2022
Tông du Malta – ĐTC chủ sự giờ cầu nguyện tại đền thánh Đức Mẹ Ta’ Pinu
Tông du Malta – ĐTC chủ sự giờ cầu nguyện tại đền thánh Đức Mẹ Ta’ Pinu
Chiều thứ Bảy ngày 2/4/2022, Đức Thánh Cha đã chủ sự giờ cầu nguyện tại đền thánh quốc gia Ta’ Pinu ở làng Gharb, một làng nhỏ ở phía tây nam đảo Gozo của Malta. Ngài mời gọi các tín hữu trở lại với điều cốt lõi của đức tin: tương quan với Chúa và rao giảng Tin Mừng, đồng thời đón tiếp tha nhân, thực thi giới răn yêu thương, và đừng sợ bước đi trên nhửng nẻo đường mới để loan báo Tin Mừng.
Đền thánh Ta’ Pinu
Đền thánh Ta’ Pinu là nơi hành hương nổi tiếng nhất của Malta. Nhà thờ được xây theo kiến trúc gô-tích với Thánh giá kiểu Latinh. Bên trong nhà thờ có lưu giữ rất nhiều lời khấn nguyện, bằng chứng lòng đạo đức bình dân của người dân Malta.
Đền thánh quốc gia Ta’ Pinu trên đảo Gozo của Malta
Vào những năm 1500, tại nơi này đã có một nhà nguyện nhỏ. Năm 1575, khi nhà nguyện bị bỏ hoang và hư hoại, đặc sứ của Đức Gregorio XIII đã ra lệnh phá bỏ nhà nguyện. Nhưng khi công việc mới bắt đầu thì một công nhân bị gãy tay. Sự việc được hiểu như là một dấu chỉ và do đó công việc phá dỡ nhà nguyện được dừng lại. Nhà nguyện ban đầu thuộc tài sản của dòng họ Gentili, sau đó được một người tên Pino Gauci mua lại; từ đó có tên Ta’ Pinu. Pino Gauci đã nới rộng và tu sửa nhà nguyện, đặt trong nhà thờ một bức ảnh Đức Mẹ Hồn xác lên trời do hoạ sĩ người Ý Amedeo Perugino vẽ. Bức ảnh vẫn được lưu giữ cho đến ngày nay.
Sau khi bị đóng cửa trong vài thế kỷ, nhà thờ được mở lại khi một sự kiện lạ thường xảy ra. Theo lưu truyền, ngày 22/6/1883, khi đi ngang qua nhà thờ, bà Carmela Grima, một phụ nữ nhà quê, đã nghe một giọng nói yêu cầu bà đọc “ba kinh Kính Mừng, mỗi kinh cho một ngày khi thân xác Ta ở trong mồ.” Bà đã kể lại với người bạn và người này cho biết chính ông cũng nghe lời yêu cầu giống như thế khi ở gần nhà nguyện. Trong thời gian này hai người này cũng được chữa lành bệnh cách lạ lùng. Trong thời gian ngắn, tin tức của hai thị nhân này đã lan truyền khắp hòn đảo và nhà nguyện Ta’ Pinu trở thành nơi hành hương. Năm 1887, khi đảo Gozo tránh được trận dịch tả cách kỳ diệu, Đức giám mục đã cho phép cử hành phụng vụ kính Đức Mẹ tại đây.
Để kỷ niệm 100 năm lần hiện ra đầu tiên, Đại hội Đức Mẹ Quốc tế lần thứ IX đã được tổ chức tại Malta vào tháng 9/1983. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã cử hành Thánh lễ tại thềm đền thờ vào ngày 26/5/1990.
Đến gần đền thánh, Đức Thánh Cha chuyển sang dùng papamobile – xe mui trần của Đức Thánh Cha. Đến đền thánh, ngài đi xe vào lối bên cạnh, trong khi 3.000 tín hữu chờ đợi ngài tại quảng trường lớn.
Viếng Đức Mẹ
Tại cửa vào đền thánh, Đức Thánh Cha được cha giám đốc đền thánh chào đón. Sau đó ngài cùng với Đức Hồng y Mario Grech, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Tổng Giám mục của Malta và Đức Giám mục của Gozo tiến vào nhà nguyện của đền thánh. Đến trước ảnh Đức Mẹ, Đức Thánh Cha đã dâng kính Đức Mẹ một cành hoa hồng mạ vàng và đọc 3 kinh Kính Mừng, rồi ngài đến trước bàn thờ chính, chào và chúc lành cho các bệnh nhân hiện diện trong đền thờ và đi đến thềm đền thờ.
Hiện diện tại buổi cầu nguyện có đại diện của Giáo hội địa phương, có các thiếu nhi, thanh thiếu niên, người trẻ, các gia đình và các thành viên của các hiệp hội của Giáo hội; cũng có các vị đại diện chính quyền dân sự của đảo Gozo, cũng như rất đông linh mục, tu sĩ nam nữ và thành viên các tu hội đời.
Bắt đầu giờ cầu nguyện, Đức cha Anthony Teuma, giám mục của Gozo đã có lời chào mừng Đức Thánh Cha đến với Gozo, “một đảo nhỏ nhưng có trái tim vĩ đại”, chào mừng Đức Thánh Cha đến với “nhà của chúng con và của Mẹ chúng con – đền thánh Đức Mẹ Ta’ Pinu”.
Chứng từ cảm động của đôi vợ chồng Sandi và Domenico Apap
Tiếp đến là phần trình bày chứng từ. Đầu tiên là chứng từ của đôi vợ chồng Sandi và Domenico Apap, kết hôn được 29 năm và có một con gái và một cháu ngoại. Bà Sandi cho biết, 4 năm sau khi kết hôn, khi mới 23 tuổi, bà bắt đầu bị chứng đa xơ cứng. Cuộc sống của họ thay đổi khi các triệu chứng của căn bệnh của bà gia tăng và các ước mơ của tuổi trẻ cũng tan theo. Hiện nay tình trạng sức khoẻ của bà phức tạp hơn do không thể di chuyển và lại bị nhiễm Covid-19. Thật khó để chấp nhận căn bệnh này. Bà thường tự hỏi tại sao Chúa lại để cho tất cả điều này xảy ra. Nhiều lần bà kêu lên: “Chúa ơi, Chúa ở đâu?” Nhưng cũng có điều gì đó đã giúp bà không tuyệt vọng và bà nói, “Lạy Chúa, Chúa biết cuộc đời con. Con phó thác mọi sự trong tay Chúa.”
