2022
Những linh mục truyền giáo tình nguyện ở lại Ucraina với giáo dân
Những linh mục truyền giáo tình nguyện ở lại Ucraina với giáo dân
Khi cuộc xâm lược của Nga tại Ucraina đã kéo dài hơn một tháng, hàng triệu người dân Ucraina đã di tản sang các nước láng giềng, thì tại Ucraina vẫn có những linh mục ngoại quốc, những nhà truyền giáo sẵn sàng bất chấp nguy hiểm đến mạng sống, tình nguyện ở lại để chia sẻ đau khổ với người dân và đặc biệt để cầu nguyện, ban bí tích và nâng đỡ họ.
Cha Lucas Perozzi, người Brazil
“Cuộc sống của họ là cuộc sống của tôi, số phận của họ là số phận của tôi.” Đó là những lời của cha Lucas Perozzi, một linh mục người Brazil đang truyền giáo tại Ucraina. Đang sống trong cảnh chiến tranh ở Ucraina nhưng cha Lucas từ chối rời đất nước này. Cha cảm động trước nhiều tấm gương hy vọng mà cha đã chứng kiến trong cuộc xung đột này.
Cha Lucas đã ở Ucraina từ năm 2004. Khi còn trẻ, cha đã tham dự một cuộc gặp gỡ của phong trào Con đường Tân Dự tòng ở Ý và cuối cùng được mời đến Ucraina, nơi cha trở thành một linh mục. Hiện nay cha đang ở Kiev, thủ đô của Ucraina. Kể từ những ngày đầu tiên của cuộc chiến, cha và ba linh mục khác đã tiếp đón khoảng 30 người tại giáo xứ Đức Trinh Nữ Maria. Mặc dù không khoẻ và có thể rời khỏi Ucraina nếu muốn, cha quyết định ở lại với những người cha đến để phục vụ và yêu thương.
Cha Lucas giải thích với tổ chức bác ái “Trợ giúp các Giáo hội đau khổ” của Toà Thánh: “Trong thời kỳ chiến tranh này, người dân không thể ở trong nhà riêng của họ mà phải qua đêm trong boongke và trong các nhà ga dưới lòng đất. Thật là khủng khiếp, bởi vì những nơi này lạnh lẽo, bẩn thỉu và rất tối. Họ sợ hãi, kinh khiếp. Những người đến ở với chúng tôi bây giờ có thể ngủ qua đêm, trong bầu không khí yên bình, bất chấp chiến tranh. Ở đây có tình liên đới huynh đệ, mọi người giúp đỡ lẫn nhau. Khi ai đó thất vọng, buồn sầu và sợ hãi, sẽ có ai đó giúp đỡ họ.” Cha cho biết rằng âm thanh của chiến tranh đã vang lên suốt cả ngày. Hàng hóa cũng đang khan hiếm dần. “Một số cửa hàng vẫn mở cửa, nhưng các kệ hàng của họ ngày càng trống trải. Thuốc men cũng bắt đầu cạn kiệt.” (CSR_1336_2022)
Cha Pedro Zafra, người Tây Ban Nha
Một linh mục khác cũng thuộc phong trào Con đường Tân dự tòng, cũng đang sẵn sàng ở lại Ucraina với đoàn chiên của mình. Đó là cha Pedro Zafra, 31 tuổi, một linh mục đến từ Córdoba, Tây Ban Nha. Cha đến Kiev vào năm 2011 để được đào tạo làm linh mục và được chịu chức linh mục hồi tháng 6/2022. Hiện cha đang phục vụ tại giáo xứ Đức Mẹ Hồn xác lên trời ở thủ đô của Ucraina.
Mặc dù chiến tranh bùng nổ, nhưng vị linh mục này vẫn quyết định ở lại với giáo dân của mình và không rời bỏ Ucraina. Cha nói rằng “đó là một cuộc chiến nội tâm”, và cho biết cha đã tìm thấy câu trả lời trong lời cầu nguyện từ đoạn Phúc âm “nói về sứ vụ truyền giáo và sự hỗ trợ của ơn Chúa để thực hiện nó”, và đó là lý do tại sao cha quyết định ở lại.
Cho đến ngày 24/2/2022, khi Nga bắt đầu xâm lược Ucraina, cuộc sống trong giáo xứ của cha vẫn giống như bất kỳ nơi nào khác. Nhưng kể từ khi chiến tranh bắt đầu, giáo xứ đã trở thành một trung tâm tiếp nhận, nơi hơn 20 giáo dân phải trú ẩn dưới tầng hầm vì nhà của họ không đủ an toàn.
