2021
Tòa Thánh: Sử dụng năng lượng không được phá hủy nền văn minh
Tòa Thánh: Sử dụng năng lượng không được phá hủy nền văn minh
Hôm thứ Sáu 24/9, tại buổi Đối thoại Cấp cao của Liên Hiệp Quốc về Năng lượng, Đức Tổng Giám mục Paul Richard Gallagher, Ngoại trưởng Tòa Thánh lặp lại lời của Đức Thánh Cha, khẳng định “văn minh đòi hỏi năng lượng, nhưng sử dụng năng lượng không được phá hủy nền văn minh”.
Đi từ tình trạng sử dụng nguồn điện hiện nay trên thế giới, trước hết, Đức Tổng Giám mục Gallagher nói: “Hiện có 759 triệu người không có nguồn điện để sử dụng. Như đã được kêu gọi trong Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững, để xóa đói nghèo, chúng ta phải đảm bảo mọi gia đình có thể tiếp cận năng lượng với giá cả hợp lý và đáng tin cậy. Điều này có nghĩa là thúc đẩy các hệ thống năng lượng và lưới điện vi mô ở các địa phương cách lâu bền, tôn trọng các nền văn hóa địa phương và đảm bảo rằng họ có thể quản lý và duy trì các nguồn năng lượng của chính họ, phù hợp với nguyên tắc phụ trợ, nhằm ngăn chặn sự phụ thuộc bóc lột từ các mạng lưới năng lượng lớn”.
Ngoại trưởng Toà Thánh nói thêm rằng, tiếp cận năng lượng còn phụ thuộc vào khả năng chi trả và giá cả. Người nghèo, trong đó có những người ở ngoại vi xã hội tại các nước đang phát triển, thường không thể mua được năng lượng cần thiết cho cuộc sống hàng ngày. Vì thế, định giá năng lượng hợp lý, thực hành kinh doanh có đạo đức và trợ cấp cho những người nghèo là điều cần thiết.
Một vấn đề khác cần phải chú ý khi sử dụng năng lượng, theo Đức Tổng Giám mục, đó là, trong lúc cố gắng đảm bảo khả năng tiếp cận năng lượng cho tất cả mọi người, chúng ta phải tính đến tác động của nó đối với môi trường. Bởi vì khi khai thác, chuyển đổi, vận chuyển và tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch và năng lượng không sạch có thể gây hại cho môi trường.
Hơn nữa, cần chú ý đôi khi sản xuất năng lượng có tác động tiêu cực đến người nghèo, những người có hoàn cảnh dễ bị tổn thương, và trong một số trường hợp làm xã hội bị bất ổn, gây thiệt hại cho sức khỏe, xung đột và nhiều vi phạm nhân quyền. Ngoài ra, biến đổi khí hậu làm gián đoạn ngành nông nghiệp, làm trầm trọng thêm tình trạng mất an ninh và khan hiếm nước, thời tiết khắc nghiệt, phá hủy sinh kế và buộc nhiều người phải rời bỏ nhà cửa và di cư.
Một quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng cần theo đuổi việc sản xuất, quản lý và tiêu thụ năng lượng thông minh, hiệu quả và hòa bình hơn, đặc biệt là ở những khu vực có nhiều khả năng bị lãng phí năng lượng. Việc sản xuất hàng hóa dùng một lần, sản phẩm chất lượng thấp, và các chiến lược thương mại khác có mục đích lãng phí năng lượng, tất cả đều là các triệu chứng của “văn hóa vứt bỏ”. Trước thực tế này, những người tiêu dùng nhiều năng lượng có bổn phận xem xét tác động của họ đối với “những người chưa có thể sống xứng với nhân phẩm”.
Quốc vụ khanh Toà Thánh kết luận: “Việc chuyển đổi sang năng lượng sạch và dễ tiếp cận là nghĩa vụ của chúng ta đối với hàng triệu anh chị em trên khắp thế giới, đặc biệt những người nghèo và những thế hệ tương lai. Đức Thánh Cha Phanxicô đã lưu ý ‘Nền văn minh đòi hỏi năng lượng, nhưng việc sử dụng năng lượng không được phá hủy nền văn minh’”. (CSR_6409_2021)
Ngọc Yến
2021
ĐHY Parolin: Chăm sóc môi trường một thách đố như đại dịch
ĐHY Parolin: Chăm sóc môi trường một thách đố như đại dịch
Phát biểu tại phiên họp toàn thể của Liên Hội đồng Giám mục châu Âu (Ccee), hôm thứ Sáu 24/9, Đức Hồng y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh nhấn mạnh đến các chủ đề: Gia đình và cuộc sống con người, chăm sóc ngôi nhà chung và dấn thân vì hòa bình.
