mới cho Hội Thánh toàn cầu. Các sắc lệnh và tuyên ngôn khác đặt Hội Thánh của Chúa ở giữa lòng thế giới như một cộng đoàn huynh đệ khiêm tốn, để phục vụ và mở rộng tình huynh đệ mà Chúa Giêsu đem tới cho cả loài người.
Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI, vị Giáo Hoàng chắp cánh bay tới chân trời góc biển
Khóa họp thứ nhất kết thúc, trong khi chuẩn bị khóa II thì “Giáo Hoàng chuyển tiếp” đã hoàn thành sứ mạng đưa Hội Thánh rời bệ phóng để bay tới chân trời mới bằng năng lượng của Thánh Thần. Chúa cho ngài được nghỉ ngơi. Ðức Phaolô VI tuyên bố tiếp tục Công Ðồng như đã dự trù và đã bắt đầu. Công Ðồng hoàn tất việc thảo luận các vấn đề theo kế hoạch và bế mạc.
Từ khi thánh Phêrô di chuyển tới Antiôkhia rồi tới Rôma và bị đóng đinh ở đó, như Chúa Giêsu đã báo trước cho ông biết ông phải chết cách nào (x. Ga 21,19), Ðức Phaolô VI là người kế vị thánh Phêrô đầu tiên hành hương trở về Thánh Ðịa. Và trên núi Ôliu là nơi Chúa Giêsu đã cầu nguyện trong đêm cuối cùng, rồi sau khi Phục Sinh đã lên trời trước mặt các môn đệ, Ðức Phaolô VI đã ôm hôn Thượng phụ Giáo chủ Chính Thống giáo Hy Lạp Athenagoras, như một cử chỉ hòa giải sau khi hai bên (Latinh và Hy Lạp) đã “tuyệt thông” với nhau từ năm 1054. Ðức Phaolô VI cũng là vị giáo hoàng đầu tiên bay tới trụ sở Liên Hiệp Quốc tại New York để phát biểu trước Ðại Hội Ðồng, và là vị giáo hoàng đầu tiên bay tới chân trời phía Ðông để gặp gỡ Hội Thánh vùng châu Á Thái Bình Dương. Về phương diện ngoại giao, ngài cũng mở về phía các nước Ðông Âu.
Từ Giám mục Giám quản Tông tòa đến Giám mục Chánh tòa tại Việt Nam
Tin Mừng đã đến Việt Nam lần đầu từ năm 1533, nhưng chỉ như một tia sáng lóe lên, không để lại dấu vết gì. Năm 1615, các cha Dòng Tên mới bắt đầu gầy dựng được các cộng đoàn tín hữu đông đúc lâu bền. Nhưng phải chờ nửa thế kỷ sau mới có Giám mục Giám quản Tông tòa, Ðức cha Pierre Lambert de la Motte tới. Hội Thánh lớn lên giữa những cơn bách hại kế tiếp nhau. Phải ba trăm năm sau mới có người Việt Nam đầu tiên làm Giám mục Giám quản Tông tòa. Rồi năm 1960, Ðức Gioan XXIII đã thiết lập Hàng Giáo Phẩm, đưa Hội Thánh tại Việt Nam từ chế độ “Giám mục Giám quản Tông tòa” sang chế độ “Giám mục Chánh tòa”, nghĩa là nhìn nhận Hội Thánh tại Việt Nam đã trưởng thành ngang tầm với các Hội Thánh kỳ cựu.
Bối cảnh gần của Thư Chung 1980
Bởi vì được nhờ viết “tản mạn” nên lão tám chục đã tản sang bối cảnh xa, từ năm lên mười của đời mình, khi Thư Chung 1951 ra đời. Bây giờ lại tản về bối cảnh gần, từ khi đất nước tạm chia đôi năm 1954. Hai bên bờ sông Bến Hải là hai thể chế chính trị, hai nếp sống khác nhau. Hội Thánh hai bên cũng không thể đi chung một nhịp. Các giám mục ở phía Nam đã tham dự Công Ðồng, từ bước chuẩn bị đến ngày bế mạc, và áp dụng ngay. Hội Thánh ở miền Bắc thì cắt đứt với bên ngoài, sang thập niên 70 mới bắt đầu có chút liên lạc. Tôi nhớ không lầm thì năm 1974, các linh mục, tu sĩ Việt Nam chúng tôi đang học hay làm việc ở Rôma, đã được tiếp đón Ðức cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn tại Rôma.