Cha Zafra khẳng định: “Tôi không phải là anh hùng. Tôi không thể tự mình giải quyết tình huống này. Chính Chúa là Đấng ban cho tôi sức mạnh thông qua lời cầu nguyện và các bí tích.” Cha giải thích: “Có những lúc tôi trở nên hơi lo lắng trong sự vô nghĩa khi về mặt con người tôi không hiểu lý do của những gì đang xảy ra, nhưng bây giờ tôi đã tìm thấy nhiều ý nghĩa hơn trong lời cầu nguyện và các bí tích, những điều ban cho tôi ân sủng để không bỏ trốn và kiên trì với những người đang đau khổ.”
Cha cho biết cộng đoàn trong thời chiến của cha thức dậy lúc 7:30 sáng, cùng nhau cầu nguyện, ăn sáng và sau đó dành cả buổi sáng để làm các công việc khác nhau. Cha thường đến thăm những người bệnh và người già không thể rời khỏi nhà của họ, mang Mình Thánh cho họ và bất cứ thứ gì họ có thể cần.
Ngoài ra, giáo xứ Đức Mẹ Hồn xác lên trời còn là một trung tâm phân phối viện trợ nhân đạo vì rất nhiều người, kể cả những người ngoại đạo, đến đây mỗi ngày để xin giúp đỡ về vật chất và tài chính.
Phần lớn các dịch vụ cơ bản như trạm xăng, siêu thị và nhà thuốc vẫn mở cửa. Cha Zafra cho biết rằng họ đi lại bình thường, mặc dù đôi khi họ nghe thấy tiếng nổ ở xa.
Giáo xứ cũng tiếp tục các hoạt động tương đối bình thường, mặc dù họ đã dời Thánh lễ lên sớm hơn để các tín hữu có thể trở về nhà trước giờ giới nghiêm, và đôi khi trước nguy cơ có thể bị đánh bom, họ đã chuyển xuống cử hành Thánh lễ ở tầng hầm. Trong những tuần gần đây, họ đã cử hành hai Thánh lễ Rước lễ Lần đầu và ba lễ cưới.
Cha Zafra cũng lưu ý rằng vào tháng trước, số người tham dự thánh lễ đã tăng lên. Cha giải thích về điều này: “Mọi người đến để tìm kiếm câu trả lời cho sự đau khổ. Trước đây họ có công việc, dự án cuộc đời của họ và bây giờ tất cả điều đã biến mất, họ không còn bất kỳ sự an toàn nào nữa và họ đang tìm kiếm câu trả lời từ Chúa.”
Cha nhấn mạnh đến nỗi đau khổ tột cùng của người dân Ucraina: “Có rất nhiều căng thẳng, lo lắng cho an ninh, cho chính cuộc sống của mình. Sự không chắc chắn phát sinh bởi việc họ không biết điều gì sẽ xảy ra; họ sống từ ngày này sang ngày khác. Chúng tôi không biết liệu mình có còn sống vào ngày mai hay không.” (CNA 29/03/2022)
Hồng Thủy
2022
ĐTC nói ngài muốn thăm các dân tộc bản địa Canada vào tháng 7 năm nay
ĐTC nói ngài muốn thăm các dân tộc bản địa Canada vào tháng 7 năm nay
Trong cuộc gặp gỡ các nhóm dân tộc bản địa Canada vào sáng thứ Sáu 1/4/2022, Đức Thánh Cha nói rằng ngài muốn thăm Canada vào mùa hè này, có thể là vào dịp lễ thánh Anna, 26/7. Đức Thánh Cha cũng bày tỏ sự đau buồn, xấu hổ và phẫn nộ vì những lạm dụng và đối xử tàn tệ của một số người trong Giáo hội đối với các nhóm người bản địa ở Canada.
Đức Thánh Cha đã tiếp chung các đại diện 3 nhóm người bản địa Inuit, Métis và các Dân tộc đầu tiên sau khi đã gặp riêng từng nhóm trong tuần này, nghe các câu chuyện của họ liên quan đến hệ thống trường nội trú do chính phủ thiết lập và được các Giáo hội Kitô điều hành ở Canada, một kế hoạch để hòa nhập mạnh mẽ trẻ em bản địa vào văn hóa Canada bằng cách tách chúng ra khỏi gia đình và cộng đồng và đưa chúng vào các trường nội trú. Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bối cảnh hành trình hàn gắn và hoà giải được bắt đầu tại Canada để mang lại sự công nhận và công bằng cho các nạn nhân.