Còn ông Domenico thì nhìn nhận rằng bà Sandi vợ ông là quà tặng lớn nhất Thiên Chúa ban cho gia đình. Ông nói: “Kinh nghiệm đau khổ mà chúng con đã trải qua và tiếp tục cùng nhau sống không chỉ không huỷ diệt chúng con hay làm chúng con xa cách nhau, nhưng liên kết chúng con hơn, củng cố chúng con trong tình yêu thương nhau như một gia đình.” Nhiều lần ông đặt câu hỏi với Chúa và không tìm được câu trả lời như mong muốn. Nhưng dần dần Chúa ban cho ông ơn hiểu rằng sứ vụ của ông là ở bên cạnh vợ và cùng bà vác thập giá. Ông nói: “Tôi học được rằng khi đau khổ được sống với tình yêu, nó không còn là đau khổ nữa mà trở thành niềm vui.”
Tiếp đến là chứng từ của Jennifer Cauchi, chia sẻ về sự an bình khi đến với Đức Mẹ và chứng từ của Francesco Pio Attard, với băn khoăn thao thức làm sao Giáo hội gìn giữ kho tàng đức tin, và thực hiện sứ vụ ngôn sứ…
Bài giảng của Đức Thánh Cha
“Giờ” của Chúa Giêsu và khởi đầu của Giáo hội
Sau bài Phúc âm trích từ Tin Mừng thánh Gioan, thuật lại những lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, Đức Thánh Cha bắt đầu bài giảng với “giờ” của Chúa Giêsu, trong Tin Mừng thánh Gioan là giờ chết của Người trên thập giá, với hình ảnh Mẹ Maria và thánh Gioan đứng dưới chân Thánh Giá, khi “mọi sự dường như đã mất, đã hết, vĩnh viễn;” với lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46; Mk 15,34), cũng là lời cầu nguyện của chúng ta vào những lúc đau khổ.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng “giờ” chết của Chúa Giêsu “không có nghĩa là sự kết thúc của lịch sử. Nhưng nó đánh dấu sự khởi đầu của một sự sống mới.” Một giờ khác tràn đầy sự sống được bắt đầu. Đó là thời gian của Giáo hội. “Bắt đầu với hai người đứng bên dưới Thánh giá, Chúa sẽ quy tụ một dân tộc tiếp tục đi trên những nẻo đường quanh co của lịch sử, mang trong lòng mình sự an ủi của Thánh Linh, để lau khô nước mắt của nhân loại.”
Nói về đền thánh Đức Mẹ Ta’ Pinu, Đức Thánh Cha nhận xét rằng, từ một nhà nguyện nhỏ đang bị hư hỏng, sắp bị phá bỏ, một loạt các sự kiện sẽ xoay chuyển tình thế, ngôi nhà thờ nhỏ bé ấy đã trở thành đền thánh quốc gia, là điểm đến của những người hành hương và là nguồn sống mới. Một nơi từng bị nghĩ rằng đã bị bỏ rơi thì giờ đây làm sống lại đức tin và hy vọng trong Dân Chúa. Từ đó Đức Thánh Cha mời gọi đánh giá ý nghĩa của “giờ” của Chúa Giêsu đối với cuộc sống của chúng ta. Ngài nói: “Giờ cứu độ đó cho chúng ta biết rằng, để canh tân đức tin và sứ mạng chung của chúng ta, chúng ta được mời gọi trở về nguồn cội, trở về với Giáo hội sơ khai mà chúng ta nhìn thấy dưới chân Thánh giá nơi con người của Mẹ Maria và Thánh Gioan.”
Khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta
Theo Đức Thánh Cha, quay trở lại những nguồn cội, trước tiên, có nghĩa là khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta. Quay trở lại với Giáo hội sơ khai không có nghĩa là cố gắng tái tạo mô hình Giáo hội của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi; cũng không có nghĩa là lý tưởng thái quá cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. “Nhưng trở về nguồn cội là trở về với trọng tâm và khám phá lại cốt lõi của đức tin: tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu và việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới của Người”, như các môn đệ đầu tiên, như bà Maria Mađalena và Gioan, sau khi nhìn thấy ngôi mộ trống, với sự phấn khích tột độ đã vội vã trở về loan báo tin mừng Chúa phục sinh; như các tông đồ, mỗi ngày trong đền thờ và tại tư gia, họ không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu (Cv 5,42).
Một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới
Đức Thánh Cha lưu ý rằng đời sống của Giáo hội không bao giờ chỉ là “một quá khứ để tưởng nhớ”, nhưng là một “tương lai tuyệt vời để xây dựng”, luôn tuân theo các kế hoạch của Thiên Chúa. Chúng ta cần một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới trong cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, trong việc lắng nghe lời Người hằng ngày, trong việc tham gia tích cực vào đời sống của Giáo hội và trong lòng đạo đức bình dân đích thực. Ngài cảnh giác rằng chúng ta không được xem nhẹ sự khủng hoảng đức tin, sự thờ ơ thực hành tôn giáo, đặc biệt là hậu quả của đại dịch, và sự dửng dưng của nhiều người trẻ đối với sự hiện diện của Chúa khi nghĩ rằng, xét cho cùng, vẫn còn một tinh thần tôn giáo nhất định. Những nghi lễ hoành tráng không luôn là dấu chỉ của đức tin sống động.
Phát triển nghệ thuật chào đón tha nhân
Đức Thánh Cha giải thích tiếp rằng quay trở lại ban đầu cũng có nghĩa là phát triển nghệ thuật chào đón. Những lời của Chúa Giêsu trên Thánh giá, nói với Mẹ Người và với thánh Gioan, kêu gọi chúng ta làm cho việc chào đón trở thành dấu ấn của người môn đệ. Việc thánh Gioan chào đón Đức Maria vào nhà ngài là một dấu hiệu cụ thể cho thấy chúng ta nên sống điều răn cao trọng nhất, giới răn yêu thương, như thế nào. Việc thờ phượng Thiên Chúa được thực hiện qua sự gần gũi với anh chị em của chúng ta.