Tìm lại nhịp bước chung giữa Hội Thánh ở hai miền
Cuối năm 1976, toàn cõi Việt Nam trở thành một Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, sự giao thông từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc ngày càng dễ dàng, thì Hội Thánh ở miền Bắc cũng nhận được đầy đủ các văn kiện của Công Ðồng với bản dịch tiếng Việt, và hai bên bắt đầu tìm lại nhịp bước chung. Miền Bắc cần thời gian để chuyển từ thông điệp chống cộng 1936 và Thư Chung 1951 sang đường lối của Công đồng Vatican II.
Trước ngày 30.4.1975, ÐTC Phaolô VI, đã ủy quyền cho các Giám mục Việt Nam, nếu không liên lạc được với Tòa Thánh thì có thể phong chức giám mục, rồi khi nào có thể thì báo lại. Nhưng Việt Nam là Việt Nam. Năm 1977, Ðức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình vẫn có thể đi Rôma dự cuộc họp Thượng Hội đồng Giám mục về việc giảng dạy giáo lý, và đã gây tiếng vang lớn với bài phát biểu nêu vấn đề : Làm thế nào dạy giáo lý cho thế hệ trẻ lớn lên trong nền giáo dục của một nước theo chủ nghĩa Mác-xít ? Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam đã họp được hai lần năm 1976 và 1978, tìm cách ứng dụng đường lối cởi mở, đối thoại, hợp tác và phục vụ của Công Ðồng và của Hai vị Giáo Hoàng Gioan XXIII và Phaolô VI.
Năm 1980 đã đi vào lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam như cột mốc của một khúc quanh quan trọng. Lần đầu tiên Hội đồng Giám mục toàn quốc Việt Nam họp. Cuộc họp diễn ra tại Thủ đô Hà Nội suốt một tuần lễ, và bế mạc ngày 1 tháng 5. Lúc đó cả nước có 40 vị giám mục thì 33 vị đã về họp. Dư luận chờ xem các giám mục sẽ nói gì, vạch ra đường hướng nào cho Hội Thánh bước đi trong một nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Các giám mục phía Nam đã hai lần họp bàn về hướng đi của Hội Thánh dưới chế độ mới, nên thấy rõ ràng Công đồng Vatican II đã đưa Hội Thánh sang trang, mở đầu một trang sử mới mà không cần nhắc chuyện cũ của thời đã qua. Trước khi họp nhau lần đầu, các giám mục hai miền đã có nhiều dịp trao đổi với nhau, hiểu biết nhau, hiệp nhất với nhau trong tinh thần của Công Ðồng, nên khi họp nhau lại thì dễ dàng đưa ra đường lối chung. Chẳng ai có thể vặn đồng hồ lịch sử lại. Mỗi thế hệ phải viết trang sử của mình nhờ đào sâu và sống thực với căn tính của mình. Lịch sử dân tộc và đất nước đã sang trang, Hội Thánh phải cùng đi trong trang sử mới. Hội Thánh tại Việt Nam lúc ấy, giám mục, giáo sĩ giáo dân toàn là Con Rồng Cháu Tiên. Vậy thì cần xác định rõ căn tính của Hội Thánh và cách thức đồng hành với dân tộc.
Phúc Âm làm cho Kitô hữu là Kitô hữu và Hội Thánh là Hội Thánh của Chúa Kitô. Hội Thánh kết hợp mọi tín hữu của Chúa Kitô trên toàn thế giới, có chung một Thiên Chúa là Cha, một Ðức Giêsu Kitô là Chúa, một Thánh Thần liên kết mọi người bằng một đức tin, một phép Rửa, để nên một Thân Thể của Ðức Kitô. Một Hội Thánh duy nhất dưới quyền Ðấng kế vị thánh Phêrô và các giám mục, tương tự như các thế hệ ban đầu với thánh Phêrô và các tông đồ : “Hội Thánh duy nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền” như chúng ta vẫn tuyên xưng.