Muốn thăm người bản địa Canada vào cuối tháng 7
Đề cập đến lòng sùng kính thánh Anna lan rộng giữa các nhóm người bản địa Canada, Đức Thánh Cha nói về ý định của ngài: “Năm nay tôi mong muốn ở với anh chị em trong những ngày đó.” Và vào cuối bài diễn văn, Đức Thánh Cha lặp lại ý định của ngài: “Tôi đã được phong phú thêm nhờ lời nói của anh chị em và thậm chí nhiều hơn nữa nhờ chứng tá của anh chị em. Anh chị em đã mang đến Roma này ý nghĩa sống động của các cộng đồng của anh chị em. Tôi sẽ rất vui khi được tận hưởng một lần nữa từ cuộc gặp gỡ với anh chị em, bằng cách đến thăm quê hương của anh chị em, nơi gia đình anh chị em sinh sống. Tôi sẽ không đến thăm anh chị em trong mùa đông! Vì vậy, tôi hẹn gặp anh chị em ở Canada, nơi tôi có thể bày tỏ tốt hơn sự gần gũi của tôi với anh chị em.”
Xấu hổ và phẫn nộ
Trong bài diễn văn nói với các đại diện các nhóm người bản địa, Đức Thánh Cha nói rằng ngài cảm thấy rất buồn khi nghe chứng tá của các nhóm người bản địa về đau khổ, sự tước đoạt, đối xử phân biệt và các hình thức lạm dụng khác mà họ phải chịu. Ngài cảm thấy xấu hổ và phẫn nộ.
Đức Thánh Cha phẫn nộ “bởi vì thật không công bằng khi chấp nhận điều ác, và càng tệ hơn khi quen với sự ác, như thể đó là một động lực khó tránh khỏi, phát sinh do những biến cố của lịch sử.” Ngài nói thêm: “Nếu không có sự phẫn nộ kiên định, không có ký ức và không có sự dấn thân học hỏi từ những sai lầm, thì các vấn đề sẽ không được giải quyết và chúng sẽ quay trở lại.”
Và ngài cảm thấy xấu hổ vì vai trò của một số người Công giáo, đặc biệt là những người với trách nhiệm giáo dục, trong việc làm tổn thương những người bản địa, trong việc lạm dụng và thiếu tôn trọng căn tính và văn hoá của họ, thậm chí là các giá trị tinh thần.
Xin tha thứ
Đức Thánh Cha xin Thiên Chúa tha thứ cho những hành xử đáng trách của một số thành viên trong Giáo hội. Ngài nói rằng ngài và các giám mục Canada xin lỗi anh chị em người bản địa và cũng nhấn mạnh rằng “các nội dung của đức tin không thể được truyền trao theo cách xa lạ với đức tin. Chúa Giêsu dạy chúng ta phải chào đón, yêu thương, phục vụ và không xét đoán; thật là khủng khiếp khi, nhân danh đức tin, người ta thực hiện một phản chứng với Tin Mừng.”
Lên án “thực dân hoá”
Đức Thánh Cha gọi việc “nhổ bỏ gốc rễ” của người bản địa thông qua quá trình thực dân hoá là thảm kịch. Ngài giải thích rằng một số gia đình đã bị ly tán, “nhiều thiếu niên đã trở thành nạn nhân của hành động đồng hoá này,” điều cũng đang xảy ra ngày nay, ở nhiều cấp độ khác nhau: thực dân hóa ý thức hệ, thực dân hóa chính trị và kinh tế “bị thúc đẩy bởi lòng tham, bởi thèm khát lợi nhuận, bất kể các dân tộc, lịch sử và truyền thống của họ, và ngôi nhà chung của thụ tạo.”
Mong muốn của Đức Thánh Cha là “những cuộc gặp gỡ trong những ngày này có thể mở ra thêm những con đường để đi cùng nhau, khơi dậy lòng can đảm và tăng cường sự dấn thân ở cấp độ địa phương.” (CSR_1376_2022)
Hồng Thủy
2022
ĐTC bắt đầu chuyến tông du đến Malta
ĐTC bắt đầu chuyến tông du đến Malta
Sáng thứ Bảy 2/4, Đức Thánh Cha khởi hành từ sân bay Fiumicino đến Malta để bắt đầu chuyến tông du 2 ngày đến đất nước này. Trên chuyến bay, một nhà báo đã hỏi liệu ĐTC có suy xét đến một chuyến viếng thăm Kyiv không, và ngài trả lời rằng nó là một đề xuất đang được xem xét.