Chào đón tha nhân: phép thử sự thấm nhuần tinh thần Tin Mừng
Việc chào đón nhau, nhân danh Chúa Kitô, vẫn mãi là một thách đố, trước hết là đối với các mối tương quan trong Giáo hội, vì việc truyền giáo của chúng ta sẽ sinh hoa trái nếu chúng ta cùng nhau làm việc trong tình bạn và tình hiệp thông huynh đệ. Nhưng theo Đức Thánh Cha, việc chào đón cũng là phép thử để đánh giá xem Giáo hội đã thấm nhuần tinh thần Tin Mừng đến mức độ nào. Chúng ta cũng không thể chào đón nhau trong các mái ấm của những ngôi nhà thờ đẹp đẽ, trong khi bên ngoài rất nhiều anh chị em của chúng ta phải đau khổ, bị đóng đinh bởi nỗi đau, sự nghèo đói và bạo lực.
Giờ cầu nguyện với kinh Magnificat, kinh Lạy Cha và phép lành Đức Thánh Cha ban cho cộng đoàn.
Rời đền thánh Đức Thánh Cha đi xe hơi trở lại cảng Mgarr cách đó 10 km, từ đó ngài đi tàu 20 phút để đến cảng Cirkewwa của đảo Malta và từ đó Đức Thánh Cha di chuyển về Toà Sứ thần cách đó 21 km để dùng bữa tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ nhất trong chuyến viếng thăm Malta.
Hồng Thủy
2022
Bài giảng của ĐTC trong giờ cầu nguyện tại đền thánh quốc gia Ta’ Pinu
Bài giảng của ĐTC trong giờ cầu nguyện tại đền thánh quốc gia Ta’ Pinu
Đức Thánh Cha nói với các tín hữu Malta: “Một đức tin được tạo thành từ những truyền thống đã được tiếp nhận, những cử hành long trọng, những lễ hội phổ biến và những khoảnh khắc mạnh mẽ và đầy cảm xúc là không thể đủ; chúng ta cần một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới trong cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, trong việc lắng nghe lời Người hằng ngày, trong việc tham gia tích cực vào đời sống của Giáo hội và trong lòng đạo đức bình dân đích thực.”
Bài giảng của ĐTC Phanxicô
Gặp gỡ Cầu nguyện tại Đền thánh Quốc gia Ta’ Pinu, Gozo
Thứ Bảy, 02/04/2022
Đứng dưới chân Thánh Giá của Chúa Giêsu có Mẹ Maria và thánh Gioan. Người Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa đang khóc thương cái chết của Người, ngay cả khi bóng tối bao trùm thế giới. Người môn đệ yêu quý, người đã từ bỏ mọi sự đi theo Người, giờ đây đứng thinh lặng dưới chân vị Tôn sự bị đóng đinh trên thập giá. Mọi sự dường như đã mất, đã hết, vĩnh viễn. Mang lấy trên mình vết thương của nhân loại, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46; Mk 15,34). Đây cũng là lời cầu nguyện của chúng ta vào những lúc đau khổ. Ông bà Sandi và Domenico thân mến, nó là lời cầu nguyện chân thành mà ông bà thưa với Thiên Chúa mỗi ngày. Cảm ơn tình yêu kiên trì và chứng tá đức tin của ông bà!
Tuy nhiên “giờ” của Chúa Giêsu, trong Tin Mừng thánh Gioan là giờ chết của Người trên thập giá, không có nghĩa là sự kết thúc của lịch sử. Nhưng nó đánh dấu sự khởi đầu của một sự sống mới. Đứng trước Thánh giá, chúng ta chiêm niệm tình yêu thương xót của Chúa Kitô, Đấng mở rộng vòng tay của Người để ôm lấy chúng ta và bằng cái chết của mình, Người mời gọi chúng ta đến với niềm vui của sự sống vĩnh cửu. Vào giờ cuối cùng đó, sự sống mới mở ra trước chúng ta; từ giờ của sự chết đó, một giờ khác, tràn đầy sự sống, được bắt đầu. Đó là thời gian của Giáo hội. Bắt đầu với hai người đứng bên dưới Thánh giá, Chúa sẽ quy tụ một dân tộc tiếp tục đi trên những nẻo đường quanh co của lịch sử, mang trong lòng mình sự an ủi của Thánh Linh, để lau khô nước mắt của nhân loại.
Thưa anh chị em, từ đền thánh Ta’ Pinu này, chúng ta có thể cùng nhau chiêm ngắm sự khởi đầu mới đã diễn ra trong “giờ” của Chúa Giêsu. Ở đây, thay cho toà nhà lộng lẫy mà chúng ta thấy ngày nay, chỉ có một nhà nguyện nhỏ trong tình trạng đổ nát. Việc phá hủy nó đã được quyết định: nó dường như là dấu chấm hết. Tuy nhiên, một loạt các sự kiện sẽ xoay chuyển tình thế, như thể Chúa cũng muốn nói với dân tộc này rằng: “Chẳng ai còn réo tên ngươi: ‘Đồ bị ruồng bỏ!’ Xứ sở ngươi hết bị tiếng là ‘Phận bạc duyên đơn.’ Nhưng ngươi được gọi: ‘Ái khanh lòng Ta hỡi!’ Xứ sở ngươi nức tiếng là ‘Duyên thắm chỉ hồng'” (Is 62,4). Ngôi nhà thờ nhỏ bé ấy đã trở thành đền thánh quốc gia, là điểm đến của những người hành hương và là nguồn sống mới. Jennifer thân mến, bạn đã nhắc nhở chúng tôi về điều này: ở đây, nhiều người phó thác những đau khổ và niềm vui của họ cho Đức Mẹ và tất cả đều cảm thấy được chào đón. Thánh Gioan Phaolô II – hôm nay kỷ niệm ngày ngài qua đời – cũng đã hành hương đến đây. Một nơi từng bị nghĩ rằng đã bị bỏ rơi thì giờ đây làm sống lại đức tin và hy vọng trong Dân Chúa.
Dưới ánh sáng này, chúng ta hãy thử đánh giá cao ý nghĩa của “giờ” của Chúa Giêsu đối với cuộc sống của chúng ta. Giờ cứu độ đó cho chúng ta biết rằng, để canh tân đức tin và sứ mạng chung của chúng ta, chúng ta được mời gọi trở về nguồn cội, trở về với Giáo hội sơ khai mà chúng ta nhìn thấy dưới chân Thánh giá được thể hiện qua Mẹ Maria và Thánh Gioan. Quay trở lại những nguồn gốc đó có nghĩa là gì? Quay lại từ đầu nghĩa là gì?