Phân loại rác, một hành động bảo vệ môi trường
Trước hết về gia đình và sự sống, Đức Hồng y nói: “Điều quan trọng là các Giáo hội ở châu Âu hỗ trợ nhau trong việc khẳng định Tin Mừng sự sống nhằm chống lại sự lặp đi lặp lại việc loan báo về cái chết trên lục địa. Mặt khác, châu Âu trải qua một sự giàu có mà trước đây họ chưa từng biết đến và do đó dễ bị cám dỗ loại bỏ những gì dường như là không cần thiết. Đáng tiếc là trong số ‘hàng dư thừa’ này có cả con người. Do đó, điều rất quan trọng là các Giáo hội hỗ trợ nhau trong hoạt động mục vụ để bảo vệ sự sống và đào tạo con người, đặc biệt những người có trách nhiệm chính trị, để ‘văn hóa sự chết’ không thống trị trong hoạt động lập pháp của châu Âu”.
Đối với lĩnh vực môi trường, Quốc vụ khanh Tòa Thánh nhấn mạnh rằng, bảo vệ thụ tạo là một thách đố khác, cùng với đại dịch Covid-19, là một trong những vấn đề cấp bách nhất mà nhân loại phải ứng phó. Vì thế, cuộc khủng hoảng sức khỏe hiện nay không được ngăn cản cam kết chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta, trái lại nó có thể giúp chúng ta mở rộng suy tư và thúc đẩy chúng ta thực hiện những hoạt động cụ thể.
Về phần Giáo hội, Đức Hồng y mời gọi các Giám mục, luôn hướng đến những người đang là nạn nhân của hậu quả của biến đổi khí hậu. Trong số này có người di cư rời bỏ nhà cửa và đất đai của họ do biến đổi khí hậu. Các hướng dẫn mục vụ cụ thể mới phải được áp dụng cho họ, vì thách thức về môi trường đang gây ra sự di cư hàng loạt, mà trong tương lai sẽ còn rõ ràng hơn nữa.
Cuối cùng, về sự dấn thân của Giáo hội cho hòa bình, Đức Hồng y mời gọi các Giám mục dấn thân cùng với các lãnh đạo của các tôn giáo khác, và ý thức rằng hòa bình không có nghĩa là không có chiến tranh, nhưng trước hết là sự dấn thân không mệt mỏi của những ai đang đảm nhận trách nhiệm lớn này. Phải làm sao để phẩm giá của mọi anh chị em được nhìn nhận, bảo đảm và tái xây dựng. (CSR_6450_2021)
Ngọc Yến
2021
ĐHY Woelki của Koln tạm nghỉ, nhưng ĐTC Phanxicô tái khẳng định sự tin tưởng đối với ngài
ĐHY Woelki của Koln tạm nghỉ, nhưng ĐTC Phanxicô tái khẳng định sự tin tưởng đối với ngài
Sau khi xem xét kết quả của cuộc thanh tra tông toà tại Tổng giáo phận Köln, nước Đức, để xử lý các trường hợp lạm dụng, ĐTC Phanxicô đã chấp nhận thỉnh cầu của Đức Hồng y Woelki về một thời gian tạm nghỉ. Đồng thời, không nhận đơn từ chức của hai vị giám mục phụ tá Puff và Schwaderlapp.
ĐHY Rainer Maria Woelki, Tổng Giám mục Köln
ĐTC Phanxicô đã chấp nhận thỉnh cầu của ĐHY Rainer Maria Woelki, TGM Köln, để dành một “thời gian thiêng liêng bên ngoài giáo phận” từ giữa tháng 10 cho đến đầu Mùa Chay năm sau, nhưng cũng nhắc lại sự tiếp tục tin tưởng của ngài đối với Đức Hồng y. Điều này đã được công bố trong một thông cáo từ Tòa sứ thần tại Đức do Tổng giáo phận Köln và Hội đồng Giám mục Đức phổ biến.
Tuyên bố cho biết các quyết định của Đức Thánh Cha được đưa ra sau khi đã “xem xét cẩn thận” về kết quả của cuộc thanh tra tông toà tại Tổng giáo phận, được thực hiện từ ngày 07 – 14/06 bởi ĐHY Tổng giám mục Stockholm Anders Arborelius và Đức giám mục Rotterdam Johannes van den Hende để xem xét thực địa tình hình mục vụ phức tạp do các vấn đề lạm dụng.