Sáng thứ Bảy 2/4, Đức Thánh Cha bắt đầu chuyến tông du 2 ngày đến Malta. Ngài đến sân bay Fiumicino lúc 8 giờ 10 sáng và được chào đón bởi Đức cha Gianrico Ruzza của giáo phận Porto-Santa Rufina, nơi có phi trường Fiumicino.
Máy bay A320 của hãng hàng không ITA chở Đức Thánh Cha, đoàn tuỳ tùng và các nhà báo khởi hành lúc 8 giờ 39 phút. Trên chuyến bay khoảng 1 tiếng rưỡi từ Roma đến Malta, Đức Thánh Cha chào các nhà báo của nhiều hãng tin khác nhau cùng đi với ngài. Một nhà báo đã hỏi liệu ĐTC có suy xét đến việc thăm Kyiv không. Và ngài nói rằng nó là một đề xuất đang được xem xét.
Máy bay đáp xuống sân bay quốc tế Malta lúc 10 giờ. Sứ thần Toà Thánh tại Malta và Trưởng nghi lễ đã đón Đức Thánh Cha tại cầu thang máy bay. Tại sân bay, Đức Thánh Cha được Tổng thống George William Vella và phu nhân chào đón, cùng với hai em bé Malta tặng hoa cho ngài.
Tại sân bay, nghi thức chào đón chính thức đã diễn ra với việc giới thiệu đoàn tuỳ tùng của hai phía, quốc thiều của hai nước và duyệt qua hàng quân danh dự.
Sau đó, ĐTC di chuyển bằng xe đến Dinh Đại Sư ở Valletta để thăm hữu nghị Tổng thống Cộng hoà Malta.
Tổng thống George William Vella của cộng hoà Malta sinh năm 1942, chuyên về lĩnh vực y khoa và làm việc nhiều năm với tư cách là chuyên viên y học hàng không. Năm 1977 ông được bổ nhiệm làm cố vấn của hãng hàng không Air Malta về hàng không dân sự. Ông được bầu vào Quốc hội lần đầu tiên năm 1978. Sau đó ông giữ các chức vụ phó Thủ tướng và Ngoại trưởng. Năm 2019, ông được bầu làm tổng thống Cộng hoà Malta. Ông Vella lập gia đình và có ba người con. Trong buổi thăm hữu nghị, Đức Thánh Cha có chào thăm gia đình của Tổng thống.
Sau khi thăm hữu nghị Tổng thống, ĐTC có một cuộc gặp ngắn với Thủ tướng Malta trước khi di chuyển đến Đại sảnh Hội đồng để gặp Chính quyền và ngoại giao đoàn.
Văn Yên, SJ
(Vatican News 02.04.2022)
2022
Diễn văn của ĐTC tại buổi gặp chính quyền và ngoại giao đoàn của Malta
Diễn văn của ĐTC tại buổi gặp chính quyền và ngoại giao đoàn của Malta
Đức Thánh Cha nói với chính quyền và ngoại giao đoàn Malta: Tôi muốn mượn hình ảnh “hoa hồng gió”, mô tả gió theo bốn điểm chính của la bàn, để phác hoạ bốn ảnh hưởng thiết yếu đối với đời sống xã hội và chính trị của đất nước này.
Đức Thánh Cha Phanxicô gặp chính quyền và ngoại giao đoàn (AFP or licensors)
Thưa Tổng thống,
Các thành viên Chính phủ và Ngoại giao đoàn, các nhà chức trách,
Các đại diện xã hội dân sự,
Quý bà và quý ông!