Đầu tiên, nó có nghĩa là khám phá lại những điều cốt yếu trong đức tin của chúng ta. Quay trở lại với Giáo hội sơ khai không có nghĩa là quay lại và cố gắng tái tạo mô hình Giáo hội của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Chúng ta không thể “bỏ qua lịch sử”, như thể Chúa chưa bao giờ nói hoặc thực hiện những điều vĩ đại trong đời sống của Giáo hội trong những thế kỷ sau đó. Nó cũng không có nghĩa là lý tưởng thái quá, nghĩ rằng trong cộng đoàn đó không có khó khăn; trái lại, chúng ta đọc thấy rằng các môn đệ đã tranh luận và thậm chí tranh cãi với nhau, và họ không phải lúc nào cũng hiểu được những lời dạy của Chúa. Ngược lại, quay trở lại nguồn cội có nghĩa là tìm lại tinh thần của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, trở về với trọng tâm và khám phá lại cốt lõi của đức tin: mối quan hệ của chúng ta với Chúa Giêsu và việc rao giảng Tin Mừng cho toàn thế giới của Người. Đó là những điều cần thiết!
Thật vậy, sau “giờ” Chúa Giêsu chết, các môn đệ đầu tiên, như bà Maria Mađalena và Gioan, sau khi nhìn thấy ngôi mộ trống, với sự phấn khích tột độ đã vội vã trở về loan báo tin mừng Chúa phục sinh. Sự đau buồn của họ ở chân thập giá đã biến thành niềm vui mừng khi họ loan báo Chúa Kitô đã sống lại. Tôi cũng nghĩ đến các tông đồ, về những người mà Kinh Thánh đã viết: “Mỗi ngày trong đền thờ và tại tư gia, họ không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu” (Cv 5,42). Mối quan tâm chính của các môn đệ của Chúa Giêsu không phải là uy tín của cộng đoàn hoặc các thừa tác viên của cộng đoàn, địa vị xã hội hoặc những điểm tốt đẹp trong việc thờ phượng của nó. Không. Họ được thúc giục để rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Kitô (xem Rm 1,1).
Thưa anh chị em, Giáo hội Malta có thể giới thiệu một lịch sử phong phú mà từ đó có thể rút ra những kho tàng mục vụ và tâm linh tuyệt vời. Tuy nhiên, đời sống của Giáo hội – chúng ta hãy luôn ghi nhớ điều này – không bao giờ chỉ là “một quá khứ để tưởng nhớ”, nhưng là một “tương lai tuyệt vời để xây dựng”, luôn tuân theo các kế hoạch của Thiên Chúa. Một đức tin được tạo thành từ những truyền thống đã được tiếp nhận, những cử hành long trọng, những lễ hội phổ biến và những khoảnh khắc mạnh mẽ và đầy cảm xúc là không thể đủ; chúng ta cần một đức tin được xây dựng và không ngừng đổi mới trong cuộc gặp gỡ cá nhân với Chúa Kitô, trong việc lắng nghe lời Người hằng ngày, trong việc tham gia tích cực vào đời sống của Giáo hội và trong lòng đạo đức bình dân đích thực.
Sự khủng hoảng đức tin, sự thờ ơ thực hành tôn giáo, đặc biệt là hậu quả của đại dịch, và sự dửng dưng của nhiều người trẻ đối với sự hiện diện của Chúa: đây không phải là những vấn đề mà chúng ta nên “coi nhẹ” và nghĩ rằng, xét cho cùng, vẫn còn một tinh thần tôn giáo nào đó tồn tại. Đôi khi, các công trình kiến trúc có thể mang tính tôn giáo, nhưng bên dưới những hình dáng bên ngoài, đức tin đang phai nhạt dần dần. Không phải vẻ đẹp đẽ của phẩm phục tôn giáo lúc nào cũng tương ứng với một đức tin sống động được đánh dấu bằng lòng nhiệt thành loan báo Tin Mừng. Chúng ta cần đảm bảo rằng các thực hành tôn giáo không bị thu hẹp thành việc lặp lại quá khứ, nhưng vẫn là biểu hiện của một đức tin sống động, cởi mở, truyền bá niềm vui của Tin Mừng.
Tôi biết rằng, với Thượng Hội đồng, anh chị em đã bắt đầu một tiến trình canh tân và tôi cảm ơn anh chị em vì điều này. Thưa anh chị em, bây giờ là lúc quay trở lại với điểm khởi đầu đó, dưới chân Thánh giá, và nhìn vào cộng đồng Kitô hữu sơ khai. Để là một Giáo hội quan tâm đến tình bạn với Chúa Giê-su và việc rao giảng Tin Mừng của Người, chứ không phải tìm kiếm chỗ đứng và sự chú ý; một Giáo hội tập trung vào việc làm chứng, chứ không phải một số phong tục tôn giáo nhất định; một Giáo hội mong muốn đi ra gặp gỡ mọi người với ngọn đèn Tin Mừng đang cháy sáng, chứ không là một vòng tròn khép kín. Đừng sợ khởi hành, như bạn đã làm, trên những con đường mới, thậm chí có thể là những con đường đầy rủi ro, để loan báo Tin Mừng và rao giảng điều sẽ thay đổi cuộc sống.
Vì vậy, một lần nữa chúng ta hãy hướng đến nguồn cội, hướng về Mẹ Maria và thánh Gioan dưới chân Thánh giá. Tại chính cội nguồn của Giáo hội là hành động trao phó các ngài cho nhau. Chúa trao phó cho mỗi người chăm sóc người khác: thánh Gioan cho Đức Maria và Đức Maria cho thánh Gioan, kết quả là “kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,27). Quay trở lại ban đầu cũng có nghĩa là phát triển nghệ thuật chào đón. Những lời của Chúa Giêsu trên Thánh giá, nói với Mẹ Người và với thánh Gioan, kêu gọi chúng ta làm cho việc chào đón trở thành dấu ấn của người môn đệ. Thật vậy, đây không phải đơn giản là một hành động cảm thương, theo đó Chúa Giêsu đã giao Mẹ của Người cho thánh Gioan để Mẹ không đơn độc sau khi Người qua đời. Ngược lại, việc thánh Gioan chào đón Đức Maria vào nhà ngài là một dấu hiệu cụ thể cho thấy chúng ta nên sống điều răn cao trọng nhất, giới răn yêu thương, như thế nào. Việc thờ phượng Thiên Chúa được thực hiện qua sự gần gũi với anh chị em của chúng ta.