Bác bỏ các cáo buộc chống lại ĐHY Woelki
Đối với Đức Hồng y Woelki – tuyên bố viết: “kết quả không cho thấy ngài đã hành động trái pháp luật trong việc xử lý các trường hợp lạm dụng tính dục”. Các cáo buộc chống lại Đức hồng y vì đã che đậy những vụ việc như vậy đã bị bác bỏ bởi các tài liệu đã được kiểm tra bởi Tòa Thánh và các sự kiện sẽ sớm được đưa ra ánh sáng. Ngược lại, báo cáo cũng cho thấy sự “quyết tâm của Đức Tổng giám mục đối với tội ác lạm dụng, chăm sóc các nạn nhân và thúc đẩy phòng ngừa”. “Tuy nhiên, điều được nhấn mạnh là trong việc xử lý tổng thể vấn đề, trên hết ở cấp độ truyền thông, Đức Hồng Y Woelki cũng đã mắc những sai lầm lớn. Điều này thực chất đã góp phần gây ra khủng hoảng niềm tin trong tổng giáo phận”.
Tạm nghỉ để có một thời gian canh tân
Tuần trước, ĐTC Phanxicô đã tiếp ĐHY Woelki trong một cuộc trò chuyện dài. Tuyên bố của Tòa Sứ Thần cho biết: “Đức Thánh Cha vẫn tin tưởng Đức Hồng y Woelki” và “nhìn nhận sự trung thành của ngài với Tòa Thánh và dấn thân của ngài đối với sự hiệp nhất của Giáo hội. Đồng thời xác định rõ rằng Tổng giám mục và Tổng giáo phận cần có một khoảng thời gian nghỉ ngơi, một thời gian canh tân và hòa giải”. Do đó, Đức Thánh Cha đã quyết định cho Đức Hồng y một thời gian ngoài giáo phận. Cho đến khi ngài trở lại, Đức Giám mục phụ tá Rolf Steinhäuser sẽ chăm sóc Tổng giáo phận, với tư cách là Giám quản tông toà của giáo phận không trống toà.
Bác bỏ việc từ chức của các giám mục phụ tá Puff và Schwaderlapp
Mặt khác, Đức Thánh Cha, sau khi xem xét thông tin nhận được từ các vị thanh tra tông toà, đã quyết định không chấp nhận đơn từ chức của hai vị giám mục phụ tá của Köln, Dominikus Schwaderlapp và Ansgar Puff. Tuyên bố cho biết: Đối với cả hai, “các khiếm khuyết xử lý đã được tìm thấy, nhưng không có ý định che đậy các hành vi lạm dụng hoặc bỏ qua các nạn nhân”. Vì lý do này, Đức cha Puff sẽ tiếp tục chức vụ của mình ngay lập tức, trong khi Đức cha Schwaderlapp đã thỉnh nguyện và được Đức Thánh Cha đồng ý để có thể thực hiện công việc mục vụ trong một năm tại tổng giáo phận Mombasa, nước Kenya, trước khi tiếp tục công việc tại tổng giáo phận Köln.