Tôi thân ái chào và cảm ơn Tổng thống về những lời tốt đẹp ngài thay mặt cho toàn thể người dân Malta ngỏ với tôi. Tổ tiên quý vị đã đón tiếp Tông đồ Phaolô trong hành trình thánh nhân đến Roma, đối xử với ngài và các bạn đồng hành “một cách nhân đạo hiếm có” (Cv 28, 2). Từ Roma đến đây, tôi cũng được trải nghiệm sự chào đón nồng nhiệt đó, một kho báu được người Malta truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Nhờ vị trí địa lý, Malta có thể được gọi là trái tim của Địa Trung Hải. Nhưng không chỉ bởi địa lý: trong hàng ngàn năm sự giao thoa của các sự kiện lịch sử và sự gặp gỡ của các dân tộc khác nhau đã biến hòn đảo này trở thành trung tâm của sức sống và văn hóa, tinh thần và vẻ đẹp, một giao lộ có thể đón nhận và hài hòa những ảnh hưởng từ nhiều nơi trên thế giới. Sự đa dạng về ảnh hưởng này làm cho chúng ta liên tưởng đến nhiều loại gió thổi qua đất nước. Không phải ngẫu nhiên mà trong các bản đồ cổ đại về Địa Trung Hải, “hoa hồng gió” thường được mô tả gần đảo Malta. Tôi muốn mượn hình ảnh “hoa hồng gió”, mô tả gió theo bốn điểm chính của la bàn, để phác hoạ bốn ảnh hưởng thiết yếu đối với đời sống xã hội và chính trị của đất nước này.
Các luồng gió thổi qua các đảo Malta chủ yếu là từ phía tây bắc. Phương bắc gợi nhớ đến châu Âu, đặc biệt ngôi nhà của Liên minh châu Âu, được xây dựng như nơi ở cho một đại gia đình duy nhất liên kết trong việc duy trì hòa bình. Sự đoàn kết và hòa bình là món quà mà người dân Malta cầu xin Chúa mỗi khi quốc ca được cất lên. Thực vậy, lời cầu nguyện được viết bởi Dun Karm Psaila có nội dung: “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban sự khôn ngoan và lòng thương xót cho người cầm quyền, sức khỏe cho người làm việc, và đảm bảo sự thống nhất và hòa bình cho người dân Malta”. Hòa bình theo sau sự thống nhất và đi lên từ đó. Điều này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc làm việc cùng nhau, đặt sự gắn kết trước mọi sự chia rẽ, củng cố nguồn gốc và giá trị chung đã tạo nên sự độc đáo của xã hội Malta.
Nhưng để đảm bảo một sự chung sống xã hội tốt đẹp, việc củng cố cảm giác thuộc về thì chưa đủ; cần phải củng cố nền tảng của việc sống chung, dựa trên luật pháp và tính hợp pháp. Trung thực, công bằng, ý thức trách nhiệm và minh bạch là những trụ cột thiết yếu của một xã hội dân sự trưởng thành. Ước mong việc cam kết xóa bỏ bất hợp pháp và tham nhũng sẽ mạnh mẽ như ngọn gió thổi từ phương bắc, quét qua các bờ biển của đất nước. Cầu mong tính hợp pháp và sự minh bạch luôn được trau dồi trong đất nước, điều này có thể giúp loại bỏ tội ác và tội phạm, được thống nhất bởi thực tế là chúng không xảy ra dưới ánh sáng mặt trời.
Ngôi nhà châu Âu, vốn dấn thân thúc đẩy các giá trị công bằng và bình đẳng xã hội, cũng đi đầu trong các nỗ lực bảo vệ ngôi nhà thụ tạo rộng lớn hơn. Môi trường chúng ta đang sống là một hồng ân từ trời cao, như quốc ca của quý vị vẫn công nhận, bằng cách cầu xin Chúa gìn giữ vẻ đẹp của vùng đất này, người mẹ được trang điểm bằng ánh sáng rực rỡ nhất. Ở Malta, nơi vẻ đẹp rực rỡ của phong cảnh làm dịu bớt khó khăn, thụ tạo xuất hiện như một ân ban, mà giữa những thử thách của lịch sử và cuộc sống, gợi cho chúng ta vẻ đẹp của cuộc sống trên mặt đất. Do đó, nơi đây phải được bảo vệ khỏi lòng tham tiền bạc và đầu cơ xây dựng, điều không chỉ gây thiệt hại đến cảnh quan nhưng đến cả tương lai. Trái lại, bảo vệ môi trường và công bằng xã hội chuẩn bị cho tương lai, và là những cách tuyệt vời để làm cho những người trẻ đam mê chính trị lành mạnh, và bảo vệ họ khỏi những cám dỗ dửng dưng và không dấn thân.