Trong Hội Thánh duy nhất này, mỗi người vẫn giữ nguyên màu da tiếng nói, văn hóa của mình; vẫn sống giữa lòng dân tộc, chung vận mệnh với dân tộc của mình, cùng bảo vệ và thăng tiến giống nòi, xây dựng và bảo vệ quê hương, tổ quốc của mình; yêu đồng bào, yêu quê hương, yêu đất nước của mình, nhưng không kỳ thị loại trừ các dân tộc khác, vì tất cả mọi người và mọi dân tộc đều là con cái Thiên Chúa và được Ðức Kitô cứu chuộc.
Bức thư đã đề ra những giáo huấn rõ ràng dứt khoát, nói lên bản chất và sứ mạng của Hội Thánh, trách nhiệm của mọi người tín hữu của Chúa Kitô, đối với Hội Thánh cũng như đối với đồng bào, dân tộc, quê hương, đất nước. Cả một trăm đứa con của Mẹ Âu Cơ phải được tôn trọng như nhau, được đón nhận Phúc Âm và sống theo bản sắc của mình, trong một Hội Thánh trên giải đất hình chữ “ S “ven bờ Thái Bình Dương này.
Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc vì hạnh phúc của đồng bào
Cũng như Chúa Kitô là Con Thiên Chúa đã vì loài người chúng ta mà xuống thế làm người, thì Hội Thánh của Chúa Kitô cũng vì loài người. Không phải loài người chung chung, trên mây hay trong mơ, mà cụ thể :
Chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Chúa trao cho chúng ta để phục vụ với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa (s.9).
Hai ngàn năm trước ở Giêrusalem, Thánh Thần đã nổi gió mạnh (Cv 2,2) đưa các môn đệ lên đường loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ở ngưỡng cửa của thời đại toàn cầu hóa, gió mạnh này lại nổi lên trong Công Ðồng Vatican II để đưa Hội Thánh đi vào kỷ nguyên mới. Năm 1980 tại thủ đô Hà Nội, gió mạnh của Chúa Thánh Thần lại cuốn các giám mục và toàn thể Hội Thánh tại Việt Nam vào hướng đi mới giữa lòng dân tộc.
Sự chân thành của Hội Thánh tại Việt Nam được kiểm chứng bằng hành động. Những biến chuyển trên thế giới và sự kiên trì của Hội Thánh tại Việt Nam trong đường lối của Chúa Thánh Thần đã đưa lại kết quả như chúng ta đang sống hôm nay.
Thay lời kết
Từ mười hai năm nay, được sống và phục vụ Hội Thánh tại Thành Thánh Giêrusalem, nơi Chúa đã chết, sống lại, sai các môn đệ đi tới tận cùng thế giới rồi lên trời, tôi có dịp gặp gỡ những người từ bốn phương trời, mười phương đất đến hành hương, nghiên cứu, học hỏi. Biết nguồn gốc của tôi, họ thường hỏi hai câu: Việt Nam còn là nước cộng sản không ? Tình trạng Hội Thánh ở Việt Nam thế nào ? Trả lời câu thứ nhất : Nước tôi vẫn là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam do Ðảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Trả lời câu thứ hai : Tôi chỉ về phía tòa Khâm sứ: Ðức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, trước khi nhận nhiệm vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại Giêrusalem và Palestin, đã là người đầu tiên làm Ðại diện không thường trú của Tòa Thánh tại Việt Nam. Chúng tôi hy vọng trong tương lai gần sẽ có Sứ thần Tòa Thánh đấy ! Chúng tôi mới có thêm một giáo phận và đang chờ có thêm vài giáo phận nữa.
Ai cũng trố mắt ngạc nhiên “chưa thấy thế bao giờ”. Tôi giải thích : “Ở đâu có mà thấy ? Chỉ có ở Việt Nam tôi mới có thôi !”.