Ngọc Yến
2021
Tưởng nhớ cha Jean-Baptiste Etcharren: “Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo tin mừng” (Rm 10, 15)
Linh mục Phêrô Võ Xuân Tiến,
Tổng Giáo phận Huế
“Đại Ân nhân” là từ ngữ được thốt lên trên môi miệng của nhiều Kitô hữu Việt Nam nói chung và của Giáo phận Huế nói riêng, trước sự ra đi của Cha Jean-Baptiste ETCHARREN, một “vị thừa sai kiệt xuất”, một “nhà truyền giáo đích thực”, một “thành viên đáng kính và gương mẫu”, một “món quà vô giá” được ban cho Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Cha J.B. ETCHARREN, thuộc Hội Thừa Sai Paris (MEP) và là Linh mục của Tổng Giáo phận Huế, đã trút hơi thở cuối cùng lúc 9g15, ngày lễ thánh Matthêu Tông đồ (21/9), tại Đại Chủng viện Huế, trước sự hiện diện của nhiều người đang quây quần bên ngài. Một sự chết lành, bình an, thanh thản và thánh thiện. Tôi hiện diện cạnh vị ân nhân và là người Cha đáng kính của tôi trong những giây phút cuối đời của ngài, dù ngài đang hôn mê. Khi vị bác sĩ bấm các huyệt để xem nhịp đập trái tim và hơi thở của ngài, và rồi rút ống oxy ra, thì tôi hiểu ngài đã qua đời. Tôi vội nói với cha Giuse Lê Văn Hồng, quản lý giáo phận Huế, “hỏi bác sĩ có phải ngài qua đời rồi không ?”, thì bác sĩ gật đầu xác nhận với với cha Quản lý như vậy. Xung quanh ngài lúc đó có các linh mục trẻ khác, các nữ tu dòng Mến Thánh Giá Huế, dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, dòng Thánh Phaolô thành Chartres, một số người thân của Cha cũng như một số nhân viên của Chủng viện. Mọi người bắt đầu đọc kinh cầu hồn cho ngài, và công việc chuẩn bị tang lễ bắt đầu và đã kết thúc lúc tiễn đưa linh cữu ngài đến nơi an nghỉ cuối cùng tại nghĩa trang giáo sĩ ở Đại Chủng viện Huế, bên cạnh người bạn thân của ngài là cha Pierre Poncet. Đức Tổng Giuse, Cha Tổng Đại Diện Antôn, Cha Giám đốc ĐCV Huế…, cũng nhanh chóng có mặt để tiễn biệt ngài.
“Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng !”
Trút hơi thở cuối cùng và thánh lễ an táng tại ĐCV Huế, có lẽ là điều ngài đã không nghĩ đến khi còn sống, nhưng thánh ý Chúa nhiệm mầu để ngài cảm nhận cách thiêng liêng và hài lòng, ở thế giới bên kia, về tình cảm nồng ấm của Tổng Giáo phận và gia đình Đại Chủng viện Huế. Không có sự hiện diện của người thân huyết tộc bên cạnh, nhưng sự hiện diện của gia đình thiêng liêng này còn đông đảo hơn nữa trong những ngày tang lễ của ngài. Các thánh lễ cầu hồn cho ngài liên tiếp nhau, những giờ kính viếng của biết bao người thụ ân ngài và cả những giờ canh thức thâu đêm của quý Thầy Đại Chủng viện và một số người thân của ngài, như muốn cho thấy ngài không cô đơn và đang ở trong trái tim của Giáo hội Việt Nam, của Tổng Giáo phận Huế, cũng nhiều như Giáo hội Việt Nam và Tổng Giáo phận Huế đã ở trong trái tim của ngài vậy. Thánh lễ an táng đã diễn ra thật sâu lắng, bùi ngùi và đầy thương tiếc về sự ra đi của một con người đã sống chết cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Đây là lần đầu tiên, trong một Thánh lễ an táng, tôi được chứng kiến cử chỉ niệm hương trong tâm tình kính cẩn tri ân và kính trọng của các đại diện mọi thành phần dân Chúa của Giáo hội Việt Nam trước sự ra đi của một Linh mục thừa sai như thế ! Tất cả đó như là “phần thưởng” hữu hình nhỏ bé mà Chúa muốn dành cho “người tôi tớ trung tín” của Ngài, một người mà suốt 63 năm Linh mục của mình đã “ở giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 27). Và chắc chắn phần thưởng sẽ còn lớn lao hơn nhiều, hơn cả huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh mà nước Pháp tặng cho ngài, đó là phần thưởng dành cho ngài ở trên trời, trong vòng tay của Chúa Giêsu, Mục Tử Nhân Lành, Đấng mà ngài luôn tín thác và làm chứng cho tình yêu của Người “ad gentes”. Quả là một kết thúc “đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin Mừng !» (Rm 10, 15).