Trong Giáo hội, tình yêu huynh đệ và việc chúng ta chào đón tha nhân quan trọng biết bao! Chúa nhắc nhở chúng ta điều này vào “giờ” của thập giá, khi tín thác cho Đức Maria và thánh Gioan chăm sóc lẫn nhau. Người kêu gọi cộng đồng Kitô hữu ở mọi thời đại đừng quên ưu tiên này: “Này là con bà”, “Này là Mẹ của anh” (cc. 26.27). Như thể Người đã nói: “Anh em đã được cứu bởi cùng một dòng máu, anh em là một gia đình, vì vậy hãy chào đón nhau, yêu thương nhau, chữa lành vết thương cho nhau.” Hãy dẹp bỏ những nghi ngờ, chia rẽ, đồn thổi, đàm tiếu và ngờ vực. Hãy là một “thượng hội đồng”, hay nói cách khác, là “bước đi cùng nhau”. Bởi vì Thiên Chúa hiện diện ở bất cứ nơi nào tình yêu ngự trị!
Anh chị em thân mến, việc đón tiếp lẫn nhau, không phải vì hình thức thuần túy nhưng nhân danh Chúa Kitô, vẫn mãi là một thách đố. Một thách đố, trước hết là đối với các mối quan hệ trong Giáo hội của chúng ta, vì việc truyền giáo của chúng ta sẽ sinh hoa trái nếu chúng ta cùng nhau làm việc trong tình bạn và tình hiệp thông huynh đệ. Anh chị em là hai cộng đồng xinh đẹp, Malta và Gozo, giống như Đức Maia và thánh Gioan là hai người! Vậy thì, ước gì những lời của Chúa Giêsu trên Thánh giá trở thành sao bắc đẩu hướng dẫn anh chị em đón tiếp nhau, nuôi dưỡng sự thân thiết và làm việc trong sự hiệp thông! Hãy tiến về phía trước, luôn luôn cùng nhau!
Nhưng việc chào đón cũng là phép thử để đánh giá xem Giáo hội đã thấm nhuần tinh thần Tin Mừng đến mức độ nào. Đức Maria và thánh Gioan chấp nhận nhau không phải trong nơi ấm áp của Phòng Tiệc Ly, mà là dưới chân thập giá, nơi nghiệt ngã, nơi người ta bị kết án và bị đóng đinh như các tội phạm. Chúng ta cũng không thể chào đón nhau trong các mái ấm của những ngôi nhà thờ đẹp đẽ, trong khi bên ngoài rất nhiều anh chị em của chúng ta phải đau khổ, bị đóng đinh bởi nỗi đau, sự nghèo đói và bạo lực. Quốc gia của anh chị em nằm ở vị trí địa lý trọng yếu, nhìn ra Địa Trung Hải; đất nước của anh chị em giống như một thỏi nam châm và là cánh cổng cứu rỗi cho những người bị áp đặt bởi những thử thách của cuộc sống, những người, vì nhiều lý do, bước lên bờ biển của anh chị em. Chính Chúa Kitô, Đấng hiện ra với anh chị em trong gương mặt của những người đàn ông và phụ nữ đáng thương này. Đó là kinh nghiệm của thánh tông đồ Phaolô; sau vụ đắm tàukinh hoàng, ngài đã được tổ tiên của anh chị em chào đón niềm nở. Như chúng ta đọc thấy trong sách Công vị tông đồ, “người dân địa phương… đốt một đống lửa và tiếp đón tất cả chúng tôi, vì trời đã bắt đầu mưa và lạnh”(Cv 28,2).
Đây là Tin Mừng mà chúng ta được mời gọi thực hiện: chào đón người khác, trở thành “chuyên gia về lòng nhân đạo” và thắp lên ngọn lửa yêu thương dịu dàng cho những người nếm trải sự đau đớn và khắc nghiệt của cuộc sống. Trong trường hợp của thánh Phaolô cũng vậy, một điều gì đó quan trọng đã nảy sinh từ trải nghiệm ấn tượng đó, nhờ đó thánh Phaolô rao giảng Tin Mừng và sau đó, nhiều nhà giảng thuyết, các linh mục, các nhà truyền giáo và các nhân chứng đã theo bước chân ngài. Tôi muốn thêm một lời tri ân đặc biệt đến họ: đến nhiều nhà truyền giáo người Malta, những người đã truyền bá niềm vui của Tin Mừng trên khắp thế giới, đến nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ và tất cả anh chị em. Như Đức cha Teuma đã nói, anh chị em là một hòn đảo nhỏ, nhưng có trái tim vĩ đại. Anh chị em là một kho báu trong Giáo hội và cho Giáo hội. Để bảo tồn kho báu đó, anh chị em phải trở về với bản chất của Kitô giáo: với tình yêu của Thiên Chúa, động lực của niềm vui của chúng ta, điều khiến chúng ta đi ra và dong duổi các nẻo đường của thế giới; và với sự tiếp đón, tình yêu tha nhân, là bằng chứng đơn giản nhất và hấp dẫn nhất mà chúng ta có thể trình bày với thế giới.
Cầu xin Chúa đồng hành với anh chị em trên hành trình này, và xin Đức Thánh Trinh Nữ hướng dẫn bước đường của anh chị em. Xin Đức Mẹ, Đấng đã yêu cầu chúng ta cầu nguyện ba kinh “Kính Mừng”, nhắc nhở chúng ta về tấm lòng mẫu tử của Mẹ, nhen nhóm trong lòng chúng ta, những người con của Mẹ, ngọn lửa truyền giáo và ước muốn chăm sóc cho nhau. Xin Đức Mẹ phù hộ cho anh chị em!
Hồng Thủy
2022
Đức Thánh Cha thăm Hầm Thánh Phaolô ở Rabat
Đức Thánh Cha thăm Hầm Thánh Phaolô ở Rabat
Ngày thứ hai cũng là ngày cuối trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Malta được bắt đầu bằng buổi gặp gỡ ngắn với các tu sĩ Dòng Tên tại Toà Sứ thần ở Rabat. Sau đó lúc 8 giờ 30, Đức Thánh Cha đến kính viếng Hầm Thánh Phaolô ở Vương cung thánh đường thánh Phaolô tại Rabat cách đó 1,3 km.