Vâng, Việt Nam vẫn là Việt Nam, có những nét rất riêng !
Chúng tôi là Con Rồng Cháu Tiên, biến hóa khôn lường, không rập khuôn của ai hết.
Nhưng chúng tôi tin rằng được như thế là vì Chúa Giêsu vinh quang ở với chúng tôi, và Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng tôi như lời Chúa Giêsu đã hứa; mà chúng tôi cũng để Chúa Thánh Thần dẫn dắt, như cha ông chúng tôi vẫn sống từ khi đón nhận Tin Mừng, suốt bốn trăm năm qua.
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô muôn đời. Amen. Ha-lê-lui-a!
Lm GIUSE NGUYỄN CÔNG ÐOAN – Dòng Tên
2020
Kinh Truyền Tin CN XVI TN A: Sự kiên nhẫn của Chúa mở ra cho chúng ta niềm hy vọng
Kinh Truyền Tin CN XVI TN A: Sự kiên nhẫn của Chúa mở ra cho chúng ta niềm hy vọng
Hành động của người môn đệ phải là “không phải hủy diệt người xấu, nhưng cứu họ”. Đây là con đường Đức Thánh Cha đã chỉ ra trong buổi đọc Kinh Truyền Tin, ngài nhắc nhở rằng điều này không phải sự khoan dung giả hình nhưng là công bằng được lòng thương xót nâng đỡ.
Trưa Chúa nhật XVI thường niên, vào lúc 12 giờ trưa, tại cửa sổ Dinh Tông tòa Đức Thánh Cha cầu nguyện cùng với các tín hữu và du khách hành hương. Cũng như mọi khi, trước khi đọc Kinh Truyền Tin Đức Thánh Cha có bài huấn dụ ngắn.
Dụ ngôn cỏ lùng: sự kiên nhẫn của Thiên Chúa mở ra niềm hy vọng
Bài giáo lý của Đức Thánh Cha dựa theo Tin Mừng Chúa nhật, Tin Mừng Thánh Matthêu (Mt 13, 24-43). Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dùng ba dụ ngôn để giảng dạy dân chúng, nhưng Đức Thánh Cha chỉ tập trung vào dụ ngôn đầu tiên: dụ ngôn cỏ lùng. Theo Đức Thánh Cha, qua dụ ngôn cỏ lùng, Chúa Giêsu giúp chúng ta biết sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, và như thế tâm hồn chúng ta sẽ rộng mở với niềm hy vọng.
Đức Thánh Cha nói: “Chúa Giêsu kể rằng: trong ruộng, nơi những hạt giống tốt đã được gieo, cỏ lùng cũng mọc lên. Thuật ngữ cỏ lùng muốn nói đến tất cả những loại thực vật gây hại cho đất. Các đầy tớ đến gặp ông chủ để hỏi xem cỏ lùng từ đâu ra. Ông chủ trả lời: ‘Kẻ thù đã làm như thế!’ (câu 28). Ngay lập tức, các đầy tớ muốn ra ruộng nhổ hết cỏ lùng đang lớn lên. Nhưng trái lại, ông chủ nói không, bởi vì khi nhổ cỏ họ cũng có thể nhổ luôn cả lúa. Vì vậy, cần phải chờ đợi tới mùa gặt. Chỉ khi đó cỏ lùng sẽ bị tách ra và đem đi đốt”.
Thiên Chúa luôn gieo điều tốt, ma quỷ gieo điều xấu
Đức Thánh Cha giải thích: “Khi đọc dụ ngôn này cũng là cách chúng ta nhìn lại lịch sử. Thiên Chúa-Ông chủ của đồng ruộng chỉ gieo và luôn luôn gieo giống tốt, kẻ thù đã gieo cỏ lùng để cản trở sự phát triển của lúa. Ông chủ làm việc cách công khai, giữa ban ngày, và mục đích của ông là một mùa thu hoạch tốt. Kẻ thù lợi dụng đêm tối để thực hiện những hành động xuất phát từ sự đố kỵ, ganh tị, và thù nghịch để hủy hoại mọi thứ. Kẻ thù đó có tên là ma quỷ, đối thủ thực sự của Thiên Chúa. Mục đích của ma quỷ là gây trở ngại cho công trình cứu độ của Thiên Chúa, ngăn chặn Nước Trời qua những người làm việc và gieo giống xấu xa độc ác. Thực tế, hạt giống tốt và cỏ lùng không phải đại diện cho điều tốt và xấu cách trừu tượng, nhưng là chính chúng ta, những con người; chúng ta theo Chúa hay theo ma quỷ”.