“Hạt giống tốt”
“Giáo hội Việt Nam đã có thể thực hiện những tiến bộ to lớn này là nhờ những nỗ lực được Hội Thừa Sai Paris thực hiện trong việc gieo những hạt giống tốt trên các vùng đất loan báo Tin Mừng ở Việt Nam” (“L’Église vietnamienne a pu réaliser ces formidables progrès grâce aux efforts menés par les MEP pour semer de bonnes graines sur les terres d’évangélisation au Vietnam”)[1]. Đó là lời phát biểu của Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Tổng Giám mục Giáo phận Huế, trong cuộc hội ngộ “Un moment MEP” được Giáo hội Việt Nam tổ chức để tri ân Hội Thừa Sai Paris, ngày 18/4/2018. Và một trong những “hạt giống tốt” mà không ai có thể phủ nhận này là cha J.B. Etcharren, người cũng đã từng phát biểu, trong sự kiện này và cũng là dịp kỷ niệm 60 năm linh mục của ngài, rằng: ”Tôi yêu đất nước Việt Nam và tôi coi đất nước này như quê hương của chính tôi” (“J’aime le Vietnam et je le vois comme ma propre patrie”). Hay một nơi khác, như lời Cha Tổng Đại diện Antôn nhắc lại trong bài tiễn biệt cuối cùng tại phần mộ của ngài, ngài nói: “Tôi đến Việt Nam để chiêm ngưỡng con người và văn hóa nước Việt”. Còn hơn cả chiêm ngưỡng, ngài đã đến “cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14), đã trở thành người Việt Nam đối với người Việt Nam, đã “nghiện” Việt Nam, như lời Đức Tổng Giuse trong lời phân ưu với Hội Thừa Sai Paris và gia đình của ngài, và đã biến Việt Nam (con người, lối sống, văn hóa, ngôn ngữ…) thành “máu huyết” của mình. Nếu Đức Thánh Cha Phanxicô luôn muốn “thúc đẩy một cuộc loan báo Tin Mừng trung thành với “phong cách” của Thiên Chúa và gần gũi với con người” (sứ điệp gởi cho Hội nghị thần học quốc tế ngày 21/9/2021), cũng như kêu gọi “hội nhập văn hóa” bằng việc “hãy đi vào đời sống của đoàn dân tín hữu, trong sự tôn trọng các phong tục, truyền thống của họ…” (sứ điệp cho Hội nghị về đời sống tu trì ở Châu Mỹ Latinh và Caribê, ngày 13/8/2021), thì Cha J.B. Etcharren đã cụ thể hóa những điều đó cách rõ nét nhất trong cuộc đời và ơn gọi thừa sai của mình.
“Ơn gọi truyền giáo”
Để hiểu tại sao một linh mục trẻ, chưa đầy ba tháng sau khi chịu chức, đã hăng hái lên đường đi truyền giáo tại Việt Nam lúc mới 26 tuổi (ngày 22/4/1958), dù biết rằng cái chết đang chờ đợi mình ở đó, chúng ta cùng lắng nghe bài phỏng vấn ngài do Hội Thừa Sai Paris thực hiện[2], qua đó Cha cho thấy cái nhìn của mình về “ơn gọi truyền giáo” này: “Những gì ưu tiên, đó là một ơn gọi nảy sinh trong tâm hồn của một người trẻ và làm cho đạt kết quả, làm cho thực hiện. Tại sao ? Bởi vì chiều kích ra đi đến với một dân tộc, đến với một Giáo hội ở nơi khác này, là điều thiết yếu đối với đức tin Kitô giáo, không chỉ theo quan điểm cá nhân, nhưng đối với chính Giáo hội. Sống chiều kích này của đức tin Kitô giáo là hoàn toàn thiết yếu, bất kể tình trạng nghèo nàn ngày nay của các Giáo hội tây phương, cách riêng của Pháp”.
Quả thế, có một phản đối hiện nay ở Pháp là tại sao giờ đây thiếu linh mục, nhưng vẫn có nhiều bạn trẻ muốn dấn thân đến những nơi xa xôi rao giảng Chúa Kitô, Cha Jean-Baptiste, lúc còn là Bề trên tổng quyền của MEP, đã trả lời cách xác tín: “Hoàn toàn không phải về số lượng linh mục mà cần phải nói đến, khi chúng ta nói về ơn gọi. Cũng tương tự đối với một người đi tu dòng chiêm niệm và dâng hiến trọn đời mình trong công việc cầu nguyện cho Giáo hội, cho thế giới. Đó là một ơn gọi đặc biệt”. Thật vậy, đối với MEP, ơn gọi truyền giáo này là một “ơn gọi đặc biệt”, “bổ sung” cho ơn gọi chiêm niệm và ơn gọi linh mục giáo phận, và không kém phần cần thiết hơn. Vị Đại Ân nhân của Giáo hội Việt Nam nói tiếp: “Nếu chúng ta nhìn vào toàn bộ Châu Á, lục địa bao la mà dân số biểu hiện, thì chỉ có hai phần trăm số người đã thực sự muốn đón nhận sứ điệp Kitô giáo này. Đối với chúng ta, vấn đề không phải là cạnh tranh bằng mọi giá để gia tăng con số Kitô hữu, làm lớn mạnh thể chế Giáo hội, nhưng đó là một quyền của mỗi người được đón nhận sứ điệp về Thiên Chúa cách hoàn toàn tự do và cả trong sự tôn trọng những lộ trình thiêng liêng của họ từ bao thế kỷ. Vai trò của chúng ta, đó là làm chứng cho niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, về việc chúng ta được nhận làm nghĩa tử trong Chúa Giêsu Kitô và về hạnh phúc biết mình được Thiên Chúa yêu thương này và có thể nói và biểu lộ điều đó bằng cách này hay cách khác”.