Đức Thánh Cha thăm Hầm Thánh Phaolô ở Rabat (Vatican Media)
Hầm Thánh Phaolô
Hầm Thánh Phaolô nằm ở thành phố Rabat ngay bên ngoài các bức tường của Medina. Mặc dù rất nhỏ, thành phố này có bề dày lịch sử lâu đời. Theo truyền thống, đây là nơi Thánh Phaolô đã lưu lại vào năm 60 sau Công nguyên sau vụ đắm tàu do một cơn bão khủng khiếp, khi Thánh nhân được đưa đến Roma để chịu xét xử. Cùng với Thánh Phaolô còn có Thánh sử Luca, người đã thuật lại các sự kiện trong sách Tông đồ Công vụ (27,21-44; 28, 1-11). Vị Tông Đồ Dân Ngoại lưu lại Malta ba tháng, rao giảng, rửa tội và chữa lành bệnh tật. Cùng với Thánh Phaolô, Kitô giáo đã đến đảo. Ngày nay, người ta có thể đến Hầm Thánh Phaolô từ nhà thờ dâng kính Thánh Tông đồ qua một cầu thang.
Nơi thờ phượng cổ kính vẫn còn giữ được những bức tường đá, xen kẽ các yếu tố kiến trúc theo phong cách Baroque. Hầm Thánh Phaolô đã được Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II viếng thăm vào ngày 27/5/1990 và Đức nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI ngày 17/4/2010, dịp kỷ niệm 1950 năm vụ đắm tàu của Thánh Phaolô.
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được chào đón tại lối vào bên hông của Vương cung thánh đường Thánh Phaolô bởi Quản đốc và Kinh sĩ đoàn của Vương cung thánh đường, sau đó ngài đi xuống Hầm Thánh Phaolô.
Đức Thánh Cha cầu nguyện
Tại đây, Đức Thánh Cha đã dâng lời cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa nhân từ, trong sự quan phòng kỳ diệu của Chúa, Chúa muốn Tông đồ Phaolô loan báo tình yêu Chúa cho cư dân Malta, những người chưa biết Chúa. Thánh Tông đồ đã công bố Lời Chúa và chữa lành các bệnh tật cho họ.
Được cứu khỏi nạn đắm tàu, ở đây Thánh Phaolô và các bạn đồng hành đã được dân ngoại có tấm lòng nhân hậu đón tiếp, đối xử một cách nhân đạo hiếm có, họ nhận ra rằng Thánh Phaolô và các bạn đồng hành cần nơi trú ngụ an toàn và cần được trợ giúp. Không ai biết tên, nguồn gốc hoặc địa vị xã hội của những người gặp tai nạn đắm tàu; họ chỉ biết một điều: đây là những người cần được giúp đỡ.
Không có thời gian để thảo luận, để phán đoán, phân tích và tính toán: vì lúc này những người gặp nạn phải được trợ giúp; cư dân ở đây đã bỏ lại công việc để cứu giúp những người gặp nạn.
Họ đã đốt một ngọn lửa lớn, để Thánh Phaolô và các bạn đồng hành được sưởi ấm. Cư dân ở đây đã chào đón Thánh Tông đồ với một tâm hồn rộng mở và cùng với Púpliô, viên quan lớn nhất đảo và lòng thương xót, họ đã cho Thánh Phaolô và các bạn đồng hành nơi trú ngụ.
Lạy Cha nhân lành, xin ban cho chúng con ân sủng của một trái tim nhân hậu có nhịp đập vì tình thương dành cho anh chị em. Xin giúp chúng con nhận ra nhu cầu từ xa của những người đang vật lộn giữa sóng biển, bị ném vào tảng đá của bờ biển xa lạ.
Xin làm cho lòng trắc ẩn của chúng con không chỉ là những lời nói suông, nhưng thắp lên ngọn lửa chào đón, để có thể xoá tan ký ức về cơn bão, sưởi ấm những con tim và gắn kết chúng lại với nhau: lò sưởi của ngôi nhà xây trên đá, một gia đình duy nhất của những người con cùng một Cha, tất cả là anh chị em. Cha yêu họ không phân biệt và Cha muốn họ nên một với Con Cha, Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con, nhờ sức mạnh của lửa được gửi đến từ trời, Thánh Thần của Cha, đốt cháy mọi thù nghịch, và trong bóng tối đêm, chiếu soi đường đi hướng tới vương quốc tình yêu và hòa bình. Amen.
Cầu nguyện xong, Đức Thánh Cha thắp đèn và ghi vào sổ vàng lưu niệm.
Sau đó, khi đi qua nhà thờ Thánh Púpliô nằm phía trong Vương cung Thánh đường, Đức Thánh Cha chào thăm 14 vị lãnh đạo tôn giáo.
Đức Thánh Cha vào bên trong Vương cung thánh đường Thánh Phaolô, nơi có một số người bệnh hiện diện. Đức Thánh Cha đã cầu nguyện trước Thánh Thể:
Lạy Thiên Chúa, lòng thương xót Chúa vô biên
và kho tàng tốt lành Chúa vô tận:
xin gia tăng đức tin của dân tộc được thánh hiến cho Chúa,
để tất cả hiểu được, bằng sự khôn ngoan
tình yêu đã tạo dựng nên họ,
Máu đã cứu chuộc họ,
Thần Khí đã tái sinh họ.
Chúng con cầu xin nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng con. Amen.
Trước khi rời Vương cung thánh đường, Đức Thánh Cha ban phép lành cho những người đang hiện diện và chào thăm khoảng 20 người bệnh.
Ngọc Yến
2022
Giáo hội Công giáo Malta trước ngưỡng cửa cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha
GIÁO HỘI CÔNG GIÁO MALTA TRƯỚC NGƯỠNG CỬA
CUỘC VIẾNG THĂM CỦA ĐỨC THÁNH CHA
Hồng Thủy – Vatican News
Chuyến viếng thăm Malta của Đức Thánh Cha đã được lên kế hoạch từ 2 năm trước, vào cuối tháng 5/2020, nhưng do đại dịch Covid-19 bùng phát nên đến bây giờ Đức Thánh Cha mới có thể thực hiện chuyến viếng thăm.
Khẩu hiệu và logo của chuyến viếng thăm
Khẩu hiệu của chuyến viếng thăm là câu Kinh Thánh trích từ sách Công vụ Tông đồ: “Họ đối xử với chúng tôi một cách nhân đạo hiếm có” (Cv 28,29).