Gió phương bắc thường kết hợp với gió đến từ phương tây. Thật vậy, quốc gia châu Âu này, đặc biệt là giới trẻ, chia sẻ lối sống và tư duy phương Tây. Từ đó, bắt nguồn những điều tuyệt vời – tôi nghĩ đến những giá trị của tự do và dân chủ – nhưng cũng có những nguy cơ cần cảnh giác, để khao khát tiến bộ không dẫn đến sự tách khỏi cội nguồn. Malta là một “phòng thí nghiệm phát triển hữu cơ” tuyệt vời, nơi mà tiến bộ không có nghĩa là cắt đứt cội nguồn với quá khứ nhân danh sự thịnh vượng giả tạo được quyết định bởi lợi nhuận, nhu cầu và tiêu dùng, cũng như quyền có mọi quyền. Để phát triển lành mạnh, điều quan trọng là phải giữ gìn ký ức và tôn trọng sự hòa hợp giữa các thế hệ, không để mình bị đồng hoá bởi sự công nhận giả tạo và thực dân hóa tư tưởng.
Nền tảng sự phát triển vững chắc là con người, tôn trọng sự sống và phẩm giá của mỗi người. Tôi biết người Malta dấn thân đón nhận và bảo vệ sự sống. Trong Sách Công vụ Tông đồ, người dân của đảo này được biết đến vì đã cứu nhiều người. Tôi khuyến khích quý vị tiếp tục bảo vệ sự sống từ khi bắt đầu đến khi kết thúc tự nhiên, nhưng cũng luôn bảo vệ sự sống ở mọi thời điểm khỏi sự vứt bỏ và lãng quên. Tôi đặc biệt nghĩ đến phẩm giá của những người lao động, người già và người bệnh. Và đối với những người trẻ, những người có nguy cơ vứt bỏ những điều tốt đẹp mà họ đang có mà đuổi theo những ảo tưởng để lại nhiều trống rỗng bên trong. Đây là hậu quả của chủ nghĩa tiêu thụ, thờ ơ trước nhu cầu của người khác và tai hoạ của ma túy, bóp nghẹt tự do bằng cách tạo ra cơn nghiện và lệ thuộc. Chúng ta hãy bảo vệ vẻ đẹp của sự sống!
Tiếp tục “hoa hồng gió”, chúng ta hướng về phương nam, nơi có nhiều anh chị em chúng ta đang tìm hy vọng. Tôi cám ơn chính quyền dân sự và người dân Malta vì sự chào đón dành cho họ nhân danh Tin Mừng, tính nhân văn và tinh thần hiếu khách đặc trưng của người Malta. Theo gốc từ Phê-nê-xi, Malta có nghĩa là “bến cảng an toàn”. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, trước sự gia tăng dòng người, nỗi sợ hãi và bất an đã tạo ra sự ngã lòng và thất vọng. Để tiếp cận tốt vấn đề di cư phức tạp, phải đặt điều này trong những viễn tượng rộng lớn hơn về thời gian và không gian. Về thời gian: hiện tượng di cư không phải là tình trạng nhất thời, nhưng đánh dấu thời đại chúng ta. Nó mang theo những gánh nặng của những bất công trong quá khứ, khai thác, biến đổi khí hậu, của những cuộc xung đột mà hậu quả là họ phải trả giá. Từ phía nam nghèo nàn và đông dân cư, hàng loạt người di chuyển đến phía bắc giàu có hơn: đây là một thực tế, và không thể bị bỏ qua bằng việc đóng cửa lỗi thời, bởi vì nó sẽ không tạo ra thịnh vượng và hội nhập. Từ quan điểm không gian, tình trạng khẩn cấp di cư ngày càng gia tăng – ở đây chúng ta nghĩ đến những người tị nạn từ Ucraina bị chiến tranh tàn phá – đòi hỏi những đáp ứng trên diện rộng và được chia sẻ. Không thể có chuyện một số quốc gia gánh vác tất cả vấn đề trong khi các quốc gia khác dửng dưng! Vì lợi ích riêng, các quốc gia văn minh không thể phê chuẩn những thỏa thuận ám muội với những kẻ bất lương bắt người khác làm nô lệ. Địa Trung Hải cần sự đồng trách nhiệm của châu Âu, để một lần nữa trở thành sân khấu mới của tình liên đới và không phải là tiền đồn của một vụ đắm tàu bi thảm của nền văn minh.