Tất cả những tâm tình sâu xa trên đây cho thấy rõ chính “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” (2Cr 5, 14) đã thúc đẩy ngài từ bỏ một cuộc sống yên bình nơi chính quê hương mình để mạo hiểm trên hành trình truyền giáo, trong sự khát khao dâng hiến và khiêm tốn phục vụ Chúa và con người, để rồi biến cuộc đời mình thành quà tặng cho tha nhân đến độ muốn gởi gắm thân xác ngài nơi lòng đất mẹ Việt Nam, một quà tặng mà Đức Tổng Giuse gọi là “vô giá” Chúa đã ban cho đất nước Việt Nam.
“Hai điều nuối tiếc”
Sự ra đi của ngài quả là một mất mát lớn cho Giáo hội Việt Nam. Trước tin buồn to lớn này, không biết bao nhiêu lời thương tiếc, bao nhiêu lời ngợi khen, bao nhiêu lời chúc tụng…đã ngập tràn trên các phương tiện truyền thông. Ngay cả người viết bài này cũng đã dành “biết bao lời có cánh” cho vị Linh mục không còn là “ngoại quốc” nữa, nhưng là “quốc nội” này, một vị Linh mục khả ái và rất đáng kính, âm thầm và khiêm tốn, đơn sơ và giản dị, gần gũi và dịu dàng, nhân ái và rộng lượng, luôn với nụ cười hiền hòa và đầy nhiệt huyết loan báo Tin Mừng “ad gentes”. Nhưng có lẽ những lời ca ngợi, tung hô, chúc tụng “có cánh” này là những điều mà, với tính cách của ngài, ngài không ưa thích chút nào. Xin Cha tha thứ cho chúng con về những điều này, bởi vì chúng con có thể nói gì hơn được khi mà sự khôn ngoan ngàn đời đã dạy chúng con rằng “De mortuis nihil nisi bonum dicendum est” (“Về người đã khuất, không có gì ngoài điều tốt được nói ra”). Xin Cha đừng xem đó là những lời chúc tụng, nhưng như là những điều tốt lành của một “hạt giống tốt” mà Chúa đã gieo vào mảnh đất Việt Nam và chấp nhận “mục nát” đi (x. Ga 12, 24) “để cho thế gian được sống và sống dồi dào” (Ga 6, 51 ; 10, 10) . Vậy, Cha không có “điều xấu” nào ? Thưa có, con xin mượn “hai điều nuối tiếc” mà Cha đã nói về bản thân mình, để coi đó như là «hai điều xấu” mà chúng con phải tránh hôm nay: a) làm việc vì vinh danh bản thân mà không vì vinh danh Chúa ; b) chỉ chiêm ngưỡng công trình do tay mình làm, mà không biết nhận ra và tôn trọng công trình mà Thiên Chúa thực hiện qua thiên nhiên và nơi tha nhân.
“Hai điều nuối tiếc”, mà Cha Jean-Baptiste đã để lại cho hậu thế như một “di chúc tinh thần”, một cách nào đó là lời sám hối chân thành từ sâu thẳm bản thân ngài, và cũng là lời mời gọi những người còn sống đi vào tâm tình “hoán cải mục vụ” đó, để cuối cùng nhận ra rằng “chúng ta phải học tất cả nơi Chúa Giêsu”, là “để Nước Chúa trị đến”, để tất cả các con đường phục vụ phải “dẫn lối về với Chúa Kitô”. Chúng con thành kính cảm ơn Cha.
“Reverentissime Pater, requiescat in pace Domini” !
Nguồn: xuanbichvietnam.net (24.9.2021)
[1] Xem bản tin “À Hué, l’Église locale salue l’engagement des MEP au Vietnam” (https://missionsetrangeres.com/eglises-asie/2018-04-25-a-hue-leglise-locale-salue-lengagement-des-mep-au-vietnam/)
[2] Xem video link phỏng vấn ở đây (https://www.youtube.com/watch?v=Q3xAu1FqXso).