Logo có hình những bàn tay chắp lại hướng về Thánh giá, trên một con tàu trôi nổi giữa các ngọn sóng. Những bàn tay diễn tả sự đón tiếp của Kitô hữu dành cho tha nhân và sự trợ giúp đối với những người gặp khốn khó, bị bỏ rơi cho số phận. Con tàu nhắc lại sự kiện đắm tàu của Thánh Phaolô trên đảo Malta (Cv 27,27-44) và sự đón tiếp của người dân Malta dành cho Thánh Tông đồ và những người bị đắm tàu (Cv 28,1-10).
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ là vị Giáo hoàng thứ ba thăm Malta trong 30 năm nay. Thánh Gioan Phaolô II đã thăm Malta hai lần vào các năm 1990 và 2001, chặng cuối cùng trong “Cuộc hành hương Năm Thánh theo bước Thánh Tông đồ Phaolô”, và ngài đã tuyên phong Chân Phước cho cha Dun George Preca, sơ Adeodata Pisani và Chân Phước Nazju Falzon. Đức Biển Đức thăm Malta một lần vào tháng 4/2010, nhân kỷ niệm 1950 năm Thánh Phaolô đắm tàu ở Malta.
Nước Malta
Cộng hòa Malta là một quần đảo nằm ở miền Trung-Nam Địa Trung Hải, giữa bờ biển Sicilia của Ý và bờ biển Tunisia, gồm các đảo Malta, Gozo, Comino và các đảo nhỏ khác, có thủ đô là La Valletta. Malta có diện tích 316 km2 với 478.000 dân thuộc các nhóm sắc tộc chính như Malta (96%), người Anh (2%) và các sắc tộc khác (2%). Các ngôn ngữ chính thức của Malta là tiếng Malta và tiếng Anh. Số tín hữu Công giáo tại Malta chiếm 85%.
Mặc dù là một quốc gia có diện tích nhỏ bé nhưng Malta lại luôn có tầm quan trọng nổi bật, trên hết là vì vị trí chiến lược quan trọng của nó ở trung tâm Địa Trung Hải. Là thuộc địa của Anh từ năm 1800, đến ngày 21/9/1964 Malta trở thành quốc gia độc lập trong Khối thịnh vượng chung, và từ ngày 13/12/1974, nó trở thành một nước cộng hòa nghị viện. Kể từ khi độc lập, hai đảng chính đã luân phiên nắm quyền: Đảng Lao động (MPL) và Quốc dân Đảng (PN).
Malta gia nhập Liên minh Châu Âu vào năm 2004 sau một cuộc trưng cầu dân ý. Chủ tịch Nghị viện Châu Âu hiện nay là người Malta, bà Roberta Metsola. Là một quốc gia có truyền thống Công giáo lâu đời, Malta là quốc gia Châu Âu duy nhất không hợp pháp hóa việc phá thai, trong khi ly hôn đã được hợp pháp hóa vào năm 2011.
Trong một thời gian dài, kinh tế của Malta có thu nhập đáng kể từ sự hiện diện của căn cứ quân sự Anh. Sau khi căn cứ này bị đóng cửa hoàn toàn vào năm 1979, kinh tế của Malta chủ yếu dựa vào các hoạt động liên quan đến cảng của thủ đô Valletta, cũng như du lịch phát triển mạnh và các dịch vụ tài chính.
Với vị trí địa lý nằm giữa tuyến đường giữa Libya và Ý, trong những năm gần đây Malta đã phải đối mặt với áp lực di cư ngày càng lớn và họ đã xử lý tốt vấn đề dù gặp khó khăn, do lãnh thổ nhỏ.
Giáo hội Công giáo Malta
Giáo hội Công giáo Malta có nguồn gốc từ hoạt động loan báo Tin Mừng của Thánh Phaolô Tông đồ. Theo sách Công vụ Tông đồ (các chương 27-28), Thánh nhân đã bị đắm tàu ở Malta vào mùa Đông năm 60 khi trên đường đến Roma. Giám mục đầu tiên của Malta là Thánh Publio; ngài đã lãnh đạo Giáo hội Malta trong 3 thập niên cho đến khi chịu tử Đạo tại Athens vào năm 112.
Sự hiện diện của Kitô giáo tại Malta được ghi dấu qua khoa khảo cổ học và các tài liệu. Như các phần khác của đế quốc Roma cổ, Kitô giáo đã xuất hiện công khai sau chiếu chỉ Milano của hoàng đế Constantino vào năm 313. Vào nửa đầu thế kỷ VIII, các đảo của Malta cùng với các đảo Sicilia, Calabria và Illyricum của Ý được hợp nhất vào Giáo hội Byzantine. Trong khoảng một thế kỷ, các nhà thờ ở những đảo này thuộc Giáo hội Hy Lạp. Ảnh hưởng của Hy Lạp tiếp tục trong suốt thời gian Hồi giáo thống trị Malta.
Năm 1530 hoàng đế Carlo V đã nhượng lại quần đảo Malta cho các Hiệp sĩ của Dòng Thánh Gioan (được gọi là Hội Hiệp sĩ Malta). Các hiệp sĩ rời bỏ Malta vào năm 1798, khi Napoléon Bonaparte chiếm đóng quần đảo. Năm 1817, giáo phận Malta trở thành một phần của giáo tỉnh Palermo và vào năm 1844, nó được tuyên bố là thuộc quyền của Tòa Thánh. Malta được Đức Giáo hoàng Pio XII nâng lên hàng Tổng Giáo phận chính tòa vào năm 1944.
Ngày 15/12/1965, sau khi độc lập, Cộng hòa Malta thiết lập quan hệ ngoại giao với Tòa Thánh.
Một Giáo hội sống động
Hiện nay Giáo hội Malta có Tổng Giáo phận Malta và giáo phận Gozo, với 6 giám mục, 716 linh mục, gồm 411 linh mục triều và 305 linh mục dòng, 33 tu sĩ nam và 716 nữ tu. Giáo hội điều hành 74 trường học và 81 trung tâm bác ái và xã hội.
Tín hữu Công giáo Malta sống đạo sống động, phần lớn trong số 85% tín hữu tham dự Thánh lễ Chúa Nhật đều đặn. Đời sống giáo xứ rất tích cực và 85 giáo xứ hiện có đã hòa nhập hoàn toàn vào đời sống và kết cấu của thành phố. Về tổng thể, tình cảm tôn giáo vẫn còn mạnh mẽ và sự hiện diện của Giáo hội đã ăn sâu vào cơ cấu xã hội, ngay cả qua nhiều tổ chức của Giáo hội.