Nói đến việc đắm tàu, tôi nghĩ đến Thánh Phaolô, đã đến bờ biển này một cách bất ngờ trong chuyến vượt biển cuối cùng trên Địa Trung Hải và được cứu giúp. Rồi ngài bị rắn độc cắn, và bị cho là đã phạm tội sát nhân; tuy nhiên, ngay sau đó, ngài được coi là vị thần vì rắn độc không làm hại được ngài (Cv 28,3-6). Giữa hai thái cực này, cần chấp nhận sự thật trên hết là: Thánh Phaolô là một con người, cần được giúp đỡ. Con người là trên hết và đáng coi trọng trên tất cả: đây là những gì đất nước này đã dạy, nơi lịch sử được chúc lành bởi sự xuất hiện của vị Tông đồ bị đắm tàu. Nhân danh Tin Mừng mà Thánh Phaolô đã sống và rao giảng, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn và tái khám phá vẻ đẹp của việc phục vụ người cần được giúp đỡ. Ngày nay, trong khi vượt Địa Trung Hải tìm sự an toàn, những người này phải đối mặt với nỗi sợ hãi và “câu chuyện về sự xâm lược”, và việc bảo vệ an toàn cho chính mình bằng mọi giá dường như là mục tiêu chính, chúng ta hãy giúp nhau để không coi người di cư như một mối đe dọa và không khuất phục trước cám dỗ xây dựng những cây cầu rút ván và dựng các bức tường. Người khác không phải là một loại virus mà chúng ta cần được bảo vệ, nhưng là một người cần được chào đón. Vì vấn đề đó, “lý tưởng Kitô luôn là lời mời gọi vượt qua sự nghi ngờ, sự ngờ vực đã ăn sâu, nỗi sợ mất quyền riêng tư, những thái độ phòng thủ mà thế giới ngày nay áp đặt lên chúng ta” (Esort. ap. Evangelii gaudium, 88). Chúng ta đừng để sự thờ ơ dập tắt ước mơ chung sống! Tất nhiên, chào đón là công việc khó khăn và đòi hỏi hy sinh. Đối với Thánh Phaolô cũng vậy: để cứu mình, trước tiên cần phải hy sinh hàng hóa của con tàu (Cv 27, 38). Nhưng những hy sinh vì một điều tốt đẹp hơn, cho sự sống của con người, là kho báu của Thiên Chúa!
Cuối cùng, có gió thổi từ hướng đông, thường thổi vào lúc bình minh. Homer gọi là “Euro” (Odissea V,379.423). Nhưng chính từ phía đông của châu Âu, từ phía Đông nơi ánh sáng đầu tiên phát sinh, bóng tối của chiến tranh đã đến. Chúng ta đã từng nghĩ rằng những cuộc xâm lược của các quốc gia khác, những cuộc giao tranh tàn bạo trên đường phố và những mối đe dọa từ nguyên tử là những ký ức đen tối của một quá khứ xa xôi. Tuy nhiên, những luồng gió băng giá của chiến tranh, vốn chỉ mang đến cái chết, sự huỷ diệt và hận thù, đã ập xuống cuộc sống của nhiều người và ảnh hưởng đến tất cả chúng ta. Và một lần nữa một số người quyền lực, đáng buồn là đã bị cuốn vào những tuyên bố lạc hậu về lợi ích quốc gia, đang kích động và gây ra những xung đột, trong khi dân chúng cảm thấy cần phải xây dựng một tương lai mà, hoặc sẽ cùng nhau, hoặc chẳng có tương lai nào cả. Giờ đây, đêm tối chiến tranh đã giáng xuống nhân loại, chúng ta đừng làm cho giấc mơ hòa bình tan biến.
Malta, nơi toả sáng rực rỡ giữa lòng Địa Trung Hải, có thể truyền cảm hứng cho chúng ta, bởi vì việc khôi phục vẻ đẹp khuôn mặt nhân loại bị biến dạng vì chiến tranh là điều cấp thiết. Một bức tượng Địa Trung Hải tuyệt đẹp có niên đại hàng thế kỷ trước Chúa Kitô mô tả hòa bình như một phụ nữ, Eirene ôm sao Diêm Vương, biểu tượng sự phong phú. Bức tượng nhắc nhớ chúng ta rằng hòa bình tạo ra thịnh vượng và chiến tranh chỉ tạo ra nghèo đói. Và đặc biệt trong bức tượng đó, hòa bình và thịnh vượng được miêu tả như một người mẹ đang ôm một trẻ thơ trong tay. Tình yêu dịu dàng của những người mẹ, những người mang lại sự sống cho thế giới, và sự hiện diện của phụ nữ là sự thay thế thực sự cho sự gian hiểm của quyền lực, dẫn đến chiến tranh. Chúng ta cần lòng trắc ẩn và sự quan tâm, chứ không phải những tầm nhìn ý thức hệ và những thứ mị dân, nuôi dưỡng bằng những lời lẽ thù hận và không quan tâm đến cuộc sống cụ thể của dân chúng.