Đức Thánh Cha đưa ra những ví dụ cụ thể trong đời sống xã hội: “Nhiều lần, chúng ta nghe nói về một gia đình trước đó đang sống trong bình an, sau đó chiến tranh bắt đầu, ghen tị… một khu phố đang sống hòa bình, rồi những điều tồi tệ bắt đầu… Và chúng ta thường nói: Có người đến gieo cỏ lùng, hoặc đó chính là thành viên của gia đình, với việc nói xấu, gieo cỏ lùng. Những người này luôn gieo điều xấu để phá hủy. Đây là điều do ma quỷ thực hiện hoặc do cám dỗ của chúng ta: khi chúng ta rơi vào cám dỗ nói xấu để tiêu diệt người khác”.
Phải loại trừ sự dữ, nhưng cần kiên nhẫn với người xấu
Từ thực tế, Đức Thánh Cha giải thích tiếp về thái độ của ông chủ và các tôi tớ trong Tin Mừng: “Ý định của các tôi tớ là muốn loại trừ sự xấu ngay lập tức, loại trừ những người xấu. Nhưng ông chủ khôn ngoan hơn, ông nhìn xa hơn. Các tôi tớ phải học cách chờ đợi bởi vì sự bách hại và thù địch là một phần của ơn gọi Kitô Hữu. Dĩ nhiên sự dữ phải bị loại trừ, nhưng với người xấu chúng ta cần phải kiên nhẫn. Điều này không có nghĩa là sự khoan dung giả hình nó hàm chứa một sự mơ hồ; đúng hơn là công lý được thực hiện với lòng thương xót. Nếu Chúa Giêsu đến để tìm những người tội lỗi hơn là những người công chính, để chữa lành những bệnh nhân trước rồi mới đến với người mạnh khỏe (Mt 9,12-13), thì hành động của chúng ta, các môn đệ của Ngài không phải hủy diệt người xấu, nhưng là cứu họ. Và đó là sự kiên nhẫn”.
Biết nhận ra những điều tốt đang phát triển âm thầm trong cánh đồng của Giáo Hội
Từ bài học về sự kiên nhẫn Đức Thánh Cha giải thích tiếp: “Tin Mừng chỉ cho thấy hai đường lối hành động và lịch sử đang tồn tại: một mặt là cái nhìn của ông chủ, nhìn xa; mặt khác là cái nhìn của các tôi tớ, nhìn vào những vấn đề. Điều mà các tôi tớ quan tâm là cánh đồng không có cỏ lùng; Ông chủ thì quan tâm đến lúa tốt. Thiên Chúa mời gọi chúng ta học cách nhìn của Ngài, tập trung vào lúa tốt, để biết cách bảo vệ chúng ngay cả khi chúng ở giữa đám cỏ. Những ai chỉ tìm kiếm những nhược điểm và thiếu sót của người khác thì không cộng tác tốt với Chúa, nhưng đúng hơn là những người biết cách nhận ra những điều tốt lành đang phát triển âm thầm trong cánh đồng của Giáo Hội và của lịch sử, nuôi dưỡng chúng cho đến khi trưởng thành. Và rồi chính Thiên Chúa sẽ thưởng những điều tốt lành và phạt những điều xấu xa”.
Đức Thánh Cha kết thúc bài giáo lý với lời mời gọi: “Nguyện xin Đức Trinh Nữ Maria giúp chúng ta hiểu và noi gương sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài không muốn một người con nào phải hư mất, những người được Thiên Chúa yêu thương với tình phụ tử”. Ngọc Yến