Hoạt động giáo dục
Về lĩnh vực giáo dục, Giáo hội Malta điều hành hơn 70 trường Công giáo. Theo Hiến pháp Malta, đạo Công giáo được giảng dạy trong các trường công lập. Một nguyên tắc được tái khẳng định trong thỏa thuận giữa Tòa Thánh và Malta ký ngày 16/11/1989, và trong “Các phương thức của quy định về giáo dục và giảng dạy đạo Công giáo trong các trường công lập”. Một thỏa thuận khác giữa Tòa Thánh và Malta, được ký vào ngày 28/11/1991, đảm bảo sự tồn tại của các trường học do Giáo hội điều hành trên đảo.
Hoạt động bác ái xã hội
Về hoạt động bác ái xã hội, Giáo hội có rất nhiều cơ sở trợ giúp dành cho người già, người khuyết tật về thể lý và tâm trí, trong đó lâu đời nhất là “Nhà Chúa Quan phòng”, được Đức ông Mikiel Azzopardi, linh hướng của phong trào Công giáo Tiến hành Malta, thành lập vào năm 1965. Giáo hội còn điều hành những trung tâm dành cho những người nghiện ma túy. Giáo hội là tổ chức đầu tiên mở một cơ sở cho những người có vấn đề về ma túy; và cuối cùng là các cơ sở trợ giúp những nhóm xã hội nghèo nhất.
Hoạt động truyền giáo
Cộng đồng Công giáo Malta cũng rất tích cực về truyền giáo, một công việc ngày nay không chỉ liên quan đến các linh mục, tu sĩ nam nữ, mà còn cả giáo dân và các gia đình.
Những thách đố
Sống đức tin trong bối cảnh đa nguyên
Nhưng Giáo hội Malta cũng phải đối mặt với những thách thức do sự phát triển của xã hội đặt ra: trước hết là vấn đề rao truyền đức tin trong bối cảnh đa nguyên. Một đức tin không chỉ là tôn giáo bên ngoài hoặc một thực tế xã hội học, nghĩa là, được thừa hưởng từ gia đình, như trong quá khứ, nhưng sống động, nhận thức và được đào tạo tốt, được chia sẻ và làm chứng trong mọi môi trường. Ví dụ, trong Thư Mùa Vọng năm 2012, Giáo hội Malta kêu gọi các tín hữu “đừng sợ thử thách của công cuộc tái truyền giảng Tin Mừng”, nhưng hãy “ứng phó với những khó khăn.”
Khủng hoảng đời sống hôn nhân gia đình
Một thách đố lớn khác là cuộc khủng hoảng gia đình hiện đã ảnh hưởng đến xã hội Malta; bằng chứng của điều này là chiến thắng trong cuộc trưng cầu dân ý về ly hôn, được tổ chức vào năm 2011. Thực tế, cho đến thời điểm đó, Malta là quốc gia Châu Âu duy nhất không cho phép tháo gỡ pháp lý về hôn nhân.
Cuộc thảo luận về thụ tinh trong ống nghiệm vào năm 2012 cũng rất sôi nổi, sau đó đã được Quốc hội thông qua. Trong nhiều tuyên bố khác nhau, các giám mục địa phương đã xác định thực hành này là “không thể chấp nhận được về mặt đạo đức”, và đưa ra lời kêu gọi bảo vệ sự sống và bảo vệ sự liên kết và tình yêu hôn nhân.
Năm 2017, Malta đã hợp pháp hóa các kết hợp đồng giới. Cũng trong trường hợp này, các giám mục đã bày tỏ sự tiếc nuối và nhắc lại rằng “hôn nhân sẽ luôn là sự kết hợp duy nhất giữa một người nam và một người nữ, và nhắm đến việc sinh sản con cái”. Tuy nhiên, tại Malta, phá thai vẫn là điều bất hợp pháp.
Về mặt tự do tôn giáo, cần lưu ý rằng: vào tháng 7 năm 2016, Luật 133 đã sửa đổi một đạo luật năm 1933 trừng phạt việc bôi nhọ tôn giáo Công giáo.
Vấn đề người nhập cư
Cuối cùng là thách đố chống lại tình trạng nghèo khổ cũ và mới và vấn đề nhập cư. Về vấn đề nhập cư, Giáo hội Malta dấn thân cả trong việc nâng cao nhận thức và thúc đẩy văn hóa chào đón và hội nhập, cũng như hỗ trợ vật chất cho người nhập cư và người tị nạn thông qua Ủy ban Di cư, và trong việc vận động để bảo vệ quyền của những người này. Các Giám mục Malta cũng mạnh mẽ dấn thân trong việc bảo vệ thụ tạo, đặc biệt là bảo vệ lãnh thổ khỏi các vụ lạm dụng xây dựng ven biển. Trong một số trường hợp, Ủy ban Môi trường liên giáo phận đã kêu gọi sự cần thiết phải đảm bảo sự phát triển bền vững và hệ sinh thái.
Tiếng nói của các Giám mục Malta
Các Giám mục Malta cũng đã lên tiếng về một số sự kiện chính trị ảnh hưởng đến đất nước trong những năm gần đây. Vào năm 2019, các ngài đã đưa ra lời kêu gọi mạnh mẽ cho sự đoàn kết dân tộc và không làm trầm trọng thêm sự chia rẽ sau những tiết lộ về vụ sát hại nhà báo Daphne Caruana Galicia, khiến các nhà lãnh đạo của chính phủ Muscat bị thẩm vấn. Trong một thông tư được công bố vào những ngày đó, các Giám mục đã mời tất cả các bên liên quan “làm việc vì lợi ích chung của xã hội Malta nói chung”, thúc đẩy “công lý, sự thật và trung thực”, tôn trọng lẫn nhau và “mạnh mẽ từ chối mọi hình thức bạo lực.”
Hội Hiệp sĩ Malta
Tại Malta có một tổ chức Giáo hội nhưng cũng có tính quốc tế, đó là Hội Hiệp sĩ Malta. Được thành lập vào năm 1113, Hội Hiệp sĩ Malta ngày nay hoạt động tại 120 quốc gia, với 13.500 thành viên nam nữ, chủ yếu trong lĩnh vực hỗ trợ y tế và nhân đạo với tư cách là cơ quan luật pháp quốc tế và một dòng tu giáo dân Công giáo.
Nguồn: vaticannews.va/vi/