Hơn sáu mươi năm trước, trong một thế giới bị đe dọa bởi sự hủy diệt, nơi luật pháp bị quy định bởi những xung đột ý thức hệ và lý luận tàn nhẫn của các khối, một giọng nói khác đã được cất lên từ lưu vực Địa Trung Hải, chống lại việc đề cao tư lợi bằng một lời kêu gọi bước nhảy ngôn sứ nhân danh tình huynh đệ phổ quát. Đó là tiếng nói của Giorgio La Pira, người đã phát biểu rằng: “Hoàn cảnh lịch sử mà chúng ta đang trải qua, sự xung đột về lợi ích và ý thức hệ làm rung chuyển nhân loại làm mồi cho tính trẻ con không thể tin nổi, khôi phục cho Địa Trung Hải một trách nhiệm cốt lõi. Đó là xác định lại một Tiêu chuẩn đâu là nơi con người bị bỏ cho sự điên cuồng và thiếu điều độ để có thể nhận ra chính mình” (Bài phát biểu tại Đại hội Văn hóa Địa Trung Hải, ngày 19 tháng 2 năm 1960). Đó là những lời mang tính thời sự: chúng ta rất cần một “sự tiết chế của con người” khi đối mặt với sự hung hăng ấu trĩ và dã tâm hủy diệt đang đe dọa chúng ta, trước nguy cơ xảy ra một cuộc “chiến tranh lạnh mở rộng” có thể bóp nghẹt cuộc sống của toàn thể các dân tộc và các thế hệ! Thật không may, “sự ấu trĩ” vẫn không biến mất. Nó tái xuất hiện một cách áp đảo trong sự dụ dỗ của chế độ chuyên quyền, trong các đế quốc mới, trong sự xâm lược lan rộng, trong việc không có khả năng xây dựng cây cầu và rời bỏ những người nghèo nhất. Từ đây, cơn gió chiến tranh lạnh bắt đầu thổi qua, một lần nữa được tiếp thêm sức mạnh trong những năm qua. Đúng vậy, cuộc chiến đã được chuẩn bị một thời gian với các khoản đầu tư lớn và các thương vụ mua bán vũ khí. Và thật đáng buồn khi thấy lòng nhiệt thành đối với hòa bình, nảy sinh sau Thế chiến thứ hai, đã suy yếu như thế nào trong những thập kỷ gần đây, cũng như buồn khi thấy hành trình của cộng đồng quốc tế, với một số ít cường quốc tiến lên vì lợi ích riêng, tìm kiếm không gian và khu vực ảnh hưởng. Và vì vậy, không chỉ hòa bình, mà nhiều vấn đề lớn, chẳng hạn như cuộc chiến chống nạn đói và bất bình đẳng, trên thực tế đã bị loại khỏi các chương trình nghị sự chính trị chính.
Nhưng giải pháp cho các cuộc khủng hoảng của mỗi bên là quan tâm đến tất cả, bởi vì các vấn đề toàn cầu đòi hỏi các giải pháp toàn cầu. Chúng ta hãy giúp nhau lắng nghe khát vọng hòa bình của dân chúng, chúng ta hãy làm việc để đặt nền móng cho một cuộc đối thoại ngày càng rộng lớn hơn, chúng ta hãy trở lại gặp gỡ nhau trong các hội nghị quốc tế vì hòa bình, nơi chủ đề giải trừ quân bị là trọng tâm, với cái nhìn hướng đến các thế hệ sau! Và những khoản tiền lớn tiếp tục được dành vũ khí sẽ được chuyển sang phát triển, sức khỏe và dinh dưỡng.
Vẫn nhìn về phía đông, cuối cùng tôi muốn đề cập đến miền láng giềng Trung Đông, được phản ánh trong ngôn ngữ của đất nước này, vốn hòa hợp với những ngôn ngữ khác, như thể gợi nhớ khả năng của người Malta trong việc tạo ra sự chung sống tốt đẹp, trong một loại chung sống giữa những khác biệt. Đây là những gì Trung Đông cần: Libăng, Syria, Yemen và các bối cảnh khác bị chia cắt bởi các vấn đề và bạo lực. Ước mong Malta, trái tim của Địa Trung Hải, tiếp tục tạo ra nhịp đập của hy vọng, quan tâm đến cuộc sống, chào đón những người khác, khao khát hòa bình, với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, Đấng có tên là hòa bình.
Il-Mulej ibierek lil Malta! [Xin Chúa chúc lành cho Malta!]
(Vatican News 02.04.2022)